Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Sự tương đồng giữa cộng hòa liên bang đức và việt nam về phương thức hạn chế lạm dụng quyền lực nhà nước, giải pháp hoàn thiện ở việt nam giai phap hoan thien o viet nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 89 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
----------

Nguyễn Thị Mỹ Nhân
MSSV: 1055040203

SỰ TƢƠNG ĐỒNG GIỮA CỘNG HỊA LIÊN BANG
ĐỨC VÀ VIỆT NAM VỀ PHƢƠNG THỨC HẠN CHẾ
LẠM DỤNG QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC.GIẢI PHÁP
HOÀN THIỆN ỞVIỆT NAM.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Niên khóa: 2010 - 2014

Ngƣời hƣớng dẫn:
ThS. GVC. Vũ Thị Bích Hƣờng

- TP.HCM 2014 -


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHƢƠNG THỨC HẠN CHẾ LẠM
DỤNG QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC ......................................................................... 1
1.1. Quyền lực nhà nƣớc và sự cần thiết hạn chế lạm dụng
quyền lực nhà nƣớc ................................................................................................... 1
1.1.1. Quyền lực nhà nước ...................................................................................... 1
1.1.1.1. Khái quát về quyền lực........................................................................ 1
1.1.1.2. Quyền lực nhà nƣớc ............................................................................ 2
1.1.2. Sự cần thiết phải hạn chế lạm dụng quyền lực nhà nước ............................. 3
1.2. Những phƣơng thức hạn chế lạm dụng quyền lực nhà nƣớc......................... 4


1.2.1. Phân quyền trong bộ máy nhà nước ............................................................. 4
1.2.2. Chủ nghĩa lập hiến và xây dựng nhà nước pháp quyền ............................... 6
1.2.3. Cơ chế bảo hiến ............................................................................................ 8
1.2.4. Ghi nhận quyền cơ bản của công dân và quyền con người .......................... 9
1.2.5. Giám sát của nhân dân ............................................................................... 10
1.2.6. Giám sát từ bên ngồi ................................................................................. 13
1.3. Mơ hình hạn chế lạm dụng quyền lực nhà nƣớc của một số nhà nƣớc tiêu
biểu trên thế giới ...................................................................................................... 13
1.3.1. Mô hình nhà nước theo chế độ đại nghị ..................................................... 13
1.3.2. Mơ hình nhà nước theo chế độ cộng hịa tổng thống ................................. 17
1.3.3. Mơ hình nhà nước theo chế độ cộng hòa hỗn hợp ..................................... 24
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
CHƢƠNG 2: SO SÁNH GIỮA CỘNG HÒA LIÊN BANG ĐỨC VÀ VIỆT
NAM VỀ PHƢƠNG THỨC HẠN CHẾ QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC. HƢỚNG
HOÀN THIỆN Ở VIỆT NAM ............................................................................... 32
2.1. So sánh giữa Cộng hòa liên bang Đức và Việt Nam về phƣơng thức hạn chế
lạm dụng quyền lực nhà nƣớc ................................................................................ 32


2.1.1. Mơ hình tổ chức quyền lực nhà nước ......................................................... 32
2.1.2. Cơ chế bảo hiến .......................................................................................... 46
2.1.3. Sự tham gia của nhân dân trong hoạt động quản lý nhà nước .................. 51
2.2. Hƣớng hoàn thiện ở Việt Nam ........................................................................ 57
2.2.1. Những mặt còn tồn tại trong việc hạn chế lạm dụng quyền lực nhà nước ở
Việt Nam hiện nay ................................................................................................. 57
2.2.1.1. Những mặt tồn tại trong hạn chế lạm dụng quyền lực nhà nƣớc giữa
các cơ quan nhà nƣớc ở trung ƣơng ............................................................... 57
2.2.1.2. Những mặt tồn tại trong hạn chế lạm dụng quyền lực nhà nƣớc giữa
cơ quan trung ƣơng với chính quyền địa phƣơng .......................................... 63
2.2.1.3. Sự giám sát của nhân dân trong việc hạn chế lạm dụng quyền lực nhà

nƣớc ở nƣớc ta hiện nay ................................................................................. 65
2.2.2. Đề xuất hướng hoàn thiện .......................................................................... 67
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CHLB Đức

Cộng hòa liên bang Đức

CHXHCN Việt Nam
HĐND

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Hội đồng nhân dân

UBND
UBTV QH
TAND

Ủy ban nhân dân
Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội
Tòa án nhân dân

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nƣớc đƣợc thành lập và xây dựng để quản lý đất nƣớc, giải quyết các công
việc chung của xã hội, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các cá nhân, công dân trong
xã hội đó. Vì vậy, việc xây dựng và hồn thiện bộ máy nhà nƣớc luôn là mục tiêu
hàng đầu đối với mỗi quốc gia trong quá trình phát triển đất nƣớc.
Tổ chức bộ máy nhà nƣớc và phân chia quyền lực là một vấn đề hết sức quan
trọng để thực thi quyền lực nhà nƣớc, nó phản ánh quyền lực của nhà nƣớc đó thuộc
về ai, đƣợc tổ chức nhƣ thế nào và nhằm mục đích gì. Trải qua các hình thái kinh tế
- xã hội trong lịch sử, quyền lực nhà nƣớc có nhiều thay đổi. Lịch sử đã chứng minh
sự tàn bạo mà nền quân chủ chuyên chế mang lại khi quyền lực nhà nƣớc không bị
hạn chế, quyền lực của những ngƣời đƣợc cho là “thần thánh”, “ban phát” cho
ngƣời dân các quyền lợi, hay sự độc tài của chế độ phát xít khiến quyền lợi của
ngƣời dân bị đe dọa, bóp nghẹt dân chủ, tự do của ngƣời dân…Trong sự phát triển
của kinh tế và xã hội toàn cầu hiện nay, quan niệm về quyền lực nhà nƣớc đã có sự
tiến bộ rõ rệt, nhà nƣớc phải là nhà nƣớc của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,
quyền lực nhà nƣớc thuộc về nhân dân, nhân dân trao cho các chủ thể quản lý nhà
nƣớc, chính vì vậy quyền lực này phải bị hạn chế, kiểm sốt trƣớc hết là bởi chính
những ngƣời nắm giữ quyền lực ấy - nhân dân, và sau đó là bởi các cơ quan trong
bộ máy chính quyền.
Việc hạn chế, kiểm soát quyền lực nhà nƣớc nhằm các mục đích:
- Tránh lạm quyền, độc quyền, chuyên chế.
- Bảo vệ tốt nhất quyền con ngƣời, quyền công dân, bảo đảm công dân đƣợc
thực hiện các quyền tự do hiến định của mình.
- Ngồi ra cịn giúp đảm bảo thực hiện quyền lực nhà nƣớc một cách có hiệu
quả, có trách nhiệm.
Trên thế giới đã có rất nhiều mơ hình tổ chức nhà nƣớc khác nhau, có những
quốc gia thì theo con đƣờng phân quyền mạnh mẽ, lại có những nhà nƣớc thực hiện
phân quyền một cách mềm dẻo, linh hoạt…nhƣng tựu chung lại, mục đích cuối
cùng của sự phân cơng, phân chia quyền lực ấy cũng đều hƣớng đến việc làm sao

cho quyền lực nhà nƣớc đƣợc sử dụng một cách hữu hiệu, khơng có một chủ thể sử
dụng quyền lực nào có thể vƣợt qua ranh giới của sự phân định thẩm quyền làm
phƣơng hại đến các quyền dân chủ của cơng dân.
Hiện nay, mặc dù các cơng trình nghiên cứu đã đề cập vấn đề hạn chế lạm
dụng quyền lực nhà nƣớc nhƣng trên thực tế việc thực hiện vẫn gặp nhiều bất cập ở
nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam, tuy nhiên qua cách thức hạn chế


lạm dụng quyền lực nhà nƣớc thể hiện trong việc tổ chức, vận hành bộ máy chính
quyền của các quốc gia trên thế giới đã thể hiện nhiều hiệu quả tích cực đáng để
Việt Nam chúng ta tiếp thu, học hỏi.
Việt Nam ta hiện nay đang trên lộ trình xây dựng nhà nƣớc pháp quyền chủ
nghĩa xã hội, vì vậy vấn đề về quyền lực nhà nƣớc và các phƣơng thức hạn chế lạm
dụng quyền lực nhà nƣớc là vô cùng quan trọng để xây dựng một nhà nƣớc vững
mạnh mà quyền lực nhà nƣớc thực sự thuộc về nhân dân, một nhà nƣớc dân chủ.
Nghiên cứu, tìm hiểu các mơ hình tổ chức và hoạt động bộ máy nhà nƣớc, đặc biệt
là ở CHLB Đức, trong sự so sánh với Việt Nam, chúng ta sẽ tìm ra những cách thức
hợp lý, hữu hiệu cho việc xây dựng nhà nƣớc pháp quyền, chống lại sự lạm quyền,
bảo vệ nhân quyền, dân quyền.
2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Luận văn sẽ làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về nội
dung và thực tiễn của việc áp dụng những phƣơng thức hạn chế lạm dụng quyền lực
trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nƣớc ở một vài quốc gia theo các hình
thức chính thể tiêu biểu trên thế giới, đặc biệt là trong tổ chức bộ máy nhà nƣớc
CHLB Đức, trong sự so sánh, đối chiếu với bộ máy nhà nƣớc Việt Nam hiện nay.
Từ đó đánh giá những gì đã đạt đƣợc, những gì cịn tồn tại, thiếu sót để đề xuất
những phƣơng hƣớng, đem lại hiệu quả tốt hơn cho hoạt động của bộ máy chính
quyền nƣớc ta, hạn chế chống lại sự lạm dụng quyền lực của các cơ quan nhà nƣớc,
đảm bảo quyền công dân.
Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Làm rõ bản chất của quyền lực và quyền lực nhà nƣớc.
- Sự cần thiết phải hạn chế lạm dụng quyền lực nhà nƣớc.
- Các phƣơng thức hạn chế lạm dụng quyền lực nhà nƣớc.
- Các cơ chế thực hiện hạn chế lạm dụng quyền lực nhà nƣớc ở các mơ hình tổ
chức nhà nƣớc tiêu biểu trên thế giới.
- Các cơ chế thực hiện hạn chế lạm dụng quyền lực nhà nƣớc ở CHLB Đức
trong sự so sánh, đối chiếu với việc thực hiện vấn đề này ở Việt Nam hiện nay.
- Những mặt còn tồn tại trong việc hạn chế sự lạm dụng quyền lực nhà nƣớc ở
Việt Nam và đề xuất phƣơng hƣớng hoàn thiện.
3. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ dừng lại ở việc phân tích, so sánh, làm rõ
vấn đề, nhận xét, đánh giá từ đó đƣa ra đề xuất, kiến nghị mang tính tham khảo.
Đối tƣợng nghiên cứu là các mơ hình tổ chức nhà nƣớc tiêu biểu trên thế giới,
cơ quan nhà nƣớc ở một số quốc gia, điển hình là CHLB Đức và Việt Nam.


4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn luận văn
Luận văn này hồn thành sẽ góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
thực tiễn của những phƣơng thức hạn chế lạm dụng quyền lực nhà nƣớc, chống lại
sự độc tài, chuyên quyền của các cơ quan nhà nƣớc và đề xuất những giải pháp
trong tổ chức và hoạt động bộ máy chính quyền nhà nƣớc ở Việt Nam trong thời
gian tới, nhằm đảm bảo tốt nhất các quyền tự do dân chủ của công dân, tiến tới xây
dựng một nhà nƣớc pháp quyền thực sự vững chắc.
Kết quả của luận văn có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu tham khảo, phục vụ
trong công tác giảng dạy và nghiên cứu tại các cơ sở đào tạo luật.
5. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm:
- Lời mở đầu
- Hai chƣơng:
+ Chƣơng I: Lý luận cơ bản về phƣơng thức hạn chế lạm dụng quyền lực nhà

nƣớc.
+ Chƣơng II: So sánh giữa Cộng hòa liên bang Đức và Việt Nam về phƣơng
thức hạn chế quyền lực nhà nƣớc. Hƣớng hoàn thiện ở Việt Nam.
-

Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo.


CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHƢƠNG THỨC HẠN CHẾ
LẠM DỤNG QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC
1.1. Quyền lực nhà nƣớc và sự cần thiết hạn chế lạm dụng quyền lực nhà nƣớc
1.1.1. Quyền lực nhà nước
1.1.1.1. Khái quát về quyền lực
Khác với các loài động vật trên thế giới, con ngƣời đƣợc xem là sinh vật cấp
cao, có suy nghĩ và tổ chức. Trải qua hàng trăm triệu năm tiến hóa, con ngƣời ngày
càng phát triển và hồn thiện hơn, từ đó sự phân chia giai cấp trong xã hội lồi
ngƣời cũng đƣợc hình thành. Và khi con ngƣời ta đã có sự đầy đủ, thỏa mãn về mặt
vật chất thì nhu cầu về tinh thần sẽ đƣợc nghĩ đến, mà một trong những nhu cầu về
mặt tinh thần luôn đƣợc khao khát nhất đó chính là quyền lực, vì có quyền lực con
ngƣời sẽ tạo ra cho mình vơ số các lợi ích khác đi kèm với nó. Cho nên có thể
khẳng định rằng quyền lực ra đời và tồn tại song song với sự ra đời và tồn tại của
con ngƣời, tồn tại ở mọi cộng đồng có tổ chức.
Theo Bách khoa Triết học: “Quyền lực là khả năng thực hiện ý chí của mình
có tác động đến hành vi, phẩm hạnh của ngƣời khác nhờ một phƣơng tiện nào đó
nhƣ uy tín, quyền hành, nhà nƣớc, sức mạnh”.
“Quyền lực là cái mà ai nắm đƣợc thì buộc ngƣời khác phải phục tùng”1. Có
nghĩa là quyền lực tuy là một thứ vơ hình nhƣng lại có thể giúp ngƣời nắm giữ nó
điều khiển ngƣời khác, bắt các chủ thể khác phải phục tùng ý chí của mình. Sự áp
đặt ý chí này có thể dựa trên nhiều loại quyền lực nhƣ: quyền lực kinh tế, quyền lực

tinh thần, quyền lực tổ chức hay quyền lực chính trị…Để bắt ngƣời khác phải tuân
theo ý mình, đảm bảo những mệnh lệnh đƣợc thực hiện trên thực tế thì ngƣời cầm
quyền lại ban hành thêm những biện pháp mang tính cƣỡng chế để chắc chắn quyền
lực của mình ln đƣợc tơn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh2.
Quyền lực có cấu trúc phức tạp, tồn tại đan xen nhau, trong đó “đáng chú ý
nhất là quyền lực cơng cộng, quyền lực chính trị và quyền lực Nhà nƣớc”3.

1

Chính trị học đại cƣơng, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999, Tr.107.
“Một số vấn đề về tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước” (Nguyễn Minh Đoan - Bùi Thị Đào - Trần Ngọc
Định - Trần Thị Hiền - Lê Vƣơng Long - Nguyễn Văn Năm - Bùi Xuân Phái, NXB Chính trị Quốc gia, 2009,
Tr.11, 12): quyền lực đƣợc chia thành nhiều loại, có thể là quyền lực cá nhân, quyền lực cộng đồng, quyền
lực tổ chức; hay quyền lực bạo lực, quyền lực vật chất, quyền lực tinh thần; cũng có thể là quyền lực kinh tế,
quyền lực chính trị, quyền lực tôn giáo…Tuy nhiên, dù là loại quyền lực nào đi chăng nữa thì mục đích cuối
cùng của ngƣời nắm quyền là bắt buộc các chủ thể khác phải phục tùng mình, áp đặt ý chí lên các chủ thể
khác, tạo nên mối quan hệ mệnh lệnh - phục tùng, song song với đó là hệ thống các biện pháp cƣỡng chế để
đảm bảo mệnh lệnh của ngƣời nắm quyền đƣợc thực thi trên thực tế.
3
Dẫn theo Nguyễn Xuân Tế, Quyền lực chính trị và vấn đề thực hiện quyền lực chính trị trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 7/1999, Tr.22.
2

1


1.1.1.2. Quyền lực nhà nước
Quyền lực là công cụ để chủ thể nắm quyền chi phối các chủ thể khác. Nhƣ đã
phân tích, có nhiều loại quyền lực và dựa vào các quyền lực lực đó ngƣời ta có thể
tạo ra các mệnh lệnh, bắt ngƣời khác phải phục tùng, cơ chế mệnh lệnh - phục tùng

tồn tại từ rất lâu đời và không ngừng đƣợc cải thiện để phù hợp hơn khi xã hội
không ngừng tiến bộ từng ngày.
Tuy nhiên, một trong những loại quyền lực có thể nói là quan trọng nhất, lớn
mạnh nhất, có khả năng tác động đến mọi tầng lớp, giai cấp, mọi lĩnh vực trong đời
sống xã hội, nó vƣợt lên trên tất cả các quyền lực khác để đạt đến sự phục tùng
tuyệt đối, đó chính là quyền lực nhà nƣớc. Thứ quyền lực này là cơ sở để bảo vệ các
quyền lực khác đang cùng tồn tại trong một xã hội, không những vậy nó cịn bảo
đảm cho sự thống trị của giai cấp cầm quyền đƣợc vững bền.
Theo Từ điển Luật học: “Quyền lực nhà nƣớc là một bộ phận của quyền lực
chính trị và là trung tâm của quyền lực chính trị. Quyền lực nhà nƣớc bao trùm lên
tồn bộ lãnh thổ quốc gia. Nhà nƣớc quản lý mọi tầng lớp dân cƣ trong phạm vi
lãnh thổ, mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân trong một quốc gia đều phải tuân theo pháp
luật của nhà nƣớc”.
“Quyền lực nhà nƣớc là cơng cụ chun chính của một giai cấp, bảo đảm sự
thống trị về chính trị của giai cấp cầm quyền đối với các giai cấp và tầng lớp khác
trong toàn xã hội”4, chính vì vậy mà bất cứ một xã hội, một dân tộc nào cũng cần có
một thiết chế, một tổ chức đủ mạnh mẽ để thực hiện quyền lãnh đạo, điều hành xã
hội đó, và thiết chế mà chúng ta đang nhắc đến chính là nhà nƣớc với những cơng
cụ riêng có của nó để thực hiện quyền lực của mình.
Nhà nƣớc giữ một vai trị hết sức quan trọng với mỗi quốc gia, đây là thiết chế
chính trị trọng yếu, là công cụ hữu hiệu, cần thiết để vận hành, chỉ đạo toàn bộ hoạt
động đất nƣớc. Khơng những vậy, nhà nƣớc cịn là tổ chức trung gian làm giảm các
xung đột, căng thẳng trong xã hội, thay mặt cả đất nƣớc bang giao với nƣớc ngoài
trên các lĩnh vực của xã hội. Nhà nƣớc là một lực lƣợng “tựa hồ nhƣ đứng trên xã
hội”5 bởi vì nó ra đời và tồn tại do nhu cầu của xã hội, nó tạo điều kiện thúc đẩy các
quan hệ xã hội phát triển, đảm bảo đời sống con ngƣời trong xã hội đó. Ngồi ra
nhà nƣớc cịn giúp duy trì xã hội lồi ngƣời, tránh cho nó khỏi sự diệt vong.

4


Nguyễn Xuân Tế, Quyền lực chính trị và vấn đề thực hiện quyền lực chính trị trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nƣớc ta, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 7/1999, Tr.24.
5
Dẫn theo Nguyễn Đăng Dung - Trƣơng Đắc Linh - Nguyễn Mạnh Hùng - Lƣu Đức Quang - Nguyễn Văn
Trí, Xây dựng và bảo vệ Hiến pháp - Kinh nghiệm thế giới và Việt Nam (Sách chuyên khảo), NXB Giáo dục,
2010, Tr.25.

2


Chủ thể sử dụng quyền lực nhà nƣớc nhƣ một cơng cụ để áp đặt ý chí của
mình cho những chủ thể khác. Bằng các mệnh lệnh, giai cấp cầm quyền yêu cầu các
cá nhân, tổ chức trong xã hội phải thực hiện hành vi này hoặc không đƣợc thực hiện
hành vi khác. Tồn tại song song các mệnh lệnh ln là hệ thống các chế tài tƣơng
thích để đảm bảo những quyết định đó đƣợc tuân thủ nghiêm ngặt, và rằng các hành
vi đi ngƣợc lại lợi ích của giai cấp cầm quyền sẽ bị xử lý thích đáng.
Bởi vì quyền lực nhà nƣớc mang trong nó sức mạnh thực thi, cƣỡng chế tối
cao nên nó là thứ rất dễ bị lạm dụng. Quyền lực tạo ra lòng tham, sự tham quyền cố
vị của những ngƣời nắm quyền lực trong tay, ngƣời nào đã nắm quyền lực thì khơng
dễ từ bỏ quyền lực đó và có xu hƣớng tự mở rộng quyền lực của mình nhằm phục
vụ những mục đích cá nhân, dẫn đến tình trạng lạm quyền, tha hóa quyền lực.
1.1.2. Sự cần thiết phải hạn chế lạm dụng quyền lực nhà nước
Quyền lực nói chung và quyền lực nhà nƣớc nói riêng khơng do các lực lƣợng
siêu nhiên hay thần bí nào tạo ra mà quyền lực nhà nƣớc do con ngƣời tạo ra, ý nghĩ
về việc liên kết, tạo mối quan hệ giữa con ngƣời với nhau để cùng tồn tại và phát
triển đã hình thành từ rất sớm. Từ việc hình thành các bộ tộc hay bộ lạc để quản lý
cộng đồng cho đến ngày nay, mơ hình tổ chức hiện đại nhất ở tất cả các quốc gia
nhằm duy trì ổn định và phát triển xã hội đƣợc biết đến chính là thiết chế nhà nƣớc.
“Trong xã hội có giai cấp, con ngƣời khơng thể sống thiếu nhà nƣớc, nói cách khác
là sống trong trạng thái vơ chính phủ”6.

Quyền lực nhà nƣớc do con ngƣời tạo ra cho những mục đích thiết thực, dựa
vào quyền lực nhà nƣớc con ngƣời có thể quản lý đƣợc xã hội tốt hơn, ổn định và
phát triển hơn nhƣng bản tính vốn có của con ngƣời là “đam mê quyền lực”7, lúc
nào cũng muốn hơn ngƣời khác, sai khiến ngƣời khác thực hiện các mệnh lệnh của
mình nên họ ln tìm mọi cách nắm giữ và khơng ngừng tăng cƣờng thêm quyền
lực cho bản thân bằng nhiều cách thức khác khau nhằm đạt đƣợc tham vọng của
mình mà một trong những thứ quyền lực giúp ngƣời ta dễ sai khiến đƣợc ngƣời
khác nhất là quyền lực nhà nƣớc - thứ quyền lực vơ hình. Vì vậy, để phịng tránh
quyền lực nhà nƣớc rơi vào tay những ngƣời quá tham quyền cố vị có thể gây ra
những hậu quả khơn lƣờng thì cần thiết phải đặt ra vấn đề hạn chế lạm dụng quyền
lực nhà nƣớc, ngƣời nắm giữ quyền lực nhà nƣớc chỉ đƣợc sử dụng nó trong phạm
vi, giới hạn cho phép của mình để phục vụ cho lợi ích chính đáng của xã hội.

6

Nguyễn Đăng Dung, Hạn chế sự tùy tiện của cơ quan nhà nƣớc, NXB Tƣ pháp, Hà Nội, 2010, Tr.14.
Dẫn Theo Nguyễn Đăng Dung, Bản tính tùy tiện của nhà nƣớc, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 11/2008,
Tr.4.
7

3


Không thể phủ nhận tầm quan trọng của nhà nƣớc đối với mỗi xã hội loài
ngƣời trong việc thúc đẩy xã hội phát triển, và quyền lực nhà nƣớc là một trong
những công cụ hữu hiệu cho những nhà cầm quyền hiện thực hóa những chủ
trƣơng, chính sách của mình phục vụ xã hội, tuy nhiên, từ chỗ con ngƣời đam mê
quyền lực đã dẫn đến tình trạng khi nắm đƣợc quyền lực rồi thì thƣờng sử dụng tùy
tiện, bừa bãi, quyền lực nhà nƣớc dễ bị tha hóa, lạm dụng. Khi quyền lực nhà nƣớc
không đƣợc sử dụng đúng chức năng, mục đích vốn có của nó thì sẽ gây ra bất ổn

trong xã hội, kìm hãm sự phát triển của đất nƣớc, sự độc tài, chuyên quyền vì thế có
thể xâm lấn, xâm phạm vào các quyền tự do dân chủ của con ngƣời trong xã hội đó,
nhà nƣớc do đó dễ bị suy tàn, sụp đổ. Vì vậy khơng thể có quyền lực nhà nƣớc vơ
hạn mà cần phải giới hạn một cách cụ thể, rõ ràng trong các văn bản pháp luật ở các
quốc gia, mà quan trọng nhất là Hiến pháp - đạo luật tối cao của các quốc gia trên
thế giới - bên cạnh các quy định về quyền con ngƣời, nhằm tránh tình trạng các chủ
thể nắm quyền vƣợt quá phạm vi quyền hạn hiến định, xâm phạm các quyền cơ bản
của công dân, cần thiết phải hạn chế lạm dụng quyền lực nhà nƣớc để đảm bảo tính
tối cao của Hiến pháp.
Xuất phát từ mục đích tốt đẹp là để duy trì, phát triển xã hội loài ngƣời nhƣng
khi đƣa vào thực hiện, quyền lực nhà nƣớc lại dễ trở nên tha hóa, dễ bị xâm lấn làm
ảnh hƣởng đến hoạt động của bộ máy nhà nƣớc. Bộ máy chính quyền nếu vận hành
không tốt sẽ dẫn đến mâu thuẫn chồng chéo, hoạt động quản lý kém hiệu quả, độc
tài, lạm quyền dễ gây tác động tiêu cực đến các chủ thể khác trong xã hội. Vì vậy
việc kiểm sốt quyền lực nhà nƣớc là địi hỏi chính đáng, là nhu cầu không thể thiếu
trong các thiết chế xã hội dân chủ ngày nay.
1.2. Những phƣơng thức hạn chế lạm dụng quyền lực nhà nƣớc
1.2.1. Phân quyền trong bộ máy nhà nước
Tƣ tƣởng phân quyền đã đƣợc hình thành từ rất sớm, ngƣời ta cho rằng bất cứ
nơi nào có quyền lực thì sẽ dẫn đến hiện tƣợng lạm quyền, chuyên quyền. Và nếu
để cho quyền lực ấy tập trung vào tay của một các nhân hay một nhóm ngƣời mà
khơng có sự kiểm sốt thì lại càng thúc đẩy hơn nữa nguyên nhân phát sinh của mọi
sự chuyên chế, độc đoán. “Quyền lực nhà nƣớc ln có xu hƣớng tự mở rộng, tăng
cƣờng vai trị cho mình”8.
Vì vậy để tránh việc lạm dụng quyền lực nhà nƣớc sẽ xâm phạm các quyền tự
do dân chủ của ngƣời dân thì cách tốt nhất là phân quyền, tránh tập trung tất cả
quyền lực vào tay một cá nhân, cơ quan nào. Căn cứ vào các bộ phận hợp thành
8

Phạm Thế Lực, Ý nghĩa của lý thuyết phân quyền trong quá trình xây dựng nhà nƣớc pháp quyền ở Việt

Nam hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 11 tháng 7/2008, Tr.19.

4


quyền lực nhà nƣớc, có thể chia quyền lực nhà nƣớc làm ba nhánh: lập pháp, hành
pháp, tƣ pháp.
Phân quyền có nghĩa là quyền lực nhà nƣớc đƣợc phân tách thành các quyền
lập pháp, hành pháp, tƣ pháp và các quyền này đƣợc phân chia tƣơng ứng cho các
cơ quan nhà nƣớc khác nhau. Các cơ quan ấy có thể có chung hoặc khơng có chung
nhân viên với nhau, ngang bằng nhau và khá độc lập với nhau hoặc phụ thuộc nhau
ở một mức độ nhất định, có thể chịu trách nhiệm trƣớc nhau; trong hoạt động có thể
kiềm chế, kiểm sốt, thậm chí đối trọng với nhau để ngăn chặn sự lạm quyền, sự
chuyên quyền, độc đoán trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nƣớc, song lại phối
hợp với nhau, để tạo nên sự thống nhất của quyền lực nhà nƣớc9.
Theo học thuyết của nhà luật học ngƣời Pháp Montesquieu, quyền lực nhà
nƣớc chia ra làm ba nhánh quyền lực: lập pháp - hành pháp - tƣ pháp, độc lập với
nhau, không chồng chéo, mâu thuẫn với nhau. Mỗi nhánh quyền lực thực hiện một
chức năng, nhiệm vụ riêng trong khuôn khổ quy định của Hiến pháp, pháp luật. Với
điều kiện là luật pháp của Nhà nƣớc đó phải mang tính khách quan, cơng bằng, bảo
đảm các quyền tự do dân chủ của công dân, thể hiện ý chí của đơng đảo ngƣời dân
chứ khơng phải chỉ bảo vệ quyền lợi cho một bộ phận giai cấp nào đó trong xã hội.
Lập pháp ban hành các đạo luật để điều chỉnh các quan hệ trong xã hội; hành
pháp sẽ thực thi các đạo luật đó; và tƣ pháp nhận trách nhiệm xét xử những vụ việc
vi phạm pháp luật.
Tuy nhiên khơng thể có một cơ chế, một bộ máy nhà nƣớc nào mà các nhánh
quyền lại tách biệt, độc lập rạch rịi với nhau mà khơng có mối liên hệ nhất định vì
nhƣ vậy khơng thể vận hành nhà nƣớc một cách suôn sẻ, ăn khớp với nhau để giữ
vững ổn định và phát triển xã hội. Mặt khác, mục đích của việc phân quyền khơng
chỉ dừng lại ở việc phân chia các nhánh quyền lực mà còn hƣớng đến mục đích để

các nhánh quyền lực này kiểm soát, giám sát lẫn nhau nhằm hạn chế đến mức thấp
nhất tình trạng lạm quyền trong thực thi cơng quyền. Một nhánh quyền lực, bên
cạnh thực hiện quyền lực đƣợc giao cho, cịn đƣợc quyền can thiệp vào cơng việc
của hai nhánh quyền lực còn lại trong phạm vi, giới hạn hiến định để thực hiện chức
năng kiềm chế và đối trọng, nhằm tránh tình trạng các nhánh quyền lực thực hiện
vƣợt q thẩm quyền của mình, ảnh hƣởng cơng việc chung của cả bộ máy nhà
nƣớc. Theo đó:
+ “Lập pháp ban hành luật, giám sát việc thực hiện các đạo luật do nó ban
hành và truy tố những quan chức bộ máy hành pháp khi họ vi phạm trách nhiệm;
9

Nguyễn Thị Hồi, Tƣ tƣởng phân chia quyền lực nhà nƣớc với việc tổ chức bộ máy nhà nƣớc ở một số nƣớc,
NXB Tƣ pháp, 2005, Tr.18.

5


+ hành pháp có nhiệm vụ thực thi pháp luật, ngăn chặn những dự định tùy tiện
của cơ quan lập pháp;
+ sự độc lập của cơ quan tƣ pháp và các quan tịa nhằm bảo vệ cơng dân khỏi
sự xâm hại bởi những đạo luật của cơ quan lập pháp cũng là hành vi tùy tiện của cơ
quan hành pháp”10.
Tƣ tƣởng của học thuyết phân quyền đã có từ rất lâu và cho đến tận ngày nay,
giá trị của nó vẫn còn nguyên vẹn và đƣợc vận dụng một cách rộng rãi trong tổ chức
và hoạt động bộ máy nhà nƣớc ở nhiều quốc gia trên thế giới nhƣ là một trong
những phƣơng thức hữu hiệu để kiềm chế sự lạm dụng quyền lực nhà nƣớc, đồng
thời đây còn đƣợc coi là một “cơ chế vận hành quyền lực nhà nƣớc một cách dân
chủ và hiệu quả”11.
1.2.2. Chủ nghĩa lập hiến và xây dựng nhà nước pháp quyền
Chủ nghĩa lập hiến là “sự cai trị bằng pháp luật. Nó đặt ra giới hạn cho quyền

lực nhà nƣớc, xác định quyền của cá nhân và trù liệu sự lạm quyền của nhà nƣớc” 12.
“Nhà nƣớc pháp quyền là một phƣơng thức tổ chức và vận hành xã hội trên
cơ sở của các quyền. Các quyền này đƣợc phân định và tổ chức sao cho sự lạm
quyền không thể xảy ra và quyền tự do dân chủ của ngƣời dân đƣợc bảo vệ. Hiến
pháp là công cụ quan trọng nhất để xác lập và phân định các quyền”13.
Điều này có nghĩa là, nhà nƣớc pháp quyền trƣớc hết cũng phải có sự phân
chia quyền lực nhà nƣớc thành ba nhánh quyền lập pháp, hành pháp, tƣ pháp; phải
có sự tổ chức bộ máy nhà nƣớc chặt chẽ, phân công, phân nhiệm rõ ràng cả về chiều
ngang lẫn chiều dọc để tránh mâu thuẫn, chồng chéo thẩm quyền. Nhà nƣớc quản lý
xã hội dựa trên công cụ duy nhất là pháp luật, từ đó đặt ra u cầu phải đảm bảo
tính minh bạch, công khai của pháp luật, thống nhất pháp luật để dễ dàng áp dụng
rộng rãi trên phạm vi cả quốc gia. Các nhánh quyền lực phải thực thi theo pháp luật
một mặt là để vận hành thông suốt bộ máy chính quyền, mặt khác tạo cơ chế pháp
lý hữu hiệu cho quyền công dân luôn đƣợc đảm bảo khỏi sự xâm phạm của các cơ
quan công quyền.
Nhà nƣớc pháp quyền trái ngƣợc với nhà nƣớc độc tài, chuyên chế. Lịch sửcho
thấy rằngcác nhà nƣớc chiếm hữu nô lệ, phong kiến hay độc tài phát-xít, tất cả
quyền lực nhà nƣớc đều nằm trong tay một cá nhân mà khơng có bất cứ khuôn khổ
10

Phạm Thế Lực, Ý nghĩa của lý thuyết phân quyền trong quá trình xây dựng nhà nƣớc pháp quyền ở Việt
Nam hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 11 tháng 7/2008, Tr.19.
11
Dẫn theoNguyễn Đăng Dung - Trƣơng Đắc Linh - Nguyễn Mạnh Hùng - Lƣu Đức Quang - Nguyễn Văn
Trí, Xây dựng và bảo vệ Hiến pháp - Kinh nghiệm thế giới và Việt Nam (Sách chuyên khảo), NXB Giáo dục,
2010, Tr.33.
12
Đỗ Minh Khôi, Cách thức chế ngự quyền lực nhà nƣớc, Tạp chí Khoa học pháp lý số 1/2006, Tr.49.
13
Nguyễn Đăng Dung, Hạn chế quyền lực nhà nƣớc, NXB Đại học Quốc Gia, Hà Nội, 2005.


6


pháp lý nào để giới hạn, nhân dân không đƣợc quyền tham gia vào cơng việc quản
lý nhà nƣớc…Chính điều đó đã dẫn đến tình trạng thâu tóm, củng cố và không
ngừng tăng cƣờng quyền lực cho bản thân, đồng thời cịn xâm phạm các quyền cơ
bản của cơng dân, không đảm bảo tự do dân chủ và ảnh hƣởng đến sự phát triển của
xã hội.
Nhà nƣớc pháp quyền cũng không phải là nhà nƣớc pháp trị mà nhà nƣớc
pháp quyền đề cao, tôn trọng pháp luật, mọi hoạt động của nhà nƣớc và xã hội đều
thực hiện tuân theo sự quy định của pháp luật. “Pháp luật đƣợc ƣu tiên hơn chính
trị”14 và “các hoạt động chính trị nằm trong sự khống chế của pháp luật”15. Có nghĩa
là, trong một nhà nƣớc pháp quyền, nhà cầm quyền không đƣợc phép sử dụng pháp
luật nhƣ một công cụ cai trị ngƣời dân, mà pháp luật phải là công cụ bảo đảm các
quyền lợi chính đáng cho cơng dân. Hơn nữa, một nhà nƣớc pháp quyền phải là nhà
nƣớc mà ở đó khơng có chủ thể nào đứng trên hoặc đứng ngồi pháp luật, pháp luật
là khn khổ cho mọi hoạt động trong đời sống của quốc gia.
Từ điển Xã hội học khẳng định rằng: “Nhà nƣớc pháp quyền là loại hình nhà
nƣớc có nhiều khả năng nhất trong việc chống lại xu hƣớng độc quyền về quyền lực
và xu hƣớng quan liêu hóa bộ máy quyền lực”16.
Nhà nƣớc là cần thiết với xã hội loài ngƣời nhƣng những ngƣời nắm giữ quyền
lực thƣờng sử dụng không đúng, vƣợt quá quyền hạn của mình, nhà nƣớc pháp
quyền cùng với chủ nghĩa lập hiến ra đời khơng nằm ngồi mục đích hạn chế,
phòng chống sự tùy tiện, lạm quyền của các cơ quan nhà nƣớc. Xu hƣớng mở rộng
quyền lực của các cơ quan công quyền luôn luôn tồn tại trong bất cứ mơ hình nhà
nƣớc nào, vì vậy nếu muốn hạn chế bớt những hành vi lạm quyền có thể xảy ra, bảo
đảm cho một bộ máy luôn đƣợc trong sạch, vững mạnh thì cần thiết phải ban hành
những cơng cụ, cách thức hữu hiệu để giới hạn quyền lực. Và một trong những công
cụ tốt nhất, hiệu quả nhất giới hạn đƣợc quyền lực của các cơ quan nhà nƣớc chính

là hệ thống pháp luật, đứng đầu là Hiến pháp.
Pháp luật, quan trọng nhất là Hiến pháp, ngồi việc đóng vai trị là cơng cụ
quản lý, điều chỉnh mọi hoạt động của các chủ thể trong xã hội, đặc biệt là hoạt
động của các cơ quan cơng quyền thì nó cịn phải thể hiện đƣợc ý chí của nhân dân
cả nƣớc. Pháp luật của nhà nƣớc pháp quyền phải thể hiện đƣợc nguyện vọng của
nhân dân, phải phục vụ cho lợi ích của nhân dân trong xã hội đó, đảm bảo tính dân
14

Ngơ Huy Cƣơng, Nhà nƣớc pháp quyền với việc xây dựng chính quyền, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 6
tháng 7 năm 2001, Tr.31.
15
Ngô Huy Cƣơng, Nhà nƣớc pháp quyền với việc xây dựng chính quyền, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 6
tháng 7 năm 2001, Tr.31.
16
Nguyễn Khắc Viện, Từ điển Xã hội học, NXB Thế giới, Hà Nội, 1994.

7


chủ trong đời sống xã hội, đó là một nhà nƣớc của dân, do dân và vì dân, khi đó sự
tồn tại của nhà nƣớc pháp quyền mới có ý nghĩa. Khi nhà nƣớc pháp quyền dùng
công cụ pháp luật bảo vệ các quyền của cơng dân thì lúc đó các thiết chế trong nhà
nƣớc mới chịu sự kiểm soát, giám sát việc thực hiện quyền lực của họ tránh khỏi sự
xâm phạm vào các quyền công dân.
1.2.3. Cơ chế bảo hiến
Cơ chế giám sát Hiến pháp đƣợc hiểu là hệ thống các thiết chế (tổ chức), hình
thức và phƣơng pháp (biện pháp) hoạt động, khách thể và đối tƣợng tác động, đƣợc
quy định bởi hệ thống văn bản pháp luật, trƣớc hết là Hiến pháp vận hành trong một
nhà nƣớc và xã hội nhất định (với những tác động đa chiều thuận, nghịch...), bảo
đảm bộ máy nhà nƣớc nói chung, từng cơ quan nhà nƣớc nói riêng và các chủ thể

khác trong xã hội tuân thủ Hiến pháp, bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp. Cơ chế
giám sát Hiến pháp là công cụ, phƣơng thức quan trọng trong việc tổ chức và thực
hiện quyền lực nhà nƣớc17.
Vì nhà nƣớc ln có xu hƣớng lạm dụng quyền lực và xâm phạm các quyền
con ngƣời, đây chính là “mặt trái của Nhà nƣớc”18 cho nên cần phải có một văn bản
pháp lý để ngăn chặn, phịng ngừa tình trạng nói trên, đồng thời giúp cho việc vận
hành bộ máy nhà nƣớc đƣợc hiệu quả hơn. Và văn bản pháp lý đó chính là Hiến
pháp - đạo luật gốc, luật cơ bản của các quốc gia dân chủ trên thế giới. Hiến pháp
các quốc gia trên thế giới luôn tồn tại hai nội dung cơ bản: tổ chức bộ máy nhà nƣớc
và ghi nhận các quyền công dân.
Để đảm bảo các chủ thể mang quyền lực nhà nƣớc không lạm dụng quyền lực,
tránh sự tùy tiện trong thực thi quyền lực đồng thời cũng là để bảo vệ tính tối cao
của Hiến pháp thì vấn đề đặt ra là cần phải có cơ chế giám sát độc lập, khách quan
để xem xét, kiểm tra, giám sát các nhánh quyền lực: đảm bảo đạo luật của Nghị viện
không vi hiến, hành vi của Chính phủ là hợp hiến,…
Hiện nay trên thế giới có hai mơ hình giám sát Hiến pháp chủ yếu là: Tịa án
thƣờng có chức năng bảo hiến và Tịa án Hiến pháp độc lập. Ngồi thực hiện chức
năng chính là kiểm tra, giám sát các hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà
nƣớc để xem xét tính hợp hiến hay vi hiến, đảm bảo hạn chế và ngăn ngừa các biểu
hiện của lạm quyền, bảo đảm quyền cơng dân, thì một số mơ hình bảo hiến ở Trung
và Đơng Âu cịn thực hiện thêm những chức năng khác nhƣ: xét xử những vụ việc
17

Trƣờng Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Cơ chế giám sát Hiến pháp với việc bảo đảm quyền con
ngƣời (Sách chuyên khảo), NXB Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, 2013, Tr.15.
18
Dẫn theo Nguyễn Đăng Dung - Trƣơng Đắc Linh - Nguyễn Mạnh Hùng - Lƣu Đức Quang - Nguyễn Văn
Trí, Xây dựng và bảo vệ Hiến pháp - Kinh nghiệm thế giới và Việt Nam (Sách chuyên khảo), NXB Giáo dục,
2010, Tr.26.


8


liên quan đến bầu cử, trƣng cầu dân ý, đàn hạch (luận tội) Tổng thống hay xem xét
tính hợp pháp của các chính đảng...
Ngồi ra để cơ chế bảo hiến thực sự mang lại hiệu quả cao thì cần phải có một
cơ quan bảo hiến với chun mơn cao, trình độ sâu rộng, uyên bác, có kinh nghiệm
làm nhiệm vụ giải thích Hiến pháp, có nhƣ vậy mới đảm bảo việc áp dụng, thực
hiện Hiến pháp, pháp luật đƣợc thống nhất trong cả nƣớc; tránh hiểu sai hoặc cố ý
hiểu sai tinh thần luật pháp để phục vụ mục đích lạm quyền của mình.
Bên cạnh đó, một cơ chế giám sát hiến pháp chuyên trách, mạnh mẽ sẽ bảo vệ
quyền lợi chính đáng của cơng dân trƣớc sự tùy tiện trong sử dụng quyền lực nhà
nƣớc gây ảnh hƣởng đến quyền tự do hiến định của họ.
1.2.4. Ghi nhận quyền cơ bản của công dân và quyền con người
Nhà nƣớc khơng tự nhiên mà có mà sự ra đời của nhà nƣớc gắn với nhu cầu
của xã hội, nhằm giữ vững ổn định và phát triển xã hội đó. Trong bộ máy nhà nƣớc,
các cơ quan liên kết chặt chẽ, mật thiết với nhau tạo nên tính thơng suốt, mạch lạc
cho hoạt động quản lý, tuy nhiên để hoạt động quản lý đó đƣợc dễ dàng, hiệu quả
cần thiết phải tạo cho bộ máy nhà nƣớc những quyền năng nhất định. Nhƣ vậy, để
thành lập nên nhà nƣớc, ngƣời dân đã ủy thác một phần quyền năng vốn có của
mình cho các thiết chế nhà nƣớc, đến lƣợt mình, những thiết chế này sử dụng quyền
lực đƣợc ủy thác nhƣ một công cụ điều hành ngƣợc lại xã hội đồng thời bị giám sát
bởi chính những ngƣời ủy thác quyền cho mình.
Nhà nƣớc nhận quyền lực từ dân chúng nhƣng không phải là tất cả, ngƣời dân
vẫn giữ lại cho mình những quyền cơ bản nhất, tự nhiên nhất vốn có của mình.
Thơng qua một bản “giao kèo”, “cam kết” giữa nhân dân và cơ quan nhà nƣớc, nhân
dân mong muốn ngoài việc phải quản lý xã hội, nhà nƣớc còn phải bảo vệ con
ngƣời, hƣớng con ngƣời tới một cuộc sống tốt đẹp hơn, nếu nhà nƣớc không thực
hiện đúng những thỏa thuận này, thơng qua hình thức kiểm tra, giám sát, ngƣời dân
sẽ lật đổ nhà nƣớc đó và thiết lập một nhà nƣớc khác hiệu quả hơn. Tuy nhiên, trƣớc

khi nhân dân có thể thực hiện đƣợc quyền năng của mình trong các hoạt động quản
lý đất nƣớc thì điều quan trọng nhất là ngƣời dân phải đƣợc bảo vệ các quyền cơ
bản, quyền vốn có của mình. Hai cơ chế ngăn ngừa lạm quyền và bảo vệ quyền con
ngƣời, quyền cơng dân có mối liên hệ, tác động qua lại với nhau, việc bảo vệ quyền
con ngƣời, quyền công dân sẽ không đạt hiệu quả cao nếu thiếu các cách thức
phòng chống sự lạm quyền của cơ quan nhà nƣớc.
Hạn chế lạm dụng quyền lực không chỉ thể hiện bằng sự ủy thác quyền lực
giữa nhân dân và bộ máy nhà nƣớc mà còn đƣợc thể hiện thông qua sự ghi nhận
quyền con ngƣời và quyền công dân trong Hiến pháp.
9


Quyền con ngƣời tồn tại một cách tự nhiên, gắn với mỗi cá nhân, những quyền
này không phải do nhà nƣớc hay bất cứ một chủ thể nào trao cho, ban phát vì vậy
quyền con ngƣời là bất khả xâm phạm, và việc ghi nhận quyền con ngƣời trong
Hiến pháp phải đƣợc thể hiện một cách hiển nhiên, cụ thể, rõ ràng. Quyền cơ bản
của công dân phát sinh trên cơ sở quyền con ngƣời, khi sống trong một đất nƣớc,
một quốc gia, cơng dân có đầy đủ các quyền tự do, dân chủ của mình. Thơng qua
việc ghi nhận các quyền công dân trong Hiến pháp, nhà nƣớc đã tạo cơ sở pháp lý
cho cơng dân của mình thực hiện quyền làm chủ và khả năng tham gia vào các cơng
việc chung của đất nƣớc một cách bình đẳng, hợp pháp. Các cơ quan nhà nƣớc phải
đảm bảo tôn trọng và bảo vệ các quyền lợi chính đáng cho cơng dân của mình, tạo
điều kiện để ngƣời dân có thể phát huy những giá trị tốt đẹp của bản thân.
Từ việc ghi nhận các quyền con ngƣời, quyền công dân, các nhà nƣớc còn cho
thấy bản chất của một nhà nƣớc dân chủ là mọi quyền lực nhà nƣớc phải thuộc về
nhân dân và do nhân dân quản lý. Có nhƣ vậy mới tạo ra đƣợc cơ chế cho nhân dân
giám sát việc thực hiện quyền lực của bộ máy chính quyền, đảm bảo khơng tùy tiện,
lạm quyền trong sử dụng quyền lực.
1.2.5. Giám sát của nhân dân
Nhà nƣớc đƣợc hình thành nhằm mục đích phục vụ cho xã hội, đảm bảo cho

các quan hệ xã hội trong nhà nƣớc đó ln ổn định và phát triển. Ngày nay, việc tổ
chức mơ hình nhà nƣớc ngồi ý nghĩa nhƣ trên cịn có ý nghĩa quan trọng hơn là
bảo vệ quyền lợi của công dân trong xã hội, quyền công dân ln đƣợc tơn trọng.
Với ý nghĩa đó, các nhà nƣớc dân chủ lần lƣợt xuất hiện. Yêu cầu tiên quyết của
một nhà nƣớc dân chủ là phải đảm bảo toàn bộ quyền lực nhà nƣớc thuộc về quần
chúng nhân dân. Nhân dân làm chủ đất nƣớc nhƣng các thiết chế nhà nƣớc mới là
ngƣời thay mặt nhân dân trực tiếp quản lý, điều hành đất nƣớc. Nhằm đảm bảo
những thiết chế này luôn thực hiện đúng quyền năng đƣợc trao cho, thể hiện đúng
tâm tƣ nguyện vọng của dân trong từng chủ trƣơng, chính sách thì nhân dân sẽ kiểm
tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc đó.
Và bởi vì “quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn đến sự tha hóa tuyệt đối” 19, nhà nƣớc
mang trong mình thứ quyền lực tối cao, với quyền năng đó, các cơ quan nhà nƣớc
có thể chi phối đời sống xã hội, kể cả theo hƣớng tích cực lẫn tiêu cực, cho nên để
phòng tránh những trƣờng hợp các cơ quan nhà nƣớc dùng quyền lực một cách sai
trái, gây tác động xấu đến xã hội, đến con ngƣời trong xã hội thì yêu cầu đặt ra là
nhân dân phải giám sát các cơ quan cơng quyền đó. Giám sát của nhân dân là cơ chế

19

Nguyễn Đăng Dung, Hạn chế quyền lực nhà nƣớc, NXB Đại học Quốc Gia, Hà Nội, 2005, Tr.38.

10


cần thiết và hữu hiệu để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình, hạn chế sự
tùy tiện, lạm quyền của cơ quan nhà nƣớc.
“Khả năng vƣợt quyền, lạm quyền của quan chức là một trong những nguyên
nhân chủ yếu làm cho quyền lực chân chính của nhân dân trở thành quyền lực của
một ngƣời, một nhóm ngƣời”20. Cho nên, thơng qua các hình thức giám sát khác
nhau, nhân dân sẽ kiểm tra, giám sát đƣợc các hành vi của cơ quan nhà nƣớc để

đảm bảo quyền lực nhà nƣớc không bị lạm dụng, các quyền lợi hợp pháp của công
dân đƣợc tôn trọng.
Ngày nay, việc giám sát của nhân dân đƣợc thực hiện bởi nhiều cách thức đa
dạng và khơng ngừng đƣợc củng cố, mở rộng, có thể liệt kê các hình thức nhƣ: bầu
cử, ứng cử; cử tri đƣợc bãi nhiệm Đại biểu Quốc Hội; chất vấn, bỏ phiếu tín nhiệm
của cử tri; trƣng cầu dân ý; tự do ngơn luận, tự do báo chí,… Đây là những quyền
cơ bản mà ngƣời dân đƣợc quyền thực hiện để kiểm soát quyền lực của cơ quan nhà
nƣớc.
Đối với bầu cử thì đây là phƣơng pháp thể hiện sự tín nhiệm của nhân dân đối
với một cá nhân nào đó, tiến cử những chủ thể đó và trao cho họ những quyền năng
nhất định trong hoạt động quản lý nhà nƣớc. Đây là quyền rất quan trọng của công
dân cũng là phƣơng thức cơ bản nhất, hiệu quả nhất để nhân dân ràng buộc trách
nhiệm của của các quan chức nhà nƣớc. Ngƣời đƣợc nhân dân tín nhiệm sẽ đƣợc
trao quyền hạn nhất định để thực hiện quyền lực nhà nƣớc, tuy nhiên, quyền lực này
không phải là vô hạn, vì gắn với ngun tắc bầu cử phổ thơng đó là chế độ nhiệm
kỳ. Với việc nhân dân trao quyền cho các chủ thể nắm quyền lực nhà nƣớc trong
một thời gian nhất định gọi là nhiệm kỳ, hết nhiệm kỳ nhân dân sẽ lựa chọn để bầu
ra chủ thể khác để trao quyền lực nhà nƣớc thì đây chính là một trong những cách
thức dân chủ nhất để thực hiện quyền lực nhà nƣớc mà hạn chế đƣợc tình trạng thao
túng, chun quyền thâu tóm quyền lực của những quan chức nhà nƣớc.
Song song với việc nhân dân bầu cử chọn ngƣời lãnh đạo đất nƣớc thì trong
suốt quá trình những chủ thể này nắm quyền, nhân dân sẽ là ngƣời giám sát, kiểm
tra hoạt động của họ để kịp thời phát hiện những sai sót, yếu kém, đề nghị khắc
phục, sửa đổi kịp thời và quan trọng hơn nếu những nhà cầm quyền này có biểu
hiện của lạm quyền, chun quyền thì nhân dân có quyền bất tín nhiệm hoặc bãi
nhiệm đại biểu khơng đủ tƣ cách để thay thế bằng những ngƣời có năng lực hơn,
xứng đáng với lòng tin của ngƣời dân hơn. Qua việc nhân dân thực hiện quyền bầu
cử cũng nhƣ bất tín nhiệm, bãi nhiệm Đại biểu sẽ buộc các chủ thể cầm quyền này
20


Nguyễn Mạnh Bình, Hồn thiện cơ chế pháp lý giám sát xã hội đối với việc thực thi quyền lực nhà nƣớc ở
Việt Nam hiện nay (Sách tham khảo), NXB Chính trị Quốc gia, 2012, Tr.24.

11


làm trịn trách nhiệm của mình trƣớc nhân dân cả nƣớc, tăng cƣờng tính chất dân
chủ trong nhà nƣớc.
Ngồi hai quyền năng cơ bản trên, nhân dân còn đƣợc quyền tham gia vào
những công việc của nhà nƣớc, xã hội để giám sát, theo dõi hoạt động của cơ quan
công quyền nhằm tránh các biểu hiện của việc lạm dụng quyền lực nhà nƣớc. Đây là
cơ sở để thực hiện quyền trưng cầu dân ý. Đối với những vấn đề quan trọng của đất
nƣớc nhƣ sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, ban hành Hiến pháp mới hoặc những vấn đề
quan trọng về thể chế, đƣờng lối chính trị của quốc gia…cần sự đồng ý, chấp thuận
của đông đảo ngƣời dân trong cả nƣớc, để đảm bảo quyền quyết định thuộc về toàn
thể nhân dân, để thể hiện một nhà nƣớc dân chủ thì những vấn đề đó cần phải đƣợc
đƣa ra trƣng cầu ý dân, để ngƣời dân là ngƣời quyết định sau cùng cho những chính
sách, hoạch định có ý nghĩa quan trọng với cả quốc gia.
Tuy nhiên, để việc giám sát đƣợc khách quan, đạt hiệu quả thì nhân dân phải
tiếp cận, nắm bắt đƣợc những thông tin về hoạt động của bộ máy nhà nƣớc. Điều
này đòi hỏi những hoạt động của bộ máy nhà nước phải được công khai minh bạch
để đảm bảo quyền lực nhà nƣớc không bị lạm dụng, là cơ sở vững chắc cho việc
thực hiện quyền kiểm tra, giám sát.
Ngoài ra, nhân dân cịn có các quyền khác trong việc giám sát của mình nhƣ
quyền biểu tình, khiến nại, tố cáo…Với nhiều quốc gia, đặc biệt là ở các nƣớc đa
đảng thì việc trong nội bộ có mâu thuẫn là khơng thể tránh khỏi, tình trạng đất nƣớc
khơng ổn định sẽ dễ dẫn đến xung đột, làm ảnh hƣởng tới sự ổn định, phát triển của
xã hội và cuộc sống ngƣời dân thì nhân dân sẽ thơng các hình thức biểu tình để thực
hiện quyền của mình, chọn lựa ra những đảng phái chính trị có phƣơng thức, đƣờng
lối chính trị hiệu quả hơn nhằm giải quyết xung đột nội bộ cũng nhƣ nâng cao hiệu

quả hoạt động bộ máy nhà nƣớc, tránh các hành vi lạm dụng quyền lực từ phía các
quan chức nhà nƣớc. Bên cạnh đó, thơng qua quyền khiếu nại, tố cáo, nhân dân sẽ
kịp thời phát hiện các hành vi sai trái, vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền con
ngƣời, quyền công dân của các chủ thể mang quyền lực nhà nƣớc để có biện pháp
yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền xử lý kịp thời, chấn chỉnh, làm trong sạch bộ
máy nhà nƣớc.
Nhƣ vậy, với một nhà nƣớc dân chủ thì tất cả quyền lực đều thuộc về nhân
dân. Các cơ quan nhà nƣớc đƣợc nhân dân ủy quyền tổ chức và thực hiện quyền lực
nhà nƣớc, đảm bảo cho sự tồn tại vững bền của một đất nƣớc, một dân tộc. Nhân
dân không trao hết tất cả quyền lực của mình cho nhà nƣớc mà vẫn giữ lại các
quyền cơ bản để có thể can thiệp vào công việc của cơ quan công quyền nhằm đảm

12


bảo các quan chức nhà nƣớc không chuyên quyền, tùy tiện khi sử dụng quyền lực
nhà nƣớc.
1.2.6. Giám sát từ bên ngoài
Mặc dù tồn tại nhiều phƣơng thức hạn chế quyền lực nhà nƣớc từ trong lòng
xã hội nhƣ đã phân tích ở trên nhƣng thực tế tình trạng lạm quyền, vi phạm quyền
con ngƣời, quyền cơng dân vẫn có nguy cơ diễn ra. Chính vì vậy để hạn chế lạm
dụng quyền lực nhà nƣớc vẫn cần có cơ chế giám sát từ bên ngoài, từ những tổ
chức, quốc gia trên thế giới để đảm bảo các vấn đề về nhân quyền, ổn định tình hình
chính trị - xã hội của đất nƣớc.
Chủ quyền quốc gia là bất khả xâm phạm, tuy nhiên khi một đất nƣớc xảy ra
bạo loạn, chiến tranh hoặc việc thực thi công quyền xâm phạm nghiêm trọng quyền
con ngƣời, quyền cơng dân thì bằng các cách thức, cơ chế khác nhau các chủ thể
ngoài nhà nƣớc sẽ can thiệp một cách phù hợp để giải quyết các bất ổn đó, đảm bảo
trật tự chính trị cho một quốc gia cũng nhƣ cho nền hịa bình, văm minh của toàn
nhân loại. Và để hoạt động này mang lại hiệu quả trên thực tế thì “sự chế ngự phải

chính đáng và thể hiện ý chí tiến bộ của nhân loại nhằm ngăn chặn tình trạng vi
phạm nghiêm trọng quyền con ngƣời hoặc thảm họa diệt chủng”21.
Hiện nay, các quốc gia trên thế giới thƣờng xuyên viện các lý do về nhân
quyền để can thiệp bất hợp pháp vào lãnh thổ một quốc gia khác (thƣờng là những
quốc gia có những điều kiện thuận lợi về địa lý, tài nguyên, khoáng sản, nhân
lực,…) nhằm thực hiện những mƣu đồ, toan tính chính trị riêng. Trƣớc diễn biến
hịa bình đang diễn ra ngày một cao trên thế giới nhƣ hiện nay đòi hỏi tự thân các
quốc gia cần phải xây dựng, củng cố nhà nƣớc ổn định, phát triển, vững bền; một
nhà nƣớc thực sự dân chủ, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, nơi mà các cơ quan
công quyền thực thi quyền lực nhà nƣớc dƣới sự giám sát, kiểm tra thƣờng xuyên,
chặt chẽ của quần chúng nhân dân để góp phần hạn chế, ngăn chặn việc thao tóm,
lạm dụng quyền lực nhà nƣớc của các quan chức trong bộ máy nhà nƣớc.
1.3. Phƣơng thức hạn chế lạm dụng quyền lực nhà nƣớc trong một số mơ hình
nhà nƣớc tiêu biểu trên thế giới
1.3.1. Mơ hình nhà nước theo chế độ đại nghị
Bất cứ nhà nƣớc dân chủ nào thì quyền lực nhà nƣớc cũng đều thuộc về nhân
dân, tuy nhiên nhân dân ủy quyền cho các cơ quan nhà nƣớc để quản lý đất nƣớc, và
để phân tách rạch ròi quyền lực nhà nƣớc, hạn chế lạm quyền cần phải chia quyền
lực thành các nhánh riêng biệt, đó là ba nhánh quyền: lập pháp - hành pháp - tƣ

21

Đỗ Minh Khôi, Cách thức chế ngự quyền lực nhà nƣớc, Tạp chí Khoa học pháp lý số 1/2006, Tr.52.

13


pháp. Sự phân quyền trong chế độ đại nghị không độc lập rạch rịi nhƣ mơ hình nhà
nƣớc theo chế độ cộng hòa tổng thống, và các nhánh quyền lực này cũng không
kiềm chế, đối trọng mạnh mẽ với nhau mà có sự ràng buộc, chịu trách nhiệm lẫn

nhau ở một mức độ nhất định, do đó các nhà lập pháp gọi đây là mơ hình nhà nƣớc
có sự phân quyền mềm dẻo.
Đại diện cho chế độ đại nghị có hai mơ hình:
+ Qn chủ đại nghị, đại diện tiêu biểu là Vƣơng quốc Anh, Hà Lan, Đan
Mạch, Tây Ban Nha, Nhật Bản, Thái Lan…
+ Cộng hòa đại nghị, đại diện cho mơ hình này có Italia, CHLB Đức, Ấn Độ,
Áo, Thụy Sỹ…
Chế độ đại nghị (chế độ Nghị viện): những mơ hình nhà nƣớc này rất suy tơn,
đề cao Nghị viện, Nghị viện có nhiều quyền năng mà chủ yếu và quan trọng nhất
chính là quyền lập pháp, tuy nhiên Nghị viện (thông thƣờng là Hạ viện) lại do nhân
dân bầu ra từ các đảng phái chính trị trong xã hội theo nguyên tắc phổ thông trực
tiếp. Nhƣ vậy có nghĩa là Nghị viện phải chịu sự giám sát của toàn thể nhân dân
trong cả nƣớc, hạn chế sự tùy tiện trong thực hiện quyền lực nhà nƣớc trƣớc nhân
dân.
Nghị viện ở các quốc gia trên thế giới đều đƣợc trao cho quyền lập pháp. Với
quyền năng này, Nghị viện sẽ sáng tạo ra các đạo luật điều chỉnh các vấn đề phát
sinh trong đời sống xã hội của một quốc gia, đồng thời bắt các chủ thể khác, kể cả
các cơ quan nhà nƣớc lẫn dân chúng, phải tn theo những định chế đó.
Ngồi chức năng lập pháp, nghị viện ở các nƣớc theo mơ hình này cịn là chủ
thể thành lập ra các thiết chế khác trong bộ máy nhà nƣớc nhƣ Tổng thống, Chính
phủ, Thủ tƣớng, vì vậy Nghị viện có quyền kiểm tra, giám sát các cơ quan do mình
lập ra, những cơ quan này sẽ chịu trách nhiệm, hạn chế sự lạm quyền trƣớc Nghị
viện.
Tuy là thiết chế đƣợc coi trọng nhất trong bộ máy chính quyền các nƣớc theo
chính thể đại nghị cũng nhƣ đƣợc trao nhiều quyền năng quan trọng, song Nghị viện
vẫn là một trong những đối tƣợng cần phải chế ƣớc quyền lực bên cạnh các nhánh
quyền lực nhà nƣớc khác để tránh sự tùy tiện, lạm quyền khi sử dụng quyền lực. Đó
là, Nghị viện phải chịu trách nhiệm trƣớc dân chúng về hoạt động của mình; Chính
phủ có thể can thiệp vào chức năng lập pháp của Nghị viện bằng con đƣờng trình dự
án luật; Tƣ pháp xem xét, kiểm tra tính hợp hiến của các đạo luật thơng qua hệ

thống Tịa án bảo hiến đặc biệt.
Chính thể cộng hịa đại nghị có nhiều điểm tƣơng đồng với chính thể quân chủ
đại nghị, chỉ khác ở chế định nguyên thủ quốc gia - ngƣời đứng đầu nhà nƣớc. Nếu
14


ngun thủ quốc gia là Hồng đế đƣợc hình thành bằng con đƣờng truyền ngơi thì
đó là chính thể qn chủ đại nghị, ngƣợc lại, nguyên thủ quốc gia là Tổng thống
đƣợc thành lập thông qua con đƣờng bầu cử thì lại là chính thể cộng hịa đại nghị:
Trong chính thể quân chủ đại nghị, nguyên thủ quốc gia chính là Hồng đế,
đƣợc xác lập bằng con đƣờng truyền ngơi. Chính thể này là kết quả của sự thỏa hiệp
giữa giai cấp tƣ sản với giới quý tộc phong kiến đã lỗi thời trong cách mạng tƣ sản.
Mặc dù xây dựng một mơ hình nhà nƣớc dân chủ, quyền lực tập trung vào nhân dân
mà Nghị viện là đại diện, nhƣng mơ hình này vẫn giữ lại thiết chế Hồng đế nhƣ là
một biểu hiện văn hóa chính trị vẫn rất cần cho niềm tin của dân chúng. Hoàng đế
trong thể chế này chỉ còn là biểu tƣợng cho niềm tin, lòng tin yêu, tự hào của ngƣời
dân và sự trƣờng tồn, vĩnh hằng của đất nƣớc. Trong chế định này, Hoàng đế chỉ là
nguyên thủ quốc gia, đại diện cho nhà nƣớc về mặt đối nội, đối ngoại nhƣng thực tế
rất hình thức, khơng thực quyền. Ví dụ trong trong trƣờng hợp bổ nhiệm ngƣời
đứng đầu Chính phủ, Vua hoặc Nữ hồng đƣợc quyền bổ nhiệm Thủ tƣớng Chính
phủ là ngƣời đứng đầu hành pháp, tuy nhiên chỉ có thể bổ nhiệm thủ lĩnh của đảng
chiếm đa số ghế trong Nghị viện (Hạ viện).
Vì Hồng đế là do truyền ngơi thế tập, khơng do bầu cử mà có, mặc khác
quyền lực của thiết chế này cũng chỉ mang tính hình thức là chính cho nên cũng
khơng đặt ra trách nhiệm với Hồng đế, hay nói cách khác, Hồng đế cũng không
chịu bất cứ trách nhiệm nào, bởi lẽ “nhà vua khơng có quyền, nên khơng gánh vác
trách nhiệm”22.
Ngƣợc lại, trong chính thể cộng hịa đại nghị, Tổng thống là nguyên thủ quốc
gia, chức danh này do Nghị viện (Hạ viện) bầu trong số các Nghị sỹ với nhiệm kỳ
nhất định. Tổng thống phải chịu trách nhiệm, bị hạn chế quyền lực của mình trƣớc

Nghị viện, Nghị viện sẽ kiểm tra, giám sát hoạt động của Tổng thống. Tuy vậy, thiết
chế này cũng chỉ mang tính hình thức, Tổng thống chỉ là ngƣời hợp thức hóa các
quyết định của cơ quan nhà nƣớc khác (chữ ký phó thự) nhƣ Hồng đế trong chính
thể qn chủ đại nghị.
Tƣơng tự Hồng đế của chính thể quân chủ đại nghị, Tổng thống chỉ là ngƣời
đứng đầu nhà nƣớc, thay mặt nhà nƣớc về đối nội, đối ngoại, Tổng thống không là
ngƣời đứng đầu hành pháp, cũng khơng là thành viên Chính phủ, Tổng thống có
trách nhiệm cơng bố luật của Nghị viện mà khơng đƣợc phủ quyết nó. Cũng giống
Hồng đế, Tổng thống bổ nhiệm Thủ tƣớng, nhƣng cũng không đƣợc quyền bổ

22

Nguyễn Đăng Dung, Hạn chế sự tùy tiện của cơ quan nhà nƣớc, NXB Tƣ pháp, 2010, Tr.101.

15


nhiệm ai khác ngoài thủ lĩnh của đảng chiếm đa số ghế trong Nghị viện giữ chức vụ
này.
Nguyên thủ quốc gia trong chính thể này là một chế định đặc biệt, chỉ là ngƣời
đứng đầu nhà nƣớc chứ không đứng đầu Chính phủ, cũng khơng nằm trong Chính
phủ. Vai rị của vị nguyên thủ quốc gia này chỉ có thể đƣợc đánh giá cao trong
những trƣờng hợp đất nƣớc bất ổn, lâm vào khủng hoảng cần sự thống nhất, đoàn
kết của toàn dân, nguyên thủ quốc gia nhƣ là một “chế định tiềm tàng”23 nhằm giải
quyết những vấn đề chính trị của đất nƣớc.
Chính phủ là cơ quan hành pháp, thay mặt nhà nƣớc lãnh đạo, quyết định các
vấn đề chính trị-xã hội của đất nƣớc. Chính phủ tuy hoạt động một cách độc lập
trong lĩnh vực hành pháp nhƣng lại đƣợc thành lập trên cơ sở Nghị viện, vì thế
Chính phủ phải chịu trách nhiệm trƣớc Nghị viện và bị Nghị viện kiểm tra, giám sát
để hạn chế lạm quyền, ngăn ngừa một Chính phủ độc tài, chuyên quyền. Sự tồn tại

của Chính phủ phụ thuộc vào sự tín nhiệm của Nghị viện. Nghĩa là, Chính phủ vẫn
sẽ hoạt động khi nào Nghị viện cịn tín nhiệm Chính phủ, một khi Nghị viện khơng
tín nhiệm nữa thì Chính phủ sẽ phải ra đi hoặc bị lật đổ để Nghị viện bầu một Chính
phủ mới. Điều này khơng đồng nghĩa với quyền lực Nghị viện là vơ hạn, vì nếu
Nghị viện khơng thành lập đƣợc một Chính phủ mới thay thế Chính phủ đã bị lật đổ
thì Thủ tƣớng Chính phủ có quyền yêu cầu nguyên thủ quốc gia giản tán Nghị viện.
Chính phủ đứng đầu là Thủ tƣớng, nhƣ đã phân tích, chức danh này đƣợc
Tổng thống hoặc Hồng đế bổ nhiệm. Giúp việc cho Chính phủ là các Bộ trƣởng,
do Thủ tƣớng lựa chọn và yêu cầu Tổng thống hoặc Hồng đế bổ nhiệm, tuy nhiên
chỉ mang tính hình thức, hợp thức hóa quyết định của Thủ tƣớng. Các Bộ trƣởng
phụ trách công việc theo chuyên môn của mình và phải bị giám sát, hạn chế quyền
lực, chịu trách nhiệm trƣớc Thủ tƣớng.
Bên cạnh Nghị viện - lập pháp, Chính phủ - hành pháp, thì khơng có một bộ
máy nhà nƣớc nào thiếu đi sự tồn tại của cơ quan tƣ pháp, và quyền lực này đƣợc
trao cho Tòa án. Tòa án đƣợc vận hành bởi những Thẩm phán hoạt động một cách
chuyên trách, không kiêm nhiệm chức danh với lập pháp hay hành pháp để đảm bảo
vô tƣ, khách quan khi xét xử, và giàu kinh nghiệm. Tòa án mặc dù đƣợc thành lập
trên cơ sở Nghị viện bổ nhiệm song trong hoạt động xét xử của mình, Tịa án rất
độc lập, chỉ tn theo Hiến pháp, pháp luật. Tòa án thực hiện chức năng, xét xử các
hành vi sai trái, vi phạm pháp luật của các chủ thể trong đời sống xã hội. Và Tòa án

23

Dẫn theo Nguyễn Đăng Dung, Hạn chế sự tùy tiện của cơ quan nhà nƣớc, NXB Tƣ pháp, 2010, Tr.120.

16


chỉ thực hiện một công việc duy nhất hiến định là xét xử, “vì chức năng cơng tố và
thi hành án thuộc về Chính phủ”24.

Tịa án trong hoạt động của mình chỉ đƣợc tuân theo Hiến pháp và các đạo luật
của Nghị viện cũng nhƣ công việc công tố và thi hành án đƣợc trao cho Chính phủ
là một cách thức hạn chế sự vƣợt quyền của Tòa án trong khi thi hành cơng vụ.
Hoạt động của Tịa án cũng bị hai nhánh quyền lực còn lại chế ngự. Hoạt động xét
xử của Tòa án là độc lập nhƣng phải trong khn khổ và phù hợp với ý chí của
những nhà lập pháp, bên cạnh đó, để kiểm tra phán quyết của Tịa án có hợp pháp
hay khơng sẽ đƣợc Chính phủ xem xét, cân nhắc trƣớc khi ra quyết định thi hành
bản án của Tịa án, thơng qua đó để bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp, tính có
hiệu lực thi hành của các đạo luật của nghị viện, bảo vệ quyền cơng dân trƣớc chính
các chủ thể của quyền tƣ pháp.
Đặc biệt là mơ hình Tồ án Hiến pháp - cơ quan thực hiện nhiệm vụ bảo hiến,
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong xét xử, cơ quan này thực hiện quyền giải
thích Hiến pháp, ngăn chặn các đạo luật, các chính sách hay những hành vi lạm
quyền, vi hiến từ phía cơ quan nhà nƣớc, bảo đảm quyền con ngƣời, quyền cơng
dân. Ngồi ra Tòa án Hiến pháp một số nƣớc cũng thực hiện chức năng giải quyết
các tranh chấp về xung đột thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nƣớc khi thi hành
công vụ, đảm bảo sự minh bạch, rõ ràng trong thực thi quyền lực nhà nƣớc, tránh
chồng chéo thẩm quyền dễ dẫn đến việc lạm quyền.
Nhƣ vậy, dù hình thức chính thể đại nghị chỉ ghi nhận sự phân quyền mềm
dẻo nhƣng trong bản thân, nội tại nhà nƣớc này vẫn có sự kiềm chế lẫn nhau ở một
chừng mực nào đó nhằm đảm bảo sự ổn định, vững bền và vận hành đất nƣớc đi
lên, hạn chế đến mức tối đa việc lạm dụng quyền lực nhà nƣớc, bảo đảm quyền con
ngƣời trong một thiết chế dân chủ.
1.3.2. Mơ hình nhà nước theo chế độ cộng hòa tổng thống
So với chính thể đại nghị thì chính thể cộng hịa tổng thống ra đời muộn hơn
và đại diện tiêu biểu cho nó là mơ hình tổ chức nhà nƣớc Mỹ. Ngồi ra cũng có một
số nhà nƣớc theo chính thể này có thể kể đến nhƣ Mexico, Costa Rica, Venezuela,
Aghentina…Có thể nói mơ hình nhà nƣớc Mỹ có sự rút kinh nghiệm từ mơ hình
nhà nƣớc Anh - đại diện tiêu biểu của chính thể đại nghị.
Sau chiến tranh giành độc lập, nƣớc Mỹ giành đƣợc thắng lợi to lớn, tuy nhiên

nguy cơ của khủng hoảng chính trị bao trùm ở đây địi hỏi phải có một cuộc cải
cách, xác lập một nhà nƣớc thực sự đủ mạnh dựa trên một bản Hiến pháp, phân
24

Dẫn theo Nguyễn Thị Hồi, Tƣ tƣởng phân chia quyền lực nhà nƣớc với việc tổ chức bộ máy nhà nƣớc ở
một số nƣớc, NXB Tƣ pháp, 2005, Tr.140.

17


công, phân nhiệm rõ ràng để điều hành đất nƣớc hiệu quả, thốt khỏi tình trạng chia
rẽ và phát triển mạnh mẽ.
Vừa là sự học hỏi từ kinh nghiệm tổ chức nhà nƣớc Anh quốc, vừa là sự tiếp
thu học thuyết của Montesquieu đã tạo ra một mơ hình nhà nƣớc theo chính thể
cộng hịa tổng thống lần đầu tiên xuất hiện trên thế giới ở Mỹ. Khác với mô hình
nhà nƣớc theo chế độ cộng hịa đại nghị, mơ hình nhà nƣớc theo chế độ cộng hịa
tổng thống đƣợc thừa nhận là mơ hình nhà nƣớc có sự phân chia quyền lực mạnh
mẽ, cứng rắn nhất. Bởi vì quyền lực đƣợc chia thành ba nhánh: lập pháp, hành pháp,
tƣ pháp độc lập, rạch rịi với nhau, mỗi nhánh có quyền hạn riêng.
Bằng cách chia công việc cai trị ra cho ba ngành độc lập, các nhà soạn thảo
Hiến pháp Mỹ muốn giữ cho các quyền lực chính - lập pháp, hành pháp, tƣ pháp không bị độc quyền nắm giữ bởi bất kỳ một ngành nào. Phân bổ quyền cai trị cho
ba ngành khác nhau cũng ngăn chặn việc chính quyền quốc gia lấn át quyền của các
tiểu bang25.
Tuy nhiên một nhà nƣớc không thể vận hành thông suốt đƣợc nếu các nhánh
quyền lực hoạt động một cách riêng rẽ, rời rạc, vì vậy giữa các nhánh quyền lực
cũng có sự tham gia, kiểm tra, giám sát cơng việc của nhau ở một mức độ hạn chế
nhất định, việc kiềm chế - đối trọng nhƣ vậy giữa ba nhánh quyền nhƣ vậy cũng có
vai trị rất lớn trong việc chống lại xu hƣớng lạm quyền của các nhánh quyền lực
khi thực thi công quyền.
 Lập pháp trong mối quan hệ với hành pháp và tư pháp:

Điều 1 Hiến pháp Mỹ 1787 trao cho Nghị viện quyền lập pháp. Nghị viện của
Mỹ bao gồm hai viện: Thƣợng viện và Hạ viện. Thƣợng viện Mỹ đại diện cho các
tiểu bang ở Mỹ, mỗi bang đều có 2 Thƣợng nghị sỹ đại diện, đƣợc bầu với nhiệm
kỳ 6 năm, cứ hai năm lại bầu lại 1/3 số Thƣợng nghị sỹ. Trong khi đó, Hạ viện lại là
đại diện cho cử tri của mỗi bang, do cử tri các bang trực tiếp bầu ra và số lƣợng Hạ
nghị sỹ sẽ phụ thuộc vào số lƣợng cử tri ở các bang, nhiệm kỳ ngắn hơn nhiệm kỳ
của Thƣợng nghị sỹ, chỉ với 2 năm. Chính trong quy định về nhiệm kỳ của Thƣợng
viện cũng toát lên đƣợc ý tƣởng về sự hạn chế quyền lực, nhiệm kỳ củng Thƣợng
viện tƣơng đối dài, nếu để tất các Thƣợng nghị sỹ đều có nhiệm kỳ nhƣ nhau thì sẽ
dễ dẫn đến tình trạng lơi kéo, bè phái, chia rẽ nội bộ, tha hóa quyền lực, nên trong
quá trình thực thị quyền lực nhà nƣớc, cứ mỗi hai năm Thƣợng viện sẽ bầu lại 1/3
số Thƣợng nghị sỹ, quy định nhƣ vậy vừa ngăn chặn sự lạm quyền, thâu tóm quyền
lực, vừa giữ lại những truyền thống, kinh nghiệm của lớp Thƣợng nghị sỹ cũ lại vừa
25

Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Về pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến - Một số tiểu luận của các
học giả nƣớc ngoài (Sách tham khảo), NXB Lao động-Xã hội, 2012.

18


×