Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên trong luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (796.65 KB, 87 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI LÀ
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60380104

Người hướng dẫn khoa học: TS.LS. NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH
Học viên: ĐÀO THANH TUẤN, Khóa 2 – Khánh Hịa

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả, số
liệu nghiên cứu nêu trong Luận văn là trung thực và tôi xin chịu trách nhiệm về tất cả
những số liệu và kết quả nghiên cứu đó. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được ai công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.

Tác giả luận văn

Đào Thanh Tuấn


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BCVND

: Bào chữa viên nhân dân



BLHS

: Bộ luật hình sự

CCTP

: Cải cách tư pháp

CTN

: Chưa thành niên

CQĐT

: Cơ quan điều tra

CƯQT

: Công ước quốc tế

HĐXX

: Hội đồng xét xử

HTND

: Hội thẩm nhân dân

NBC


: Người bào chữa

QBC

: Quyền bào chữa

QCN

: Quyền con người

THTT

: Tiến hành tố tụng

TTHS

: Tố tụng hình sự

TAND

: Tịa án nhân dân

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

TGPL

: Trợ giúp pháp lý


VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VAHS

: Vụ án hình sự

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN BÀO CHỮA CỦA .................... 6
1.1
1.1.1
1.2
1.2.1

.Một số khái niệm chung ............................................................................................... 6
Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự ......................................................................... 6
Quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên ........................... 11
Vai trò quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên ................. 11

1.2.2 . Đặc điểm về nội dung, hình thức thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội là
người chưa thành niên .............................................................................................................. 13
1.2.3

Các yếu tố đảm bảo thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa
thành niên trong tố tụng hình sự ............................................................................................... 19
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ....................................................................................................... 28
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI ....... 30
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền bào chữa của người bị buộc tội là
người chưa thành niên ............................................................................................................ 30
2.1.1

Trước khi pháp điển hóa Bộ luật TTHS năm 1988 .................................................... 30

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2......................................................................................................... 60
CHƯƠNG 3. TĂNG CƯỜNG ĐẢM BẢO QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC
TỘI LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ......................... 63
3.1. Yêu cầu đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên
trong tố tụng hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp và theo Hiến pháp năm 2013 ...... 63
3.1.1
Yêu cầu nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội là người
chưa thành niên ở Việt Nam hiện nay ....................................................................................... 63
3.1.2
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên đáp ứng
yêu cầu hội nhập quốc tế .......................................................................................................... 66
3.2

Một số giải pháp ........................................................................................................... 68

3.2.1 Hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến quyền bào chữa của người bị buộc
tội là người chưa thành niên ..................................................................................................... 68
3.2.2

Các giải pháp về tổ chức ............................................................................................ 71



3.3. Các giải pháp khác ........................................................................................................... 73
3.2.3

Nâng cao ý thức pháp luật cho người chưa thành niên và cho nhân dân.................. 73

3.3.2. Tăng cường sự phối hợp giữa các tổ chức xã hội, nhà trường và gia đình người CTN
phạm tội khi họ được miễn TNHS trong việc quản lý, giám sát và giáo dục các em ............... 74
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3.......................................................................................................... 75
KẾT LUẬN............................................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Quyền bào chữa là một trong những quyền cơ bản của công dân, một quyền
hiến định được tất cả các bản Hiến pháp của Việt Nam đều ghi nhận. Kế thừa các bản
Hiến pháp trước đây, Hiến pháp năm 2013 quy định rõ hơn về quyền bào chữa của
công dân. Tại khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 đã quy định rất cụ thể: “Người bị
bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật
sư hoặc người khác bào chữa”. Như vậy có thể thấy, Hiến pháp mới đã mở rộng phạm
vi các đối tượng được đảm bảo quyền bào chữa, không chỉ bị can, bị cáo mới có quyền
bào chữa như các bản Hiến pháp cũ quy định, mà ngay từ khi một người bị bắt, đã phát
sinh quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa đối với họ, được đảm
bảo bởi đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất là Hiến pháp. Quyền tự bào chữa và nhờ

người khác bào chữa của một công dân đã được quy định khá đầy đủ và cụ thể trong hệ
thống pháp luật của Nhà nước, đã được xác định từ nguyên tắc cơ bản trong Hiến pháp
cho đến những quy định cụ thể trong Bộ luật Tố tụng hình sự và các văn bản hướng
dẫn thi hành.
Người chưa thành niên phạm tội là một chủ thể đặc biệt của Luật hình sự và
Luật tố tụng hình sự, việc xử lý, áp dụng các thủ tục tố tụng với người chưa thành niên
phạm tội địi hỏi phải có những quy định riêng biệt.
Pháp luật hiện hành, cụ thể là Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã dành một
chương riêng (Chương XXXII) quy định về thủ tục đối với người chưa thành niên. Đó
là những quy định thủ tục đặc biệt về việc bắt, tạm giữ, tạm giam; về thủ tục điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án; việc tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường, của người
bào chữa … đối với những vụ án có người chưa thành niên phạm tội. Bên cạnh đó,
thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 đối với người chưa thành niên phạm tội tuy đã tương đối hồn chỉnh, nhưng
khơng khó để nhận thấy tính chưa chặt chẽ, chưa đầy đủ, chưa đáp ứng được yêu cầu
thực tiễn của các quy định này. Những bất cập này đã dẫn đến sự tùy tiện của cơ quan
tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp
của người chưa thành niên phạm tội. Với những vấn đề nêu trên, quy định của pháp
luật tố tụng hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội đặt ra những vấn đề cần


2

phải hồn thiện theo hướng cần thiết phải có những quy định cụ thể, chặt chẽ, thống
nhất hơn nữa trong Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng đối với chưa thành niên
phạm tội để đảm bảo các quyền, lợi ích hợp pháp của họ, mà một trong những quyền
đó là quyền bào chữa.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10
thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung của Bộ luật
tố tụng hình sự 2003, có nhiều quy định được điều chỉnh, sửa đổi đã đảm bảo hơn

quyền con người, quyền bào chữa của người bị buộc tội nói chung và của người bị
buộc tội là người chưa thành niên nói riêng. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn cịn một số tồn
tại chưa được giải quyết trong Bộ luật sửa đổi bổ sung lần này làm ảnh hưởng đến
quyền bào chữa của người bị buộc tội.

2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về quyền bào chữa và
bảo đảm quyền bào chữa của người chưa thành niên trong tố tụng hình sự như:
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành
niên trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, của TS. Đỗ Thị Phượng, Khoa luật, Đại
học Quốc gia Hà Nội năm 2007.
- Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng
hình sự Việt Nam, của TS. Lại Văn Trình, Đại học Luật TP.HCM năm 2011.
- Bảo đảm quyền có người bào chữa của người bị buộc tội – so sánh giữa luật tố
tụng hình sự Việt Nam, Đức và Mỹ, của TS. Lương Thị Mỹ Quỳnh, Đại học Luật
TP.HCM năm 2011.
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên theo pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam, của TS Trần Hưng Bình, Học Viện Khoa học xã hội, năm 2014.
- Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình
sự Việt Nam, của TS. Nguyễn Hữu Thế Trạch, Đại học Luật TP.HCM năm 2014.
Các cơng trình này chủ yếu tập trung giải quyết các vấn đề như: Bảo vệ quyền
và lợi ích của bị can, bị cáo là người chưa thành niên; vấn đề bảo đảm quyền bào chữa
cho người chưa thành niên phạm tội; bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành
niên; đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên v.v... Tuy
nhiên, các cơng trình nghiên cứu đã cơng bố phần lớn đều tập trung nghiên cứu vấn đề


3

bảo đảm quyền bào chữa cho đối tượng là bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Về

vấn đề bảo đảm quyền bào chữa cho những đối tượng ở giai đoạn tiền tố tụng, giai
đoạn điều tra, đặc biệt là người chưa thành niên bị bắt, bị tạm giữ, bị tạm giam - đối
tượng được hưởng quyền bào chữa mới được quy định cụ thể trong Hiến pháp năm
2013 cần được nghiên cứu tiếp tục, hoàn thiện hơn.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu đề tài
- Mục đích chính của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận,
mang tính nguyên tắc của việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội là người
chưa thành niên trong tố tụng hình sự; những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong q
trình áp dụng pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm quyền bào chữa cho người chưa
thành niên hiện nay. Qua đó, đề xuất những giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao
hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật về bảo đảm quyền bào của người bị buộc tội
là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam.
- Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài đặt ra và giải quyết những nhiệm vụ cụ
thể sau đây:
+ Khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của chế định quyền bào chữa của
người chưa thành niên trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ sau năm 1945 đến nay;
+ Phân tích các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về bảo đảm
quyền bào chữa nói chung, của người bị buộc tội là người chưa thành niên nói riêng;
+ Phân tích thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
bảo đảm quyền bào chữa ở Việt Nam trong những năm gần đây, đặc biệt là kể từ khi
Nhà nước ta ban hành bộ luật tố tụng hình sự năm 2003;
+ Làm rõ khái niệm chủ thể: người bị buộc tội là người chưa thành niên trong
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
+ Làm rõ phạm vi và mối liên hệ giữa người dưới 18 tuổi và người chưa thành
niên theo quy định của pháp luật;
+ Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về
bảo đảm quyền bào chữa đối với người bị buộc tội là người chưa thành niên trong tố
tụng hình sự Việt Nam.



4

4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa của Chủ
nghĩa Mác – Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử và tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước và Pháp luật, những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước
pháp quyền, cải cách tư pháp
Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu phương pháp phân tích, thống kê so sánh
đã được sử dụng khi phân tích những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003,
kết quả nghiên cứu so sánh còn chỉ ra được những ưu điểm và hạn chế, bất cập của
chúng và so sánh với yêu cầu của cải cách tư pháp để xác định những định hướng hoàn
thiện Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Phương pháp tởng hợp được sử dụng khi đưa
ra những đánh giá về thực trạng của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 liên quan đến
quyền bào chữa của người chưa thành niên phạm tội khi tham gia hoạt động tố tụng
hình sự .
5. Những điểm mới của luận văn, ý nghĩa khoa học và thực tiễn
5.1. Những điểm mới
Luận văn đã làm rõ được một số những vấn đề lý luận về quyền bào chữa của
người bị buộc tội là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam; đánh giá
được vai trò của quyền bào chữa và xác định rõ những đặc điểm về nội dung và hình
thức thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên trong tố
tụng hình sự Việt Nam;
Luận văn đã khái quát được pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về quyền bào
chữa nói chung và của người bị buộc tội là người chưa thành niên nói riêng và làm rõ
được sự hình thành, phát triển của chế định này trong pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam, rút ra những kế thừa cần thiết cho việc tiếp tục hoàn thiện chế định này;
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề xuất được
các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện quyền bào chữa của người bị
buộc tội là người chưa thành niên đồng thời bảo đảm xác định sự thật của vụ án khách
quan, tồn diện và đầy đủ, góp phần giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.

5.2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Về mặt lý luận: đề tài nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng về việc bảo đảm
quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự.


5

Từ đó, đề xuất phương hướng và các giải pháp để sửa đổi, bổ sung, hướng dẫn chi tiết
các quy định của pháp luật về bảo đảm quyền bào chữa cho người chưa thành niên
phạm tội, nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng chế định này trên thực tế. Với kết quả
nghiên cứu, đề tài góp phần làm phong phú thêm lý luận về bào chữa và bảo đảm
quyền bào chữa của người bị buộc tội là chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt
Nam.
- Về mặt thực tiễn: kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần đánh giá đúng thực
trạng áp dụng pháp luật về bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội là người
chưa thành niên trong tố tụng hình sự; qua đó khắc phục được những thiếu sót, bất cập
trong hoạt động này. Các đề xuất, kiến nghị trong đề tài có thể được dùng làm tài liệu
tham khảo khi nghiên cứu, hướng dẫn, sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự về quyền bào chữa cũng như xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật khác liên quan đến vấn đề này.
6. Nội dung, kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, tởng quan tình hình nghiên cứu, kết luận, phụ lục và danh
mục tài liệu tham khảo, luận văn cấu trúc gồm 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền bào chữa của người bị buộc tội là
người chưa thành niên.
- Chương 2: Thực trạng quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa
thành niên trong tố tụng hình sự.
- Chương 3: Tăng cường bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội là người
chưa thành niên trong tố tụng hình sự.



6

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN BÀO CHỮA CỦA
NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
1.1 .Một số khái niệm chung
1.1.1 Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự
Quyền con người là vấn đề ln được các quốc gia trên thế giới quan tâm. Để
đảm bảo QCN trong xã hội nói chung, các bản Hiến pháp của nước ta đều đã có nhiều
điều khoản nhấn mạnh quyền cơng dân trong đó khơng thể khơng kể đến QBC và
những bảo đảm cần thiết để quyền đó được thực hiện. Việc Hiến pháp ghi nhận QBC
càng thấy rõ hơn tầm quan trọng của chế định này. Điều 34 Bộ luật TTHS năm 2003
cũng quy định và ghi nhận QBC của bị can, bị cáo nhằm không để bất kì người nào có
thể bị hạn chế hay tước quyền cơ bản mà pháp luật đã dành cho họ.
Trong các giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử, nhà nước ln có những
quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Những quyền cơ bản đó
được nhà nước đảm bảo thực hiện đồng thời cơng dân cũng có nghĩa vụ tơn trọng và
bảo đảm quyền lợi của người khác. Một trong các hình thức thực hiện quyền cơ bản
của công dân được Nhà nước đảm bảo thực hiện là quyền được bảo vệ mình trước cơ
quan pháp luật trong đó có QBC.
Quyền bào chữa là một trong những chế định quan trọng và phức tạp, vừa mang
tính lí luận, vừa mang tính thực tiễn cao. Từ trước đến nay, QBC đã được nhiều tác giả
quan tâm, nghiên cứu song xung quanh khái niệm, nội dung, bản chất chủ thể… của
quyền này còn nhiều ý kiến khác nhau. Do vậy, xác định khái niệm QBC trên cơ sở lí
luận và thực tiễn phù hợp với quy định của pháp luật là cần thiết nhằm không ngừng
phát huy dân chủ, củng cố cơ sở pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng
dân.
Hiện nay, trong pháp luật vẫn chưa có định nghĩa chính thức nào về QBC.
Quyền bào chữa là một chế định quan trọng trong luật TTHS và cho đến nay nó vẫn
cần được làm sáng tỏ từ góc độ lý luận để làm tiền đề cho việc thực hiện nguyên tắc

đảm bảo QBC cho người bị buộc tội.
Đến nay, xung quanh khái niệm QBC có nhiều quan điểm khác nhau:


7

-

Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Quyền bào chữa là tởng hồ các hành vi tố tụng

hướng tới việc bác bỏ sự buộc tội và xác định bị can không có lỗi hoặc nhằm làm giảm
trách nhiệm của bị can”1;
- Quan điểm thứ hai cho rằng, QBC được hiểu rộng hơn, nó khơng chỉ dừng lại ở
việc bác bỏ sự buộc tội và xác định bị can khơng có lỗi hay làm giảm trách nhiệm của
bị can mà nó cịn được thể hiện trong cả việc đảm bảo các quyền và lợi ích được pháp
luật bảo vệ của bị can kể cả khi chúng không trực tiếp liên quan tới việc làm giảm trách
nhiệm của bị can trong vụ án2.
Theo chúng tơi, hai quan điểm về QBC nói trên đều chưa hồn tồn chính xác.
Nếu cho rằng QBC chỉ thuộc về bị can thì quá hẹp.
- Khác với các quan điểm trên, nhóm tác giả của quan điểm thứ ba cho rằng chức
năng bào chữa thậm chí có cả trong trường hợp mà ở đó khơng có sự buộc tội: “Không
chỉ bị cáo mà cả người bị hại cũng cần đến việc bào chữa. Nhân chứng, giám định viên
và cả những người khác cũng vậy, nếu quyền lợi của họ bị xâm hại”. "quyền bào chữa
không chỉ thuộc về bị can, bị cáo mà cịn thuộc về người bị tình nghi phạm tội, người
bị kết án, người bào chữa, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ”3. Chúng
tơi cho rằng quan điểm này cũng khơng chính xác, vì theo pháp luật TTHS thì những
chủ thể trên hồn tồn khơng chịu sự buộc tội từ phía Nhà nước hay cơ quan THTT.
Mặt khác, xuất phát từ quan điểm buộc tội và bào chữa phải song song tồn tại, ở đâu có
buộc tội, ở đó có bào chữa cho nên trong các trường hợp trên rõ ràng những chủ thể
này khơng thể có QBC.

- Quan điểm thứ tư cho rằng: “Quyền bào chữa trong bộ luật tố tụng hình sự là
tởng hồ các hành vi tố tụng do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án thực
hiện trên cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật nhằm phủ nhận một phần hay toàn
bộ sự buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm
hình sự của mình trong vụ án hình sự”4. Theo chúng tơi, cách hiểu như vậy là quá
rộng. Người bị kết án là người đã có bản án có hiệu lực của Tịa án kết luận là có tội và

Bộ Tư pháp-Viện khoa học pháp lý, Từ điển luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa-Nxb. Tư pháp, H.2006, tr.33.
Chức năng bào chữa trong TTHS Xơ Viết, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Số 1/1978, tr.89.
3
Chức năng bào chữa trong TTHS Xô Viết, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Số 1/1978, tr.89.
4
Phạm Hồng Hải, Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, Nxb. Công an nhân dân, H.1999, tr.29, 30.
1
2


8

phải chịu hình phạt theo quy định của pháp luật, nếu nói rằng họ có QBC thì vơ hình
chung đã làm mất đi hiệu lực của bản án và như vậy TTHS sẽ khơng có điểm dừng.
Như vậy, có thể thấy rằng khái niệm về QBC trong TTHS đã được hiểu rất khác
nhau. Dù sao, ta cũng thấy rằng, nhu cầu bào chữa có thể xuất hiện, tồn tại ở tất cả các
giai đoạn TTHS, kể cả giai đoạn tiền khởi tố và giai đoạn thi hành án.
Các luật gia Việt Nam và thế giới đều khẳng định, việc buộc tội và truy cứu
TNHS đối với một người phải do cơ quan THTT thực hiện theo những thủ tục luật định
và phải dựa trên những chứng cứ đúng đắn, hợp pháp và có căn cứ, nhằm mục đích
khơng để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Việc buộc tội đối với một người
tất yếu dẫn đến sự hạn chế đối với một số quyền tự do về thân thể, đi lại và các quyền
cơ bản khác của người đó. Vì vậy, nếu buộc tội đối với người mà thực tế là người đó

vơ tội thì cũng có nghĩa là cơ quan THTT đã vi phạm QCN. Tuy nhiên, dù cơ quan
THTT buộc tội một người nào đó dựa trên các chứng cứ hợp pháp thì vẫn phải có
nghĩa vụ bảo đảm các quyền mà pháp luật quy định cho họ (ví dụ như cho người bị bắt,
bị tạm giữ, tạm giam, bị can được bày tỏ thái độ của mình đối với lời buộc tội, được
chứng minh là mình vơ tội, đưa ra những căn cứ để minh oan hoặc làm giảm nhẹ tội...),
tức là phải bảo đảm cho người bị buộc tội có quyền được bào chữa.
Như vậy, chúng ta thấy rằng ngoài bị can, bị cáo thì người bị bắt, bị tạm giữ,
tạm giam cũng là đối tượng bị buộc tội. Chỉ trên cơ sở coi người bị bắt, bị tạm giữ, tạm
giam là đối tượng bị buộc tội thì cơ quan THTT mới có quyền ra quyết định tạm giữ,
tạm giam một con người – xâm phạm quyền tự do về thân thể của họ, một trong những
quyền Hiến định của công dân và áp dụng các biện pháp điều tra với họ như lấy lời
khai, thu thập chứng cứ, vì vậy quy định cho người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam có
QBC để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình là hồn tồn hợp lý khi mà họ đã
và đang bị áp dụng biện pháp cưỡng chế TTHS. Nói cách khác, người bị bắt, bị tạm
giữ, tạm giam là chủ thể bị buộc tội. Đối với bị can, bị cáo thì sự buộc tội đối với họ đã
được khẳng định bằng quyết định khởi tố và bản cáo trạng nên đương nhiên pháp luật
phải quy định cho họ QBC. Như vậy QBC thông thường xuất hiện khi một người bị cơ
quan THTT ra quyết định khởi tố bị can, trong trường hợp có người bị bắt, bị tạm giữ,
tạm giam thì QBC xuất hiện sớm hơn khi họ bị cơ quan THTT ra quyết định tạm giữ,
tạm giam và kết thúc khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.


9

Từ sự phân tích trên đây, có thể đưa ra khái niệm về QBC trong TTHS như sau:
Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự là tởng hợp các quyền năng tố tụng hình sự của
người bị buộc tội nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội đối với họ của các
cơ quan tiến hành tố tụng, hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của họ trong vụ án
hình sự.
1.1.2 Khái niệm người chưa thành niên và người bị buộc tội là người chưa

thành niên
Điều 1 phần 1 CƯQT về quyền trẻ em có hiệu lực từ ngày 02/9/1990 quy định
“Trong phạm vi của Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 t̉i, trừ trường
hợp pháp luật áp dụng đối với trẻ em đó quy định độ t̉i thành niên sớm hơn”. Theo
Cơng ước, trẻ em bao gồm tất cả những ai chưa phải là người lớn, nghĩa là những ai
dưới 18 tuổi thì được hưởng mọi quyền lợi được ghi nhận trong Cơng ước. Bên cạnh
Cơng ước quyền trẻ em thì Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên hợp quốc về việc áp
dụng pháp luật đối với người CTN, hay còn gọi là Quy tắc Bắc Kinh do Đại Hội đồng
Liên Hợp Quốc thông qua ngày 29 tháng 11 năm 1985. Quy tắc Bắc Kinh không nêu rõ
người CTN là người dưới 18 tuổi mà chỉ đưa ra khái niệm trẻ em hoặc người ít t̉i.
Theo quy tắc này thì “người chưa thành niên phạm pháp là trẻ em hay người ít tuổi bị
cho là hay bị phát hiện là phạm pháp”. Quy tắc cũng định nghĩa người chưa thành niên
và phạm pháp là những nhân tố của người chưa thành niên phạm tội. Nhưng giới hạn
độ tuổi phụ thuộc vào từng hệ thống pháp luật của các quốc gia thành viên.
Như vậy, có thể thấy rằng, khi đưa ra khái niệm về trẻ em hay người CTN trong
pháp luật quốc tế không dựa vào các đặc điểm tâm - sinh lý hay sự phát triển thể chất,
tinh thần … mà trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua việc xác định độ tuổi. Kể cả khái
niệm trẻ em và khái niệm người CTN đều giới hạn là dưới 18 tuổi, đồng thời đưa ra
khả năng mở cho các quốc gia tùy điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa, truyền thống của
minh có thể quy định độ t̉i sớm hơn. Nội dung các quy tắc trên có tính đến sự đa
dạng và cơ cấu pháp luật của các quốc gia, phản ánh mục đích và tinh thần tư pháp
người CTN, đề ra những nguyên tắc mong muốn và thông lệ đối với việc quản lý
những người CTN vi phạm pháp luật.
Người CTN trong pháp luật Việt Nam được xác định tương đối thống nhất:
Hiến pháp năm 2013, BLHS năm 1999, Bộ luật TTHS năm 2003, Bộ luật lao động, Bộ


10

luật dân sự, Luật xử lý vi phạm Hành chính và một số văn bản quy phạm pháp luật

khác. Các văn bản pháp luật đều quy định độ tuổi của người CTN là người dưới 18 tuổi
và trong từng lĩnh vực cụ thể đều có những chế định pháp luật hoặc các quy định riêng
cho người CTN.
Khái niệm người CTN khác với khái niệm trẻ em theo Điều 1 Luật Bảo vệ,
chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”.
Như vậy, về độ tuổi người CTN là người chưa đủ 18 tuổi. Ở độ tuổi này, những
đặc điểm về tâm sinh lý của người CTN có những biểu hiện khá phức tạp và mang
những đặc trưng riêng tùy theo giai đoạn của sự phát triển.
Cho dù cịn có những cách đặt vấn đề khác nhau, song nhìn chung quan niệm về
người CTN được hiểu là: “Người chưa thành niên là người dưới 18 t̉i, chưa phát
triển hồn thiện về thể chất, tinh thần, tâm lý và nhân cách, chưa có đầy đủ các quyền
và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên”.5
Người bị buộc tội là khái niệm mới của luật TTHS Việt Nam, nhiều văn bản
pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới đã quy định đối tượng này là chủ thể của
TTHS. Công ước Châu âu về QCN cũng đã đề cập đến đối tượng này.
Để làm rõ khái niệm người bị buộc tội thì phải xuất phát từ khái niệm “Sự buộc
tội”, theo đó sự buộc tội chỉ xuất hiện khi một người bị cáo buộc là anh ta đã thực hiện
một hành vi mà BLHS coi là tội phạm. Sự buộc tội được coi là hình thành từ thời điểm
một người được thơng báo chính thức bởi cơ quan có thẩm quyền về những chứng cứ rõ
ràng cho rằng người đó đã thực hiện hành vi phạm tội, và kể từ thời điểm đó một người
bị coi là người bị buộc tội trong VAHS. Sự buộc tội sẽ tồn tại và kéo dài trong suốt quá
trình tố tụng chứng minh hành vi của người bị cáo buộc có tội hay khơng có tội và kết
thúc bằng một quyết định hoặc bản án có hiệu lực pháp luật của cơ quan THTT. Như
vậy: Người bị buộc tội là người bị cơ quan có thẩm quyền cáo buộc đã thực hiện một
hành vi tội phạm bằng thơng báo chính thức.
Với quan điểm, buộc tội và bào chữa song song tồn tại, ở đâu có buộc tội, ở đó
có bào chữa thì mới thể hiện tính dân chủ, đảm bảo QCN trong TTHS. Với quá trình
xây dựng, sửa đổi Bộ luật TTHS, để nhằm đảm bảo quyền cho những đối tượng này,
Nguyễn Hữu Thế Trạch (2014), Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình
sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường đại học Luật Tp Hồ Chí Minh, tr. 38.

5


11

chủ thể bị buộc tội ngày càng mở rộng, mặc dù trong các Bộ luật TTHS năm 1988 và
Bộ luật TTHS năm 2003 chưa ghi nhận cụ thể đối tượng người bị buộc tội, nhưng đã
quy định bị can, bị cáo có quyền bào chữa. Bộ luật TTHS năm 2003 ngồi bị can, bị
cáo cịn quy định thêm đối tượng là người bị tạm giữ có QBC hoặc nhờ người khác bào
chữa. Như vậy, về mặt gián tiếp đã xem người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người bị
buộc tội.
Để thống nhất trong hoạt động tố tụng cũng như phù hợp với các quy định của
Công ước Quốc tế, luật pháp của các nước tiên tiến trên thế giới, Bộ luật TTHS năm
2015 của Việt Nam đã quy định: “Người bị buộc tội gồm người bị bắt, người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo”6.
Như vậy, người bị buộc tội CTN là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
dưới 18 tuổi.
1.2 Quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên
1.2.1 Vai trò quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên
Quyền bào chữa - một quyền lợi đặc thù, cơ bản của công dân là nguyên tắc
hiến định được tất cả các bản Hiến pháp nước Việt Nam ghi nhận. Hiến pháp năm
1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định quyền tự
bào chữa tại Điều 67: “Người bị cáo được quyền tự bào chữa hoặc mượn luật sư”.
Sau đó, những bản Hiến pháp tiếp theo đều quy định nội dung này. Cụ thể, Hiến
pháp năm 1959 quy định tại Điều 101 như sau: “Quyền bào chữa của người bị cáo
được bảo đảm”. Tiếp đến, Hiến pháp năm 1980 (Điều 133), Hiến pháp năm 1992 tiếp
tục khẳng định quyền bào chữa được bảo đảm: “ Quyền bào chữa của bị cáo được bảo
đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Tở chức luật
sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình và góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”7.

Kế thừa các bản Hiến pháp trước, Hiến pháp năm 2013 quy định cụ thể hơn về
QBC của công dân: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”8. Như vậy có thể thấy
Hiến pháp mới đã mở rộng phạm vi các đối tượng được đảm bảo QBC, không chỉ bị
Khoản 1 Điều Luật tố tụng hình sự năm 2015
Điều 132 Hiến pháp năm 1992.
8
Khoản 4, Điều 31 Hiến pháp năm 2013.
6
7


12

cáo mới có QBC như các bản Hiến pháp cũ quy định, mà ngay từ khi một người bị bắt,
đã phát sinh quyền tự bào chữa, hoặc nhờ luật sư bào chữa đối với họ, được đảm bảo
bởi đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất là Hiến pháp. Điều này cũng hồn tồn phù hợp,
thể chế hóa ở một mức độ cao hơn đối với các quy định về đảm bảo QBC của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo ở Bộ luật TTHS năm 2003. Cụ thể tại các Điều 48, 49, 50 Bộ
luật TTHS đều quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền: “tự bào chữa hoặc
nhờ người khác bào chữa”.
Đồng thời Bộ luật TTHS năm 2003 còn quy định cụ thể về việc đảm bảo có
NBC trong trường hợp người bị buộc tội phạm tội mà khung hình phạt đối với tội đó
có mức cao nhất là tử hình; là người CTN, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể
chất (khoản 2 Điều 57). Ngoài ra, Bộ luật TTHS và Thông tư 70/2011/TT-BCA cũng
qui định cụ thể về việc đảm bảo cho NBC có mặt khi hỏi cung bị can, lấy lời khai
người bị tạm giữ và các qui định khác về quyền và nghĩa vụ của NBC, nhằm đảm bảo
tối đa QBC của người bị buộc tội.
Bộ luật TTHS năm 1988 và Bộ luật TTHS năm 2003 đã cụ thể hóa QBC –
quyền hiến định của bị can, bị cáo và sau này bổ sung thêm người bị tạm giữ, nâng yêu

cầu bảo đảm QBC cho các chủ thể trên thành một trong những nguyên tắc cơ bản của
TTHS nước ta (Điều 11 Bộ luật TTHS năm 2003). Bộ luật TTHS năm 2003 quy định
bị can, người bị tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Bộ luật
TTHS năm 2015 quy định cụ thể “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư
hoặc người khác bào chữa”9. QBC là một quyền tố tụng quan trọng, là hình thức chủ
đạo thực hiện chức năng bào chữa của người bị buộc tội trong TTHS. Các chủ thể này
được quyền sử dụng tất cả những biện pháp gì mà pháp luật khơng cấm để chống lại,
bác bỏ, phủ nhận lời buộc tội của CQĐT, Viện kiểm sát hoặc để giảm nhẹ TNHS của
mình trong vụ án.
Đối với đối tượng là người CTN, do những hạn chế nhất định về sự phát triển
thể chất cũng như tinh thần, cho nên có thể họ sẽ gặp rất nhiều khó khăn và quyền lợi
hợp pháp của họ có thể bị xâm hại nếu khơng có NBC trong q trình điều tra, truy tố
và xét xử. Chính vì vậy, rất cần có sự tham gia của NBC trong những vụ án đối với
người CTN. Việc bào chữa trong những vụ án do người CTN thực hiện tội phạm tuân
9

Điều 16, Bộ luật TTHS năm 2015.


13

theo những quy định chung của Bộ luật TTHS. Tuy nhiên, do những hạn chế trong sự
phát triển về thể chất cũng như tinh thần của người CTN so với người đã thành niên,
cho nên pháp luật quy định thủ tục bắt buộc phải có sự tham gia của NBC trong những
vụ án này. Đây là điểm khác biệt giữa việc bào chữa trong những vụ án do người CTN
thực hiện so với vụ án do người đã thành niên thực hiện. QBC cịn có mối quan hệ mật
thiết với ngun tắc suy đốn vơ tội, Điều 9 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định:
“Khơng ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp
luật”. Điều 13 Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định cụ thể về nguyên tắc suy đốn vơ
tội: “Người bị buộc tội được coi là khơng có tội cho đến khi được chứng minh theo

trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực
pháp luật”. Việc thực hiện nguyên tắc suy đốn vơ tội là tiền đề bảo đảm cho những
người bị buộc tội thực hiện QBC của họ và ngược lại, việc ghi nhận QBC là một biểu
hiện cụ thể, sinh động của ngun tắc suy đốn vơ tội. Từ khi người bị tình nghi bị bắt
giữ cho đến khi trở thành bị can, bị cáo họ vẫn được xem là người chưa có tội. Do vậy,
pháp luật TTHS quy định cho họ có quyền sử dụng tất cả biện pháp để chứng minh sự
vô tội hoặc để làm giảm nhẹ TNHS của họ.
Trên cơ sở tôn trọng QBC của người bị buộc tội, các cơ quan THTT phải thận
trọng hơn trước, trong và sau khi đưa ra quyết định gây bất lợi cho người bị buộc tội.
Chính vì sự thận trọng ấy làm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử được khách quan,
công bằng, dân chủ và khi đó ngun tắc suy đốn vơ tội sẽ trở thành hiện thực trong
TTHS.
Tóm lại, vai trị QBC của người bị buộc tội là người CTN khơng chỉ có ý nghĩa
quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội mà chính
ở đây là điều kiện tiên quyết để đảm bảo hiệu quả của hoạt động TTHS, sâu xa hơn nó
cịn thể hiện bản chất tốt đẹp của Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
1.2.2 . Đặc điểm về nội dung, hình thức thực hiện quyền bào chữa của người bị
buộc tội là người chưa thành niên
1.2.2.1. Đặc điểm về nội dung
Trong lịch sử TTHS thế giới, trải qua nhiều thế kỷ người ta thấy rằng hầu như
khơng có sự phân biệt đáng kể trong thái độ của nhà nước và xã hội đối với bị can là
người thành niên và bị can là người CTN trong VAHS. Người ta quan niệm giản đơn bị


14

can là người CTN chỉ là bị can thành niên cịn nhỏ. Chỉ đến cuối thế kỷ 19 mới hình
thành thái độ mới của nhà nước về bị can là người CTN trong VAHS. Lúc này trong tư
duy lập pháp TTHS đã thay đởi cách nhìn về bị can là người CTN như là đối tượng cần
được bảo vệ đặc biệt và hình thành chiến lược lập pháp TTHS đối với bị can là người

CTN. Sự phát triển của tư duy lập pháp này tùy thuộc rất nhiều vào các yếu tố khác
nhau ở mỗi quốc gia như chính sách hình sự của nhà nước, sự phát triển của khoa học
pháp lý, tình trạng tội phạm của người CTN, sự phát triển và chun mơn hóa trong tở
chức và hoạt động của các cơ quan THTT và đã trở thành xu hướng chung ngày càng
có tính nhân văn, hình thành những chuẩn mực chung về thái độ của nhà nước đối với
bị can, bị cáo là người CTN.
Bộ luật TTHS năm 2003 đã bắt kịp xu hướng chung này của TTHS thế giới khi
nhìn nhận thủ tục TTHS đối với người CTN là một trong những thủ tục tố tụng đặc biệt
quy định tại Chương XXXII (Chương XXVIII thủ tục tố tụng đối với người dưới 18
tuổi, Bộ luật TTHS năm 2015). Tính chất đặc biệt của thủ tục này thể hiện ở chỗ chúng
được áp dụng đối với người CTN đồng thời đối với những quy định khác của Bộ luật
TTHS nếu các quy định này không trái với những quy định đặc thù. BLHS năm 1999
(đã sửa đổi, bở sung năm 2009) quy định về chính sách hình sự đối với người CTN
phạm tội tại Điều 69 chủ yếu liên quan đến năng lực chịu TNHS, mục đích áp dụng
TNHS nặng về giáo dục, giúp họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh để họ trở
thành công dân tốt, có ích cho xã hội chứ khơng nặng về trừng phạt. Cịn chính sách
hình sự trong TTHS đối với người bị buộc tội là người CTN có những quy định nhằm
bảo đảm một cách tốt nhất QBC cho đối tượng này, hạn chế một cách tối đa việc áp
dụng những biện pháp cưỡng chế, hạn chế một cách thấp nhất những tác động không
thể tránh khỏi về tâm lý đối với người bị buộc tội là người CTN do hoạt động TTHS
gây ra, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc làm rõ những nguyên nhân, điều
kiện phạm tội của họ để Tịa án có thể xét xử và tun bản án có tác động tích cực nhất
đến tâm lý của đối tượng này. Để thống nhất với tư tưởng chủ đạo trong CƯQT về
quyền trẻ em đã nêu ở trên, về lý thuyết chính sách hình sự trong lĩnh vực TTHS đối
với người bị buộc tội là người CTN cần bao gồm hai nội dung sau đây:
- Mở rộng QCN tức là quyền tố tụng của người CTN so với người thành niên.
Người bị buộc tội là người CTN có đầy đủ các quyền tố tụng như người bị buộc tội là


15


người thành niên. Bên cạnh đó, họ cịn được thừa nhận những quyền tố tụng đặc thù để
có thể bảo vệ một cách tốt nhất, thuận lợi nhất lợi ích chính đáng của mình.
- Mở rộng những bảo đảm QCN của họ trong hoạt động TTHS. Một trong những
bảo đảm quan trọng QCN của đối tượng này là những quy định, trình tự, điều kiện
riêng hoặc có tính chất bở sung khi thực hiện những hành vi tố tụng đối với họ.
Trong hoạt động TTHS, QBC là quyền quan trọng nhất của người vi phạm pháp
luật hình sự. Đây là tổng hợp các hành vi tố tụng do người bị buộc tội thực hiện nhằm
phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của các cơ quan THTT, làm giảm nhẹ hoặc
loại trừ TNHS của mình trong VAHS. Thơng thường sự tham gia của NBC phụ thuộc
vào ý chí của người bị buộc tội. Họ có thể trực tiếp mời hoặc ủy quyền cho người thân
của mình mời NBC. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt luật quy định sự tham
gia của NBC vào trong vụ án khơng phụ thuộc vào ý chí của người bị buộc tội. Đó là
các trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 Bộ luật TTHS năm 2003 khi
những chủ thể này hoặc người đại diện hợp pháp của họ khơng mời NBC thì các cơ
quan THTT có nghĩa vụ yêu cầu Đoàn luật sư hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tở quốc
cử NBC cho họ. Đó là những trường hợp liên quan đến các bị can, bị cáo là người
CTN, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, hoặc bị can, bị cáo về tội theo
khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình.
Sự tham gia bắt buộc của NBC trong TTHS là quy định mang đầy tính nhân đạo
của pháp luật Việt Nam. Quy định về sự tham gia của NBC vào trong vụ án khơng phụ
thuộc vào ý chí của người bị buộc tội mà là làm tăng thêm tính bảo đảm QBC cho họ.
QBC và sự tham gia của NBC không chỉ cần thiết, có ích cho người bị buộc tội là
người CTN mà cịn cần thiết, có ích cho hoạt động tố tụng của chính các cơ quan
THTT. Sự đối trọng, phản biện của hoạt động bào chữa đối với hoạt động của các cơ
quan thực hiện chức năng buộc tội CQĐT, VKSND chính là yếu tố hạn chế sai lầm,
hạn chế làm oan người vô tội trong hoạt động của những cơ quan này đồng thời buộc
những cơ quan này phải khơng ngừng hồn thiện năng lực chun mơn nghiệp vụ của
mình nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội trong đấu tranh phòng chống tội
phạm và bảo vệ QCN trong TTHS.



16

1.2.1.1 Các hình thức thực hiện quyền bào chữa
Trong lịch sử pháp luật TTHS trước đây, địa vị pháp lý của người bị buộc tội
chưa được xác định rõ ràng nên họ thường bị coi là có tội và một khi đã bị coi là có tội,
mặc nhiên số phận của họ là số phận của kẻ bị tước phần lớn các quyền công dân. Hiện
nay, với nguyên tắc coi người bị buộc tội là những người chưa có tội nên pháp luật
TTHS đã dành cho họ nhiều quyền trong suốt các giai đoạn tố tụng. Khoản 1 Điều 31
Hiến pháp 2013 quy định:“Người bị buộc tội được coi là khơng có tội cho đến khi
được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực
pháp luật”. Mục đích của những quy định chủ yếu là đặt ra những yêu cầu đối với các
cơ quan và những người THTT phải có sự thận trọng, vơ tư và đề cao tinh thần trách
nhiệm làm rõ các chứng cứ buộc tội cũng như gỡ tội, làm sáng tỏ sự thật khách quan
của vụ án, tránh làm oan người vô tội và bỏ lọt người phạm tội. Việc nâng cao hoạt
động của các cơ quan bảo vệ pháp luật không thể thiếu sự củng cố và tăng cường
nguyên tắc bảo đảm QBC của người bị buộc tội. Nếu như QBC là khả năng sử dụng
những quyền tố tụng để bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp thì biện pháp bào
chữa là các hành động cụ thể để thực hiện quyền ấy như làm đơn khiếu nại, kháng
cáo.v.v. Nói cách khác, đảm bảo QBC chính là cơ chế thực hiện QBC, ghi nhận trách
nhiệm của cơ quan, người THTT, các tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước khác phải tạo
điều kiện giúp người bị buộc tội thực hiện QBC. Tại điểm d khoản 3 Điều 14 của
CƯQT về các quyền chính trị, dân sự quy định khi bị khởi tố về hình sự, bất cứ ai (bao
gồm cả trẻ em) cũng có quyền: “Tự bào chữa hoặc thơng qua sự trợ giúp pháp lý của
người khác theo sự lựa chọn của mình; được thơng tin về quyền trên nếu họ khơng có
người bào chữa; và trong trường hợp cần thiết được cử người bào chữa mà không
phải trả tiền nếu họ khơng có đủ tiền để trả”.
Theo quy định tại Điều 11 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định về việc bảo đảm
QBC của người bị buộc tội, trong đó nêu rõ: “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có

quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tịa án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào
chữa của họ theo quy định của Bộ luật này”. Tại Điều này tuy không quy định rõ
quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa của người CTN nhưng với quy định
chung về quyền này của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thì đương nhiên người CTN


17

trong trường hợp là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng sẽ có đầy đủ quyền tự bào
chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Còn các cơ quan THTT có trách nhiệm bảo đảm
để cho người bị buộc tội là người CTN thực hiện QBC của mình.
Về quyền tự bào chữa.
Tự bào chữa là quyền năng tố tụng đặc thù được pháp luật ghi nhận và bảo đảm
cho phép người bị buộc tội tự thực hiện các hành vi tố tụng và quyền tố tụng nhằm
-

minh oan, bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ TNHS của mình. Tự bào chữa là một
trong những hình thức thực hiện QBC của người bị buộc tội và là nội dung quan trọng
của QBC trong TTHS. Pháp luật cho phép họ được tự mình thực hiện các hành vi tố
tụng, như dùng lý lẽ đưa ra chứng cứ và những yêu cầu có lợi cho mình khi tham gia tố
tụng mà khơng nhất thiết phải có sự tham gia của NBC.
Đối với bị can, bị cáo là người CTN, người bị nhược điểm về tâm thần hoặc thể
chất hoặc bị truy tố về một tội mà khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được
quy định tại BLHS mà bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ khơng mời
NBC thì CQĐT, Viện kiểm sát, Tịa án phải u cầu Đồn luật sư phân cơng Văn
phịng luật sư cử NBC cho họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ
chức thành viên của Mặt trận cử NBC cho thành viên của tổ chức mình.
Từ những phân tích trên đây, chúng tơi có thể đưa ra khái niệm tự bào chữa cho
người bị buộc tội là người CTN như sau: “Tự bào chữa là quyền năng tố tụng đặc thù

được pháp luật ghi nhận và bảo đảm cho phép người bị buộc tội là người chưa thành
niên tự mình có thể thực hiện các hành vi tố tụng và quyền tố tụng nhằm bác bỏ sự
buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của mình”10.
Để thực hiện quyền tự bảo vệ mình trước sự buộc tội của các cơ quan THTT, Bộ
luật TTHS quy định cho người bị buộc tội được biết mình bị khởi tố về tội gì; được
nhận quyết định khởi tố, quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn
chặn; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình
chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố; các quyết định tố tụng khác
theo quy định của pháp luật TTHS; đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu.

Nguyễn Hữu Thế Trạch (2014), Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường đại học luật Tp Hồ Chí Minh, tr. 51.
10


18

Tuy được pháp luật quy định cho các quyền nêu trên nhưng trong thực tế vì
trình độ hiểu biết pháp luật còn hạn chế, sự hạn chế về mặt nhận thức hay vì những lý
do khác nhau mà người bị buộc tội là người CTN thường không thể vận dụng có hiệu
quả quyền tự bào chữa. Do đó, để bảo đảm quyền tự bào chữa của người bị buộc tội là
người CTN đòi hỏi CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án phải có trách nhiệm giải thích cho họ
biết những biện pháp do luật định và tạo mọi điều kiện để họ có thể vận dụng các
quyền nêu trên. Nếu các cơ quan THTT không đảm bảo cho người bị buộc tội là người
CTN thực hiện QBC có nghĩa là vi phạm quy định của pháp luật TTHS.
Về quyền nhờ người khác bào chữa.
Quyền nhờ người khác bào chữa là hình thức giúp đỡ pháp lý của luật sư hay
những người khác theo quy định của pháp luật nhằm hỗ trợ cho người bị buộc tội thực
hiện QBC của mình khi họ khơng đủ khả năng tự mình thực hiện hoặc trong những
trường hợp pháp luật quy định bắt buộc phải có NBC nhằm bảo đảm tính khách quan

và tính hợp pháp của các hoạt động TTHS. Quyền nhờ người khác bào chữa là một
-

phần QBC và là một đảm bảo quan trọng để người bị buộc tội thực hiện các quyền tố
tụng khác mà pháp luật quy định để bào chữa trước sự buộc tội của cơ quan THTT.
Quy tắc 15.1 của Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về tư pháp
người CTN (Quy tắc Bắc Kinh) quy định: “Trong suốt quá trình tố tụng, người chưa
thành niên có quyền được nhờ cố vấn pháp lý đại diện cho mình hoặc yêu cầu sự giúp
đỡ pháp lý miễn phí như điều khoản quy định sự giúp đỡ như thể ở quốc gia đó”. Và
tại Quy tắc 18 (a) của Quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người CTN bị tước quyền
tự do quy định: “Người chưa thành niên cần phải có quyền có luật sư bào chữa và có
quyền yêu cầu sự giúp đỡ pháp lý khơng phải trả tiền, nếu sự giúp đỡ đó có sẵn, và có
quyền thường xuyên tiếp xúc với luật sư của mình. Các bí mật và sự riêng tư trao đởi
đó phải được đảm bảo”.
Thực tiễn cho thấy, khơng phải người bị buộc tội nào cũng có khả năng thực
hiện quyền tự bào chữa một cách có hiệu quả, bên cạnh đó, xuất phát từ đặc điểm tâm
sinh lý của người CTN, là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện, tinh thần, nhận thức
pháp luật hạn chế, nên người CTN khơng thể tự mình bào chữa mà họ phải cần có sự
hỗ trợ và đối xử đặc biệt ngay cả trong trường hợp họ vi phạm pháp luật. Chính vì sự
phát triển chưa đầy đủ đó có thể cản trở, gây khó khăn, hạn chế họ thực hiện QBC của


19

mình. Vì vậy, để đảm bảo hơn cho QBC của người người bị buộc tội CTN, đồng thời
để giúp đỡ họ về mặt pháp lý, nhà làm luật đã quy định rằng cơ quan THTT có trách
nhiệm mời NBC cho các chủ thể này khi họ hoặc đại diện hợp pháp của họ khơng mời
được NBC mà muốn có NBC.
Sự tham gia tố tụng của NBC là rất cần thiết, bằng kinh nghiệm nghề nghiệp và
sự hiểu biết của mình, NBC tham gia vào quá trình giải quyết vụ án để có thể giúp bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người CTN. Đồng thời, sự tham gia của NBC cũng
góp phần vào việc xác định sự thật của vụ án, không để người CTN bị buộc tội oan sai.
Trong trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 Bộ luật TTHS năm 2003, cơ
quan THTT có nghĩa vụ phải bảo đảm có NBC tham gia tố tụng. Đây được coi là
trường hợp bào chữa bắt buộc. Như vậy, với quy định này trong Bộ luật TTHS thì
khơng những pháp luật đã chính thức thừa nhận QBC của người bị buộc tội là người
CTN mà còn đưa ra cơ chế nhằm bảo đảm cho người CTN thực hiện được QBC trên
thực tế. Đây chính là một quy định tiến bộ của pháp luật TTHS nhưng cũng chính là
một quy định rất tiến bộ về quyền trẻ em, điều này một lần nữa khẳng định thái độ nhất
quán của Nhà nước Việt Nam là tôn trọng và bảo vệ QCN, trong đó có quyền trẻ em.
Việc cơ quan THTT không thực hiện nghĩa vụ mời NBC trong trường hợp trên bị coi là
hành vi vi phạm thủ tục tố tụng nghiêm trọng.
Quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa là hai nội dung của QBC,
nó có tác dụng bở sung cho nhau chứ khơng triệt tiêu lẫn nhau và có thể cùng song
song tồn tại. Điều này có nghĩa là khi người bị buộc tội nhờ người khác bào chữa cho
mình thì họ vẫn có quyền tự bào chữa và ngược lại, như tại phiên tịa, sau khi kiểm sát
viên trình bày lời luận tội bị cáo được quyền trình bày lời bào chữa, nếu bị cáo có nhờ
NBC thì sau khi NBC bào chữa cho bị cáo, bị cáo vẫn có quyền bở sung ý kiến bào
chữa.
1.2.3 Các yếu tố đảm bảo thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội là
người chưa thành niên trong tố tụng hình sự
1.2.3.1 Đảm bảo về mặt pháp lý
Quyền bào chữa là một trong những chế định quan trọng của luật TTHS. Trong
thực tế, khi nói đến bào chữa, người ta thường cho rằng đó là chức năng đối lập với
chức năng buộc tội. Nếu hiểu như vậy là hoàn toàn sai lầm, bởi lẽ, khi Viện kiểm sát đã


20

truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật thì việc bào chữa không làm cho bị cáo trở

thành vô tội, mà chỉ có thể đưa ra những tình tiết giảm nhẹ TNHS cho bị can, bị cáo.
Buộc tội và bào chữa ln song song tồn tại. QBC, đó là một trong những quyền cơ
bản của công dân khi tham gia tố tụng với tư cách là người bị buộc tội. Bảo đảm QBC
của người bị buộc tội nói chung xuất phát từ yêu cầu bảo vệ QCN và bảo đảm nguyên
tắc xác định sự thật của vụ án trong TTHS. Cơ sở pháp lý của việc bảo đảm QBC của
người bị buộc tội được ghi nhận trong tất cả các bản Hiến pháp từ năm 1945 đến nay.
Quyền bào chữa của người bị buộc tội được ghi nhận trong các văn bản pháp
luật hiện hành một cách đầy đủ nhất. Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Người
bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ
luật sư hoặc người khác bào chữa”. Cụ thể hóa quy định trên của Hiến pháp, Điều 11
Bộ luật TTHS năm 2003 đã quy định việc bảo đảm và cơ quan có trách nhiệm trong
việc bảo đảm thực hiện QBC của người bị buộc tội. Ngồi ra Bộ luật TTHS năm 2003
cịn có nhiều quy định liên quan đến việc thực hiện và tạo điều kiện cho việc thực hiện
QBC của người bị buộc tội ở các điều khác nhau như các điều 56, 57, 58, 190, 217…
Trong đó quy định về quyền của người bị buộc tội khi tham gia tố tụng; về nghĩa vụ
của NBC, những trường hợp cơ quan THTT phải đảm bảo có sự tham gia của NBC;
trường hợp bào chữa chỉ định mà NBC vắng mặt tại phiên tịa thì HĐXX phải hỗn
phiên tịa; NBC được trình bày lời bào chữa sau khi kiểm sát viên trình bày lời luận tội.
Những trường hợp vi phạm các quy định trên đều ảnh hưởng tới QBC của người bị
buộc tội nói chung và bị coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Tùy theo giai
đoạn tố tụng mà có các chế tài tố tụng khác nhau như trả hồ sơ để điều tra bổ sung hay
hủy án để điều tra lại hoặc xét xử lại. Luật Tổ chức TAND năm 2014 cũng quy định cụ
thể: “Tòa án có trách nhiệm bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ
lợi ích hợp pháp của đương sự”11. Văn bản pháp lý góp phần quan trọng trong việc bảo
đảm thực hiện QBC của người bị buộc tội, đó là Luật luật sư năm 2006. Đây là một
trong những bước tiến mới trong q trình hồn thiện chế định luật sư nói chung và
QBC của người bị buộc tội nói riêng. Luật Luật sư năm 2006 thể hiện sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước đối với hoạt động bở trợ tư pháp nói chung và QBC của người bị
buộc tội nói riêng.
11


Điều 14, Luật tở chức Tòa án nhân dân năm 2014


×