Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng theo công ước viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và pháp luật thương mại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

ĐẶNG HOA TRANG

CHẾ TÀI BUỘC THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP
ĐỒNG THEO CÔNG ƢỚC VIÊN 1980 VỀ
HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ
VÀ PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

ĐẶNG HOA TRANG

CHẾ TÀI BUỘC THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP
ĐỒNG THEO CÔNG ƢỚC VIÊN 1980 VỀ
HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ
VÀ PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Phan Huy Hồng

TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi.
Các dữ liệu, luận điểm trong luận văn được trích dẫn đầy đủ nếu khơng thuộc
ý tưởng hoặc kết quả tổng hợp của chính bản thân tơi.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Đặng Hoa Trang


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

LTM 2005

Luật Thương mại số 36/2005/QH11 ngày 14 tháng
6 năm 2005 của Quốc hội
Bộ luật Dân sự số 33/2005/QH11 ngày 14 tháng 6

BLDS 2005

năm 2005 của Quốc hội
Công ước Viên 1980 (Công ước của Liên hợp quốc

CISG

về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế)

TANDTC


Tịa án Nhân dân tối cao


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ TÀI BUỘC
THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP ĐỒNG ............................................................... 6
1.1. Khái quát về chế tài trong thương mại ................................................ 6
1.1.1. Khái niệm chế tài trong thương mại ........................................... 6
1.1.2. Đặc điểm của chế tài trong thương mại ..................................... 9
1.1.3. Vai trò của chế tài trong thương mại .......................................... 11
1.2. Khái quát về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng ........................... 13
1.2.1. Khái niệm chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng ...................... 13
1.2.2. Đặc điểm của chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng ................. 15
1.2.3. Sự cần thiết của chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong quan hệ
thương mại ....................................................................................................... 17
1.2.4. Sự cần thiết phải nghiên cứu chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng
theo quy định của Công ước Viên 1980 ........................................................... 18
Kết luận chƣơng 1 .................................................................................... 21
CHƢƠNG 2: CHẾ TÀI BUỘC THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP ĐỒNG THEO
PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI VIỆT NAM ................................................. 22
2.1. Điều kiện áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng .................. 22
2.1.1. Các vấn đề pháp lý về điều kiện áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng
hợp đồng ........................................................................................................... 22
2.1.2. Thực tiễn tài phán về điều kiện áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng
hợp đồng ........................................................................................................... 24
2.2. Cách thức áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng .................. 27
2.2.1. Các vấn đề pháp lý về cách thức áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng
hợp đồng ........................................................................................................... 27

2.2.2. Thực tiễn tài phán về cách thức áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng
hợp đồng ........................................................................................................... 29
2.3. Gia hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng .................................................. 31
2.3.1. Các vấn đề pháp lý về gia hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng ..... 31
2.3.2. Thực tiễn tài phán về gia hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng ....... 32
2.4. Quan hệ giữa chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng và các chế tài khác
trong thương mại .............................................................................................. 35


2.4.1. Các vấn đề pháp lý về quan hệ giữa chế tài buộc thực hiện đúng hợp
đồng và các chế tài khác trong thương mại ..................................................... 35
2.4.2. Thực tiễn tài phán về quan hệ giữa chế tài buộc thực hiện đúng hợp
đồng và các chế tài khác trong thương mại ..................................................... 38
Kết luận chƣơng 2 .................................................................................... 41
CHƢƠNG 3: CHẾ TÀI BUỘC THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP ĐỒNG THEO
CÔNG ƢỚC VIÊN 1980................................................................................ 42
3.1. Điều kiện áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng .................. 42
3.1.1. Các vấn đề pháp lý về điều kiện áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng
hợp đồng ........................................................................................................... 42
3.1.2. Thực tiễn tài phán về điều kiện áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng
hợp đồng ........................................................................................................... 44
3.2. Cách thức áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng ................... 46
3.2.1. Các vấn đề pháp lý về cách thức áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng
hợp đồng ........................................................................................................... 46
3.2.2. Thực tiễn tài phán về cách thức áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng
hợp đồng ........................................................................................................... 49
3.3. Gia hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng................ .................................. 52
3.3.1. Các vấn đề pháp lý về gia hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng ..... 52
3.3.2. Thực tiễn tài phán về gia hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng ....... 53
3.4. Quan hệ giữa chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng và các biện pháp bảo hộ

pháp lý khác trong Công ước Viên 1980 ......................................................... 55
3.4.1. Các vấn đề pháp lý về quan hệ giữa chế tài buộc thực hiện đúng hợp
đồng và các biện pháp bảo hộ pháp lý khác trong Công ước Viên 1980 ........ 55
3.4.2. Thực tiễn tài phán về quan hệ giữa chế tài buộc thực hiện đúng hợp
đồng và các biện pháp bảo hộ pháp lý khác trong Công ước Viên 1980 ........ 56
Kết luận chƣơng 3 ...................................................................................... 59
CHƢƠNG 4: HOÀN THIỆN CHẾ TÀI BUỘC THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP
ĐỒNG CỦA PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI VIỆT NAM DƢỚI GĨC ĐỘ GIẢI
THÍCH VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT .......................................................... 61
4.1. Sự cần thiết phải giải thích và áp dụng thống nhất chế tài buộc thực hiện
đúng hợp đồng .................................................................................................. 61


4.2. Một số định hướng nhằm hoàn thiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng
dưới góc độ giải thích và áp dụng pháp luật .................................................... 63
4.2.1. Áp dụng yêu cầu thay thế hàng hóa đối với vi phạm cơ bản ...... 63
4.2.2. Các căn cứ để xác định tính hợp lý của thời hạn thông báo yêu cầu
thực hiện đúng hợp đồng .................................................................................. 65
4.2.3. Các căn cứ để xác định tính hợp lý của thời gian gia hạn thực hiện
nghĩa vụ hợp đồng ............................................................................................ 66
4.2.4. Thỏa thuận miễn nghĩa vụ thực hiện đúng hợp đồng và biện pháp giảm
giá ..................................................................................................................... 67
Kết luận chƣơng 4 .................................................................................... 70
KẾT LUẬN CHUNG............................................................................... 71


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

“Tồn cầu hóa đang là xu thế tất yếu của nền kinh tế thế giới. Mọi quốc gia,
nếu không muốn bị lãng quên trong nghèo nàn và lạc hậu đều phải chủ động tham
gia cuộc cạnh tranh gay gắt này”1. Việt Nam cũng không phải ngoại lệ, từ nhiều
năm qua chúng ta đã tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, điều này đã tạo
tiền đề thúc đẩy hoạt động thương mại phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng. Theo
đó, hợp đồng thương mại cũng biến thể phong phú và đa dạng, những hành vi lừa
đảo và trốn tránh nghĩa vụ hợp đồng được trá hình ngày càng tinh vi và phức tạp.
Đứng trước tình hình biến đổi khơng ngừng của thực tiễn nói trên, pháp luật thương
mại Việt Nam quy định “Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng” tại Điều 297 LTM
2005 mang tính khái quát cao, điều này là cần thiết để đảm bảo chế tài có thể điều
chỉnh được nhiều tình huống pháp luật có bản chất tương tự nhưng biểu hiện thực tế
lại đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, tính khái quát cao đem đến một số trở ngại
trong việc áp dụng thống nhất pháp luật (một yêu cầu của nguyên tắc pháp chế), dễ
dàng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau nếu không nắm rõ bản chất của vấn đề, gây
khó khăn cho Tịa án và Trọng tài, làm các đương sự hoang mang và lúng túng.
Trong một số trường hợp áp dụng tùy tiện, chế tài còn tỏ ra lấn lướt nguyên tắc cao
hơn là “Thiện chí, trung thực”. Từ những bất cập nêu trên, một câu hỏi được đặt ra
là: Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng cần được áp dụng như thế nào trong từng
trường hợp điển hình của thực tiễn đa dạng?
Muốn trả lời câu hỏi này, nếu chỉ nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật
trong nước là chưa đủ, cần thiết hơn chúng ta phải nghiên cứu cả thực tiễn áp dụng
pháp luật quốc tế để thoát khỏi tư duy theo lối mịn và có một cách nhìn mới mẻ
hơn, hiện đại hơn. Hiện nay, Cơng ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế là một trong những Công ước được áp dụng rộng rãi nhất trong số các điều
ước đa phương về mua bán hàng hóa quốc tế, điều này được thể hiện minh thị qua
số lượng quốc gia là thành viên của Công ước và lượng giao dịch khổng lồ mà Công
ước điều chỉnh2. Đây sẽ là kho tàng đồ sộ về thực tiễn áp dụng các quy định về hợp
1

Phạm Duy Nghĩa (2000), “Pháp luật thương mại Việt Nam trước thách thức của quá trình hội nhập kinh tế

quốc tế”, Nhà nước và pháp luật, (146), tr.9.
2
Theo số liệu cập nhật đến tháng 09 năm 2014 của thư viện điện tử về Công ước Viên do Viện nghiên cứu về
Luật Thương mại quốc tế phối hợp cùng trường Đại học Pace (bang New York, Hoa Kỳ) xây dựng thì có: 83
quốc gia và vùng lãnh thổ hiện là thành viên của Công ước Viên 1980 và 3064 vụ việc đã dùng Công ước


2

đồng mua bán hàng hóa quốc tế, đặc biệt là quy định về chế tài buộc thực hiện đúng
hợp đồng, những kinh nghiệm này hết sức cần thiết cho tư duy vận dụng pháp luật
còn non trẻ như Việt Nam học tập và kế thừa. Vậy khơng có lý do gì chúng ta lại
ngần ngại nghiên cứu thực tiễn áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng của
Công ước Viên 1980 để biến nó thành kinh nghiệm của bản thân, đồng thời góp
phần thu hẹp những điểm chưa tương thích giữa Cơng ước Viên 1980 và pháp luật
thương mại Việt Nam mà Chính phủ đã khẳng định trong nguyên tắc chỉ đạo soạn
thảo LTM 20053.
Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Chế tài buộc thực hiện đúng hợp
đồng theo Công ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và pháp
luật thương mại Việt Nam” để viết luận văn tốt nghiệp chương trình cao học luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, một số tác phẩm và cơng trình nghiên cứu có liên quan đến “Chế
tài buộc thực hiện đúng hợp đồng” đã được công bố như:
PGS.TS. Phan Huy Hồng - Chủ nhiệm đề tài (2010), Các vấn đề pháp lý của
hợp đồng mua bán hàng hóa qua thực tiễn xét xử của Tòa án và Trọng tài Việt
Nam, đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, trường Đại học Luật TP. Hồ Chí
Minh: Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là một phần của đề tài nghiên cứu
khoa học này. Cơng trình nghiên cứu chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong
phạm vi pháp luật Việt Nam. Tác giả đã phân tích và bình luận các bản án của Tịa
án và phán quyết của Trọng tài có liên quan để làm rõ vấn đề pháp lý của chế tài và

những bất cập đang tồn tại, đồng thời đánh giá mức độ thống nhất của Tòa án và
Trọng tài thương mại trong áp dụng pháp luật.
PGS.TS. Đỗ Văn Đại – Chủ nhiệm đề tài (2010), Vấn đề không thực hiện
đúng hợp đồng trong pháp luật thực định Việt Nam, đề tài khoa học cơng nghệ cấp
Bộ, TP.Hồ Chí Minh và PGS.TS. Đỗ Văn Đại (2010), Các biện pháp xử lý việc
không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam, nhà xuất bản Chính trị
Viên để điều chỉnh. Ước tính con số này cao hơn nhiều do cịn nhiều bản án và phán quyết chưa được thu
thập đầy đủ vào thư viện điện tử này. Nguồn: và
ngày truy cập: 03/02/2015.
3
Tham khảo: “… việc thu hẹp sự bất tương thích giữa pháp luật thương mại của Việt Nam và pháp luật
thương mại quốc tế là một ưu tiên hàng đầu, trong đó chủ yếu nhằm:… khắc phục những điểm chưa tương
thích gữa Luật Thương mại và pháp luật tập quán thương mại quốc tế…như Công ước Viên 1980 về mua bán
hàng hóa quốc tế”, Mục I: Sự cần thiết sửa đổi Luật Thương mại 1997, Tờ trình của Chính phủ về dự án Luật
Thương mại sửa đổi.


3

quốc gia, Hà Nội: Đề tài khoa học và cuốn sách chuyên khảo đều hướng đến việc
làm rõ quy định của Việt Nam và thực tiễn xét xử tại Việt Nam liên quan đến không
thực hiện đúng hợp đồng. Đồng thời, trình bày những biện pháp có thể vận dụng để
xử lý tình trạng này; trong đó biện pháp “Buộc thực hiện đúng hợp đồng” là một
phần của cơng trình nghiên cứu, được phản ánh chủ yếu thông qua Bộ luật Dân sự
2005 và Luật Thương mại 2005. Cơng trình cũng đưa ra những kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật.
PGS.TS. Đỗ Văn Đại (2014), Luật hợp đồng Việt Nam bản án và bình luận
bản án, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tập 2: Cuốn sách chuyên khảo này đề cập
đến vấn đề “Buộc tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng” và “Thay thế do không thực
hiện đúng hợp đồng” qua phần bình luận các bản án cụ thể. Nội dung chủ yếu xoay

quanh các quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam; đồng thời có một số so sánh với
Bộ nguyên tắc Unidroit, Bộ nguyên tắc Châu Âu về Hợp đồng và pháp luật của một
số quốc gia trên thế giới để đưa ra khuyến nghị nhằm tránh tranh chấp về hợp đồng.
PGS.TS. Đỗ Văn Đại - chủ biên (2011), Không thực hiện đúng hợp đồng
trong pháp luật thực định Việt Nam, Tài liệu hội thảo khoa học. Trong các bài viết
tham gia hội thảo, liên quan đến chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng gồm có:
“Buộc thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam” của PGS.TS. Đỗ Văn
Đại và Đỗ Văn Chung; “Quy định của Công ước Viên 1980 về các chế tài khi vi
phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế” của TS. Nguyễn Minh Hằng. Cả hai
bài viết đều đề cập đến chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng nhưng bài viết đầu
tiên đặt vấn đề trong bối cảnh pháp luật Việt Nam và có một số so sánh với Bộ
nguyên tắc Unidroit và Bộ nguyên tắc Châu Âu về Hợp đồng. Còn bài viết thứ hai
tiếp cận chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng ở góc độ của Công ước Viên 1980.
Thạc sỹ Nguyễn Thị Thanh Huyền (2014), Một số vấn đề pháp lý về áp dụng
chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng theo quy định của Luật Thương mại 2005,
Tạp chí Khoa học pháp lý, số 03: Bài viết thể hiện những quan điểm pháp lý liên
quan trực tiếp đến chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng chủ yếu dưới quy định của
Luật Thương mại 2005.
Mai Đức Việt (2014), Buộc thực hiện đúng hợp đồng theo quy định của Bộ
luật Dân sự Việt Nam 2005, khóa luận tốt nghiệp cử nhân: Tên đề tài đã nêu bật
phạm vi nghiên cứu của tác giả là: Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng dưới góc
độ của Bộ luật Dân sự 2005. Đề tài cũng so sánh giữa Bộ luật Dân sự Việt Nam với
pháp luật các quốc gia và các văn bản thống nhất áp dụng pháp luật hợp đồng trên


4

thế giới nhưng chỉ ở mức sơ lược mà chưa nghiên cứu chuyên sâu hay có những so
sánh chuyên biệt với Cơng ước Viên 1980.
Những cơng trình nghiên cứu trên tiếp cận chế tài buộc thực hiện đúng hợp

đồng ở những khía cạnh khác nhau, hoặc nghiên cứu quy định của pháp luật Việt
Nam, hoặc nghiên cứu quy định của Cơng ước Viên 1980. Chưa có cơng trình nào
nghiên cứu chuyên biệt: Thực tiễn áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng
theo pháp luật thương mại Việt Nam và Công ước Viên 1980, hay đưa ra những so
sánh mang tính hệ thống với Cơng ước Viên 1980 để tiếp thu và nâng cao năng lực
áp dụng pháp luật của Tòa án và Trọng tài Việt Nam. Đây cũng là một yêu cầu quan
trọng đối với công cuộc xây dựng và hoàn thiện pháp luật thương mại nước ta.
Ngoài ra, cịn có một số luận văn, luận án, tạp chí và các ấn phẩm khác là tư
liệu tham khảo hỗ trợ tác giả hiểu rõ thêm vấn đề đang nghiên cứu cũng như giúp
tác giả hình thành tư duy mạch lạc trong q trình hồn thành đề tài này.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu thực trạng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng theo pháp
luật thương mại Việt Nam và theo quy định của Công ước Viên 1980 nhằm đưa ra
những so sánh làm cơ sở khoa học để kiến nghị hoàn thiện chế tài buộc thực hiện
đúng hợp đồng ở khía cạnh giải thích và áp dụng pháp luật; cũng như kéo gần
khoảng cách giữa pháp luật thương mại Việt Nam với Công ước Viên 1980.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là “Chế tài buộc thực hiện đúng hợp
đồng”, cụ thể: Đề tài phân tích và lý giải những nội dung lý luận là cơ sở để hiểu
được bản chất chế tài buộc thực hiện hiện đúng hợp đồng; Đề tài nghiên cứu, phân
tích thực trạng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng theo pháp luật thương mại
Việt Nam, trên cơ sở đó đánh giá sự phù hợp và chưa phù hợp trong cách hiểu và
vận dụng pháp luật; Đề tài cũng nghiên cứu, phân tích một số án lệ và những quy
định về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng của Cơng ước Viên 1980 để có cơ sở
khoa học đưa ra định hướng hoàn thiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng của
pháp luật thương mại Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Vì các chế tài trong hoạt động thương mại hoặc không
được quy định trong luật chun ngành, hoặc có quy định nhưng khơng đầy đủ nên
trong khuôn khổ pháp luật thương mại Việt Nam và trong phạm vi của đề tài này
tác giả sẽ tập trung nghiên cứu thực tiễn áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp

đồng theo Luật Thương mại 2005 là chủ yếu; ngoài ra phạm vi nghiên cứu của đề


5

tài còn bao gồm thực tiễn áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng theo quy
định của Công ước Viên 1980.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình làm đề tài, tác giả vận dụng các phương pháp nghiên cứu
sau:
Phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử được áp
dụng xuyên suốt nội dung của đề tài để tránh tình trạng chủ quan duy ý chí;
Phương pháp phân tích dùng làm rõ những vấn đề lý luận chung về chế tài
buộc thực hiện đúng hợp đồng; Phương pháp phân tích và bình luận án được dùng
trong quá trình xem xét án lệ, bản án, quyết định của Tòa án, phán quyết của Trọng
tài thương mại;
Phương pháp so sánh được sử dụng để so sánh thực tiễn áp dụng chế tài buộc
thực hiện đúng hợp đồng theo Công ước Viên 1980 và theo pháp luật thương mại
Việt Nam; từ đó rút ra những định hướng áp dụng pháp luật phù hợp.
Phương pháp tổng hợp được vận dụng để rút ra các kết luận.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Đề tài làm rõ hơn những điểm chưa hợp lý trong cách hiểu và vận dụng pháp
luật của nước ta; cũng như đưa ra một số định hướng góp phần giải thích và áp dụng
chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn.
Tác giả hy vọng đề tài sẽ là tài liệu tham khảo cho những cơng trình nghiên
cứu về sau của sinh viên hoặc những cơng trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực
pháp lý. Đồng thời, hy vọng rằng kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp thêm luận chứng
khoa học góp phần nâng cao khả năng áp dụng thống nhất và đúng đắn chế tài buộc
thực hiện đúng hợp đồng nói riêng và pháp luật thương mại nước ta nói chung.
7. Kết cấu

Luận văn gồm lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, và phần
nội dung bao gồm bốn chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về chế tài buộc thực hiện đúng hợp
đồng
Chương 2: Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng theo pháp luật thương mại
Việt Nam
Chương 3: Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng theo Cơng ước Viên 1980
Chương 4: Hồn thiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng của pháp luật
thương mại Việt Nam dưới góc độ giải thích và áp dụng pháp luật


6

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ TÀI BUỘC THỰC
HIỆN ĐÚNG HỢP ĐỒNG
Nhằm tạo tiền đề lý luận cho việc nghiên cứu các phần sau của luận văn,
chương này sẽ đề cập đến những vấn đề lý luận cơ bản của chế tài buộc thực hiện
đúng hợp đồng dưới góc nhìn của LTM 2005, BLDS 2005 và CISG, bao gồm hai
nội dung chính sau: Khái quát về chế tài trong thương mại, và khái quát về chế tài
buộc thực hiện đúng hợp đồng.
1.1. Khái quát về chế tài trong thƣơng mại
1.1.1. Khái niệm chế tài trong thương mại
Trong thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng thương mại, tình trạng một bên
trong hợp đồng khơng thực hiện hoặc thực hiện khơng đúng nghĩa vụ của mình là
khá phổ biến. Điều này hiển nhiên tác động đến lợi ích của bên cịn lại, làm bên này
khơng thể có được những gì mà họ mong đợi từ hợp đồng. Trong những trường hợp
như vậy, bên không thực hiện hợp đồng hoặc khơng thực hiện đúng hợp đồng đã có
hành vi vi phạm hợp đồng.
Hành vi vi phạm hợp đồng chính là cơ sở làm phát sinh trách nhiệm dân sự

do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hay nói cách khác trách nhiệm dân sự do vi phạm
nghĩa vụ hợp đồng là hệ quả của hành vi vi phạm hợp đồng. Khi một bên vi phạm
hợp đồng, họ đang ở trạng thái có khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi
của mình cũng như hậu quả do nó gây ra; họ được tự do ý chí để lựa chọn cách thức
xử xự nào là phù hợp với quy định của pháp luật và thỏa thuận của hợp đồng nhưng
vẫn cư xử khác đi, làm tổn hại đến lợi ích của bên cịn lại. Chính vì vậy, bên vi
phạm buộc phải chịu trách nhiệm về việc làm của mình.
Vì nghĩa vụ hợp đồng là nghĩa vụ pháp lý, nó được pháp luật cơng nhận và
có tính bắt buộc đối với các bên trong hợp đồng; để đảm bảo tính bắt buộc những
quan hệ nghĩa vụ này thường có các chế tài đi kèm với tác dụng như những biện
pháp cưỡng chế mà bên bị vi phạm được phép sử dụng nhằm thúc đẩy việc thực
hiện đúng nghĩa vụ của bên vi phạm, cho nên trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa
vụ hợp đồng có mối quan hệ chặt chẽ với chế tài trong thương mại. Bản thân trách
nhiệm dân sự không phải là sự cưỡng chế mà chỉ là nghĩa vụ của bên vi phạm phải
gánh chịu những biện pháp cưỡng chế được quy định ở phần chế tài; hay nói cách
khác truy cứu trách nhiệm dân sự thực chất là áp dụng các biện pháp cưỡng chế quy


7

định ở phần chế tài. Trong thương mại, bên cạnh quy định tùy nghi và quy định bắt
buộc của pháp luật, thỏa thuận hợp đồng được xem như là “luật riêng” của các bên,
họ có nghĩa vụ tuân thủ những điều khoản mà mình đã tự nguyện ghi nhận trong
hợp đồng4 và có quyền tự do thỏa thuận những biện pháp mang bản chất chế tài
không trái với quy định của pháp luật. Vậy, chỉ cần có hành vi vi phạm hợp đồng
thương mại (theo luật định hoặc theo thỏa thuận) sẽ làm phát sinh trách nhiệm dân
sự do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng của bên vi phạm hay nói cách khác là bên này
phải gánh chịu chế tài trong thương mại. Chế tài trong thương mại là biểu hiện bên
ngoài của trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, trách nhiệm dân sự lại
mang tính chất tài sản5, do đó có thể nói chế tài trong thương mại sẽ đem lại hậu

quả bất lợi về mặt tài sản cho bên vi phạm.
Tóm lại, chế tài trong thương mại là những biện pháp pháp lý gây ra hậu quả
bất lợi về mặt tài sản được Luật Thương mại ấn định hoặc do các bên thỏa thuận,
mà một bên trong hợp đồng thương mại áp dụng đối với bên cịn lại khi bên này có
hành vi vi phạm hợp đồng.
Pháp luật thương mại dành riêng Điều 292 LTM 2005 để liệt kê sáu chế tài
trong thương mại, bao gồm: Buộc thực hiện đúng hợp đồng, phạt vi phạm, buộc bồi
thường thiệt hại, tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng, hủy
bỏ hợp đồng. Ngoài chế tài phạt vi phạm là chế tài theo thỏa thuận thì các chế tài
cịn lại đều là chế tài theo luật định tức là các bên có thể áp dụng mà không cần phải
thỏa thuận trước. Sáu chế tài trên được LTM 2005 quy định khá rõ ràng từ Điều 293
đến Điều 316 của Chương VII. Khác với LTM 2005, BLDS 2005 không quy định
các chế tài tập trung trong một điều luật hay bất kỳ một chương nào, chúng nằm tản
mạn trong nhiều điều luật ở những chương khác nhau. Thậm chí, xét về thuật ngữ
BLDS 2005 sử dụng cũng không giống với LTM 2005: LTM 2005 sử dụng thuật
ngữ “Chế tài” để gọi chung cho các biện pháp xử lý hành vi vi phạm hợp đồng thì
BLDS 2005 lại dùng thuật ngữ “Trách nhiệm dân sự” để nói về chế tài buộc thực
hiện đúng hợp đồng như “Trách nhiệm dân sự do không thực hiện nghĩa vụ giao
vật” (Điều 303), “Trách nhiệm dân sự do không thực hiện nghĩa vụ phải thực hiện

4

Điều 4 BLDS 2005: “… Cam kết, thỏa thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên và
phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng”. Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của quan
hệ dân sự, theo đó quan hệ thương mại là một dạng quan hệ dân sự cũng sẽ tuân thủ nguyên tắc chung này.
5
Tham khảo: Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình pháp luật về hợp đồng và bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng, NXB Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, Hà Nội, tr. 378.



8

hoặc không được thực hiện một công việc” (Điều 304) “Trách nhiệm dân sự do
chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự” (Điều 305); hay phạt vi phạm (Điều 422) không
được xem như một chế tài mà là nội dung của “Thực hiện hợp đồng”; hoặc đối với
hủy bỏ hợp đồng (Điều 425) BLDS 2005 cũng cho đây là một nội dung của phần
“Chấm dứt hợp đồng dân sự” mà không gọi là chế tài.
CISG không sử dụng thuật ngữ “Chế tài” như LTM 2005 và cũng không sử
dụng thuật ngữ “Trách nhiệm dân sự” như BLDS 2005; thay vào đó Công ước sử
dụng thuật ngữ “Các biện pháp bảo hộ pháp lý”6 để gọi chung cho các biện pháp xử
lý hành vi vi phạm hợp đồng. Theo các nhà soạn thảo Cơng ước thì các biện pháp
này khơng hồn tồn là những biện pháp cưỡng chế và mang tính trừng phạt, đơn
giản chúng chỉ là những “Phương thuốc” giúp các bên xoa dịu những tổn thất do
hành vi vi phạm gây ra. Một số biện pháp như giảm giá và buộc thực hiện đúng hợp
đồng không tiềm tàng bất kỳ sự răn đe hay trừng phạt nào, chúng được sử dụng với
ý nghĩa thiện chí như những biện pháp khắc phục sự sai lệch trong hành vi của bên
vi phạm và khắc phục hậu quả do hành vi ấy gây ra. Mặc khác, mỗi điều khoản của
Công ước là sự thống nhất thực chất của kết quả thảo luận và đàm phán chi tiết giữa
các quốc gia đại diện cho nhiều hệ thống pháp luật và chế độ chính trị - kinh tế khác
nhau trên thế giới. Do đó, nó phải phản ánh được mối quan tâm chung cũng như
dung hòa được đặc điểm riêng biệt về truyền thống pháp luật của các quốc gia thành
viên; sử dụng thuật ngữ “Các biện pháp bảo hộ pháp lý” là Công ước đã hòa hợp
quan điểm pháp luật của hai hệ thống pháp luật lớn trên thế giới là Common Law và
Civil Law7. Đồng thời, mục đích mà Cơng ước hướng đến là đạt được sự cân bằng
về quyền lợi giữa các bên trong hợp đồng, mỗi biện pháp bảo hộ pháp lý được áp
dụng bên cạnh bảo vệ lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm thì cũng khơng được
phép gây ra bất lợi vô lý nào cho bên vi phạm, vì vậy nếu sử dụng thuật ngữ “Chế
tài” dễ làm cho những người áp dụng nó có cảm giác các biện pháp này thiên về
cưỡng chế bên vi phạm hơn.


6

Tiếng Anh là: Remedies for breach of contract (theo bản dịch của Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt
Nam VCCI)
7
Một số quốc gia thuộc hệ thống pháp luật Civil Law như Đức thì sử dụng thuật ngữ “Rechtsmittel” và Pháp
sử dụng thuật ngữ “Remèdes”, cả hai thuật ngữ này dịch sang tiếng Anh đều là “Remedies”; các nước thuộc
hệ thống pháp luật Common Law như Anh và Mỹ cũng dùng thuật ngữ “Remedies” có nghĩa là các biện
pháp khắc phục. Công ước Viên 1980 đã dùng “Remedies for breach of contract”.


9

Nhìn chung, việc sử dụng thuật ngữ nào trong ba thuật ngữ “Chế tài”, “Trách
nhiệm dân sự” hay “Biện pháp bảo hộ pháp lý” để ám chỉ các biện pháp xử lý hành
vi vi phạm hợp đồng dường như không thực sự quan trọng mà điều cần quan tâm
hơn cả là điều kiện nào để bên bị vi phạm áp dụng các biện pháp này và áp dụng
như thế nào thì được xem là thiện chí. Sau đây, đề tài sẽ sử dụng thuật ngữ “Chế
tài” trong phần nghiên cứu về “Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng theo pháp
luật thương mại Việt Nam”; và sử dụng thêm thuật ngữ “Các biện pháp bảo hộ pháp
lý” trong phần “Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng theo Công ước Viên 1980”
để thống nhất với bản dịch của VCCI cũng như thống nhất với quan điểm của các
nhà soạn thảo Công ước.
1.1.2. Đặc điểm của chế tài trong thương mại
Để phù hợp với sự phát triển năng động của hoạt động giao thương mua bán,
ngoài những đặc điểm của chế tài nói chung, chế tài trong thương mại cịn mang
những đặc trưng riêng.
Thứ nhất, chế tài trong thương mại là hậu quả pháp lý bất lợi về mặt vật chất
mà bên bị vi phạm phải gánh chịu. Các chế tài xử lý việc không thực hiện đúng hợp
đồng đã tồn tài khá lâu trong cổ luật Việt Nam (Quốc triều Hình luật, Hồng Việt

luật lệ) nhưng vào thời kỳ đó, pháp luật được ban hành nhằm phục vụ cho quyền lợi
của giai cấp thống trị, để duy trì và bảo vệ sự tồn tại của nền quân chủ, không chú
trọng vào việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân nên quan hệ dân sự thương mại bị hình sự hóa và khơng có sự phân biệt rõ ràng giữa hình luật và dân
luật; ví dụ: Điều 588 Quốc triều hình luật “... mắc nợ quá hạn khơng trả thì phải tội
trượng tùy theo việc nặng nhẹ, nếu cố bướng khơng chịu trả thì phải giáng hạ hai
bậc, bồi thường gấp đôi”8. Ngày nay, chế tài trong quan hệ nghĩa vụ hợp đồng nói
chung và chế tài trong thương mại nói riêng khơng nhằm vào nhân thân con người
như trước nữa thay vào đó chúng tác động vào mặt tài sản của họ. Điều này có
nghĩa là khi một bên trong hợp đồng có hành vi vi phạm khiến bên cịn lại khơng
thể có được lợi ích kinh tế mà họ mong đợi từ hợp đồng thì bên vi phạm cần phải
đáp trả lại một khoản vật chất tương xứng mà họ đã đánh mất của bên bị vi phạm.
Khoản vật chất đó chính là hậu quả bất lợi mà bên vi phạm phải gánh chịu, nó có
thể là: trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trách nhiệm hồn trả khoản tiền chênh lệch
và chi phí liên quan trong trường hợp áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp
8

Tham khảo: Vũ Văn Mẫu (1975), Cổ luật Việt Nam và tư pháp sử, (quyển hai), NXB Luật khoa Đại học Sài
Gòn, Sài Gòn.


10

đồng, khoản tiền phạt vi phạm,… Về cơ bản, quan hệ thương mại mang tính chất
kinh tế nên hầu hết các bên tham gia vào hoạt động này đều hướng đến mục đích
duy nhất là tối đa hóa lợi ích vật chất9. Hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng sẽ làm
mục đích kinh tế của hợp đồng bị phá vỡ, gây ra thiệt hại vật chất đối với bên bị vi
phạm cho nên pháp luật buộc bên vi phạm phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm
bằng các biện pháp pháp lý đánh vào mặt tài sản chứ không tác động trực tiếp đến
nhân thân của họ.
Thứ hai, chủ thể áp dụng chế tài trong thương mại là các bên trong hợp đồng

thương mại. Khác với chế tài hình sự và hành chính: Nhà nước là chủ thể có quyền
và nghĩa áp dụng chế tài khi có hành vi vi phạm, ở đây chế tài trong thương mại lại
do bên bị vi phạm quyết định áp dụng. Cần phải hiểu rằng, pháp luật thương mại
quy định việc áp dụng chế tài của bên bị vi phạm như một quyền của họ mà không
phải là nghĩa vụ, tức là khi có hành vi vi phạm thõa mãn các điều kiện theo luật
định hoặc theo thỏa thuận hợp đồng, không nhất thiết bên bị vi phạm phải áp dụng
chế tài đối với bên vi phạm, họ có thể lựa chọn áp dụng hoặc khơng áp dụng tùy
thuộc vào ý chí của mình. Suy cho cùng, pháp luật thương mại quy định các biện
pháp chế tài là nhằm mục đích hạn chế tối đa thiệt hại cho bên bị vi phạm và bảo vệ
lợi ích chính đáng của bên này cho nên pháp luật đã trao quyền áp dụng chế tài cho
bên bị vi phạm để họ tự bảo vệ mình vì hơn ai hết họ là người biết rõ mức độ thiệt
hại và hành vi vi phạm mà bản thân đang gánh chịu.
Thứ ba, chế tài trong thương mại do pháp luật ấn định hoặc do các bên thỏa
thuận. Đặc điểm này thể hiện rõ nét “nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận” của
quan hệ thương mại. Theo đó, các chủ thể được quyền tự do hành xử theo ý nguyện
của mình nhưng là tự do trong khn khổ của pháp luật vì khi một chủ thể hành xử
vượt quá ranh giới pháp luật, họ sẽ làm ảnh hưởng đến quyền tự do của người khác.
Các bên trong quan hệ thương mại cũng vậy, họ tự do ý chí trong việc thỏa thuận
hợp đồng, bao gồm cả thỏa thuận về những biện pháp mang bản chất chế tài mà họ
cho là phù hợp với hồn cảnh của mình, tuy nhiên những biện pháp này không được
trái với pháp luật. Trong một số trường hợp đặc biệt, để bảo vệ quyền lợi chung của
xã hội cũng như bảo vệ lợi ích chính đáng của bên bị vi phạm, pháp luật thương mại
cũng dự trù những điều khoản về chế tài mang tính chất tùy nghi nhằm giúp các bên
có cơ sở pháp lý để lựa chọn cách thức xử xự phù hợp khi các bên khơng có thỏa
9

Khoản 1 Điều 3 LTM 2005: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua
bán hàng hóa,…”



11

thuận hoặc không thỏa thuận khác đi. Tuy nhiên, nếu các bên có thỏa thuận về chế
tài thì những thỏa thuận này vẫn được ưu tiên áp dụng hơn cả.
Thứ tư, hành vi vi phạm hợp đồng thương mại của một bên là cơ sở để áp
dụng chế tài trong thương mại. Hành vi vi phạm được thể hiện dưới dạng hành động
hoặc không hành động trái với nghĩa vụ hợp đồng. Nghĩa vụ hợp đồng là những
nghĩa vụ phát sinh từ thỏa thuận của các bên và từ quy định của pháp luật điều
chỉnh quan hệ hợp đồng đó, bao gồm: quy định tùy nghi là những quy định được áp
dụng khi các bên khơng có thỏa thuận hoặc không thỏa thuận khác đi, và quy định
bắt buộc được áp dụng không phụ thuộc vào thỏa thuận của các bên. Như vậy, hợp
đồng không phải là cơ sở duy nhất để xem xét có hành vi vi phạm hay khơng, các
bên cịn có thể viện dẫn quy định của pháp luật để chứng minh tồn tại một hành vi
vi phạm. Ví dụ: trong trường hợp hành vi vi phạm thõa mãn điều kiện trở thành vi
phạm cơ bản theo quy định của pháp luật thì cho dù các bên khơng có thỏa thuận vi
phạm cơ bản thì bên bị vi phạm vẫn có quyền áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng.
Thứ năm, các chế trong tài thương mại có thể được áp dụng cùng lúc đối với
một hành vi vi phạm hợp đồng nhưng các bên không thể áp dụng các chế tài có bản
chất hay hậu quả pháp lý loại trừ nhau. Ví dụ: Khơng thể áp dụng đồng thời chế tài
buộc thực hiện đúng hợp đồng với chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng. Vì biện
pháp đầu tiên là nhằm duy trì hiệu lực của hợp đồng và biện pháp thứ hai là nhằm
chấm dứt hiệu lực của hợp đồng kể từ thời điểm áp dụng. Hai biện pháp này dẫn
đến những hậu quả pháp lý hoàn toàn trái ngược nhau.
Trên đây là đặc điểm chung của chế tài trong thương mại, bên cạnh những
đặc điểm chung này, mỗi chế tài cụ thể trong thương mại còn mang những đặc điểm
riêng phù hợp với mục đích điều chỉnh của từng chế tài mà chúng ta sẽ được hiểu rõ
hơn thông qua quy định của pháp luật.
1.1.3. Vai trò của chế tài trong thương mại
Các quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi một tổng thể phức tạp các quy phạm
pháp luật thương mại được gọi là các quan hệ pháp luật thương mại. Dưới tác động

của quy phạm pháp luật thương mại, các quan hệ xã hội này sẽ nảy sinh và phát
triển phù hợp với ý chí của Nhà nước. Vì vậy, mỗi chế tài trong thương mại là một
quy phạm pháp luật sẽ đóng vai trị nhất định trong việc điều chỉnh quan hệ xã hội
theo định hướng mà Nhà nước đã vạch ra, vai trị đó là:
Thứ nhất, chế tài trong thương mại bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên trong hợp đồng thương mại. Khi giao kết và thực hiện hợp đồng, các bên đều


12

mong muốn đạt được lợi ích kinh tế nhất định. Hành vi vi phạm hợp đồng luôn tiềm
ẩn nguy cơ xâm phạm đến lợi ích này, do đó pháp luật thương mại đã cho phép bên
bị vi phạm được quyền áp dụng chế tài đối với bên vi phạm. Tuy nhiên, chế tài
trong thương mại không phải là chế tài tự động, nó chỉ phát huy hiệu lực khi được
bên bị vi phạm áp dụng, trong trường hợp này vai trò bảo vệ quyền lợi cho bên bị vi
phạm của chế tài sẽ phụ thuộc vào ý chí của bên bị vi phạm. Pháp luật thương mại
cũng khá công bằng, một khi đã trao quyền áp dụng chế tài cho bên bị vi phạm,
pháp luật vẫn không quên dự trù những quy định nhằm bảo vệ bên vi phạm và giảm
thiểu tối đa khả năng lạm quyền của bên bị vi phạm, chẳng hạn: Các trường hợp
miễn trách nhiệm tại Điều 294 LTM 2005, nghĩa vụ hạn chế tổn thất tại Điều 305
LTM 2005, nghĩa vụ chứng minh tổn thất tại Điều 304 LTM 2005,… Không những
vậy, chế tài trong thương mại cịn bảo vệ quyền và lợi ích của các bên thơng qua
khả năng phịng ngừa vi phạm của mình. Trong lúc giao kết hợp đồng, việc các bên
tiến hành thỏa thuận về biện pháp chế tài sẽ tác động đến nhận thức và thái độ của
mỗi bên, giúp họ thấy trước được hậu quả vật chất bất lợi mà mình phải gánh chịu
khi có hành vi vi phạm, từ đó họ ý thức được rằng cần phải tuân thủ và cố gắng
hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng. Khi các bên có thái độ tích cực tự khắc hợp đồng sẽ
đạt được mục đích của nó, vì vậy mà lợi ích các bên mong đợi cũng được đảm bảo.
Thứ hai, chế tài trong thương mại góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước về kinh tế, bảo đảm sự ổn định của các quan hệ kinh tế. Từ khi kinh tế nước ta

chuyển mình sang cơ chế thị trường, quan hệ dân sự mà đặc biệt là quan hệ thương
mại đã phát triển nhanh chóng và phổ biến, hành vi vi phạm hợp đồng cũng tăng lên
đáng kể, phức tạp và đa dạng hơn, nếu không được xử lý kịp thời những hành vi
này sẽ gây ra tình trạng bất ổn cho nền kinh tế. Do đó, việc các bên thỏa thuận về
biện pháp chế tài hay quy định của pháp luật về chế tài trong thương mại là công cụ
hỗ trợ đắc lực cho Nhà nước phát hiện và xử lý vi phạm kịp thời, từ đó những hành
xử lệch lạc cũng được loại bỏ, mọi hoạt động thương mại sẽ đi vào trật tự, quan hệ
thương mại được đưa vào khuôn khổ phù hợp với định hướng và mục đích mà Nhà
nước đã vạch ra.
Khi nền kinh tế phát triển ổn định sẽ thu hút đầu tư từ nước ngoài, đây là một
nguồn lợi rất lớn mà một nước đang phát triển như chúng ta hướng đến. Bên cạnh
vai trò ổn định kinh tế, chế tài trong thương mại cịn đóng vai trị là hành lang pháp
lý giúp thương nhân nước ngồi có cơ sở để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình
khi tham gia vào thị trường Việt Nam. Chế tài càng minh bạch thì càng tạo tâm lý


13

an toàn và yên tâm cho thương nhân, điều này tác động tích cực đến thái độ đầu tư
của họ. Như vậy, chế trong tài thương mại khơng chỉ có vai trò quan trọng đối với
các bên trong hợp đồng mà còn nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt
Nam trong thời kỳ hội nhập thông qua vai trò nâng cao năng lực quản lý kinh tế của
Nhà nước
1.2. Khái quát về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng
1.2.1. Khái niệm chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng
Điều 388 BLDS 2005 quy định: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các
bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Về mặt lý
luận, hợp đồng thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng dân sự, có thể hiểu
quyền và nghĩa vụ dân sự ở đây bao gồm cả quyền và nghĩa vụ trong quan hệ
thương mại; hay nói cách khác hợp đồng thương mại chính là cơ sở pháp lý làm

phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên trong quan hệ thương mại. Cơ sở pháp lý này
được xác lập dựa trên nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận10, các bên trong hợp
đồng sẽ tự chủ quyết định số phận kinh doanh của bản thân mà khơng một chủ thể
nào có thể cưỡng ép hoặc tước đoạt quyền này của họ. Do đó, hợp đồng thương mại
là một bản cam kết thể hiện rõ nét sự thống nhất ý chí của các bên trong hợp đồng,
nó là “sợi dây” ràng buộc các bên hành xử theo khuôn khổ mà họ đã cam kết, tự
mỗi bên phải có trách nhiệm tơn trọng và chịu sự ràng buộc đó vì hợp đồng chính là
ý nguyện của bản thân họ. Xuất phát từ hiệu lực ràng buộc của hợp đồng, nghĩa vụ
thực hiện đúng hợp đồng đã được luật hóa và trở thành chế tài buộc thực hiện đúng
hợp đồng.
Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là một dạng chế tài thương mại, nên ở
đây bên bị vi phạm vẫn là chủ thể áp dụng chế tài khi xuất hiện hành vi vi phạm hợp
đồng. Bên bị vi phạm có thể tiến hành yêu cầu bên vi phạm khắc phục vi phạm hoặc
dùng các biện pháp khác để vi phạm được khắc phục. Tính chất tài sản của chế tài
được thể hiện ở việc bên vi phạm phải chịu tồn bộ chi phí phát sinh trong q trình
khắc phục vi phạm.
Do đó, pháp luật thương mại Việt Nam đã đưa ra định nghĩa chế tài buộc
thực hiện đúng hợp đồng tại khoản 1 Điều 297 LTM 2005 như sau: “Buộc thực hiện
đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp
đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm
10

Tham khảo: Điều 11 LTM 2005.


14

phải chịu chi phí phát sinh”. Với định nghĩa này có thể thấy chế tài buộc thực hiện
đúng hợp đồng trước hết là một biện pháp bảo vệ quan hệ hợp đồng hiệu quả.
Định nghĩa về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong thương mại đã

manh nha hình thành từ Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989 thông qua các điều luật
quy định về hình thức buộc thực hiện đúng hợp đồng tại Điều 31, Điều 32, Điều 34
Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989. Theo các quy định này, buộc thực hiện đúng hợp
đồng chỉ mới đặt ra khi có vi phạm về chất lượng hàng hóa hoặc yêu cầu kỹ thuật
của công việc. Pháp lệnh không quy định rõ về trường hợp bên bị vi phạm có quyền
sử dụng các biện pháp khác một cách đơn phương để hợp đồng được thực hiện và
bên vi phạm phải chịu phí tổn liên quan. Sau nhiều năm thực thi, thiếu sót của Pháp
lệnh đã được Luật Thương mại 1997 bổ sung, Luật Thương mại 1997 có hẳn khoản
1 Điều 223 để định nghĩa chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng như sau: “Buộc
thực hiện đúng hợp đồng là việc bên có quyền lợi bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm
thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện
và bên vi phạm phải chịu phí tổn phát sinh”. Có thể thấy định nghĩa này của Luật
Thương mại 1997 đã quy định đầy đủ hai cách thức áp dụng chế tài buộc thực hiện
đúng hợp đồng và có nội dung tương tự như khoản 1 Điều 297 LTM 2005.
BLDS 2005 có đề cập đến chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng nhưng lại
quy định chúng rải rác ở nhiều điều luật khác nhau và khơng có một định nghĩa cụ
thể cho chế tài này. Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng được BLDS 2005 quy
định dưới dạng “Trách nhiệm dân sự” như: “Trách nhiệm dân sự do không thực
hiện nghĩa vụ giao vật” (Điều 303), “Trách nhiệm dân sự do không thực hiện nghĩa
vụ phải thực hiện hoặc không được thực hiện” (Điều 304). Như vậy, BLDS 2005 đã
giới hạn phạm vi áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng đối với vật đặc
định, nghĩa vụ phải thực hiện một công việc và nghĩa vụ không thực hiện một công
việc. Đây là điểm hạn chế so với LTM 2005, LTM 2005 cho phép bên bị vi phạm
áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng đối với tất cả hợp đồng thương mại,
không phân biệt đối tượng của hợp đồng là hàng hóa loại nào hay dịch vụ như thế
nào, từ những hợp đồng thương mại phổ biến như hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp
đồng dịch vụ, đến những hợp đồng mang tính đặc thù hơn như: hợp đồng xây dựng,
hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng tín dụng,…đều có thể áp dụng chế tài này.
So với LTM 2005, định nghĩa về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng của
CISG có phần đơn giản hơn. Điều này xuất phát từ phạm vi điều chỉnh của Cơng

ước chỉ gói gọn đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Vì có phạm vi điều


15

chỉnh hẹp hơn so với LTM 2005 nên chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng được
Công ước quy định tập trung ở quyền của bên mua và quyền của bên bán yêu cầu
thực hiện đúng hợp đồng đối với hợp đồng mua bán hàng hóa mà khơng đề cập đến
trường hợp thực hiện dịch vụ hay cung ứng lao động. Điều 46 và Điều 62 CISG
cũng cho phép bên bị vi phạm được yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng nghĩa vụ
của họ nhưng hai điều luật này không nhắc đến quyền của bên bị vi phạm áp dụng
các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện, tuy nhiên các bên vẫn có thể viện
dẫn đến Điều 75 CISG để áp dụng các biện pháp khác như: người mua mua hàng
thay thế, người bán bán lại hàng; các biện pháp này sẽ giúp hợp đồng được thực
hiện trong trường hợp bên vi phạm không thực hiện các yêu cầu tại Điều 46, Điều
62 CISG và dẫn đến tình trạng hợp đồng bị hủy bỏ.
Từ những so sánh trên, có thể nói định nghĩa về chế tài buộc thực hiện đúng
hợp đồng của LTM 2005 dường như là một định nghĩa súc tích, rõ ràng và đầy đủ
nhất trong giai đoạn hiện nay.
1.2.2. Đặc điểm của chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng
Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là một loại chế tài trong thương mại,
song vì tính chất và mục đích điều chỉnh của mỗi chế tài khác nhau nên ngoài
những đặc điểm chung, chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng cịn có những đặc
điểm riêng:
Thứ nhất, chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là một biện pháp bảo vệ
quan hệ hợp đồng hiệu quả.
“Hợp đồng được sinh ra không để bị huỷ mà để được thực hiện nhằm đem lại
cho các bên lợi ích mong đợi khi giao kết”11. Khi các bên quyết định giao kết hợp
đồng, họ đã chấp nhận chịu sự ràng buộc bởi những điều khoản mà mình thỏa
thuận. Theo đó, nghĩa vụ của người này là quyền lợi của người kia và người lại; một

khi hợp đồng được thực hiện đúng sẽ đồng nghĩa với việc quyền lợi và mục đích
kinh tế của các bên được đảm bảo. Ngay từ tên gọi, chế tài buộc thực hiện đúng hợp
đồng đã thể hiện vai trò chủ đạo của mình trong việc bảo đảm cho hợp đồng được
thực hiện đúng như thỏa thuận: bên bán nhận được tiền và bên mua nhận được
hàng. Buộc thực hiện đúng hợp đồng là giải pháp phù hợp với ý chí chung của các
bên, áp dụng chế tài này là tạo cơ hội cho ý chí chung được thực hiện và được tơn

11

Đỗ Văn Đại – Chủ nhiệm đề tài (2010), Vấn đề không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật thực định
Việt Nam, đề tài khoa học công nghệ cấp Bộ, TP.Hồ Chí Minh, tr.18.


16

trọng. Với tác động tích cực như vậy, chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng thường
là biện pháp được các bên ưu tiên áp dụng khi xảy ra tranh chấp.
Thứ hai, chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng được áp dụng khi các bên
chứng minh rằng lợi ích mà họ mong đợi từ hợp đồng chưa được bên còn lại đáp
ứng.
Hiệu lực ràng buộc hợp đồng, buộc mỗi bên phải có ý thức trong việc thõa
mãn quyền lợi của bên còn lại để đổi lấy quyền lợi cho chính mình. Cho nên, khi
một bên chỉ biết nhận lợi ích mà khơng thực hiện nghĩa vụ thì họ phải chịu sự tác
động của chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng để đem lại trạng thái cân bằng về
quyền và nghĩa vụ ban đầu cho hợp đồng. Do đó, không giống với các loại chế tài
thương mại khác, khi áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, bên bị vi phạm
khơng cần chứng mình những thiệt hại thực tế mà mình gánh chịu do hành vi vi
phạm gây ra, cái cần quan tâm là lợi ích họ mong đợi từ hợp đồng có được đáp ứng
hay chưa? Dù vi phạm là cơ bản hay không cơ bản, chỉ cần bất kỳ bên nào không
thực hiện đúng nghĩa vụ cung cấp lợi ích cho bên cịn lại thì quyền áp dụng chế tài

buộc thực hiện đúng hợp đồng sẽ phát sinh.
Thứ ba, chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là hệ quả logic của nguyên tắc
pacta sunt servanda.
Nguyên tắc pacta sunt servanda theo tiếng Latin có nghĩa là “Giao ước cần
phải được tuân thủ”12. Ban đầu, nguyên tắc tồn tại dưới dạng tập quán thương mại
quốc tế, sau đó nó được ghi nhận như một nguyên tắc chủ đạo trong các điều ước
quốc tế đa phương và song phương. Nguyên tắc này chủ yếu hướng các bên tuân
thủ tuyệt đối nghĩa vụ đã cam kết, tuân thủ một cách nghiêm ngặt và không do dự;
các bên sẽ thực hiện nghĩa vụ của mình trên tinh thần tự nguyện, có thiện chí, trung
thực và đầy đủ.
Khi một bên trong hợp đồng có hành vi sai lệch với nghĩa vụ đã thỏa thuận
có nghĩa là họ đã vi phạm nguyên tắc pacta sunt servanda. Để nguyên tắc này được
tuân thủ nghiêm ngặt thì địi hỏi tất yếu phải có một chế tài đứng ra đảm bảo cho
nghĩa vụ hợp đồng được thực hiện đúng. Với chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng,
mọi hành vi của các chủ thể đều được đưa vào trật tự như cam kết ban đầu, điều này
đồng nghĩa với việc quan hệ hợp đồng được thiết lập lại trạng thái cân bằng về
12

Nguyên tắc pacta sunt servanda dịch ra tiếng anh có nghĩa là: “Agreements must be kept”.Theo: Bryan
A.Garner, Black’s Law Dictionary, 8th Edition, June 1, 2004, pp.3508.


17

quyền và nghĩa vụ, một khi trạng thái cân bằng được thiết lập các bên cần tận tâm,
thiện chí và trung thực để hoàn thành hợp đồng một lần nữa. Buộc thực hiện đúng
hợp đồng thể hiện sự thiện chí của bên bị vi phạm đối với bên vi phạm khi họ nỗ
lực cho bên vi phạm thêm cơ hội để hồn thành nghĩa vụ, mà khơng áp dụng các
biện pháp mang tính trừng phạt khác, hành vi đó khơng chỉ bảo vệ lợi ích cho bên bị
vi phạm mà cịn đảm bảo lợi ích cho bên vi phạm. Vì sự thiện chí này, bên vi phạm

cũng cần thể hiện thiện chí của mình trong việc tận tâm khắc phục hành vi vi phạm
một cách tự nguyện. Như vậy, có thể thấy chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng
chính là một hệ quả tất yếu của nguyên tắc pacta sunt servanda.
1.2.3. Sự cần thiết của chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong quan hệ
thương mại.
Từ sau khi nước ta rời bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung để chuyển sang
nền kinh tế thị trường, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, kinh tế trong nước đã bắt
đầu có những khởi sắc mới, giao thương mua bán có cơ hội phát triển sinh động địi
hỏi hợp đồng thương mại cũng biến đổi đa dạng và phong phú để bắt kịp nhịp phát
triển của thực tiễn. Bên cạnh sự phát triển nhanh chóng của hoạt động thương mại,
những tranh chấp về hợp đồng thương mại cũng diễn ra thường xuyên hơn và chiếm
một tỷ lệ khá lớn13.
Do ý thức pháp luật của các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng cịn chưa
cao, hoặc vì lợi ích cá nhân họ có thể bỏ qua lợi ích của người khác để thực hiện
hành vi vi phạm nhằm thõa mãn mục đích kinh tế trước mắt của mình. Điều này tạo
ra tâm lý bất an cho các chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng, kiềm hãm giao
thương mua bán. Ngược lại, hợp đồng nói chung và hợp đồng thương mại nói riêng
là cơng cụ cơ bản để các chủ thể trong xã hội tiến hành trao đổi lợi ích vật chất với
nhau; nếu hợp đồng được bảo vệ, nó sẽ thúc đẩy hoạt động thương mại và tạo đà
cho kinh tế tăng trưởng. Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng với đặc điểm của
13

Theo số liệu thống kê của ngành tòa án Việt Nam, năm 2013 Việt Nam có số lượng án kinh doanh thương
mại và các án dân sự khác (không bao gồm hôn nhân và gia đình, lao động) là: 94 932 vụ, cao thứ nhì sau án
hơn nhân và gia đình. Nguồn: ngày truy cập:
04/02/2015.
Theo số liệu thông kế của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC), năm 2013 có 99 vụ tranh chấp giải
quyết tại VIAC trong đó có 43 vụ liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa (chiếm 43,4 %) và 13 vụ liên
quan đến hợp đồng dịch vụ (chiếm 13,3%). So với những năm trước, số lượng tranh chấp về hợp đồng mua
bán hàng hóa, dịch vụ tăng lên đáng kể (tăng 10 vụ so với năm 2012). Nguồn:

/>ngày truy cập: 04/02/2015.


18

mình sẽ là cơng cụ bảo vệ hợp đồng hiệu quả, giúp các bên đạt được mục đích kinh
tế mà họ mong chờ, tạo tâm lý an toàn và yên tâm cho các bên khi giao kết hợp
đồng vì mỗi bên nhận thức được rằng những gì mà họ mong chờ từ hợp đồng rồi sẽ
được đáp ứng. Tâm lý an tồn khuyến khích các bên tích cực tham gia vào hoạt
động thương mại, giúp hàng hóa và dịch vụ lưu thông, thõa mãn nhu cầu sản xuất,
tạo vốn để mở rộng kinh doanh, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Về nguyên tắc, mọi chủ thể đều được tự do thỏa thuận hợp đồng nhưng họ
phải tự do“trong phạm vi giới hạn của luật công và trật tự công cộng, để tạo ra loại
hợp đồng mà họ muốn, thậm chí điều đó có thể là vơ lý theo cách nhìn nhận của
người khác”14, cho nên hành vi xử xự vượt ra ngồi phạm vi của một hợp đồng hợp
pháp có thể sẽ xâm hại đến quy định của pháp luật – những quy tắc xử xự phù hợp
với lợi ích của cộng đồng; hành vi vi phạm hợp đồng có thể xáo trộn trật tự chung
của xã hội và gây bất ổn cho nền kinh tế; nếu không được ngăn chặn kịp thời có thể
kéo theo những hệ lụy đáng tiếc. Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng sẽ là công
cụ hiệu quả để mỗi chủ thể tham gia quan hệ thương mại tự mình chủ động loại trừ
những hành vi đi lệch với định hướng xã hội và mục đích của đơi bên, đưa những
hành vi ấy về lại trật tự phù hợp, góp phần củng cố các quan hệ thương mại và ổn
định nền kinh tế.
Với những vai trò cực nêu trên, chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng đã
thực sự trở thành một biện pháp cần thiết trong hoạt động thương mại và ngày càng
được các bên ưu tiên sử dụng để đạt được sự hợp tác toàn diện.
1.2.4. Sự cần thiết phải nghiên cứu chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng
theo quy định của Công ước Viên 1980
Hiện tại Việt Nam chưa là thành viên của CISG, nhưng điều này không đồng
nghĩa với việc Cơng ước khơng có bất kỳ tác động nào đến hoạt động mua bán hàng

hóa của thương nhân Việt Nam. Đối với hoạt động mua bán hàng hóa có yếu tố
nước ngồi trong đó một bên là thương nhân Việt Nam thì Cơng ước sẽ được áp
dụng khi15: hai bên thỏa thuận chọn áp dụng Công ước; hoặc bên cịn lại có trụ sở
kinh doanh/nơi cư trú thường xun tại quốc gia là thành viên của Công ước và quy
14

Tham khảo: Lê Minh Hùng (2010), Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam, luận án
tiến sĩ, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, tr. 10.
15
Tham khảo thêm: Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Pháp luật về thương mại hàng
hóa và dịch vụ, NXB Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, Hà Nội, tr. 49-58.


×