Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Định đoạt phần vốn trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên theo luật doanh nghiệp 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
-----------***-----------BAN ĐIỀU HÀNH
CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẶC BIỆT

HỒNG THẢO NGÂN

ĐỊNH ĐOẠT PHẦN VỐN TRONG CƠNG TY
TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN HAI THÀNH VIÊN
TRỞ LÊN THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2014

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Khoa: Luật Thương mại
Niên khóa: 2013 - 2017

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
-----------***-----------BAN ĐIỀU HÀNH
CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẶC BIỆT

ĐỊNH ĐOẠT PHẦN VỐN TRONG CÔNG TY
TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN HAI THÀNH VIÊN TRỞ LÊN THEO
LUẬT DOANH NGHIỆP 2014

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Khoa: Luật Thương mại
Niên khóa: 2013 - 2017



Người hướng dẫn khoa học: Th.S Từ Thanh Thảo
Người Thực hiện: Hoàng Thảo Ngân
MSSV: 1353801012170
Lớp: CLC 38 C

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Th.S Từ Thanh Thảo, đảm bảo tính
trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tơi
xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Người thực hiện

Hoàng Thảo Ngân


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT TẮT
Công ty TNHH
LDN
BLDS
HĐTV

NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT
Công ty trách nhiệm hữu hạn

Luật Doanh nghiệp
Bộ luật Dân sự
Hội đồng thành viên


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỊNH ĐOẠT PHẦN VỐN TRONG
CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN HAI THÀNH VIÊN TRỞ LÊN ......... 4
1.1 Đặc điểm của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên và cơ sở lý
luận về quyền định đoạt phần vốn ........................................................................... 4
1.1.1 Đặc điểm của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên ............ 4
1.1.2 Cơ sở lý luận về quyền định đoạt phần vốn trong công ty trách nhiệm hữu
hạn hai thành viên trở lên .................................................................................... 7
1.2 Định đoạt phần vốn trong thời hạn cam kết góp vốn vào cơng ty trách nhiệm
hữu hạn hai thành viên trở lên............................................................................... 10
1.3 Chủ thể định đoạt phần vốn trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên ............................................................................................................... 12
1.3.1 Thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên .............. 12
1.3.2 Những chủ thể khác không phải là thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn
hai thành viên trở lên ......................................................................................... 14
CHƯƠNG 2. CÁC CÁCH THỨC ĐỊNH ĐOẠT PHẦN VỐN TRONG CÔNG
TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN HAI THÀNH VIÊN TRỞ LÊN THEO LUẬT
DOANH NGHIỆP 2014 VÀ ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN ............................ 16
2.1 Quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 về định đoạt phần vốn trong công ty
trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên ......................................................... 16
2.2 Các cách thức định đoạt phần vốn trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên theo quy định của Luật Doanh Nghiệp 2014 ......................... 20
2.2.1 Yêu cầu công ty mua lại phần vốn góp...................................................... 20
2.2.2 Chuyển nhượng phần vốn góp................................................................... 22

2.2.3 Để thừa kế phần vốn góp ........................................................................... 28
2.2.4 Tặng cho phần vốn góp ............................................................................. 29
2.2.5 Các cách thức khác để định đoạt phần vốn trong công ty trách nhiệm hữu
hạn hai thành viên trở lên .................................................................................. 32
2.3 Chế định định đoạt phần vốn trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên theo pháp luật một số nước và bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam........................................................................................................................... 36
2.3.1 Pháp luật Trung Quốc ............................................................................... 37
2.3.2 Pháp luật Pháp .......................................................................................... 39
2.4 Thực tiễn về vấn đề định đoạt phần vốn trong công ty trách nhiệm hữu hạn
hai thành viên trở lên .............................................................................................. 42


2.4.1 Sự thiếu vắng các quy định của Luật Doanh nghiệp trong việc điều chỉnh
hoạt động định đoạt phần vốn góp ..................................................................... 42
2.4.2 Rủi ro pháp lý liên quan đến định đoạt phần vốn góp vì khơng tn thủ quy
định của Luật Doanh nghiệp .............................................................................. 45
2.4.3 Quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 về định đoạt phần vốn trong công
ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên chưa phù hợp với thực tiễn ....... 46
2.5 Kiến nghị hoàn thiện Luật Doanh nghiệp về vấn đề định đoạt phần vốn trong
công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên ........................................... 46
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 50
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 51


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường
cùng với những đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước luôn dành
sự quan tâm đáng kể đến các doanh nghiệp, bên cạnh đó hệ thống pháp luật cũng

không ngừng được cải cách ngày một tiến bộ hơn nhằm cụ thể hóa những điều kiện
mà Việt Nam dành cho các nhà đầu tư trong và ngồi nước. Chặng đường hồn thiện
pháp luật nói chung và pháp luật doanh nghiệp nói riêng là một chặng đường dài,
luôn được ưu tiên hàng đầu trong nhiệm vụ lập pháp, kể từ Luật công ty 1990, Luật
Doanh nghiệp 1999, Luật Doanh nghiệp 2005 cho đến hiện nay là Luật Doanh nghiệp
2014 được ra đời trên cơ sở kế thừa, phát huy những thành tựu đạt được trong suốt
thời gian qua, khắc phục những điểm thiếu sót cịn tồn tại, đồng thời bổ sung thêm
các quy định mới phù hợp với những vấn đề phát sinh trên thực tế, đã tạo ra cơ chế
pháp lý hồn thiện hơn góp phần giúp cho các nhà đầu tư yên tâm mạnh dạn đẩy
mạnh sản xuất, kinh doanh thơng qua các loại hình doanh nghiệp.
Ở Việt Nam, quy mô của các doanh nghiệp chủ yếu là vừa và nhỏ, với số lượng
các nhà đầu tư trong một doanh nghiệp không quá đông, thường có mối quan hệ quen
biết, tin cậy lẫn nhau và mối quan hệ này ln được mong đợi có thể duy trì lâu dài
đồng thời mối quan tâm về trách nhiệm hữu hạn của các thành viên đối với các khoản
nợ và nghĩa vụ tài chính khác của cơng ty cũng được các nhà đầu tư đưa lên hàng
đầu, do đó cơng ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là loại hình doanh
nghiệp tối ưu nhất hiện nay có thể thỏa mãn được tất cả các yêu cầu này.
Tác giả nhận thấy được rằng với số lượng công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên đơng đảo như hiện nay thì nhu cầu định đoạt của chủ sở hữu phần vốn
góp trong loại hình cơng ty này thông qua các cách thức như chuyển nhượng, tặng
cho, để thừa kế…. sẽ rất lớn, trong khi các quy định điều chỉnh của Luật Doanh
nghiệp 2014 vẫn còn tồn tại một số điểm bất cập, chưa rõ ràng cần phải xem xét hồn
thiện chính vì vậy tác giả đã quyết định lựa chọn đề tài “Định đoạt phần vốn trong
công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên theo Luật Doanh nghiệp 2014”
để nghiên cứu trong khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các vấn đề pháp lý liên quan đến công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên
trở lên như góp vốn, quản trị cơng ty... đã được nghiên cứu bởi nhiều đề tài khác
nhau. Tuy nhiên, đề tài “Định đoạt phần vốn trong công ty trách nhiệm hữu hạn
hai thành viên trở lên theo Luật Doanh nghiệp 2014” thì chưa có nhiều cơng trình


1


nghiên cứu một cách chi tiết, đầy đủ, một số cơng trình nghiên cứu và bài viết khoa
học có liên quan đến đề tài này mà tác giả tìm hiểu được như:
- Luận văn thạc sĩ luật “Định đoạt phần vốn góp của thành viên trong cơng ty
trách nhiệm hữu hạn theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Vũ Tuấn Anh (2012), luận
văn này đã đưa ra được những cơ sở lý luận quan trọng về định đoạt phần vốn trong
công ty trách nhiệm hữu hạn tuy nhiên do phạm vi nghiên cứu rộng nên các quy định
cụ thể của pháp luật doanh nghiệp về vấn đề này vẫn chưa được người viết phân tích
kĩ đồng thời nhiều kiến nghị hoàn thiện pháp luật trong luận văn chưa được cụ thể.
- Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật “Chuyển nhượng vốn trong công ty trách
nhiệm hữu hạn - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Bùi Thị Mỹ Khanh
(2012), khóa luận đã khai thác được một khía cạnh liên quan đến nội dung định đoạt
phần vốn trong công ty trách nhiệm hữu hạn là hoạt động chuyển nhượng phần vốn
góp, tuy nhiên nội dung nghiên cứu được dựa trên Luật Doanh nghiệp 2005 vì vậy
những điểm thay đổi của Luật Doanh nghiệp 2014 vẫn chưa được khóa luận cập nhập.
- Luận văn thạc sĩ luật “Chế độ pháp lý về vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn
hai thành viên trở lên” của tác giả Phạm Thị Kim Phượng (2010), luận văn này có
nhắc đến một số cách thức xử lý phần vốn trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên song vì đây khơng phải là đối tượng nghiên cứu chính của đề tài
này nên nhiều vấn đề có liên quan vẫn chưa được phân tích cụ thể, tồn diện.
- Ngồi ra cịn có một số bài viết khác như “Góp ý hoàn thiện các quy định về
quyền định đoạt phần vốn góp của thành viên cơng ty trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên” của tác giả Bùi Thị Thanh Thảo được đăng trên Tạp chí Khoa học pháp
lý số 2 (81)/2014, trên cơ sở của Luật Doanh nghiệp 2005 bài viết này cũng đã chỉ ra
được những điểm bất cập của luật cũ về vấn đề định đoạt phần vốn trong công ty
trách nhiệm hai thành viên trở lên và đưa ra được một số ý kiến đóng góp mang dấu
ấn riêng của người viết; Bài viết “Hồn thiện một số quy định về vốn doanh nghiệp

trong Luật Doanh nghiệp 2014” của tác giả Nguyễn Thị Ánh Vân được đăng trên tạp
chí Luật học số 11 (198)/2016 với một số bình luận mới mẻ về quy định của Luật
Doanh nghiệp 2014 trong hoạt động chuyển nhượng, yêu cầu cơng ty mua lại phần
vốn góp; …
Nhìn chung phần lớn các tài liệu kể trên được viết trước thời điểm Luật Doanh
nghiệp 2014 ra đời, do đó các kết quả nghiên cứu vẫn được nhìn nhận theo góc độ
của luật cũ và mới chỉ dừng lại ở việc phân tích một số khía cạnh hoặc trình bày tổng
qt về đề tài, tuy nhiên các kết quả nghiên cứu này cũng đã đưa ra được cơ sở lý
luận và thực tiễn quan trọng, qua đó giúp tác giả hình thành nhận thức về những điểm
hoàn thiện hơn của Luật Doanh nghiệp 2014 so với Luật Doanh nghiệp 2005 cũng
2


như những bất cập còn tồn tại, những vấn đề còn bỏ ngỏ trong quy định của luật hiện
hành để trình bày trong bài khóa luận của mình dưới góc độ đầy đủ và tồn vẹn hơn.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài đặt ra mục đích là nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện các quy định
của Luật Doanh nghiệp 2014 liên quan đến vấn đề định đoạt phần vốn trong công ty
trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, trên cơ sở lý luận và thực tiễn, xem xét
và phân tích những điểm hồn thiện cũng như chỉ ra những điểm hạn chế trong quy
định của luật hiện hành, từ đó đưa ra những kiến nghị cụ thể góp phần hồn thiện các
quy định của pháp luật doanh nghiệp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong đề tài khóa luận này, đối tượng nghiên cứu bao gồm những vấn đề lý luận
chung, các quy định về định đoạt phần vốn trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên theo Luật Doanh nghiệp 2014 và các văn bản pháp luật khác có
liên quan.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Tác giả nghiên cứu vấn đề định đoạt phần vốn
trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên ở cả hai khía cạnh lý luận
và thực tiễn, đó là các quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 và các văn bản pháp

luật khác có liên quan, kết hợp với khảo sát thực tiễn trong nước về vấn đề này.
5. Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Đề tài khóa luận tốt nghiệp được tác giả kết hợp sử dụng nhiều phương pháp
nghiên cứu khác nhau như:
- Phương pháp so sánh, phân tích được sử dụng khi tiếp cận từng quy định của
Luật Doanh nghiệp 2014 có liên quan đến vấn đề định đoạt phần vốn trong công ty
trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên để chỉ ra những điểm hoàn thiện và những
điểm còn hạn chế trong các quy định này;
- Phương pháp diễn giải, chứng minh bằng các ví dụ, bản án cụ thể để chỉ ra
những khoảng trống pháp lý và các điểm chưa rõ ràng của Luật Doanh nghiệp 2014;
- Phương pháp tổng hợp được sử dụng để đúc kết các kết quả nghiên cứu được
từ đó đưa ra các kiến nghị hoàn thiện Luật Doanh nghiệp về định đoạt phần vốn;
6. Bố cục tổng quát của khóa luận
Khóa luận gồm ba phần chính: Phần mở đầu, Phần nội dung và Kết luận. Phần
nội dung được chia làm hai chương:
Chương 1: Lý luận chung về định đoạt phần vốn trong công ty trách nhiệm hữu hạn
hai thành viên trở lên.
Chương 2: Các cách thức định đoạt phần vốn trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên theo Luật Doanh nghiệp 2014 và định hướng hoàn thiện.
3


CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỊNH ĐOẠT PHẦN VỐN TRONG
CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN HAI THÀNH VIÊN TRỞ LÊN
1.1 Đặc điểm của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên và cơ
sở lý luận về quyền định đoạt phần vốn
1.1.1 Đặc điểm của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
Tìm hiểu lịch sử ra đời, mơ hình cơng ty trách nhiệm hữu hạn (công ty TNHH)
lần đầu tiên được biết đến trong một đạo luật công ty của Đức năm 1892, loại hình
cơng ty này sau đó được nhiều quốc gia trên thế giới ưa chuộng, ghi nhận tại Úc vào

năm 1906, tại Anh vào năm 1907, tại Pháp năm 19251 và tại Việt Nam năm 1990 khi
Quốc hội ban hành Luật cơng ty vào ngày 21/12/1990 có giá trị pháp lý áp dụng thống
nhất trên phạm vi cả nước.
Hiện nay, cơng ty TNHH là loại hình doanh nghiệp phổ biến nhất ở nước ta, xét
về số lượng, các doanh nghiệp được thành lập theo loại hình cơng ty này khá đơng
đảo, nhiều hơn hẳn so với các loại hình cơng ty khác, theo thống kê chỉ trong sáu
tháng đầu năm 2017, cả nước có thêm 61.276 doanh nghiệp thành lập mới, trong số
đó có 1.627 doanh nghiệp tư nhân, 10.397 công ty cổ phần, 10 công ty hợp danh và
49.242 công ty TNHH (gồm 34.493 công ty TNHH một thành viên và 14.749 công
ty TNHH hai thành viên trở lên)2. Bất kì một loại hình doanh nghiệp nào cũng được
đặc trưng bởi những “sắc màu kinh doanh”3 riêng, ở công ty TNHH hai thành viên
trở lên, những đặc điểm làm nên nét thu hút với các nhà đầu tư, đồng thời chi phối
đến các quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động cơng ty này đó là:
Cơng ty TNHH hai thành viên trở lên là một tổ chức có tư cách pháp nhân kể từ
ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Thời điểm được cấp giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp được xem như “thời điểm khai sinh”, xác nhận
công ty TNHH hai thành viên trở lên chính thức là một pháp nhân trên thực tế, thể
hiện đầy đủ bốn đặc điểm của một tổ chức có tư cách pháp nhân được quy định tại
khoản 1 Điều 74 Bộ luật Dân sự 2015 (BLDS 2015): Thứ nhất, loại hình cơng ty này
được thành lập theo pháp luật doanh nghiệp có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao

Trần Quỳnh Anh (2012), “Pháp luật Cộng hòa Liên bang Đức về cơng ty TNHH”, Tạp chí Luật học, số
4 (143)/2012, tr. 59
2 “Tình hình chung về đăng ký doanh nghiệp tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2017”,
truy cập ngày 6/7/2017
3 Nguyễn Phú Trọng (2010), “Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư năm 2005 - nhìn từ góc độ so sánh”,
Tạp chí Luật học, số 9 (124)/2010, tr. 56
1

4



dịch, được đăng ký thành lập nhằm mục đích kinh doanh; Thứ hai, công ty TNHH
hai thành viên trở lên có cơ cấu tổ chức chặt chẽ gồm Hội đồng thành viên (HĐTV),
Chủ tịch HĐTV, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, đối với cơng ty TNHH có từ 11
thành viên trở lên thì phải thành lập Ban kiểm sốt; Trường hợp có ít hơn 11 thành
viên, có thể thành lập Ban kiểm soát phù hợp với yêu cầu quản trị công ty; Thứ ba,
công ty được thành lập bởi sự hùn hạp tài sản của các chủ thể khác nhau, tài sản góp
vốn trở thành những tài sản độc lập của công ty thông qua việc thành viên phải chuyển
quyền sở hữu những tài sản này cho công ty, đồng thời công ty phải tự chịu trách
nhiệm bằng tài sản của mình đối với các khoản nợ hoặc hoạt động liên quan đến tài
chính khác của cơng ty; Thứ tư, công ty TNHH hai thành viên trở lên tự nhân danh
chính mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Công ty TNHH hai thành viên trở lên là một sản phẩm của q trình lập pháp,
có “sự kết hợp khá hài hòa những đặc điểm cơ bản của công ty đối nhân và công ty
cổ phần”4. Tính đối vốn trong cơng ty TNHH hai thành viên trở lên được thể hiện qua
những yếu tố như thành viên của cơng ty phải tham gia góp vốn khi thành lập doanh
nghiệp, tài sản góp vốn trở thành tài sản riêng của cơng ty, thành viên cơng ty khơng
cịn quyền sở hữu đối với tài sản đã góp. Về chế độ trách nhiệm, theo khoản 1 Điều
51 Luật Doanh nghiệp 2014 (LDN 2014) thì cơng ty phải chịu trách nhiệm vô hạn
đối với các khoản nợ và nghĩa vụ phát sinh trong hoạt động kinh doanh, cịn thành
viên cơng ty chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn đã góp, với hai lý giải cơ bản:
Một là, cơng ty TNHH hai thành viên trở lên là tổ chức có tư cách pháp nhân do vậy
đương nhiên phải tự chịu trách nhiệm bằng tồn bộ tài sản của mình; Hai là, thành
viên cơng ty sau khi góp đầy đủ vốn điều lệ thì xem như đã hồn thành xong nghĩa
vụ tài chính đối với cơng ty, vì vậy cơng ty không được quyền yêu cầu từng thành
viên sử dụng tài sản cá nhân khác ngoài phạm vi số vốn đã góp để chịu trách nhiệm
thay cho mình. Cách quy định này của Việt Nam nhìn chung cũng cùng một tinh thần
tương tự với nhiều nước trên thế giới, Luật công ty TNHH của bang Delaware (Mỹ)
quy định tại Điều 18-3035, Luật Thương mại Hàn Quốc quy định tại Điều 553… Tuy

nhiên, thành viên sẽ phải chịu trách nhiệm cá nhân khi thực hiện các hành vi được
quy định tại khoản 5 Điều 51 LDN 2014 như vi phạm pháp luật, tiến hành kinh doanh
hoặc giao dịch khác không nhằm phục vụ lợi ích của cơng ty và gây thiệt hại cho
người khác; Thanh toán khoản nợ chưa đến hạn trước nguy cơ tài chính có thể xảy ra

Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình pháp luật về chủ thể kinh doanh, Nhà xuất
bản Hồng Đức, tr. 157
5 Trần Quỳnh Anh (2010), “Công ty trách nhiệm hữu hạn theo pháp luật Hoa Kỳ”, Tạp chí Luật học, số
12 (127)/2010, tr. 5
4

5


đối với công ty. Quy định này rất hợp lý, được đặt ra để tránh việc thành viên công
ty lợi dụng vỏ bọc trách nhiệm hữu hạn để thực hiện các hành vi khơng được phép.
Tính đối vốn khơng phải là yếu tố duy nhất được các nhà đầu tư cân nhắc khi
lựa chọn loại hình cơng ty TNHH hai thành viên trở lên, sợi dây liên kết về tính đối
nhân cũng được họ quan tâm xây dựng ngay từ khi cơng ty ra đời. Tính đối nhân
trước hết được thể hiện ở số lượng thành viên công ty không quá đông, tương tự với
pháp luật của nhiều quốc gia khác giới hạn về số lượng thành viên trong công ty
TNHH, “số thành viên tối đa của công ty TNHH ở Cộng hịa Liên bang Nga là khơng
q 50 người; ở Cộng hịa Nam Phi là khơng q 30 người; ở Mỹ quy định tùy theo
tiểu bang”6, LDN 2014 của Việt Nam quy định số lượng thành viên công ty TNHH
hai thành viên trở lên ở mức tối thiểu và mức tối đa chỉ từ 2 - 50 người. So với công
ty cổ phần đặc biệt là công ty cổ phần đại chúng, số lượng thành viên trong công ty
TNHH hai thành viên trở lên tương đối ít hơn chính vì lẽ đó mà sự thành lập và quản
lý cơng ty này không quá phức tạp như công ty cổ phần, tạo điều kiện cho các thành
viên cơng ty có thể dễ dàng biết rõ về nhau. Bên cạnh đó tính đối nhân cịn thể hiện
qua việc LDN hạn chế quyền chuyển nhượng phần vốn góp và cơng ty khơng được

phát hành cổ phần để huy động vốn từ công chúng, nếu được phép phát hành cổ phần
sẽ dẫn đến phá vỡ cấu trúc vốn và cơ cấu số lượng thành viên của loại hình cơng ty
này, đây là điểm khác biệt lớn nhất giữa công ty TNHH và công ty cổ phần7. Nhìn
chung sự thay đổi thành viên trong cơng ty TNHH hai thành viên trở lên tương đối
khó khăn hơn so với loại hình cơng ty đối vốn, việc “ra, vào” của các thành viên công
ty được kiểm sốt khá chặt chẽ bởi bản chất về “tính đóng” của cơng ty hợp danh
được giữ lại ở loại hình cơng ty này. “Nếu nhìn từ góc độ luật Châu Âu lục địa, công
ty TNHH hai thành viên trở lên đã kết hợp được ưu điểm về chế độ trách nhiệm hữu
hạn của công ty đối vốn với ưu điểm về sự quen biết nhau giữa các thành viên của
công ty đối nhân… làm cho bản chất của loại hình cơng ty mang tính đóng chứ khơng
mang tính mở như cơng ty cổ phần”8.
Những đặc điểm vừa phân tích ở trên cũng là lời giải thích cho các quy định của
pháp luật doanh nghiệp về việc định đoạt phần vốn trong công ty TNHH hai thành
viên trở lên, mặc dù là chủ sở hữu hợp pháp đối với phần vốn góp nhưng việc định

Nguyễn Vĩnh Hưng (2013), “Cơng ty hợp vốn đơn giản trong các loại hình cơng ty so sánh và kiến
nghị”, Tạp chí Nghề Luật, số 1/2013, tr. 63
7 Nguyễn Việt Khoa, Từ Thanh Thảo (2010), Luật kinh tế, Nhà xuất bản Phương Đơng, tr. 53
8 Phạm Hồi Tuấn (2011), “Vốn điều lệ công ty từ quy định của Nghị định 102/2010/NĐ-CP”, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 1 (186)/2011, tr. 50
6

6


đoạt lại không thể thực hiện một cách tự do theo ý muốn của họ, mà phải tuân theo
quy định của pháp luật với những hạn chế nhất định.
1.1.2 Cơ sở lý luận về quyền định đoạt phần vốn trong công ty trách nhiệm
hữu hạn hai thành viên trở lên
1.1.2.1 Lý luận chung về phần vốn trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành

viên trở lên
Khi quyết định cùng nhau thành lập công ty TNHH hai thành viên trở lên, các
tổ chức, cá nhân sẽ sử dụng tài sản của mình để đóng góp vào cơng ty, những tài sản
này sau khi được góp sẽ trở thành vốn của doanh nghiệp dùng vào các mục đích sản
xuất, kinh doanh như chi trả lương cho nhân viên, mua sắm trang thiết bị hay đầu tư
mở rộng kinh doanh... Thông thường, một cơng ty muốn hoạt động được thì trước
tiên phải có vốn nên các nhà đầu tư cần góp vốn trước khi công ty thành lập nhưng
không phải lúc nào việc góp vốn cũng diễn ra và hồn thành trước thời điểm công ty
ra đời, trên thực tế LDN 2014 quy định tại khoản 2 Điều 48 cho phép các thành viên
có một thời hạn nhất định là 90 ngày kể từ ngày công ty TNHH hai thành viên trở lên
được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp để thực hiện việc này.
Loại vốn đầu tiên được tạo thành khi doanh nghiệp ra đời chính là vốn điều lệ,
theo đó vốn điều lệ của cơng ty TNHH hai thành viên trở lên khi đăng ký doanh
nghiệp được định nghĩa là tổng giá trị phần vốn góp các thành viên cam kết góp vào
cơng ty (khoản 29 Điều 4 LDN 2014). Vốn điều lệ được ghi nhận trên giấy chứng
nhận đăng ký doanh nghiệp, do công ty làm chủ sở hữu và được xem là nguồn vốn
khởi đầu kinh doanh để “mua sắm tài sản cố định, tài sản lưu động…”9, đồng thời là
cơ sở để phân chia lợi nhuận và san sẻ rủi ro trong kinh doanh giữa các thành viên
góp vốn, thơng qua con số này, bước ban đầu các đối tác, khách hàng có thể đánh giá
được cơ bản về mức trách nhiệm vật chất tối thiểu mà cơng ty có thể gánh chịu để
quyết định có nên thực hiện các giao dịch với công ty hay khơng, tuy nhiên trách
nhiệm về tài chính của cơng ty sẽ không chỉ giới hạn trong phạm vi số vốn điều lệ mà
sẽ được mở rộng bao gồm tất cả vốn chủ sở hữu của công ty tạo ra từ quá trình sản
xuất, kinh doanh giúp phát sinh lợi nhuận và phát triển thêm giá trị tài sản khác cho
công ty.
Các thành viên sẽ khơng có quyền sở hữu đối với vốn điều lệ, tài sản mà họ
nhận được sau khi góp vốn chính là phần vốn góp và đây cũng là phần vốn được phép
định đoạt trong công ty TNHH hai thành viên trở lên. Thực chất “phần vốn góp là kết
quả của sự phân thân về giá trị của tài sản góp vốn vào cơng ty, phần vốn góp và tài
Lê Thị Châu (2001), “Về căn cứ xác lập quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn ở Việt Nam”, Tạp chí

Nhà nước và pháp luật, số 6 (158)/2011, tr. 43
9

7


sản góp vốn là hai tài sản độc lập và thuộc về hai sản nghiệp của hai chủ thể khác
nhau.”10, thuật ngữ “phần vốn góp” chỉ tổng giá trị tài sản của một thành viên đã góp
hoặc cam kết góp vào công ty TNHH, được phân biệt rõ với khái niệm tỷ lệ phần vốn
góp là tỷ lệ giữa phần vốn góp của một thành viên và vốn điều lệ của công ty TNHH
(khoản 21 Điều 4 LDN 2014). Nhắc tới phần vốn góp là một con số tuyệt đối như
một lượng tiền mặt hoặc giá trị của tài sản quy ra tiền mà một thành viên đã góp vào
cơng ty, trong khi đó tỷ lệ vốn góp biểu hiện cho mối tương quan giữa phần vốn đã
góp của từng thành viên với tổng số vốn điều lệ, LDN 2014 đã xác định một cách
chính xác hai định nghĩa này chỉ xuất hiện trong hai loại hình doanh nghiệp là cơng
ty TNHH và cơng ty hợp danh, cịn trong các loại hình doanh nghiệp khác thì khơng
sử dụng thuật ngữ này11.
Như vậy, tất cả phần vốn góp của các thành viên hợp thành vốn điều lệ, phần
nội dung của vốn điều lệ được thể hiện bằng tài sản góp vốn của các thành viên vào
cơng ty, cịn về hình thức thì được ghi nhận trên giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp. Thành viên cơng ty khơng có quyền sở hữu với vốn này, mà chỉ có quyền
tương ứng với phần vốn góp được ghi nhận tại sổ đăng ký thành viên.
1.1.2.2 Nền tảng pháp lý cho việc định đoạt phần vốn trong công ty trách nhiệm
hữu hạn hai thành viên trở lên
Tổ chức, cá nhân khi góp vốn để thành lập doanh nghiệp đều vì mục đích lợi
nhuận, tại thời điểm góp đủ phần vốn góp theo quy định của luật, thành viên công ty
sẽ được cấp giấy chứng nhận phần vốn góp, đồng thời được ghi nhận vào sổ đăng ký
thành viên, đây là những bằng chứng thể hiện quyền sở hữu của thành viên với phần
vốn góp trong cơng ty. Các tài sản của cơng ty hình thành từ hoạt động góp vốn ln
tách bạch rõ ràng với tài sản của thành viên, sau khi góp vốn thành viên sẽ khơng cịn

quyền quyết định số phận của những tài sản đã góp mà chỉ có các quyền phát sinh
trên phần vốn góp mà mình là chủ sở hữu.
Xuất phát từ chế định tài sản theo quy định của BLDS, phần vốn góp trong cơng
ty TNHH được ghi nhận là “quyền tài sản”, một tài sản đặc biệt “quyền trị giá được
bằng tiền” (Điều 115 BLDS 2015). “Trong xã hội hiện đại, quyền sở hữu tài sản của
công dân được xác định là một dạng thức của nội dung quyền con người”12 do vậy
pháp luật dân sự đã xây dựng những quy định ghi nhận ba quyền năng cơ bản của chủ
Nguyễn Hồng Anh, “Phần vốn góp trong cơng ty có tư cách pháp nhân - tiếp cận từ góc độ pháp luật
tài sản”, truy cập ngày 15/6/2017
11 Nguyễn Thị Ánh Vân (2016), “Hoàn thiện một số quy định về vốn doanh nghiệp trong Luật Doanh
nghiệp 2014”, Tạp chí Luật học, số 11 (198)/2016, tr. 84
12 Hà Thị Mai Hiên (2011), “Bảo Đảm và bảo vệ quyền sở hữu tài sản của công dân ở Việt Nam hiện
nay”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 12 (284)/2011, tr. 73
10

8


sở hữu tài sản bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản,
theo đó quyền chiếm hữu là việc chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí
của mình để nắm giữ, chi phối tài sản của mình nhưng khơng được trái pháp luật, đạo
đức xã hội (Điều 186 BLDS 2015), quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng,
hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản (Điều 189 BLDS 2015) và quyền định đoạt là quyền
chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản
(Điều 192 BLDS 2015). Phần vốn góp gắn với mỗi thành viên nhất định, giá trị tiền
tệ của nó là yếu tố được các thành viên quan tâm nhiều hơn cả, việc định đoạt phần
vốn góp khơng chỉ đơn thuần định đoạt về giá trị trị giá được bằng tiền của phần vốn
này mà cịn quyết định ln tư cách thành viên của công ty (chuyển giao các quyền
và nghĩa vụ đi kèm với phần vốn góp đó). Điều 194 BLDS 2015 vạch ra một số hình
thức định đoạt mà chủ sở hữu tài sản có thể sử dụng như bán, trao đổi, tặng cho, cho

vay, để thừa kế, từ bỏ hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác phù hợp với quy
định của pháp luật đối với tài sản. “Về nguyên tắc, chủ sở hữu có toàn quyền định
đoạt số phận thực tế hay số phận pháp lý tài sản của mình. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp nhằm bảo đảm hài hồ giữa lợi ích của chủ sở hữu và lợi ích của Nhà
nước, lợi ích công cộng hoặc lợi ích của người khác, quyền định đoạt có thể bị hạn
chế theo những điều kiện cụ thể do pháp luật quy định”13. Từ những quy định về
quyền sở hữu tài sản được nói đến trong BLDS là đạo luật mang tính chất nền tảng
đã tạo nên cơ sở pháp lý vững chắc cho quyền định đoạt phần vốn trong công ty
TNHH hai thành viên trở lên.
Ngoài ra, theo quy định của pháp luật chuyên ngành là LDN 2014 việc sở hữu
phần vốn góp trong cơng ty TNHH hai thành viên trở lên cũng chính là cơ sở tạo nên
các quyền cho thành viên công ty. Nhà đầu tư khi chấp nhận bỏ vốn ra kinh doanh,
mạo hiểm với những rủi ro về tài chính có thể xảy ra thì cũng xứng đáng nhận lại
được những lợi ích tương đương, chính vì vậy LDN 2014 đặt ra các quy định về
“Quyền của thành viên” (Điều 50) trong đó đề cao các quyền có tính chất kinh tế như
quyền được chia lợi nhuận, quyền được ưu tiên góp thêm vốn vào cơng ty khi cơng
ty tăng vốn điều lệ, quyền được chia giá trị tài sản còn lại của cơng ty tương ứng với
phần vốn góp khi công ty giải thể hoặc phá sản, đặc biệt là quyền định đoạt phần vốn
góp.
Việc các chủ thể cùng nhau nhất trí góp vốn vào cơng ty khơng đồng nghĩa với
việc thành viên công ty sẽ luôn cố định, trong những tình huống nhất định thành viên
có thể muốn rời khỏi cơng ty và theo ngun tắc thì khi đã trở thành chủ sở hữu phần
Trần Thị Huệ, “Quyền sở hữu và quyền năng của
truy cập ngày 20/6/2017
13

9

chủ


sở

hữu”,


vốn góp họ hồn tồn được phép định đoạt phần vốn đó bằng các cách thức khác
nhau, một số cách thức định đoạt LDN 2014 đã nêu ra bao gồm: chuyển nhượng, tặng
cho, các cách khác theo quy định của pháp luật và điều lệ cơng ty. Nhìn chung, các
cách thức định đoạt phần vốn góp này cũng tương tự như các hình thức mà chủ sở
hữu tài sản có quyền thực hiện theo quy định của BLDS 2015, LDN 2014 quy định
theo hướng mở, cho phép điều lệ công ty được quy định đa dạng về cách thức định
đoạt phần vốn miễn là không trái với quy định của pháp luật, đã tạo điều kiện thuận
lợi cho các thành viên công ty nâng cao quyền tự chủ trong kinh doanh, được tự quyết
định tất cả các vấn đề, trước hết là được thống nhất các cách thức định đoạt khác nhau
đối với phần vốn góp.
1.2 Định đoạt phần vốn trong thời hạn cam kết góp vốn vào cơng ty trách
nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
Khi thành lập doanh nghiệp, các thành viên sáng lập được tự thỏa thuận với
nhau về số vốn điều lệ cũng như phần vốn góp tương ứng của mỗi người, đồng thời
có thể cam kết với nhau về tiến độ góp vốn, tuy nhiên thời hạn này không được phép
nhiều hơn thời hạn mà pháp luật cho phép, trong giai đoạn này thành viên sáng lập sẽ
có quyền sở hữu với cả phần vốn cam kết góp và phần vốn thực góp. Vấn đề đặt ra ở
đây là ngay từ định nghĩa phần vốn góp đã được xác định bao gồm phần vốn đã góp
và phần vốn cam kết góp trong khi khoản 6 Điều 50 LDN 2014 chỉ quy định chung
thành viên cơng ty có quyền định đoạt phần vốn góp của mình, vậy thành viên cơng
ty sẽ có quyền định đoạt trên phần vốn góp nào.
Một số người có quan điểm rằng phần vốn được phép định đoạt bao gồm cả
phần vốn thực góp và phần vốn cam kết góp bởi “khi ở giai đoạn cam kết, người cam
kết đã trở thành thành viên công ty một cách thực thụ như những thành viên khác dù
họ chưa đưa tài sản vào cơng ty”14 do vậy cũng có thể hiểu thành viên cam kết góp

vốn mà chưa góp đủ cũng có các quyền tương tự như thành viên đã hồn thành việc
góp vốn, hơn nữa vì thời hạn luật cho phép vẫn cịn nên nhu cầu chuyển giao quyền
góp vốn đối với phần vốn cam kết mà thành viên chưa góp đủ là có phát sinh trên
thực tế, mặt khác thành viên vẫn phải gánh chịu các trách nhiệm trong phạm vi toàn
bộ phần vốn đã cam kết đối với các nghĩa vụ phát sinh trong khoảng thời gian này15,
với lập luận dựa trên tính cơng bằng rằng “trách nhiệm gánh vác đến đâu thì quyền

Từ Thanh Thảo (2011), Những vấn đề pháp lý về vốn điều lệ công ty cổ phần, Luận văn thạc sĩ luật,
Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr. 7
15 Bùi Thị Thanh Thảo (2014), “Góp ý hoàn thiện các quy định về quyền định đoạt phần vốn góp của
thành viên cơng ty TNHH hai thành viên trở lên”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 2 (81)/2014, tr. 24
14

10


được hưởng đến đó” do đó khơng có lý do gì cấm thành viên khơng được chuyển
nhượng phần vốn cam kết góp.
Một số khác lại có quan điểm cho rằng thành viên chỉ được phép định đoạt phần
vốn đã góp, bởi các lý do sau:
Một là, mặc dù trong thời hạn chưa góp đủ phần vốn góp như đã cam kết, thành
viên vẫn có các quyền và nghĩa vụ tương ứng với tỷ lệ phần vốn như đã cam kết tuy
nhiên quyền này chỉ dừng lại ở quyền phi tài chính là quyền tham dự cuộc họp của
HĐTV và biểu quyết (khoản 2 Điều 50 LDN 2014), chứ không bao hàm các quyền
tài chính khác như quyền được chia lợi nhuận và cổ tức, quyền ưu tiên góp thêm vốn,
hay quyền định đoạt phần vốn góp, … Những quyền tài chính này chỉ được đặt ra khi
thành viên sáng lập đã hồn thành nghĩa vụ góp vốn, đây cũng là điều dễ hiểu bởi
trong thời gian chưa góp đủ vốn, các quyền kinh tế của thành viên công ty không thể
phát sinh được, theo lý giải đơn giản “có đi thì mới có lại” nghĩa là chỉ khi nào thành
viên chấp nhận mạo hiểm bỏ tài sản của mình ra để chuyển thành vốn điều lệ của

công ty TNHH hai thành viên trở lên nhằm phục vụ cho mục đích kinh doanh thì mới
có thể nhận lại các lợi ích tương ứng từ việc bỏ vốn đó, chứ khơng thể có việc bản
thân chưa bỏ một đồng nào ra kinh doanh, phần vốn góp chỉ mới tồn tại dưới hình
thức lời cam kết mà lại được phép đòi hỏi các quyền về kinh tế tương đương;
Hai là, trong khoảng thời gian không quá dài 90 ngày “sự khác biệt giữa vốn
thực góp và vốn cam kết góp cũng như những biến động về việc góp vốn trong khoảng
thời gian cam kết sẽ ít có khả năng xảy ra”16, hơn nữa pháp luật nước ngoài như nước
Pháp yêu cầu thành viên cơng ty phải nắm giữ phần vốn góp tối thiểu hai năm mới
được chuyển nhượng17 hay có thể nhận thấy ở cơng ty cổ phần LDN Việt Nam có
quy định hạn chế chuyển nhượng cổ phần phổ thông của cổ đơng sáng lập trong vịng
ba năm kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nhằm mục đích giữ
hoạt động kinh doanh bước đầu của cơng ty được ổn định, nâng cao trách nhiệm của
người sáng lập đối với cơng ty mình tạo ra, cũng tương tự như thế nếu ở công ty
TNHH hai thành viên trở lên thành viên chuyển kênh đầu tư của mình sớm như vậy
thì sẽ làm hoạt động của cơng ty chưa kịp đi vào quỹ đạo đã bị rối loạn, ảnh hưởng
đến các thành viên khác. Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 51 LDN 2014 quy định thành
viên công ty phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công
ty trong phạm vi số vốn đã góp vào cơng ty trừ hai trường hợp ngoại lệ đó là trong
khoảng thời gian 90 ngày được phép góp vốn hoặc sau thời hạn này mà thành viên
chưa góp hoặc chưa góp đủ số vốn đã cam kết thì đối với các nghĩa vụ tài chính của
16
17

Bùi Thị Thanh Thảo, tlđd (15), tr. 24
Điều L223-14 Bộ luật Thương mại Pháp năm 2006

11


công ty phát sinh trong thời gian trước ngày công ty đăng ký thay đổi vốn điều lệ và

phần vốn góp của thành viên, thành viên sẽ phải chịu trách nhiệm tương ứng với phần
vốn góp đã cam kết. LDN quy định như vậy chỉ nhằm mục đích dự liệu cho tất cả
trường hợp “ngộ nhỡ” có thể xảy ra trên thực tế, bảo vệ quyền của chủ nợ, tránh sự
gian dối trong cam kết góp vốn, thúc đẩy các nhà đầu tư tuân thủ cam kết của mình,
cho dù khơng góp đủ phần vốn đã cam kết nhưng khi vốn điều lệ đã được ghi nhận
trên giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thì họ phải có trách nhiệm với sự cam
kết đó.
Ba là, nếu đối tượng được định đoạt bao gồm cả phần vốn cam kết góp thì thành
viên chỉ có một cách thức định đoạt phần vốn cam kết đó là chuyển nhượng quyền
góp vốn của mình cho người khác mà không thể tặng cho, để thừa kế hay dùng để trả
nợ… vì phần vốn này chưa có trên thực tế. Bất cập ở đây chính là trong trường hợp
chuyển nhượng phần vốn cam kết góp sẽ gây nhiều khó khăn về thủ tục đăng ký thành
viên mới và rất dễ gây rủi ro cho người nhận chuyển nhượng, đồng thời nếu hiểu như
vậy thì thành viên sáng lập có thể lợi dụng điều này để cam kết góp vốn thật nhiều,
sau đó sử dụng phần vốn cam kết góp này chuyển nhượng cho người khác nhằm
hưởng lợi, như vậy mục đích của việc cam kết góp vốn để cùng nhau kinh doanh
không hề đạt được, ý định góp vốn của nhà đầu tư khơng có thật, cam kết góp vốn
chỉ là màn che cho ý đồ sâu xa đằng sau là kiếm lợi nhuận từ việc chuyển nhượng
phần vốn cam kết góp. Bên cạnh đó, việc có thêm thành viên mới trong trường hợp
này sẽ phá vỡ tính đối nhân trong cơng ty TNHH hai thành viên trở lên.
Một điểm nữa cần lưu ý theo quy định của BLDS trong trường hợp mua bán
quyền tài sản, bên bán phải chuyển giấy tờ và làm thủ tục chuyển quyền sở hữu cho
bên mua (khoản 1 Điều 450 BLDS 2015) mà công ty TNHH hai thành viên trở lên
chỉ cấp giấy chứng nhận phần vốn góp cho thành viên tương ứng với giá trị phần vốn
góp tại thời điểm góp đủ phần vốn góp, như vậy nếu chưa góp đủ phần vốn góp đã
cam kết thì thành viên sẽ khơng có giấy tờ để thực hiện việc chuyển nhượng phần
vốn cam kết góp, khơng thoả mãn được u cầu của pháp luật trong việc mua bán
quyền tài sản.
Từ tất cả những phân tích trên có thể thấy quan điểm thứ hai dường như hợp lý
hơn, quyền định đoạt của chủ sở hữu chỉ nên được xác lập trên phần vốn thực góp là

những gì đã hiện hữu cịn những gì chưa có thật, chưa có gì để đảm bảo như phần
vốn cam kết góp thì sẽ khơng có cơ sở để xác lập.
1.3 Chủ thể định đoạt phần vốn trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên
1.3.1 Thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
12


LDN hiện hành ghi nhận định đoạt phần vốn góp trong công ty TNHH hai thành
viên trở lên trước tiên là một quyền kinh tế cơ bản của thành viên cơng ty. Trên thực
tế có nhiều cách thức khác nhau để xác lập tư cách thành viên công ty, đơn giản nhất
chính là thơng qua hoạt động góp vốn, hoạt động này có thể thực hiện ở hai thời điểm:
một là khi thành lập công ty và hai là trong q trình cơng ty hoạt động.
Theo quy định của LDN 2014, để thành lập công ty TNHH hai thành viên trở
lên, các thành viên sáng lập phải thống nhất với nhau về phần vốn cam kết góp của
mỗi người, soạn thảo và gửi dự thảo điều lệ có tên, chữ ký của mọi thành viên cùng
các loại giấy tờ cần thiết khác cho cơ quan đăng ký kinh doanh, bản điều lệ này sẽ có
hiệu lực ngay khi cơng ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, tại thời
điểm sáng lập có một cơ chế đặc biệt đó là tư cách thành viên đã tồn tại ngay cả khi
tổ chức hoặc cá nhân chưa góp đủ số vốn cam kết tuy nhiên tư cách thành viên sẽ
đương nhiên chấm dứt sau một khoảng thời gian tối đa là 90 ngày kể từ ngày cấp giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp nếu tổ chức hoặc cá nhân đó khơng góp vốn.
Trong q trình hoạt động, tư cách thành viên cũng có thể được xác lập khi cơng
ty TNHH hai thành viên trở lên huy động vốn bằng cách tiếp nhận thêm các thành
viên mới, quyết định tăng vốn điều lệ bằng cách này phải được sự nhất trí của tất cả
các thành viên trong công ty do hệ quả của hoạt động này làm phát sinh tư cách thành
viên mới đồng thời làm thay đổi tỷ lệ phần vốn góp của các thành viên hiện hữu.
Ngồi cách thức truyền thống là góp vốn thì tư cách thành viên cơng ty TNHH
hai thành viên trở lên còn được xác lập thông qua các sự kiện như:
Cá nhân, tổ chức nhận chuyển nhượng phần vốn góp từ thành viên trong cơng

ty. Thành viên có thể sử dụng quyền kinh tế của mình để chuyển nhượng phần vốn
góp cho người khác, tuy nhiên việc chuyển nhượng này không được phép tự do thực
hiện mà phải tuân thủ các quy định nhất định của pháp luật, giá cả chuyển nhượng
phần vốn góp sẽ do các bên tự do thỏa thuận với nhau và bên nhận chuyển nhượng
sẽ có tư cách thành viên ngay khi được ghi tên vào sổ đăng ký thành viên.
Chủ thể được hưởng thừa kế phần vốn góp từ thành viên công ty. Trong trường
hợp thành viên công ty TNHH là cá nhân chết hoặc bị tòa án tuyên bố đã chết thì
người thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc của người đó đương nhiên trở thành
thành viên của công ty (khoản 1 Điều 54 LDN 2014).
Sự kiện tặng cho phần vốn góp, nếu thành viên tặng cho phần vốn góp của mình
cho vợ, chồng, cha, mẹ, con hoặc người có quan hệ đến hàng thừa kế thứ ba thì người
được tặng cho sẽ trở thành thành viên công ty, trường hợp đối tượng được tặng cho
là những người khác thì họ chỉ là thành viên cơng ty khi được HĐTV chấp thuận
(khoản 5 Điều 54 LDN 2014).
13


Trường hợp thành viên là cá nhân bị tòa án tuyên bố mất tích dẫn đến việc các
quyền và nghĩa vụ của người này trong công ty bị bỏ trống, để đảm bảo hoạt động
của cơng ty diễn ra bình thường thì người quản lý tài sản của thành viên đó theo quy
định của pháp luật về dân sự cũng trở thành thành viên của công ty, quy định này của
LDN hồn tồn hợp lý, góp phần hạn chế tình trạng thành viên bị mất tích nhưng
quyền và nghĩa vụ trong công ty của họ lại không được ai tiếp quản.
Trong xã hội, quan hệ vay nợ là một quan hệ khá phổ biến, giữa chủ nợ và người
nợ có thể tự do thỏa thận về cách thức trả nợ như sử dụng vật, tiền, giấy tờ có giá hay
bằng việc thực hiện một công việc nhất định, … miễn là không trái với quy định của
pháp luật. Đương nhiên phần vốn góp của thành viên cơng ty TNHH hai thành viên
trở lên cũng có thể trở thành cơng cụ để thanh toán nợ nếu chủ nợ đồng ý, trong
trường hợp này người nhận thanh toán nợ bằng phần vốn góp cũng có thể trở thành
thành viên khi được HĐTV chấp thuận (điểm a khoản 6 Điều 54 LDN 2014).

Như vậy, thành viên công ty với các quyền kinh tế cơ bản được quy định trong
pháp luật doanh nghiệp, chính là chủ thể đầu tiên được phép định đoạt phần vốn trong
công ty TNHH hai thành viên trở lên.
1.3.2 Những chủ thể khác không phải là thành viên công ty trách nhiệm hữu
hạn hai thành viên trở lên
Việc định đoạt phần vốn trong công ty TNHH hai thành viên trở lên có thể do
chủ thể là thành viên cơng ty cũng có thể khơng phải là thành viên cơng ty thực hiên,
bởi tư cách thành viên công ty không phải ai cũng dễ dàng có được, tính đóng trong
loại hình cơng ty này chính là rào cản trong việc tự do xác lập tư cách thành viên,
khác với công ty cổ phần, cổ đơng mới hồn tồn dễ dàng xuất hiện nhờ vào việc mua
bán cổ phần thì điều này lại bị hạn chế ở công ty TNHH hai thành viên trở lên.
Người có trong tay phần vốn góp sẽ không đương nhiên trở thành thành viên
công ty TNHH hai thành viên trở lên nhưng sẽ đương nhiên là chủ sở hữu phần vốn
góp đó. Khi đó với quyền năng của một chủ sở hữu tài sản, những người này cũng
được phép định đoạt phần vốn góp tương tự như thành viên công ty, tuy nhiên theo
quy định của LDN 2014 thì cách thức định đoạt phần vốn góp của những đối tượng
này không được đa dạng như thành viên cơng ty, họ chỉ có thể định đoạt phần vốn
góp thơng qua hình thức chuyển nhượng hoặc u cầu cơng ty mua lại phần vốn góp.
Các trường hợp chỉ xác lập được tư cách chủ sở hữu phần vốn góp mà không
đồng thời xác lập tư cách thành viên, bao gồm:
Trường hợp thừa kế phần vốn góp, nhưng người nhận thừa kế lại không muốn
trở thành thành viên công ty. Theo quy định của luật, kể từ thời điểm mở thừa kế chủ

14


thể nhận thừa kế có quyền lựa chọn việc có trở thành thành viên hay không và khi
không muốn trở thành thành viên, họ sẽ có quyền định đoạt đối với phần vốn góp đó.
Người được tặng cho phần vốn góp khơng được HĐTV chấp thuận làm thành
viên hoặc khơng muốn trở thành thành viên công ty TNHH hai thành viên trở lên.

Trường hợp người nhận thanh toán nợ bằng phần vốn góp mà khơng được
HĐTV chấp thuận làm thành viên hoặc họ không muốn trở thành thành viên công ty,
trong trường hợp này chủ thể nhận thanh toán nợ chỉ có thể lựa chọn giải pháp chuyển
nhượng theo quy định tại Điều 53 LDN 2014 để định đoạt phần vốn góp của mình.
Như vậy, mặc dù khơng phải là thành viên trong công ty TNHH hai thành viên
trở lên nhưng các tổ chức, cá nhân thông qua việc nhận tặng cho phần vốn góp, nhận
thừa kế hay nhận trả nợ bằng phần vốn góp để tạo lập tư cách chủ sở hữu nhờ đó họ
đương nhiên sẽ có quyền định đoạt tài sản là phần vốn góp của mình.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Công ty TNHH hai thành viên trở lên là mơ hình doanh nghiệp với nhiều chủ
sở hữu phổ biến nhất ở nước ta hiện nay do vừa mang đặc điểm của công ty đối vốn
vừa mang đặc điểm của công ty đối nhân, mọi vấn đề liên quan đến loại hình cơng ty
này đều nhận được rất nhiều sự quan tâm của các nhà đầu tư. Định đoạt phần vốn
trong công ty TNHH hai thành viên trở lên là một chế định của pháp luật, cho phép
các chủ sở hữu phần vốn góp được phép quyết định số phận của loại tài sản này thông
qua một số cách thức nhất định như chuyển nhượng, tặng cho, để thừa kế, hay trả nợ
bằng phần vốn góp, ...
Chủ sở hữu phần vốn góp có thể là thành viên hoặc khơng phải là thành viên
công ty TNHH hai thành viên trở lên, cách thức để trở thành thành viên được LDN
quy định rất đa dạng. Ngoài ra, với những trường hợp thiết lập quyền sở hữu đối với
phần vốn góp thơng qua các sự kiện thừa kế, tặng cho hay nhận trả nợ bằng phần vốn
góp mặc dù chưa nhận được, không nhận được hoặc từ chối tư cách thành viên song
với quyền năng chung của chủ sở hữu tài sản hợp pháp thì họ cũng có quyền định
đoạt phần vốn góp tương tự như thành viên cơng ty.
Thơng qua việc nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về định đoạt phần vốn
trong công ty TNHH hai thành viên trở lên đã tạo nền tảng giúp tác giả nghiên cứu kĩ
hơn về bản chất của các quy định định đoạt phần vốn góp qua đó tìm ra những điểm
thiếu sót còn tồn tại trong LDN 2014 đồng thời đánh giá tình hình thực tiễn và đưa ra
các kiến nghị hồn thiện pháp luật được trình bày ở chương 2.


15


CHƯƠNG 2. CÁC CÁCH THỨC ĐỊNH ĐOẠT PHẦN VỐN TRONG
CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN HAI THÀNH VIÊN TRỞ LÊN
THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2014 VÀ ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN
2.1 Quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 về định đoạt phần vốn trong
công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
LDN 2014 được Quốc hội ban hành thay thế cho LDN 2005 được ví như “một
bước đột phá về thể chế”18, có tác động tích cực đến mơi trường kinh doanh ở Việt
Nam, tạo thuận lợi tối đa cho quyền tự do kinh doanh của công dân và doanh nghiệp
đúng với tinh thần của Hiến pháp 2013. Đạo luật này với nhiều cải cách mang dấu ấn
nổi bật, góp phần khắc phục được những vấn đề bất cập tồn tại trong quá trình hơn
mười năm thực hiện của LDN 2005, một số sửa đổi quan trọng về các quy định liên
quan đến định đoạt phần vốn trong công ty TNHH hai thành viên trở lên có thể kể
đến như:
Quy định về chuyển nhượng phần vốn góp trong cơng ty TNHH hai thành viên
trở lên đã hoàn thiện hơn rất nhiều, ý tưởng của các nhà làm luật khi xây dựng quy
định u cầu thành viên cơng ty có ý định chuyển nhượng phần vốn góp của mình
phải dành quyền ưu tiên mua trước cho các thành viên còn lại nhằm đảm bảo tính đối
nhân, tránh sự xuất hiện của người hồn tồn xa lạ trong cơng ty rất hợp lý và xứng
đáng được ghi nhận. Quy định tại Điều 44 LDN 2005 mới chỉ dừng lại ở việc bắt
buộc chào bán cùng điều kiện cho các thành viên còn lại, đảm bảo được sự công bằng
giữa các thành viên công ty nhưng lại bỏ quên việc thiết lập sự công bằng trong mối
tương quan giữa thành viên công ty và chủ thể không phải là thành viên công ty, làm
cho quy định này mất đi ý nghĩa nếu thành viên chuyển nhượng áp dụng điều kiện
chào bán khắt khe hơn cho thành viên còn lại, LDN 2014 đã khắc phục thiếu sót kể
trên bằng việc thiết lập sự cơng bằng về điều kiện chào bán giữa những người là thành
viên công ty và những người không phải là thành viên công ty (Điều 53). Như vậy
“bằng việc bổ sung thêm điều kiện chuyển nhượng cho người bên ngồi cơng ty, LDN

2014 đã xác định được cả điều kiện cần và đủ để đảm bảo thành viên của công ty
TNHH hai thành viên trở lên thực sự được hưởng quyền ưu tiên mua trước phần vốn
góp”19.
Ngồi ra, LDN 2014 đã giải quyết được vướng mắc về quy định tặng cho phần
vốn góp trong cơng ty TNHH hai thành viên trở lên, trước đây khoản 5 Điều 45 LDN
2005 giới hạn người được tặng cho là người có cùng huyết thống đến thế hệ thứ ba
Lưu Thị Tuyết, Vũ Thị Thu Trang (2016), “Cơng ty trách nhiệm hữu hạn nhìn từ góc độ Luật Doanh
nghiệp năm 2014”, Tạp chí Thanh tra, số 3/2016, tr. 25
19 Nguyễn Thị Ánh Vân, tlđd (11), tr. 88
18

16


thì mới đương nhiên là thành viên của cơng ty, trường hợp người được tặng cho là
người khác thì họ chỉ trở thành thành viên của công ty khi được HĐTV chấp thuận,
như vậy các chủ thể nhận tặng cho phần vốn góp mặc dù khơng cùng huyết thống
như vợ, chồng, con nuôi, cha nuôi, mẹ nuôi nhưng vốn là những người gắn bó, thân
thiết hơn với thành viên cơng ty thì cũng khơng đương nhiên được xác lập tư cách
thành viên, khiến cho quy định này trở nên rất vơ lý và khơng có lời giải thích thỏa
đáng nào cho sự phân biệt đối xử đó của pháp luật. Trên thực tế nhu cầu của các chủ
thể là vợ, chồng, con nuôi, cha nuôi, mẹ nuôi mong đợi nhận được tư cách thành viên
của công ty TNHH hai thành viên trở lên khi được tặng cho tài sản là phần vốn góp
hồn tồn có và rất chính đáng. Nếu pháp luật đã quy định người có cùng huyết thống
đến thế hệ thứ ba mà được thành viên tặng cho phần vốn góp đương nhiên là thành
viên của cơng ty nhưng lại loại trừ các đối tượng vừa nhắc đến ở trên thì sẽ gây tâm
lý bất mãn cho chủ sở hữu phần vốn góp, khoản 5 Điều 54 LDN 2014 đã giải quyết
nguyện vọng chính đáng này khi bổ sung thêm trường hợp người được tặng cho là
vợ, chồng, cha, mẹ, con, người có quan hệ họ hàng đến hàng thừa kế thứ ba thì đương
nhiên là thành viên của cơng ty, bên cạnh đó cách diễn đạt “người có quan hệ họ hàng

đến hàng thừa kế thứ ba” thay vì “người có cùng huyết thống đến thế hệ thứ ba”, với
cùng ý nghĩa thể hiện nhưng từ ngữ sử dụng trong LDN 2014 dường như chuẩn mực
hơn, tương đồng với các thuật ngữ pháp lý được dùng trong BLDS 2015.
Bên cạnh những quy định mang tính hồn thiện hơn thì LDN 2014 vẫn cịn tồn
tại một số bất cập về vấn đề định đoạt phần vốn trong công ty TNHH hai thành viên
trở lên mà các nhà làm luật cần phải nghiên cứu hoàn thiện thêm:
Một là, LDN 2014 quy định theo hướng mở về các cách thức định đoạt phần
vốn góp nhưng chỉ mới cụ thể hóa một số trường hợp định đoạt phần vốn góp như
chuyển nhượng, tặng cho, để thừa kế hay trả nợ bằng phần vốn góp, cịn các trường
hợp khác có khả năng phát sinh trên thực tế LDN vẫn chưa quy định, ví dụ hoạt động
thế chấp, bảo lãnh bằng phần vốn góp vẫn chưa có cơ sở pháp lý vững chắc để các
chủ thể yên tâm tiến hành các giao dịch này một cách rộng rãi, đó chính là lý do vì
sao “tại nhiều nước trên thế giới (Anh, Pháp…) phần vốn góp được sử dụng phổ biến
như một tài sản bảo đảm trong khi đó tại Việt Nam, bên nhận bảo đảm trong đó có
các ngân hàng thường khơng chấp nhận giao dịch bảo đảm này”20, ngồi ra nhu cầu
góp vốn vào cơng ty khác bằng phần vốn góp cũng xuất hiện nhiều trên thực tế bởi
LDN 2014 không giới hạn loại tài sản góp vốn miễn là tài sản đó có thể định giá bằng
Đồng Việt Nam thì đều có thể sử dụng để góp vốn vào doanh nghiệp (khoản 1 Điều
Bùi Đức Giang (2011), “Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ bằng phần vốn góp trong cơng ty trách
nhiệm hữu hạn tại ngân hàng thương mại”, Tạp chí Ngân hàng, số 22/2011, tr. 45
20

17


35), do vậy với tính chất trị giá được bằng tiền phần vốn góp hồn tồn có thể sử
dụng làm tài sản góp vốn, tuy nhiên trên thực tế khi nộp hồ sơ xin cấp hoặc sửa đổi
giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, một số cơ quan cấp phép khơng chấp nhận
việc góp vốn bằng loại tài sản này21. Việc định đoạt phần vốn góp bằng những cách
thức chưa được LDN 2014 quy định rõ ràng sẽ gây khó khăn cho chủ sở hữu phần

vốn góp trong cơng ty TNHH hai thành viên khi tiến hành các thủ tục cụ thể tại cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, đồng thời tư cách thành viên công ty mà chủ thể nhận
tài sản bảo đảm là phần vốn góp hay doanh nghiệp nhận góp vốn bằng phần vốn góp
có được đương nhiên chuyển giao kèm theo với phần vốn góp hay không và nếu
những chủ thể này không xác lập được tư cách thành viên thì sẽ có những quyền năng
gì trên phần vốn góp đó, đến bây giờ những vấn đề này vẫn còn là dấu chấm hỏi.
Hai là, LDN 2014 vẫn còn mắc lỗi diễn đạt, điều luật này mâu thuẫn với điều
luật khác hay sự mâu thuẫn tồn tại trong chính nội tại của một điều luật khi khoản
này đá khoản kia. Ngôn từ trong Điều 53 LDN 2014 vẫn chưa rõ ràng, cụ thể khoản
6 Điều 54 quy định trường hợp thành viên sử dụng phần vốn góp để trả nợ thì người
nhận thanh tốn có quyền chào bán và chuyển nhượng phần vốn góp nhưng phải tuân
theo quy định tại Điều 53, trong khi khoản 1 Điều 53 lại loại trừ khoản 6 Điều 54.
Bên cạnh đó, quy định về vấn đề mua lại phần vốn góp tại Điều 52 LDN 2014 vẫn
chưa đưa ra câu trả lời chính xác về việc cơng ty phải có nghĩa vụ mua lại phần vốn
góp hay khơng, từ ngữ được sử dụng ở điều luật này dường như đã không được các
nhà làm luật trau chuốt cẩn thận, khi so sánh cách diễn đạt ở khoản 2 và khoản 3 Điều
52 có thể hiểu theo hai hướng mua lại phần vốn góp có thể là nghĩa vụ nhưng cũng
có thể không phải là nghĩa vụ, những vấn đề này sẽ được tác giả trình bày chi tiết hơn
ở mục 2.2 phía dưới.
Ba là, một số quy định khó lý giải tại sao nhà làm luật lại có sự phân biệt giữa
các trường hợp có cùng mục đích hướng tới giống nhau nhưng lại được xử lý theo
các hướng khác nhau. Trường hợp người thừa kế không muốn trở thành thành viên,
người được tặng cho không được HĐTV chấp nhận làm thành viên thì bắt buộc khi
chuyển nhượng phải tuân thủ Điều 53 về chào bán cho các thành viên cịn lại trước
sau đó mới đến người ngồi, trong khi đó trường hợp người khơng được cơng ty mua
lại phần vốn góp (khoản 3 Điều 52) lại khơng cần phải tuân thủ quy định chuyển
nhượng phần vốn góp ở Điều 53, điều này dẫn đến hệ quả tính đối nhân của công ty
TNHH hai thành viên trở lên không được bảo vệ trọn vẹn hay việc người nhận thanh
toán nợ bằng phần vốn góp khơng được định đoạt phần vốn góp bằng cách yêu cầu
Trương Nhật Quang (2016), Pháp luật về Doanh nghiệp: Các vấn đề pháp lý cơ bản, Nhà xuất bản Dân

trí, tr. 447
21

18


công ty mua lại như trường hợp người nhận thừa kế và nhận tặng cho cũng cho thấy
LDN 2014 đã không công bằng khi quy định các cách thức xử lý khác nhau dành cho
các chủ thể đều ở địa vị là chủ sở hữu phần vốn góp.
Bốn là, luật đã vơ hiệu hóa tính đóng của cơng ty TNHH hai thành viên trở lên
khi quy định các trường hợp đương nhiên trở thành thành viên công ty mà không cần
có sự chấp nhận của HĐTV. Tính đối vốn khơng phải là đặc điểm duy nhất thu hút
các nhà đầu tư lựa chọn loại hình cơng ty TNHH hai thành viên trở lên, tính đối nhân
cũng được họ đề cao khơng kém bởi “các thành viên của mơ hình cơng ty này thường
có mối quan hệ với nhau về nhân thân: có thể là người trong dịng họ, gia đình hay
bạn bè thân thiết ở mức độ có thể tin cậy và chia sẻ”22, sẽ ra sao nếu có sự xuất hiện
của một người lạ trong công ty mà các thành viên khác không hề ưng ý nhưng vẫn
phải chấp nhận tư cách thành viên mặc nhiên của họ. Ở công ty TNHH hai thành viên
trở lên, tất cả các thành viên hợp thành HĐTV và quyết định những vấn đề quan trọng
của công ty do vậy khi một mắt xích trong HĐTV bị khớp với những người cịn lại
sẽ dễ dàng làm cho hoạt động của công ty bị xáo trộn, có thể nhận thấy nếu như LDN
chặt chẽ với trường hợp chuyển nhượng phần vốn góp của thành viên bao nhiêu thì
lại ưu ái trong trường hợp để thừa kế và tặng cho phần vốn góp bấy nhiêu, những
người được thừa kế phần vốn góp hoặc người được thành viên cơng ty tặng cho phần
vốn góp mà là cha, mẹ, con, người có quan hệ họ hàng đến hàng thừa kế thứ ba thì sẽ
đương nhiên được xác lập tư cách thành thành viên mà khơng cần có sự chấp thuận
của HĐTV. Các nhà làm luật khi đưa ra quy định này đã không quan tâm đến việc
liệu những chủ thể này có thực sự phù hợp và đủ điều kiện trở thành thành viên hoặc
sự góp mặt của họ có làm ảnh hưởng gì đến hoạt động của công ty hay không. Hơn
thế nữa, LDN 2014 vẫn rất khắt khe với các trường hợp khác, như người được tặng

cho mà không thuộc trường hợp đương nhiên làm thành viên, người được trả nợ bằng
phần vốn góp dù họ có chun mơn, am hiểu về cơng ty, thích hợp trở thành thành
viên thì vẫn cần được HĐTV chấp thuận, trong khi trường hợp đương nhiên trở thành
thành viên cho dù có khơng phù hợp, tệ hơn nữa là việc họ tham gia vào nội bộ cơng
ty có thể làm tình trạng cơng ty xấu đi thì HĐTV lại không được quyền can thiệp.
Nếu chỉ căn cứ vào mối quan hệ thân tình, gần gũi giữa thành viên với người nhận
thừa kế, nhận tặng cho hay nguyện vọng của những chủ thể này mong muốn được
nhận cả giá trị phần vốn góp lẫn tư cách thành viên để lý giải cho việc pháp luật ưu
ái cho họ được đương nhiên trở thành thành viên cơng ty có vẻ sẽ khó làm hài lịng

22

Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (năm học 2008-2009), Tập bài giảng Chủ thể kinh doanh, tr. 63

19


×