Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Cơ chế giám sát hoạt động của doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 72 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
----------

HUỲNH QUANG THUẬN

CƠ CHẾ GIÁM SÁT
HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP THEO
LUẬT DOANH NGHIỆP 2005

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Thƣơng mại

TP HCM – 2012


TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
-------------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

CƠ CHẾ GIÁM SÁT
HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP
THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2005

SINH VIÊN THỰC HIỆN:

HUỲNH QUANG THUẬN


Khoá: 33

MSSV: 0855010205

GIÁO VIÊN HƢỚNG DẪN: Th.S. ĐẶNG QUỐC CHƢƠNG

TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2012


LỜI CAM ĐOAN


Em xin cam đoan khóa luận này là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng
em dƣới sự hƣớng dẫn chuyên môn của Thạc sỹ Đặng Quốc Chƣơng. Tồn bộ nội
dung đƣợc trình bày trong khóa luận là kết quả của q trình nghiên cứu độc lập do
chính em thực hiện. Mọi sự tham thảo từ các nguồn tài liệu đều đƣợc trích dẫn cụ
thể, rõ ràng.
Em xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về những nội dung cam đoan trên đây.
Tác giả

Huỳnh Quang Thuận


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

1. BKS: Ban kiểm soát.
2. CTCP: Công ty cổ phần.
3. DNTN: Doanh nghiệp tƣ nhân.
4. ĐHĐCĐ: Đại hội đồng cổ đông.
5. GĐ/TGĐ: Giám đốc hoặc Tổng giám đốc.

6. HĐQT: Hội đồng quản trị.
7. HĐTV: Hội đồng thành viên.
8. KSV: Kiểm soát viên.
9. LDN 1999: Luật Doanh Nghiệp 1999.
10. LDN 2005: Luật Doanh Nghiệp 2005.
11. TNHH: Trách nhiệm hữu hạn.


MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................... 01
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP VÀ CƠ CHẾ GIÁM
SÁT HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP ...................................................... 04
1.1. Khái luận chung về doanh nghiệp ................................................................. 04
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển các mơ hình doanh nghiệp ở Việt Nam ... 04
1.1.2. Khái niệm doanh nghiệp.............................................................................. 07
1.1.3. Đặc điểm của doanh nghiệp ........................................................................ 08
1.1.4. Các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam theo LDN 2005 ........................... 11
1.2. Khái luận chung về cơ chế giám sát hoạt động doanh nghiệp .................... 16
1.2.1. Khái niệm cơ chế giám sát hoạt động doanh nghiệp ................................... 16
1.2.2. Đặc điểm của cơ chế giám sát doanh nghiệp .............................................. 19
1.2.3. Vai trò của cơ chế giám sát hoạt động của doanh nghiệp ........................... 21
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ....................................................................................... 24
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ ĐỊNH HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ CƠ CHẾ GIÁM SÁT HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP
THEO LDN 2005. ................................................................................................... 25
2.1. Cơ chế giám sát hoạt động công ty cổ phần .................................................. 25
2.1.1. Giám sát của cổ đông đối với hoạt động của CTCP ................................... 25
2.1.1.1. Quyền của cổ đông đối với ĐHĐCĐ ................................................. 25

2.1.1.2. Quyền yêu cầu cung cấp thông tin ..................................................... 29
2.1.1.3. Quyền yêu cầu BKS kiểm tra từng vấn đề cụ thể liên quan đến quản
lý, điều hành hoạt động của công ty ............................................................... 30
2.1.1.4. Quyền đề cử ngƣời vào HĐQT, BKS ................................................ 30
2.1.2. Giám sát của BKS đối với hoạt động của CTCP ........................................ 31
2.1.2.1. Tính độc lập của BKS trong CTCP ................................................... 32
2.1.2.2. Giám sát của BKS đối với các hoạt động của các chủ thể quản lý
trong công ty ................................................................................................... 33
2.1.3. Giám sát của HĐQT đối với hoạt động của doanh nghiệp ......................... 38


2.2. Cơ chế giám sát hoạt động của công ty TNHH hai thành viên ................... 39
2.2.1. Hoạt động giám sát của thành viên ............................................................. 39
2.2.1.1. Quyền tham dự họp HĐTV, thảo luận, kiến nghị, biểu quyết các vấn
đề thuộc thẩm quyền của HĐTV .................................................................... 40
2.2.1.2. Quyền yêu cầu triệu tập HĐTV ......................................................... 41
2.2.1.3. Quyền yêu cầu cung cấp thông tin ..................................................... 42
2.2.1.4 Quyền khiếu nại hoặc khởi kiện ......................................................... 42
2.2.2. Hoạt động giám sát của chủ tịch HĐTV ..................................................... 44
2.2.3. Hoạt động giám sát của BKS ...................................................................... 45
2.3. Cơ chế giám sát hoạt động của công ty TNHH một thành viên ................. 46
2.3.1. Cơ chế giám sát hoạt động của công ty TNHH một thành viên là tổ chức . 46
2.3.1.1. Hoạt động giám sát của chủ sở hữu ................................................... 46
2.3.1.2. Hoạt động giám sát của kiểm soát viên ............................................. 48
2.3.1.3. Hoạt động giám sát của các chủ thể khác.......................................... 49
2.3.2. Cơ chế giám sát hoạt động công ty TNHH một thành viên là cá nhân ....... 50
2.4. Cơ chế giám sát hoạt động của công ty hợp danh ........................................ 50
2.4.2. Hoạt động giám sát của thành viên hợp danh ............................................. 51
2.4.2. Hoạt động giám sát của thành viên góp vốn ............................................... 53
2.5. Cơ chế giám sát hoạt động của Doanh nghiệp tƣ nhân ............................... 55

2.6. Kiểm soát giao dịch tƣ lợi trong công ty theo LDN 2005 ............................ 55
2.6.1. Giám sát giao dịch tƣ lợi trong nội bộ công ty ............................................ 56
2.6.2. Nhà nƣớc kiểm soát giao dịch tƣ lợi ........................................................... 58
2.7. Định hƣớng hoàn thiện pháp luật về cơ chế giám sát hoạt động của doanh
nghiệp theo Luật Doanh nghiệp 2005 ................................................................... 60
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ....................................................................................... 62

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 63


1

LỜI MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài:
Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nƣớc ta đang tiến những bƣớc
vững chắc trên con đƣờng phát triển nền kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng xã hội
chủ nghĩa. Cùng với sự đổi mới đó, ngày càng có nhiều doanh nghiệp với sự đa
dạng về loại hình xuất hiện và đi vào hoạt động. Để đảm bảo một khung pháp lý
hoàn chỉnh cho hoạt động của doanh nghiệp, LDN 2005 đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Khóa XI, kỳ họp thứ 8 thơng qua ngày 29/11/2005
để thay thế cho LDN 1999. LDN 2005 ra đời đã đánh dấu một bƣớc tiến quan trọng,
một sự thay đổi lớn trong pháp luật doanh nghiệp Việt Nam, qua đó hình thành một
khung pháp lý thống nhất, bình đẳng, áp dụng chung cho mọi loại hình doanh
nghiệp. Với 172 Điều, LDN 2005 đã quy định chi tiết về cách thức thành lập, cơ
cấu tổ chức quản lý điều hành, quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp… trong đó có
đề cập tới cơ chế giám sát hoạt động của doanh nghiệp. Cơ chế giám sát hoạt động
của doanh nghiệp đƣợc LDN 2005 quy định tƣơng đối cụ thể về đối tƣợng giám sát,
chủ thể giám sát cũng nhƣ vị trí, vai trị, nhiệm vụ của mỗi chủ thể nhất định trong

từng loại hình doanh nghiệp. Tuy nhiên, khi đi vào thực tiễn, LDN 2005 đã dần dần
bộc lộ một số hạn chế, bất cập, thiếu sót, do đó chƣa thật sự điều chỉnh một cách
toàn diện, hiệu quả nhất đối với cơ chế giám sát hoạt động của doanh nghiệp.
Mặt khác, số lƣợng doanh nghiệp trên thị trƣờng Việt Nam trong những
năm gần đây liên tục tăng mạnh. Tính đến 31/12/2011, cả nƣớc đã có khoảng
605.971 doanh nghiệp đăng ký hoạt động theo Luật Doanh nghiệp1, riêng ở địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh, trong những tháng đầu năm 2012, số lƣợng doanh nghiệp
đã lên tới gần 150.000 doanh nghiệp2. Việc mở cửa hội nhập vào nền kinh tế thế
giới của nƣớc ta đã mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp trong nƣớc đƣợc tự do lựa
chọn mơ hình kinh doanh, cơ cấu tổ chức cũng nhƣ phƣơng hƣớng hoạt động của
mình, đồng thời đƣợc tiếp cận với nhiều điều kiện thuận lợi hơn cho việc phát triển.
Nhƣng cùng với đó, các doanh nghiệp cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn mà
điển hình là sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của các đối thủ để tranh giành thị
trƣờng. Do đó, các doanh nghiệp phải ln ln vận động đổi mới, hồn thiện mình,
đồng thời xây dựng một cơ cấu quản trị hiệu quả, một cơ chế giám sát linh động
phù hợp tính thị trƣờng và trong khn khổ pháp luật cho phép nhằm khẳng định
mình trong một mơi trƣờng đầy tính cạnh tranh. Đối với mỗi doanh nghiệp, việc
vạch ra đƣờng lối phát triển kinh doanh để làm thể nào thu đƣợc nhiều lợi nhuận
cùng với việc xây dựng một bộ máy quản lý công ty năng lực, chuyên nghiệp là rất
cần thiết, tuy nhiên không thể xem nhẹ việc thiết lập một cơ chế giám sát hiệu quả
1
2

/> />

2

trong doanh nghiệp. Xây dựng một cơ chế giám sát hiệu quả khơng những giúp
doanh nghiệp có một cơ cấu quản trị hiện đại, bảo vệ tốt quyền lợi của các nhà đầu
tƣ mà còn giúp cho Nhà nƣớc thực hiện tốt chức năng quản lý xã hội, góp phần thúc

đẩy sự phát triển của kinh tế đất nƣớc. Chính vì thế, các doanh nghiệp ln cần một
hành lang pháp lý hồn thiện, vững chắc mà có thể dựa vào đó xây dựng đƣợc một
cơ chế giám sát hoạt động phù hợp với bản thân doanh nghiệp và nền kinh tế thị
trƣờng.
Nhận thức đƣợc vai trò quan trọng của cơ chế giám sát trong bối cảnh kinh
tế hiện nay đối với doanh nghiệp cũng nhƣ các chủ thể khác có liên quan, dƣới góc
độ pháp lý, ngƣời viết muốn đi sâu vào phân tích, chỉ ra những ƣu và nhƣợc điểm
trong các quy định về cơ chế giám sát hoạt động của doanh nghiệp trong LDN
2005, qua đó đánh giá thực trạng và đƣa ra một số kiến nghị về mặt pháp luật nhằm
làm hoàn thiện cơ chế giám sát hoạt động của doanh nghiệp. Chính vì những lý do
nhƣ trên, ngƣời viết chọn vấn đề “Cơ chế giám sát hoạt động của doanh nghiệp theo
Luật Doanh nghiệp 2005” làm đề tài nghiên cứu trong khóa luận tốt nghiệp Cử nhân
Luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu:
Hiện nay đã có một số cơng trình nghiên cứu có liên quan đến cơ chế giám
sát hoạt động của doanh nghiệp nhƣ: Châu Quốc An (2006), Chế độ pháp lý về
quản trị công ty theo Luật Doanh nghiệp, Luận văn cao học Luật, Trƣờng đại học
Luật thành phố HCM; Hoàng Thị Thu Hằng (2010), Cơ chế giám sát hoạt động
quản lý trong Công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp ở Việt Nam, Luận văn thạc
sỹ học, Trƣờng đại học Luật thành phố HCM; Đồn Mạnh Quỳnh (2010), Pháp luật
về Ban kiểm sốt trong Công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm
2005, Luận văn thạc sỹ Luật học, Đại học luật thành phố HCM; Đinh Thị Thúy
Hồng (2009), Cơ chế giám sát hoạt động trong Công ty cổ phần theo Luật Doanh
nghiệp 2005, Luận văn cử nhân Luật, Trƣờng đại học Luật thành phố HCM….
Bên cạnh đó cũng có nhiều bài báo, tạp chí có đề cập tới cơ chế giám sát
hoạt động của doanh nghiệp nhƣ: Bùi Xuân Hải (2011), “Vấn đề huỷ bỏ quyết định
của Đại hội đồng cổ đông theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam”, Nghiên cứu lập
pháp, (2+3), tr. 114 – 119; Bùi Xuân Hải (2009), “Bảo vệ cổ đông: Mấy vấn đề lý
luận và thực tiễn trong Luật Doanh nghiệp 2005”, Khoa học pháp lý, (01), tr. 23-24;
Lê Đình Vinh (2004), “Kiểm sốt các giao dịch tƣ lợi trong công ty theo Luật

Doanh nghiệp”, Luật học, (01), tr. 54-58….
Nhƣ vậy, thông qua những phân tích về tình hình nghiên cứu, có thể thấy
vấn đề cơ chế giám sát hoạt động của doanh nghiệp hầu nhƣ chƣa đƣợc khai thác
trong tƣ cách một đối tƣợng độc lập. Các cơng trình nghiên cứu đa phần chỉ đề cập
tới một bộ phận của cơ chế giám sát hoạt động doanh nghiệp, mà chủ yếu là tập
trung vào cơ chế giám sát hoạt động của CTCP. Vì thế, nguồn tƣ liệu cần thiết cho


3

q trình nghiên cứu của ngƣời viết cũng khơng nhiều. Đây là khó khăn nhƣng mặt
khác cũng là động lực thúc đẩy ngƣời viết thực hiện khóa luận này.
3. Đối tƣợng nghiên cứu:
LDN 2005 đã có những quy định nhằm cố gắng xây dựng một quy chế pháp
lý cho việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các loại hình doanh nghiệp.
Trên cơ sở các quy định pháp lý của LDN 2005, ngƣời viết tập trung nghiên cứu các
quy định về cơ chế giám sát hoạt động của doanh nghiệp. Trong đó, ngƣời viết tập
trung phân tích khái niệm, đặc điểm, vai trò của cơ chế giám sát hoạt động doanh
nghiệp và cơ chế giám sát của từng loại hình doanh nghiệp cụ thể theo LDN 2005.
Từ đó, ngƣời viết sẽ phân tích thực trạng của việc thực hiện các quy định pháp luật
về cơ chế giám sát, đồng thời kiến nghị một số biện pháp nhằm hồn thiện nhũng
quy định đó.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Hiện nay, doanh nghiệp hoạt động trong nƣớc chịu sự điều chỉnh trực tiếp
của LDN 2005. Ngoài ra, tùy thuộc vào các hình thức kinh doanh, doanh nghiệp
cịn chịu sự điều chỉnh của một số văn bản pháp luật khác nhƣ: Luật ngân hàng,
Luật chứng khốn, Luật đầu tƣ…. Bên cạnh đó, hoạt động của doanh nghiệp còn
phải tuân theo những quy định trong Điều lệ công ty, quy chế nội bộ công ty. Tuy
nhiên, trong phạm vi của luận văn này, ngƣời viết chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề
cơ chế giám sát hoạt động của doanh nghiệp theo các quy định của LDN 2005.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu đề tài của mình, ngƣời viết sử dụng phƣơng
pháp triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê Nin,
kết hợp với các phƣơng pháp phân tích, so sánh, đối chiếu, tổng hợp dựa trên cơ sở
các văn bản pháp luật của Nhà nƣớc, các văn bản hƣớng dẫn thi hành, các tài liệu
tổng kết thực tiễn và các tài liệu khoa học pháp lý để giải quyết vấn đề mà đề tài đã
đặt ra.
6. Cơ cấu khóa luận:
Khóa luận cử nhân Luật “Cơ chế giám sát hoạt động của doanh nghiệp theo
Luật Doanh nghiệp 2005” của ngƣời viết ngoài mục lục, lời nói đầu, kết luận, danh
mục tài liệu thì nội dung chính bao gồm hai chƣơng:
Chƣơng 1: Lý luận chung về doanh nghiệp và cơ chế giám sát hoạt động của
doanh nghiệp.
Chƣơng 2: Thực trạng và định hƣớng hoàn thiện pháp luật về cơ chế giám
sát hoạt động của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp 2005.


4

NỘI DUNG


CHƢƠNG 1:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP VÀ CƠ CHẾ GIÁM SÁT HOẠT
ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP
1.1.
Khái luận chung về doanh nghiệp:
1.1.1.
Lịch sử hình thành và phát triển các mơ hình doanh
nghiệp Việt Nam:

Ở Việt Nam, một đạo luật chính thức làm tiền đề cho sự xuất hiện và phát
triển của các loại hình doanh nghiệp ra đời tƣơng đối muộn. Sở dĩ nhƣ vậy là vì
nƣớc ta tồn tại nền kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp trong một thời gian dài, các
hoạt động thƣơng mại chỉ diễn ra một cách manh mún trong một số bộ phận của xã
hội. Bên cạnh đó, nƣớc ta phải trải qua hai cuộc chiến tranh chống lại thực dân Pháp
và đế quốc Mĩ để giành lại độc lập dân tộc, đất nƣớc bị chia cắt thành hai miền Nam
Bắc trong suốt thời kỳ kháng chiến làm ảnh hƣởng rất lớn đến hoạt động thƣơng
mại cũng nhƣ sự hình thành và phát triển của các đạo luật về doanh nghiệp. Chính
vì sự thăng trầm lịch sử nhƣ vậy mà doanh nghiệp Việt Nam cũng trải qua nhiều
giai đoạn trong quá trình hình thành và phát triển của mình.
Trong suốt thời kỳ phong kiến, với chế độ quân chủ chuyên chế độc quyền
cùng với nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, hầu nhƣ khơng có một hình thức doanh
nghiệp nào tồn tại trong các quy định của pháp luật ở nƣớc ta. Các hoạt động
thƣơng mại nhỏ lẻ đƣợc tiến hành chủ yếu bởi các chủ thể có địa vị xã hội cao và
đƣợc điều chỉnh bởi các thông lệ thƣơng mại.
Trong thời kỳ bị thực dân Pháp đô hộ, ở nƣớc ta đã xuất hiện các loại hình
doanh nghiệp dƣới hình thức hội bn – những hình thức cơng ty đơn giản và chịu
sự điều chỉnh của Bộ luật thƣơng mại Pháp.
Năm 1931, Tòa Nam án Bắc Kỳ đã thi hành bộ Dân luật, trong đó có quy
định về cơng ty (hội bn). Theo đó, hội bn đƣợc chia thành 2 loại là hội ngƣời
và hội vốn, qua đó hình thành nên các loại hình cơng ty nhƣ cơng ty hợp danh (hội
hợp danh), công ty hợp vốn đơn giản (hội hợp tƣ), công ty nặc danh (hội đồng lợi),
CTCP (hội vô danh) và công ty hợp vốn cổ phần đơn giản (hội hợp cổ). Giai đoạn
này chƣa xuất hiện hình thức công ty TNHH.3
Năm 1942, Bộ luật Thƣơng mại Trung phần áp dụng ở Trung kỳ do chính
quyền Bảo Đại ban hành cũng đề cập đến các loại hình doanh nghiệp nhƣ trong bộ
Dân luật đƣợc thi hành tại các Tòa án Bắc kỳ năm 1931.
Năm 1954, đất nƣớc chia thành hai miền Nam Bắc. Miền Bắc theo chế độ
Xã hội chủ nghĩa, thành lập một nền kinh tế bao cấp, kế hoạch hóa tập trung với hai
3


Xem thêm: Từ Thanh Thảo (2009), Tìm hiểu cơng ty TNHH và Cơng ty cổ phần, Tài liệu tham khảo, tr. 5.


5

thành phần chính đó là quốc doanh và tập thể. Do đó, ở miền Bắc trong giai đoạn
này hầu nhƣ khơng có sự xuất hiện của các doanh nghiệp nói chung và cơng ty nói
riêng, chỉ tồn tại một số công ty quốc doanh nhƣng không mang bản chất của một
cơng ty đúng nghĩa. Ở miền Nam, năm 1972, chính quyền Việt Nam cộng hòa ban
hành Bộ luật thƣơng mại quy định về thƣơng hội với nhiều loại hội kinh doanh nhƣ
mơ hình tổ chức hoạt động của cơng ty, chẳng hạn nhƣ hội buôn hợp danh, hội hợp
tƣ đơn thƣờng, hội TNHH, hội hợp tƣ cổ phần xã hội nặc danh…
Ngày 30-04-1975, cuộc kháng chiến chống đề quốc Mĩ đã thắng lợi, nƣớc ta
đƣợc hồn tồn giải phóng, hai miền Nam Bắc hòa chung làm một. Trong giai đoạn
1975-1986, nƣớc ta vẫn duy trì chế độ kinh tế kế hoạch hóa tập trung nhƣ miền Bắc
giai đoạn trƣớc giải phóng, do đó hầu nhƣ sự hiện diện của doanh nghiệp bị xóa bỏ
hồn tồn.
Năm 1986, Đảng và Nhà nƣớc bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới đất
nƣớc, phát triển kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng Xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế
nhiều thành phần đã tạo điều kiện cho sự ra đời của nhiều loại hình doanh nghiệp,
và để đảm bảo hành lang pháp lý cho hoạt động của các doanh nghiệp, năm 1990,
Quốc hội nƣớc Cộng hịa XHCN Việt Nam đã ban hành Luật Cơng ty 1990 (đạo
luật công ty đầu tiên kể từ khi nƣớc nhà giành đƣợc độc lập) và Luật Doanh nghiệp
tƣ nhân 1990. Với sự xuất hiện của hai đạo luật này, nƣớc ta đã tồn tại hai mơ hình
cơng ty là cơng ty TNHH và CTCP, cùng với đó là mơ hình DNTN. Sự ra đời của
Luật Cơng ty 1990 và Luật Doanh nghiệp tƣ nhân 1990 đã đánh dấu một bƣớc tiến
lớn của pháp luật doanh nghiệp Việt Nam khi lần đầu tiên quy định địa vị pháp lý
cũng nhƣ quy trình thành lập, cơ cấu tổ chức, hoạt động của các chủ thể kinh doanh
độc lập là công ty và DNTN, đồng thời nó đã đặt nền móng cho các loại hình doanh

nghiệp sau này hình thành và phát triển. Tuy nhiên, sau gần 9 năm đi vào thực tiễn,
Luật Công ty 1990 và Luật Doanh nghiệp tƣ nhân 1990 đã bộc lộ nhiều hạn chế do
còn bị ảnh hƣởng nhiều bởi tƣ tƣởng “bao cấp” và Hiến pháp 1980 nhƣ thủ tục xin
thành lập quá khắt khe, mang nặng cơ chế “xin-cho”, cơ chế quản lý của Nhà nƣớc
chƣa phù hợp với nền kinh tế thị trƣờng…. Hậu quả là số lƣợng doanh nghiệp đƣợc
thành lập trong giai đoạn này là không đáng kể và hoạt động của các doanh nghiệp
chƣa tác động nhiều đến sự phát triển của nền kinh tế.
Để kịp thời đáp ứng nhƣ cầu đổi mới ngày càng tăng của đất nƣớc đồng thời
khắc phục những hạn chế của Luật Công ty 1990 và Luật Doanh nghiệp tƣ nhân
1990, ngày 12/06/1999, Quốc hội đã thông qua LDN 1999 để thay thế cho Luật
công ty và Luật DNTN 1990. LDN 1999 đã tiếp thu những mơ hình doanh nghiệp
trong luật cơng ty 1990 và luật DNTN 1990, đồng thời quy định thêm hai loại hình
doanh nghiệp mới là công ty hợp danh và công ty TNHH một thành viên. Không
những thế, thông qua việc chuyển từ thủ tục xin phép thành lập doanh nghiệp sang
cơ chế đăng ký kinh doanh, LDN 1999 đã tạo một hành lang thơng thống hơn


6

trong khâu thành lập doanh nghiệp, khuyến khích các nhà đầu tƣ tích cực thành lập
và phát triển doanh nghiệp trên thị trƣờng. Chỉ sau vài năm triển khai, LDN 1999 đã
đem lại những thành tựu lớn trong việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của
đất nƣớc nói chung và sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp nói riêng. Theo
số liệu thống kê của Cục phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (Bộ kế hoạch và đầu
tƣ) thì “từ đầu năm 2000 (sau khi LDN 1999 có hiệu lực) cho đến hết năm 2005, đã
có 160.752 doanh nghiệp được thành lập, gấp 3,3 lần số doanh nghiệp được thành
lập trong giai đoạn 1991-1999. Số vốn đăng ký mới đạt 321,2 nghìn tỷ đồng
(khoảng 20 tỷ USD), chưa kể số vốn đăng ký bổ sung trong quá trình hoạt động
khoảng 103,4 nghìn tỷ đồng (khoảng 6,3 tỷ USD). Ngồi ra cịn có hàng chục nghìn
chi nhánh, văn phòng đại diện và hơn 2 triệu hộ kinh doanh cá thể đang hoạt động.

Số doanh nghiệp mới này cũng tạo thêm gần 2 triệu việc làm mới, nâng tổng số lao
động khu vực này lên khoảng 6 triệu lao động (chiếm 17% lực lượng lao động)”4.
Qua đó, có thể thấy đƣợc rằng LDN 1999 đã có một tác động to lớn đến công cuộc
đổi mới nền kinh tế của Đảng và Nhà nƣớc ta. Tuy nhiên, cùng với xu hƣớng phát
triển ngày càng cao của nền kinh tế thị trƣờng, LDN 1999 cũng đã bộc lộ nhiều hạn
chế, trong đó bất cập lớn nhất là việc LDN 1999 chỉ điều chỉnh đối với tổ chức, cá
nhân trong nƣớc còn tổ chức, cá nhân nƣớc ngoài thuộc sự điều chỉnh của Luật đầu
tƣ nƣớc ngoài 1996, trong khi doanh nghiệp Nhà nƣớc lại chịu sự điều chỉnh của
Luật Doanh nghiệp Nhà nƣớc 2003. Việc có quá nhiều văn bản pháp luật cùng điều
chỉnh một vấn đề đã gây ra nhiều tác động tiêu cực, đầu tiên là việc chồng chéo,
mâu thuẫn nhau giữa các đạo luật, sau đó là việc gây ra tâm lý so sánh, phân bì lẫn
nhau giữa các doanh nghiệp chịu sự điều chỉnh bởi các đạo luật khác nhau. Điều
này phần nào đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế nƣớc ta trong quá trình hội
nhập vào nền kinh tế thế giới.
Đứng trƣớc những yêu cầu thay đổi của thực tiễn, ngày 29/11/2005, Quốc
hội đã ban hành LDN 2005 (còn đƣợc gọi là Luật Doanh nghiệp thống nhất) thay
thế LDN 1999. LDN 2005 đã tạo một hành lang pháp lý bình đẳng, điều chỉnh việc
tổ chức và hoạt động của mọi loại hình doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần
kinh tế, mọi hình thức sở hữu trong cùng một đạo luật. Đồng thời LDN 2005 cũng
quy định thêm về công ty TNHH một thành viên do cá nhân làm chủ sở hữu, quy
định thêm về nhóm cơng ty… làm đa dạng hơn những phƣơng án lựa chọn của nhà
đầu tƣ. Cho đến nay, tuy còn tồn tại một số hạn chế nhƣng LDN 2005 vẫn cho thấy
sự hiệu quả của mình trong việc điều chỉnh tổ chức và hoạt động của các loại hình
doanh nghiệp.
Nhƣ vậy, xuất phát từ bối cảnh lịch sử, doanh nghiệp Việt Nam hình thành
và phát triển tƣơng đối chậm so với các nƣớc khác trên thế giới, đặc biệt là các nƣớc

4

Lê Minh Toàn (2009), Luật kinh doanh Việt Nam, tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 10.



7

phƣơng Tây. Đến khi LDN 2005 ra đời, nƣớc ta mới có một hệ thống hồn thiện các
loại hình doanh nghiệp đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế đất nƣớc.
1.1.2.
Khái niệm doanh nghiệp:
“Doanh nghiệp” trong Đại từ điển tiếng Việt đƣợc định nghĩa “là tổ chức
hoạt động kinh doanh của những chủ sở hữu có tư cách pháp nhân, nhằm mục đích
sinh lời ở một hoặc nhiều ngành”5. Định nghĩa này đã nêu ra đƣợc những đặc điểm
quan trọng nhất của doanh nghiệp nhƣ là tổ chức hoạt động kinh doanh và nhằm
mục đích sinh lời. Tuy nhiên, chủ sở hữu của doanh nghiệp nhƣ trong định nghĩa
trên thì phải là pháp nhân, trong khi đó, thực tế chủ sở hữu doanh nghiệp Việt Nam
nhƣ cổ đông CTCP, thành viên công ty TNHH hai thành viên, thành viên cơng ty
hợp danh có thể là tổ chức hoặc cá nhân; đặc biệt hơn là chủ sở hữu của công ty
TNHH một thành viên là cá nhân và DNTN chỉ có thể là cá nhân. Nhƣ vậy, định
nghĩa này đã khơng miêu tả chính xác các đặc điểm của doanh nghiệp Việt Nam
hiện nay.
“Doanh nghiệp” theo từ điển tiếng Việt đƣợc hiểu “là đơn vị kinh doanh,
như xí nghiệp, cơng ty”6. Từ điển tiếng Việt đã tiếp cận khái niệm doanh nghiệp
theo phƣơng pháp kết hợp giữa việc nêu đặc điểm cấu thành doanh nghiệp cùng với
việc liệt kê những chủ thể là doanh nghiệp. Tuy nhiên, định nghĩa ở trên chỉ gói gọn
doanh nghiệp trong hình thức là xí nghiệp, cơng ty, khơng bao qt đƣợc hết các
loại hình doanh nghiệp trong thị trƣờng kinh doanh Việt Nam hiện nay.
Mặt khác, doanh nghiệp trong Từ điển từ và ngữ Việt Nam đƣợc coi là “cơ
sở hoạt động sản xuất để kiếm lời”7. Doanh nghiệp ở đây đƣợc tiếp cận chỉ ở mục
đích của việc hoạt động, theo đó, mọi cơ sở chỉ cần hoạt động vì mục đích sinh lời
thì sẽ đƣợc coi là doanh nghiệp, khơng cần biết là cơ sở đó có thực hiện việc đăng
ký hoạt động kinh doanh hay không. Nhƣ vậy, định nghĩa này dƣờng nhƣ không

phù hợp với những đặc điểm của doanh nghiệp hiện nay.
Trong khoa học pháp lý, cũng có nhiều định nghĩa khác nhau về “doanh
nghiệp”, doanh nghiệp có thể đƣợc hiểu “là đơn vị kinh doanh được thành lập
nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh”8, có tác giả khác
cho rằng doanh nghiệp “là mọi chủ thể kinh doanh có làm thủ tục kinh doanh, xin
phép kinh doanh tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền”9, cũng có ngƣời định nghĩa
doanh nghiệp “là một đơn vị kinh doanh được thành lập hợp pháp, nhằm mục đích
thực hiện các hoạt động kinh doanh và lấy hoạt động kinh doanh làm nghề nghiệp
chính”10. Nhìn chung, các quan điểm trên đồng nhất khái niệm doanh nghiệp với

5

Nguyễn Nhƣ Ý (2008), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Đại học quốc gia tp.HCM, Hồ Chí Minh, tr. 424.
Viện ngơn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, TT Từ điển học, tr. 260.
7
Nguyễn Lân (2000), Từ điển từ và ngữ Việt Nam, NXB thành phố Hồ Chí Minh, tr. 516.
8
Học viện hành chính quốc gia (2003), Quản trị kinh doanh, NXB Lao động, Hà Nội, tr. 8.
9
Đại học Luật Hà Nội (2000), Giáo trình Luật Kinh tế, chƣơng III, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
10
Đại học Kinh tế quốc dân (2002), Giáo trình thương mại doanh nghiệp, NXB Thống kê, Hà Nội, tr. 5.
6


8

khái niệm chủ thể kinh doanh, tức là coi việc thực hiện hoạt động kinh doanh là dấu
hiệu đặc trƣng quan trọng nhất để xác định một chủ thể là doanh nghiệp.
Trong luật thực định Việt Nam, khái niệm doanh nghiệp và các loại hình

doanh nghiệp cụ thể đƣợc quy định trong LDN 2005. Theo điều 4 LDN 2005 thì
“doanh nghiệp” đƣợc hiểu là “tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích
thực hiện ổn định các hoạt động kinh doanh”11. Định nghĩa này đã bao hàm gần
nhƣ đầy đủ các đặc tính của doanh nghiệp với tƣ cách là một chủ thể kinh doanh
trong nền kinh tế thị trƣờng. Trong phạm vi bài viết của mình, ngƣời viết sẽ tiếp cận
khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp theo góc độ của LDN 2005.
1.1.3.
Đặc điểm của doanh nghiệp:
Thứ nhất, doanh nghiệp là tổ chức kinh tế đƣợc thành lập theo quy định của
pháp luật và tồn tại dƣới một hình thức pháp lý nhất định12.
Đặc điểm đầu tiên của doanh nghiệp đó là doanh nghiệp phải là một tổ chức
kinh tế, tức là một tổ chức đƣợc thành lập với chức năng chủ yếu là tiến hành các
hoạt động kinh doanh. Đây là đặc điểm để phân biệt doanh nghiệp với một tổ chức
xã hội hay tổ chức chính trị.
Các doanh nghiệp phải đƣợc thành lập theo quy định của pháp luật, cụ thể là
quy định về thủ tục đăng ký kinh doanh doanh nghiệp đƣợc quy định trong LDN
2005 và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Việc thành lập và đăng ký kinh
doanh là cơ sở để xác định tính chất chủ thể pháp lý độc lập của doanh nghiệp, gắn
với những đặc điểm của hoạt động kinh doanh. Sau khi đƣợc cấp giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp đƣợc coi là đƣợc hình thành và có năng lực chủ
thể để tự mình tiến hành các hoạt động kinh doanh. Đặc điểm này xuất phát từ yêu
cầu của quản lý Nhà nƣớc đối với hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị
trƣờng. Thông qua thủ tục thành lập doanh nghiệp, Nhà nƣớc có thể nắm bắt đƣợc
những thay đổi trong số lƣợng, cơ cấu của doanh nghiệp trên thị trƣờng để kịp thời
có đƣợc sự điều chỉnh phù hợp trong pháp luật hay phƣơng pháp quản lý nhằm tạo
ra một môi trƣờng kinh doanh tự do cho mọi thành phần kinh tế.
Mặt khác, khi tiến hành thủ tục đăng ký kinh doanh, chủ sở hữu doanh
nghiệp phải lựa chọn một hình thức pháp lý cụ thể cho doanh nghiệp của mình đƣợc
quy định trong pháp luật hiện hành. Mỗi hình thức doanh nghiệp sẽ có những quy

định pháp luật riêng trong việc xác lập tƣ cách pháp lý để phù hợp với những đặc
điểm về mặt tổ chức của từng loại hình doanh nghiệp. Việc lựa chọn những hình
thức pháp lý khác nhau cũng sẽ mang lại cho doanh nghiệp những quyền lợi và
nghĩa vụ cũng nhƣ cách thức tổ chức, quản lý điều hành cụ thể, riêng biệt để tiến
hành các hoạt động của mình.
11
12

Khoản 1 Điều 4 LDN 2005.
Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Tập bài giảng Chủ thể kinh doanh, tr. 8.


9

Thứ hai, doanh nghiệp có tên riêng, có trụ sở giao dịch, có tài sản và có sử
dụng lao động làm thuê13.
Tất cả các doanh nghiệp khi thành lập đều phải có tên riêng. Theo quy định
của pháp luật thì tên của doanh nghiệp phải đƣợc viết bằng tiếng Việt, có thể kèm
theo chữ số và ký hiệu, phải phát âm đƣợc và phải có ít nhất hai thành tố: (i) loại
hình doanh nghiệp và (ii) tên riêng14. Tên doanh nghiệp phải đƣợc viết hoặc gắn tại
trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp, phải đƣợc in hoặc
viết trên các giấy tờ giao dịch, hồ sơ tài liệu và ấn phẩm do doanh nghiệp phát
hành15. Tên của doanh nghiệp không thể trùng hay gây nhầm lẫn với tên của doanh
nghiệp khác đã đăng ký; không sử dụng tên cơ quan Nhà nƣớc, đơn vị lực lƣợng vũ
trang nhân dân, tên của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị
xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp để làm toàn bộ
hoặc một phần tên riêng của doanh nghiệp, trừ trƣờng hợp có sự chấp thuận của cơ
quan, đơn vị đó; khơng sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn
hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục16.
Doanh nghiệp phải có trụ sở chính. Trụ sở chính của doanh nghiệp là địa

điểm liên lạc, giao dịch của doanh nghiệp, phải ở trên lãnh thổ Việt Nam, có địa chỉ
đƣợc xác định, số điện thoại, số fax và thƣ điện tử (nếu có)17. Trụ sở chính của
doanh nghiệp đặt ở địa phƣơng nào sẽ quyết định nơi mà doanh nghiệp sẽ đƣợc cấp
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và vấn đề quản lý Nhà nƣớc đối với hoạt động
của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trụ sở chính của doanh nghiệp khơng quyết định địa
bàn kinh doanh của doanh nghiệp mà quyền kinh doanh của doanh nghiệp đƣợc
thừa nhận ở trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, khơng phân biệt đó có phải là nơi đặt
trụ sở chính của doanh nghiệp hay khơng.
Doanh nghiệp phải có tài sản và đƣợc quyền sử dụng tài sản đó vào hoạt
động kinh doanh của mình. Để có thể tiến hành những hoạt động kinh doanh, điều
đầu tiên và tất yếu nhất là doanh nghiệp phải có vốn. Vốn của doanh nghiệp đƣợc
hình thành từ vốn góp của các nhà đầu tƣ, vốn do doanh nghiệp huy động và vốn do
doanh nghiệp tạo lập thêm trong quá trình hoạt động kinh doanh. Khi đƣợc thành
lập thì doanh nghiệp ln có một số vốn nhất định gọi là vốn điều lệ và doanh
nghiệp đƣợc toàn quyền sử dụng nguồn vốn đó cũng nhƣ các nguồn vốn khác để
tiến hành các hoạt động của mình. Ngồi ra, trong một số ngành nghề nhất định,
pháp luật còn yêu cầu doanh nghiệp phải đáp ứng đủ một số vốn điều lệ tối thiểu
gọi là vốn pháp định để có thể đƣợc phép tiến hành kinh doanh.

13

Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Tập bài giảng Chủ thể kinh doanh, tr. 9.
Khoản 1 Điều 31 LDN 2005.
15
Khoản 2 Điều 31 LDN 2005.
16
Điều 32 LDN 2005.
17
Điều 35 LDN 2005.
14



10

Doanh nghiệp phải tuyển dụng lao động làm thuê. Về mặt pháp lý, doanh
nghiệp là một thực thể nhân tạo (artificial entity), đƣợc thành lập theo quy định của
pháp luật. Do đó, doanh nghiệp khơng thể tự mình thực hiện các hoạt động mà phải
thông qua những con ngƣời cụ thể, vì thế mà để tiến hành các hoạt động của mình,
doanh nghiệp bắt buộc phải sử dụng lao động làm thuê. Ngay cả những ngƣời bỏ
vốn ra đầu tƣ thành lập công ty nếu làm việc cho doanh nghiệp cũng đƣợc coi là
ngƣời lao động trong doanh nghiệp.
Thứ ba, mục đích hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp là nhằm mục đích
kinh doanh – vì mục tiêu lợi nhuận18.
Đây là một thuộc tính khơng thể tách rời của doanh nghiệp, là một dấu hiệu
quan trọng để phân biệt doanh nghiệp với các tổ chức phi lợi nhuận khác. Tất cả các
nhà đầu tƣ khi thành lập doanh nghiệp đều hƣớng tới một mục tiêu chung đó là tìm
kiếm lợi nhuận cho doanh nghiệp nói chung và cho chính bản thân của nhà đầu tƣ
nói riêng. Mục đích sinh lợi có thể đƣợc hiểu theo nghĩa rộng bao gồm hoạt động
nhằm thu lợi nhuận với ý nghĩa kinh tế đơn thuần và cả những hoạt động sinh lợi
khác có thể khơng chỉ là vì lợi ích kinh tế một cách trực tiếp. Mặt khác, trong việc
xác định mục tiêu lợi nhuận trong hoạt động của doanh nghiệp thì “ý định” thu lợi
nhuận của doanh nghiệp mới là tiêu chí quyết định, cịn việc có thu đƣợc lợi nhuận
hay khơng cũng nhƣ việc sử dụng lợi nhuận đó vào mục đích gì khơng đóng vai trị
là tiêu chí quyết định. Tuy nhiên, nhìn chung, tất cả những hoạt động mà doanh
nghiệp tiến hành đều phục vụ cho mục tiêu lợi nhuận của mình.
Mặt khác, để có đƣợc lợi nhuận thì doanh nghiệp phải tiến hành các hoạt
động với mục đích chính là kinh doanh, tức là việc thực hiện liên tục một, một số
hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tƣ, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm
hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trƣờng nhằm mục đích sinh lợi19. Doanh nghiệp có
quyền kinh doanh các ngành, nghề mà pháp luật không cấm; đƣợc tự chủ kinh

doanh, chủ động lựa chọn ngành, nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh, đầu tƣ; chủ
động mở rộng quy mô và ngành nghề kinh doanh. Đối với các ngành nghề kinh
doanh cần phải có điều kiện thì doanh nghiệp chỉ đƣợc kinh doanh ngành nghề đó
khi đáp ứng đủ các yêu cầu theo quy định của pháp luật. Hoạt động kinh doanh
đƣợc doanh nghiệp thực hiện với tính chất nghề nghiệp, tức là hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp có tính hệ thống, độc lập, trên danh nghĩa và trách nhiệm của
doanh nghiệp, với mục đích sinh lợi và trong điều kiện pháp luật cho phép. Tính hệ
thống của hoạt động kinh doanh là dấu hiệu cơ bản để xác định nghề nghiệp kinh
doanh của doanh nghiệp, đồng thời, đây cũng là một căn cứ quan trọng để phân biệt
doanh nghiệp với các chủ thể khác. Khi một chủ thể nào đó chỉ thực hiện hoạt động

18

Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Tập bài giảng Chủ thể kinh doanh, tr. 10.
Khoản 2 Điều 14 LDN 2005.

19


11

kinh doanh có tính chất đơn lẻ, vụ việc thì chủ thể đó sẽ khơng đƣợc coi là hành
nghề kinh doanh và dĩ nhiên không phải là một doanh nghiệp.20
1.1.4.
Các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam theo LDN
2005:
Theo LDN 2005, căn cứ vào hình thức pháp lý, nhìn chung, các doanh
nghiệp Việt Nam đƣợc tổ chức theo một trong các loại hình là: CTCP, Cơng ty
TNHH21, Cơng ty hợp danh và DNTN. Tùy theo mỗi loại hình doanh nghiệp nhất
định mà LDN 2005 có những quy định khác nhau về cách thức tổ chức quản lý điều

hành doanh nghiệp.
1.1.4.1.
Công ty cổ phần:
CTCP ”là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân22, có vốn điều lệ được chia
thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, có quyền phát hành chứng khốn các
loại để huy động vốn; cổ đơng có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng tối thiểu là ba và
không hạn chế số lượng tối đa; cổ đông chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các
nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn cổ phần đã góp, có
quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình ngoại trừ một số trường hợp”.23
CTCP mang những đặc điểm của một công ty “đối vốn” điển hình, có nghĩa
là yếu tố vốn sẽ đóng vai trò chủ đạo, quyết định trong việc thành lập và hoạt động
của CTCP. CTCP có nhiều ƣu điểm thích hợp cho những ngƣời muốn đầu tƣ vào
các lĩnh vực cần có nguồn vốn lớn hay những nhà đầu tƣ chỉ quan tâm đến kết quả
hoạt động của công ty hơn là mối quan hệ với các chủ hữu khác của công ty nhƣ: (i)
cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong
phạm vi vốn góp nên mức độ rủi ro của cổ đông không cao, (ii) khả năng hoạt động
của CTCP rất rộng, bao quát nhiều ngành nghề, lĩnh vực, (iii) cơ cấu vốn trong
CTCP rất linh hoạt, cùng với việc không giới hạn số lƣợng cổ đông tạo điều kiện
cho nhiều ngƣời có thể cùng góp vốn vào cơng ty, (iv) khả năng huy động vốn trong
công chúng của CTCP là rất cao nhờ khả năng phát hành cổ phiều của CTCP, (v)
việc chuyển nhƣợng vốn trong CTCP là tƣơng đối dễ dàng, do đó phạm vi đối
tƣợng đƣợc tham gia CTCP là rất rộng, ngay cả cán bộ cơng chức cũng có quyền
mua cổ phiếu của CTCP.
Tuy nhiên, bên cạnh những ƣu điểm của mình thì CTCP cũng có những
nhƣợc điểm cần phải xem xét khi quyết định đầu tƣ vào nó. Một là, việc quản lý
điều hành trong CTCP rất phức tạp do số lƣợng cổ đông trong cơng ty có thể rất
20

Xem thêm: Đổng Ngọc Ba (2004), “Quan niệm về doanh nghiệp – Một số vấn đề phƣơng pháp luận”, Luật
học, (02), tr. 9-16.

21
Theo LDN 2005, công ty TNHH bao gồm công ty TNHH một thành viên và công ty TNHH hai thành viên.
22
Theo Điều 84 Bộ luật dân sự 2005 thì pháp nhân “là một tổ chức được thành lập hợp pháp, có cơ cấu tổ
chức chặt chẽ, có tài sản độc lập với tổ chức, cá nhân khác, tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó và nhân
danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập”.
23
Điều 77 LDN 2005.


12

lớn, trong khi đó hầu hết họ khơng quen biết nhau và thậm chí cịn rất dễ xảy ra
tranh giành, mâu thuẫn lợi ích giữa các cổ đơng, nhóm cổ đông. Hai là, việc thành
lập và quản lý CTCP cũng phức tạp hơn các loại hình cơng ty khác do bị ràng buộc
chặt chẽ bởi các quy định của pháp luật, đặc biệt là về chế độ tài chính, báo cáo. Ba
là, do việc trở thành cổ đông của CTCP rất đơn giản và CTCP có nghĩa vụ phải
cung cấp thông tin về hoạt động của công ty cho các cổ đông nên đặc điểm này dễ
bị các đối thủ cạnh tranh sử dụng để thực hiện các hoạt động nội gián, khai thác
thơng tin về bí mật kinh doanh của CTCP.
Mơ hình quản trị của CTCP đƣợc quy định trong LDN 2005 là sự pha trộn
giữa hai mơ hình quản trị CTCP thịnh hành trên thế giới là mô hình quản trị một
tầng và mơ hình quản trị hai tầng24. Theo đó, cấu trúc quản trị của CTCP Việt Nam
theo LDN 2005 bao gồm: ĐHĐCĐ, HĐQT, GĐ/TGĐ và BKS đối với CTCP có
trên 11 cổ đơng là cá nhân hoặc cổ đông là tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ phần
của cơng ty25. Trong đó:
+ ĐHĐCĐ là cơ quan quyền lực cao nhất trong CTCP, quyết định mọi
vấn đề quan trọng trong công ty, bao gồm tất cả các cổ đơng có quyền biểu quyết26.
+ HĐQT do ĐHĐCĐ bầu ra, là cơ quan quản lý trong CTCP, có
quyền nhân danh cơng ty để quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công

ty không thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ.27
+ GĐ/TGĐ là ngƣời điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của
công ty, chịu sự giám sát của HĐQT và chịu trách nhiệm trƣớc HĐQT và trƣớc
pháp luật về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ đƣợc giao.28
+ BKS là cơ quan thay mặt chủ sở hữu thực hiện việc giám sát hoạt
động của công ty. BKS có hai chức năng chính là (i) giám sát việc quản lý và điều
hành công ty bởi HĐQT và GĐ/TGĐ29 và (ii) thẩm định các loại báo cáo bắt buộc
của công ty30.
1.1.4.2.
Công ty TNHH hai thành viên:
Công ty TNHH hai thành viên “là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân,
khơng được quyền phát hành cổ phần, thành viên có thể là tổ chức, cá nhân với số
lượng không quá 50 cùng nhau góp vốn, cùng chia lợi nhuận, chịu lỗ tương ứng với
phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số
vốn cam kết góp vào cơng ty”.31

24

Xem thêm: Bùi Xuân Hải (2006), “So sánh cấu trúc quản trị nội bộ của công ty cổ phần Việt Nam với các
mô hình điển hình trên thế giới”, Khoa học pháp lý, (06).
25
Điều 95 LDN 2005.
26
Điều 96 LDN 2005.
27
Khoản 1 Điều 108 LDN 2005.
28
Khoản 2 Điều 116 LDN 2005.
29
Khoản 1 Điều 123 LDN 2005.

30
Khoản 3 Điều 123 LDN 2005.
31
Điều 38 LDN 2005.


13

Cơng ty TNHH hai thành viên là loại hình cơng ty thịnh hành nhất trong thị
trƣờng kinh doanh của Việt Nam. Sở dĩ nhƣ vậy là vì mơ hình cơng ty TNHH hai
thành viên có những đặc điểm phù hợp với quy mô cũng nhƣ quan niệm kinh doanh
của các nhà đầu tƣ Việt Nam nhƣ: (i) công ty TNHH có chế độ trách nhiệm hữu
hạn, do đó các nhà đầu tƣ sẽ gặp ít rủi ro hơn khi lựa chọn mơ hình này, (ii) mối
quan hệ giữa các thành viên của công ty TNHH hai thành viên là mối quan hệ thân
thiết, tin cậy lẫn nhau, do đó việc quản lý điều hành công ty không quá phức tạp,
(iii) việc chuyển nhƣợng vốn của các thành viên đƣợc quy định chặt chẽ, ƣu tiên
cho các thành viên trong công ty, do đó nhà đầu tƣ có thể kiểm sốt đƣợc sự thay
đổi thành viên của công ty, hạn chế sự xâm nhập với mục đích xấu của ngƣời ngồi.
Tuy nhiên, khi lựa chọn mơ hình này để tham gia vào các hoạt động kinh doanh,
nhà đầu tƣ cũng sẽ gặp phải một số bất lợi hơn so với loại hình CTCP mà đặc biệt
nhất là việc hạn chế khả năng huy động vốn do công ty TNHH hai thành viên khơng
có quyền phát hành cổ phiếu.
Về cơ cấu tổ chức, công ty TNHH hai thành viên bao gồm HĐTV, Chủ tịch
HĐTV, GĐ/TGĐ. Cơng ty TNHH có từ 11 thành viên trở lên phải thành lập BKS;
trƣờng hợp có ít hơn 11 thành viên, có thể thành lập BKS phù hợp với u cầu quản
trị cơng ty.32 Trong đó:
+ HĐTV gồm tất cả các thành viên, là cơ quan quyết định cao nhất
của công ty. Thành viên là tổ chức chỉ định ngƣời đại diện theo ủy quyền tham gia
HĐTV. Điều lệ công ty quy định cụ thể định kỳ họp HĐTV, nhƣng ít nhất mỗi năm
phải họp một lần33. Chủ tịch HĐTV đƣợc HĐTV bầu ra, có thể kiêm nhiệm

GĐ/TGĐ công ty34.
+ GĐ/TGĐ công ty là ngƣời điều hành hoạt động kinh doanh hàng
ngày của công ty, chịu trách nhiệm trƣớc HĐTV về việc thực hiện quyền và nhiệm
vụ của mình35.
+ BKS trong cơng ty TNHH hai thành viên không đƣợc LDN 2005
miêu tả mà do Điều lệ công ty quy định về quyền, nghĩa vụ, tiêu chuẩn, điều kiện và
chế độ làm việc36.
1.1.4.3.
Công ty TNHH một thành viên:
Công ty TNHH một thành viên “là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân,
không được phát hành cổ phần, do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu
(sau đây gọi là chủ sở hữu công ty); chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các
khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của
công ty”.37
32

Điều 46 LDN 2005.
Khoản 1 Điều 47 LDN 2005.
34
Khoản 1 Điều 49 LDN 2005.
35
Khoản 1 Điều 55 LDN 2005.
36
Điều 46 LDN 2005.
37
Điều 63 LDN 2005.
33


14


Mơ hình cơng ty TNHH một thành viên nhìn chung có những ƣu điểm và
nhƣợc điểm tƣơng đồng với mơ hình cơng ty TNHH hai thành viên. Tuy nhiên, do
là thành viên duy nhất của công ty nên chủ sở hữu cơng ty TNHH một thành viên có
quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến hoạt động của công ty. Do đó, mơ hình
cơng ty TNHH một thành viên rất thích hợp cho các nhà đầu tƣ muốn tự chủ trong
việc quản lý điều hành công ty nhƣng đồng thời lại không muốn gánh chịu quá
nhiều rủi ro từ hoạt động của công ty.
Công ty TNHH một thành viên có hai loại là (i) cơng ty TNHH một thành
viên là tổ chức và (ii) công ty TNHH một thành viên là cá nhân. Tùy vào từng loại
hình mà cơng ty TNHH có cấu trúc quản trị khác nhau. Cụ thể:

Đối với công ty TNHH một thành viên do một tổ
chức làm chủ sở hữu:
Chủ sở hữu công ty bổ nhiệm một hoặc một số ngƣời đại diện theo ủy
quyền với nhiệm kỳ không quá năm năm để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
mình theo quy định của Luật này và pháp luật có liên quan38. Trƣờng hợp có ít nhất
hai ngƣời đƣợc bổ nhiệm làm đại diện theo ủy quyền thì cơ cấu tổ chức quản lý của
công ty bao gồm HĐTV, GĐ/TGĐ và KSV; trong trƣờng hợp này, HĐTV gồm tất
cả ngƣời đại diện theo ủy quyền39. Trƣờng hợp một ngƣời đƣợc bổ nhiệm làm
ngƣời đại diện theo ủy quyền thì ngƣời đó làm Chủ tịch công ty; trong trƣờng hợp
này cơ cấu tổ chức quản lý của công ty bao gồm Chủ tịch công ty, GĐ/TGĐ và
KSV40. Trong đó:
+ Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của HĐTV và GĐ/TGĐ trong
công ty TNHH một thành viên là tổ chức nhìn chung giống với cơng ty TNHH hai
thành viên.
+ Chủ tịch công ty nhân danh chủ sở hữu tổ chức thực hiện các quyền
và nghĩa vụ của chủ sở hữu cơng ty; có quyền nhân danh công ty thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của công ty; chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật và chủ sở hữu
công ty về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ đƣợc giao theo quy định của Luật

này và pháp luật có liên quan41.
+ Chủ sở hữu cơng ty bổ nhiệm một đến ba KSV với nhiệm kỳ không
quá ba năm. KSV chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật và chủ sở hữu công ty về việc
thực hiện các quyền và nhiệm vụ của mình.42 Nhiệm vụ của KSV chủ yếu liên quan
đến các công việc nhƣ kiểm tra, thẩm định, kiến nghị về các vấn đề có liên quan của
cơng ty.

38

Khoản 1 Điều 67 LDN 2005.
Khoản 3 Điều 67 LDN 2005.
40
Khoản 4 Điều 67 LDN 2005.
41
Điều 69 LDN 2005.
42
Khoản 1 Điều 71 LDN 2005.
39


15


Đối với công ty TNHH một thành viên do cá
nhân làm chủ sở hữu:
Theo quy định tại Điều 74 LDN 2005 thì cơ cấu tổ chức của cơng ty TNHH
một thành viên do cá nhân làm chủ sở hữu bao gồm Chủ tịch công ty, GĐ/TGĐ.
Chủ sở hữu công ty đồng thời là Chủ tịch công ty. Chủ tịch công ty có thể kiêm
nhiệm hoặc th ngƣời khác làm GĐ/TGĐ.
Nhìn chung, có thể thấy rằng cơ cấu quản lý cơng ty TNHH một thành viên

do cá nhân là chủ sở hữu đƣợc quy định một cách đơn giản, có nét giống với cơ cấu
tổ chức quản lý của công ty TNHH một thành viên là tổ chức chủ sở hữu chỉ bổ
nhiệm một ngƣời làm đại diện theo ủy quyền, đồng thời có nét giống với DNTN ở
chỗ quyền lực hầu nhƣ tập trung vào chủ sở hữu công ty. Tuy nhiên, trong cơ cấu
của công ty TNHH một thành viên là cá nhân khơng có KSV nhƣ cơng ty TNHH
một thành viên là tổ chức và phải chịu sự kiểm sốt của pháp luật nhiều hơn so với
loại hình DNTN.
1.1.4.4.
Công ty hợp danh:
Công ty hợp danh “là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, trong đó có ít
nhất hai thành viên hợp danh là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh
doanh dưới một tên chung và chịu trách nhiệm bằng tồn bộ tài sản của mình về
các nghĩa vụ của cơng ty. Ngồi ra, có thể có thành viên góp vốn chỉ chịu trách
nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào cơng ty”.43
Cơng ty hợp danh là sự kết hợp uy tín cá nhân của nhiều ngƣời, cùng với đó
là trách nhiệm vơ hạn đối với các khoản nợ của cơng ty của thành viên hợp danh, do
đó cơng ty hợp danh có tính an tồn đối với công chúng cao, dễ dàng tạo đƣợc sự
tin cậy của các bạn hàng, đối tác kinh doanh. Mặt khác, số lƣợng thành viên hợp
danh trong cơng ty thƣờng ít và đều là những ngƣời có uy tín cao, đồng thời các
thành viên hợp danh cũng thƣờng có mối quan hệ mật thiết về nhân thân nên việc
quản lý công ty hợp danh chịu rất ít sự ràng buộc của pháp luật. Về cơ bản, các
thành viên có thể tự thỏa thuận về việc quản lý, điều hành công ty. Tuy nhiên,
quyền quản lý công ty chỉ thuộc về thành viên hợp danh cịn thành viên góp vốn thì
khơng có quyền này. Theo quy định của LDN 2005, cơ cấu tổ chức của công ty hợp
danh do các thành viên hợp danh thỏa thuận trong Điều lệ công ty, tuy nhiên vẫn
phải tuân thủ hai vấn đề cơ bản:
+ Thứ nhất, trong công ty hợp danh, HĐTV là cơ quan quyết định cao
nhất của công ty, bao gồm tất cả các thành viên của cơng ty hợp danh. HĐTV có
quyền quyết định đối với mọi công việc kinh doanh hằng ngày của công ty. HĐTV
bầu một thành viên hợp danh làm Chủ tịch HĐTV, đồng thời kiêm GĐ/TGĐ nếu

Điều lệ công ty khơng có quy định khác.

43

Điều 130 LDN 2005.


16

+ Thứ hai, trong hoạt động kinh doanh hằng ngày, các thành viên hợp
danh phân công nhau đảm nhiệm các chức danh quản lý và kiểm sốt cơng ty. Khi
một số hoặc tất cả thành viên hợp danh cùng thực hiện một số cơng việc kinh doanh
thì quyết định đƣợc thông qua theo nguyên tắc đa số. Hoạt động do thành viên hợp
danh thực hiện ngoài phạm vi hoạt động kinh doanh các ngành nghề kinh doanh đã
đăng ký của công ty đều không thuộc trách nhiệm của công ty, trừ trƣờng hợp hoạt
động đó đã đƣợc các thành viên còn lại chấp thuận.44
1.1.4.5.
Doanh nghiệp tƣ nhân:
DNTN “là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ, tự chịu trách nhiệm bằng
tồn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp và không được phát
hành bất kỳ loại chứng khốn nào”.45
DNTN là loại hình doanh nghiệp duy nhất theo LDN 2005 khơng có tƣ cách
pháp nhân, mọi hoạt động của DNTN đƣợc tiến hành trên tƣ cách của chủ sở hữu và
DNTN cũng khơng có tài sản độc lập với chủ sở hữu, do đó mà chủ sở hữu gánh
chịu rủi ro rất lớn đối với hoạt động của doanh nghiệp, phải chịu trách nhiệm về
nghĩa vụ của cơng ty bằng tồn bộ tài sản của mình. Tuy nhiên, vì chủ sở hữu
DNTN phải chịu trách nhiệm vơ hạn đối với mọi khoản nợ của doanh nghiệp, cho
nên DNTN dễ có đƣợc sự tin tƣởng tuyệt đối của khách hàng, đối tác, đồng thời
cũng ít chịu sự điều chỉnh của LDN 2005. Chủ sở hữu DNTN có quyền quyết định
mọi việc kinh doanh hàng ngày của doanh nghiệp cũng nhƣ cơ cấu tổ chức quản lý

của doanh nghiệp (trực tiếp hoặc thuê ngƣời khác quản lý, điều hành hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp)46. Từ những đặc điểm đó, ta thấy rằng mơ hình DNTN
phù hợp với những nhà đầu tƣ muốn đƣợc tự do tối đa trong việc tự quyết mọi vấn
đề của doanh nghiệp và không phải phân chia lợi nhuận cho ngƣời khác.
1.2.
Khái luận chung về cơ chế giám sát hoạt động doanh
nghiệp:
1.2.1.
Khái niệm cơ chế giám sát hoạt động doanh nghiệp:
Khái niệm “cơ chế giám sát hoạt động doanh nghiệp” là một khái niệm
tổng hợp của nhiều khái niệm khác nhau. Do đó, để có thể hiểu đƣợc một cách đúng
đắn, đầy đủ nhất bản chất cũng nhƣ đặc điểm của nó, ta phải đi vào tìm hiểu từng
khái niệm cụ thể cấu thành nên khái niệm này, đó là “cơ chế”, “giám sát” và “hoạt
động của doanh nghiệp”.
Hiện nay, trên thế giới có nhiều cơng trình nghiên cứu có đề cập tới những
định nghĩa khác nhau về “cơ chế”. “Cơ chế” trong tiếng Pháp là “Mécanisme”,
đƣợc từ điển Le Petit Larausse định nghĩa là “cách thức hoạt động của một tập hợp
các yếu tố phụ thuộc nhau”. Trong cuốn sổ tay về phát triển, thƣơng mại và WTO,
44

Khoản 2 Điều 137 LDN 2005.
Điều 141 LDN 2005.
46
Điều 143 LDN 2005.
45


17

“cơ chế” đƣợc mô tả là “một phương thức, một hệ thống các yếu tố làm cơ sở,

đường hướng cho sự vận động của một sự vật hay hiện tượng”.
Theo từ điển Tiếng Việt “cơ chế” là “cách thức theo đó một q trình thực
47
hiện” . Theo Đại từ điển tiếng Việt, “cơ chế” là “cách thức sắp xếp tổ chức để làm
đường hướng, cơ sở theo đó mà thực hiện”. “Cơ chế” cịn có thể đƣợc hiểu là “cách
thức sắp xếp theo một trình tự nhất định”48.
Nhƣ vậy, ta có thể thấy rằng, tuy mỗi định nghĩa mà các nhà nghiên cứu đƣa
ra là khác nhau nhƣng nhìn chung chúng vẫn thống nhất với nhau về nội hàm của
“cơ chế”, theo đó thì “cơ chế” là sự tổ chức (cơ cấu) và sự vận hành (hoạt động)
của một sự vật hay hiện tƣợng trong xã hội. Hai yếu tố tổ chức và vận hành có mối
quan hệ qua lại, chi phối lẫn nhau trong tiến trình của một sự vật hay hiện tƣợng
trong xã hội. Sự tổ chức sẽ làm tiền đề, phƣơng hƣớng cho sự vận hành, và sự vận
hành sẽ tác động đến cách thức tổ chức của sự vật, hiện tƣợng.49
“Giám sát” theo từ điển tiếng Việt là “sự theo dõi, xem xét có thực hiện
đúng các quy định hay không” hoặc đƣợc hiểu là “theo dõi và kiểm tra xem có thực
hiện đúng những điều quy định hay không”50. Cũng trong từ điển tiếng Việt, “giám
sát” còn đƣợc định nghĩa “là chức quan thời xưa trơng nom, coi sóc một loại việc
nhất định”. Bên cạnh đó, trong Từ điển từ và ngữ Việt Nam, “giám sát” đƣợc mơ tả
là “xem cơng việc có kết quả thế nào”51
“Giám sát” đƣợc từ điển Luật học định nghĩa “ là sự theo dõi, quan sát
mang tính chủ động, thường xuyên của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân đối với hoạt
động của các đối tượng chịu sự giám sát và sự tác động một cách tích cực nhằm
bảo đảm cho các hoạt động đó đi đúng hướng, đúng quy định của pháp luật nhằm
đạt mục đích, hiệu quả đã được xác định trước”.52
Nhìn chung lại, thì “giám sát” là một hoạt động của các chủ thể có thẩm
quyền, thực hiện công việc kiểm tra, xem xét và đƣa ra những nhận định về tính
đúng sai của đối tƣợng bị giám sát. Trong hoạt động giám sát, cả chủ thể giám sát,
đối tƣợng bị giám sát và nội dung, tính chất của hoạt động giám sát đều rất đa dạng,
từ giám sát bộ máy Nhà nƣớc đến giám sát hoạt động của một doanh nghiệp, giám
sát kỹ thuật…. Hiện nay, ở nƣớc ta có hai loại hình giám sát là:

+ Giám sát mang tính chất quyền lực Nhà nước: là hoạt động giám
sát đƣợc tiến hành bởi các chủ thể là các cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền đối với
hoạt động của các đối tƣợng bị giám sát. Các phƣơng pháp, cách thức mà loại hình

47

Viện ngơn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, tr. 214.
Nguyễn Lân (2000), Từ điển từ và ngữ Việt Nam, NXB thành phố Hồ Chí Minh, tr. 428.
49
Xem: Hồng Thị Thu Hằng (2010), Cơ chế giám sát hoạt động quản lý trong công ty cổ phần theo Luật
Doanh nghiệp ở Việt Nam, Luận văn thạc sỹ học, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tr. 13.
50
Viện ngơn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, tr. 389.
51
Nguyễn Lân (2000), Từ điển từ và ngữ Việt Nam, NXB thành phố Hồ Chí Minh, tr. 741.
52
Từ điển Luật học, Nxb Tƣ pháp và Nxb Bách khoa, tr. 296.
48


18

giám sát này áp dụng ln mang tính quyền lực Nhà nƣớc và nó mang lại những
hậu quả có tính pháp lý.
+ Giám sát khơng mang tính chất quyền lực Nhà nước: là hoạt động
giám sát đƣợc tiến hành bởi các chủ thể phi Nhà nƣớc, đó có thể là hoạt động giám
sát của các tổ chức chính trị, tổ chức xã hội… hay của mỗi cá nhân đối với hoạt
động của đối tƣợng bị giám sát, tuy nhiên nó khơng mang tính quyền lực của Nhà
nƣớc và sẽ khơng mang lại những hậu quả có tính pháp lý.
“Hoạt động của doanh nghiệp” bao gồm hoạt động kinh doanh của doanh

nghiệp và các hoạt động khác do doanh nghiệp tiến hành từ lúc đƣợc đăng ký thành
lập tới khi có quyết định chấm dứt sự tồn tại.
“Hoạt động kinh doanh” theo LDN 2005 là “việc thực hiện một hoặc một số
cơng đoạn của q trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng
dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”53. Khái niệm kinh doanh này tập
trung đề cập tới bản chất của hành vi, mục đích của hành vi chứ khơng phải kết quả
cụ thể mà các bên đạt đƣợc trong thực tiễn. Theo đó thì khái niệm “hoạt động kinh
doanh” có các đặc điểm:
+ Thứ nhất, hoạt động kinh doanh là hoạt động mang tính nghề
nghiệp. Tính nghề nghiệp của hoạt động kinh doanh thể hiện ở việc hoạt động kinh
doanh đƣợc thực hiện có hệ thống, tức là một hoạt động có khuynh hƣớng lâu dài,
khơng gián đoạn trong một thời gian nhất định và có khả năng tái diễn thƣờng kỳ.
Ngồi ra, tính nghề nghiệp của hoạt động kinh doanh còn thể hiện ở việc hoạt động
kinh doanh đƣợc tiến hành độc lập, trên danh nghĩa của doanh nghiệp và trong điều
kiện pháp luật cho phép.
+ Thứ hai, hoạt động kinh doanh diễn ra trên thị trƣờng. Thị trƣờng là
nơi ngƣời mua và ngƣời bán gặp nhau để trao đổi hàng hóa, dịch vụ. Nhƣ vậy,
doanh nghiệp phải tiến hành hoạt động kinh doanh trên thị trƣờng để có thể mua
hàng hóa, dịch vụ cho việc sản xuất sản phẩm, dịch vụ của mình đồng thời tìm kiếm
những đối tác để cung ứng dịch vụ và tiêu thụ sản phẩm mà mình làm ra.
+ Thứ ba, hoạt động kinh doanh có mục đích là lợi nhuận. Nhƣ đã đề
cập ở phần trƣớc, lợi nhuận là mục đích chính khi chủ sở hữu thành lập doanh
nghiệp, do đó hầu hết mọi hoạt động của doanh nghiệp, mà chủ yếu là hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp đều hƣớng tới một mục đích đó là tìm kiếm lợi nhuận.
Mặt khác, lợi nhuận cũng là một điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp có thể tiếp
tục tồn tại và phát triển trong thị trƣờng.
+ Thứ tư, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đƣợc thực hiện
thông qua các cá nhân đƣợc trao quyền. Doanh nghiệp là một thực thể nhân tạo, do
đó mọi hoạt động của doanh nghiệp đều phải đƣợc tiến hành thông qua các thể nhân
đƣợc doanh nghiệp ủy quyền và hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của doanh

53

Khoản 2 Điều 4 LDN 2005


19

nghiệp phụ thuộc vào hiệu quả trong hoạt động của các cá nhân đƣợc trao quyền
này.
Bên cạnh đó, với tính chất là một thực thể “sống” trong xã hội, để có thể tồn
tại và phát triển, doanh nghiệp cịn phải tiến hành một số hoạt động khác không phải
là hoạt động kinh doanh nhằm đảm bảo cho doanh nghiệp đứng vững trên thị trƣờng
hoặc theo yêu cầu của pháp luật. Điều này làm xuất hiện trên thực tế một số hoạt
động đƣợc thực hiện bởi doanh nghiệp nhƣng không phải là một hoạt động kinh
doanh đúng nghĩa. Hoạt động đó có thể là việc tổ chức quản lý cơng ty, hoạt động
của các chủ thể có thẩm quyền trong doanh nghiệp thay mặt doanh nghiệp tiến hành
liên quan đến các vấn đề quản lý, điều hành doanh nghiệp nhƣ trả lƣơng cho nhân
viên, kỷ luật, khen thƣởng… hay việc doanh nghiệp báo cáo các vấn đề liên quan
cho các cơ quan Nhà nƣớc, nộp thuế…. Các hoạt động này tuy không phải là hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp nhƣng nó có ảnh hƣởng rất lớn đến doanh
nghiệp, có sự tác động nhất định đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp.
Nhƣ vậy, từ những khái niệm trên, ta có thể hiểu “cơ chế giám sát hoạt
động doanh nghiệp” là “hệ thống các phương thức theo dõi, xem xét của các chủ
thể có thẩm quyền trong cơ cấu tổ chức doanh nghiệp, được vận hành trên cơ sở
các quy định của pháp luật và Điều lệ của doanh nghiệp, đảm bảo việc thực thi
đúng pháp luật của các chủ thể được trao quyền quản lý, điều hành, nhằm mục đích
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các chủ sở hữu và các chủ thể khác có liên quan”.54
1.2.2.
Đặc điểm của cơ chế giám sát doanh nghiệp:
Thứ nhất, cơ chế giám sát doanh nghiệp là sự theo dõi, quan sát, kiểm tra

hoạt động của những đối tƣợng chịu sự giám sát trong doanh nghiệp. Mặc dù vậy,
hoạt động giám sát sẽ không can thiệp vào hoạt động của các đối tƣợng bị giám sát,
mà chỉ là xem xét, cho nhận định về tính đúng sai trong hoạt động của các đối
tƣợng bị giám sát. Đối tƣợng của cơ chế giám sát trong doanh nghiệp là tất cả hoạt
động của doanh nghiệp. Nhƣ đã nói ở trên, hoạt động của doanh nghiệp có thể là
hoạt động thành lâp doanh nghiệp, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hoạt
động báo cáo của doanh nghiệp,…. Tuy nhiên, bởi vì là một thực thể pháp lý nên
doanh nghiệp không thể trực tiếp tiến hành những hoạt động trên mà phải thông qua
những chủ thể khác đƣợc doanh nghiệp trao quyền quản lý điều hành. Do đó, giám
sát hoạt động của doanh nghiệp thực chất là giám sát hoạt động của những chủ thể
có thẩm quyền quản lý điều hành trong doanh nghiệp. Theo Khoản 13 Điều 4 LDN
2005 thì ngƣời quản lý doanh nghiệp là chủ sở hữu, giám đốc DNTN, thành viên
hợp danh công ty hợp danh, Chủ tịch HĐTV, Chủ tịch công ty, thành viên HĐQT,
GĐ/TGĐ và các chức danh quản lý khác do Điều lệ doanh nghiệp quy định.

54

Xem: Đinh Thị Thúy Hồng (2009), Cơ chế giám sát hoạt động trong công ty cổ phần, Luận văn cử nhân,
trƣờng Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh, tr. 12.


×