Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Bào chữa bắt buộc trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 81 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH

LƢ THẾ HÂN

BÀO CHỮA BẮT BUỘC
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP.HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH

LƢ THẾ HÂN

BÀO CHỮA BẮT BUỘC
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60380104

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lƣơng Thị Mỹ Quỳnh

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015


LỜI CAM ĐOAN



Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các nội dung, số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa
từng được ai cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2015
Tác giả luận văn

Lư Thế Hân


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BCBB

:

Bào chữa bắt buộc

BLTTHS

:

Bộ luật tố tụng hình sự

BLHS

:

Bộ luật hình sự


CNXH

:

Chủ nghĩa xã hội

CQĐT

:

Cơ quan điều tra

CQTHTT

:

Cơ quan tiến hành tố tụng

ĐTV

:

Điều tra viên

KSV

:

Kiểm sát viên


NBC

:

Người bào chữa

QBC

:

Quyền bào chữa

THTT

:

Tiến hành tố tụng

TNHS

:

Trách nhiệm hình sự

TTHS

:

Tố tụng hình sự


UBMTTQ

:

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc

VKS

:

Viện kiểm sát

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ....................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................. 3
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài...................................... 5
6. Bố cục của luận văn..................................................................................... 5
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BÀO CHỮA BẮT BUỘC
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ....................................................................... 6
1.1. Khái niệm bào chữa bắt buộc trong tố tụng hình sự ............................ 6
1.1.1. Khái niệm quyền bào chữa...................................................................... 6

1.1.2. Khái niệm bào chữa bắt buộc ............................................................... 10
1.2. Cơ sở lý luận và pháp lý về bào chữa bắt buộc ................................... 12
1.2.1. Cơ sở lý luận về bào chữa bắt buộc ...................................................... 12
1.2.2. Cơ sở pháp lý về bào chữa bắt buộc ..................................................... 14
1.3. Ý nghĩa của việc quy định quyền bào chữa bắt buộc ......................... 16
1.3.1. Ý nghĩa chính trị .................................................................................... 16
1.3.2. Ý nghĩa về mặt xã hội ............................................................................ 17
1.3.3. Ý nghĩa về mặt pháp lý .......................................................................... 18
1.4. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam về bào chữa bắt buộc .............................................................. 19
1.4.1. Giai đoạn trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự .................................. 19
1.4.2. Giai đoạn sau khi có Bộ luật Tố tụng hình sự ...................................... 22
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 26
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ BÀO CHỮA BẮT BUỘC VÀ
HƢỚNG HOÀN THIỆN .............................................................................. 27


2.1. Hoạt động bào chữa bắt buộc trong những năm qua ......................... 27
2.2. Thực trạng quy định và áp dụng pháp luật trong bào chữa bắt buộc
......................................................................................................................... 32
2.2.1. Về các trường hợp có quyền được bào chữa bắt buộc ......................... 32
2.2.2. Thời điểm phát sinh, thay đổi quá trình bào chữa bắt buộc ................. 36
2.2.3. Về người có quyền được bào chữa bắt buộc......................................... 39
2.2.4. Về người bào chữa bắt buộc ................................................................. 41
2.2.5. Về các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng .............. 46
2.3. Những đề xuất hồn thiện pháp luật tố tụng hình sụ Việt Nam về bào
chữa bắt buộc ................................................................................................. 52
2.3.1. Các nguyên tắc và yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật tố tụng
hình sự về bào chữa bắt buộc ......................................................................... 52

2.3.2. Những vấn đề cần sửa đổi bổ sung trong pháp luật tố tụng hình sự .... 58
2.3.3. Điều chỉnh cơ chế bảo đảm thực thi quy định pháp luật ...................... 62
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Danh mục văn bản pháp luật
B. Danh mục tài liệu tham khảo
C. Website


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ở nước ta, xây dựng một nền tư pháp dân chủ với các nguyên tắc tôn
trọng và bảo vệ quyền con người là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của Đảng và
Nhà nước. Với định hướng cải cách tư pháp theo tinh thần của Nghị quyết số
08/NQ/TW năm 2002 và Nghị quyết số 49/NQ/TW năm 2005 của Bộ chính
trị, hoạt động tranh tụng trong giải quyết vụ án hình sự ngày càng được nâng
cao, vai trị của NBC đã dần được nhìn nhận đúng đắn, trách nhiệm của
CQTHTT, người THTT được củng cố trong việc bảo đảm QBC của người bị
buộc tội. Bảo đảm QBC của người bị buộc tội không chỉ là là một nguyên tắc
hiến định được thể chế hóa trong các bản Hiếp pháp của nước ta, mà còn là
một nguyên tắc đặc thù của pháp luật về TTHS được quy định tại BLTTHS.
QBC là một trong những quyền quan trọng của người bị buộc tội khi
tham gia tố tụng. Bảo đảm QBC của người bị buộc tội là một nguyên tắc đặc
thù của pháp luật TTHS được quy định tại Điều 11 BLTTHS 2003 với nội
dung: "Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người
khác bào chữa cho mình. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tồ án có nhiệm
vụ bảo đảm cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ"1. Cùng với
sự phát triển của pháp luật TTHS, QBC ngày càng được tôn trọng và mở rộng

hơn, đồng thời người bị buộc tội ngày càng được tạo những điều kiện tốt hơn
để thực hiện quyền này.
BCBB có ý nghĩa thực tiễn vơ cùng quan trọng trong q trình giải
quyết vụ án hình sự. Đây là một trong những cơ chế pháp lý hữu hiệu để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cũng như biện pháp pháp lý quan
trọng mà chủ thể liên quan sử dụng để bảo vệ quyền con người trong TTHS
một cách cơ bản nhất. Mặc dù pháp luật đã quy định tương đối đầy đủ nhưng
thực tiễn giải quyết các vụ án thuộc trường hợp BCBB còn bộc lộ nhiều bất
cập ngay cả trong quy định của pháp luật lẫn trong thực tế áp dụng, bất cập so
1

Nguyên tắc này được quy định tại điều 16 BLTTHS sửa đổi, vừa được Quốc hội thơng qua vào tháng
11/2015 nhưng chưa có hiệu lực thi hành, “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người
khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thơng báo, giải thích và bảo
đảm cho người bị buộc tội thực hiện đầy đủ quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này. Trường
hợp người bị buộc tội thuộc diện được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật trợ giúp pháp lý thì cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm giải thích cho họ quyền được trợ giúp pháp lý; nếu họ
đề nghị được trợ giúp pháp lý thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thông báo cho Trung tâm
trợ giúp pháp lý nhà nước”.


2

với nội dung QBC được ghi nhận trong các công ước quốc tế về quyền con
người mà Việt Nam tham gia ký kết.
Thực tiễn áp dụng BCBB còn nhiều bất cập dẫn đến tình trạng người bị
buộc tội khơng được bảo đảm trọn vẹn QBC của mình, NBC khơng thực hiện
đúng chức năng của mình. Cụ thể như vấn đề nhận thức về thời điểm và mức
độ tham gia bắt buộc của NBC trong các giai đoạn tố tụng, nhất là giai đoạn
điều tra còn chưa thống nhất; đối tượng được chỉ định NBC theo luật hiện nay

vẫn còn hạn chế, việc lựa chọn NBC của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cịn
chưa được thuận lợi,...
Vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về BCBB
trong TTHS một cách tồn diện và có hệ thống là cần thiết, phù hợp với yêu
cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Từ những lý do trên, tác giả chọn đề
tài: “Bào chữa bắt buộc trong Tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn
cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học pháp lý tố tụng hình sự, qua khảo sát cho thấy chưa có
cơng trình nghiên cứu cụ thể nào về BCBB trong tố tụng hình sự, đối với bào
chữa nói chung trong tố tụng hình sự thì có thể kể đến một số cơng trình
nghiên cứu đã được cơng bố như sau:
- Hồng Thị Sơn (2003), Thực hiện QBC của bị can, bị cáo trong
TTHS; Luận án Tiến sĩ. Luận án tập trung phân tích về QBC trong TTHS của
bị can, bị cáo nói chung, Luận án cũng có phân tích về những trường hợp
BCBB, tuy nhiên vấn đề này chỉ là một khía cạnh nhỏ của đề tài.
- Lương Thị Mỹ Quỳnh (2011), Bảo đảm quyền có người bào chữa của
người bị buộc tội – so sánh giữa luật TTHS Việt Nam, Đức và Mỹ; Luận án
tiến sĩ. Luận án phân tích về những biện pháp nhằm bảo đảm quyền có người
bào chữa của người bị buộc tội trong TTHS, qua đó có sự phân tích so sánh
với pháp luật một số nước như Mỹ, Đức. Tuy nhiên, Luận án cũng khơng tập
trung phân tích về BCBB trong TTHS Việt Nam.
- Vũ Văn Thìn (1996), Người bào chữa trong TTHS, Luận văn Thạc sỹ.
Luận văn tập trung phấn tích về quyền và nghĩa vụ nói chung của những
người bào chữa trong TTHS. Đối với BCBB trong TTHS, luận văn ít đề cập
đến.


3


- Nguyễn Phạm Duy Trang (2007), Sự tham gia của người bào chữa
trong các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố vụ án hình sự, Luận văn Thạc sỹ.
Luận văn tập trung phân tích quyền và nghĩa vụ của những người bào chữa
trong TTHS, cụ thể ở các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố mà không đề cập
đến vấn đề về BCBB trong TTHS.
- Đào Thị Thu Hương (2009), Sự tham gia bắt buộc của người bào
chữa trong TTHS Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ. Luận văn có sự phân tích sâu
sắc về việc BCBB trong TTHS, tuy nhiên luận văn tập trung phân tích về
quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong trường hợp BCBB mà chưa phân
tích sâu về quyền của bị can, bị cáo trong trường hợp BCBB.
- Đỗ Quang Thái (1998), Bảo đảm QBC của bị can, bị cáo trong Tố
tụng hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ. Luận văn phân tích về những biện
pháp nhằm bảo đảm QBC của bị can, bị cáo trong TTHS, cịn về BCBB trong
TTHS thì luận văn cịn bỏ ngõ.
- Ngồi ra, cịn một số tác giả cũng nghiên cứu về vấn đề này như:
PGS.TS Phạm Hồng Hải (1999), Đảm bảo QBC của người bị buộc tội. Nội
dung cuốn sách cũng phân tích về những biện pháp nhằm bảo đảm QBC của
người bị buộc tội trong TTHS.
- Nguyễn Văn Tuân (2001), Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự.
Nội dung cuốn sách chủ yếu tập trung phân tích về vai trị của luật sư trong
việc bào chữa. Cuốn sách cũng có phân tích về các trường hợp BCBB của
Luật sư, tuy nhiên việc phân tích chỉ mang tính chất một phần nhỏ trong
quyền của Luật sư.
Nhìn chung, với những đề tài trên của các tác giả chỉ đề cập đến một số
khía cạnh cụ thể về QBC của bị can, bị cáo, về chức năng bào chữa và người
bào chữa trong TTHS, về chế định tham gia bắt buộc của người bào chữa
trong TTHS, mà chưa có cơng trình tập trung nghiên cứu một cách khái quát
và toàn diện về cả lý luận và thực tiễn về BCBB trong TTHS Việt Nam. Do
vậy, việc nghiên cứu về BCBB trong TTHS Việt Nam có ý nghĩa rất quan
trọng cả về lý luận và thực tiễn.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu


4

Từ việc nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về BCBB, phân tích,
đánh giá, so sánh và tổng hợp những quy định của pháp luật về BCBB của
người bị buộc tội và thực trạng thực hiện BCBB của người bị buộc tội trong
TTHS, tác giả đưa ra những đề xuất thiết thực nhằm tôn trọng và bảo đảm
thực hiện QBC bắt buộc của người bị buộc tội có hiệu quả tối đa.
Nhiệm vụ của đề tài
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ yêu cầu được đặt
ra là:
+ Nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về thực hiện BCBB của bị
can, bị cáo như khái niệm BCBB, cơ sở quy định BCBB, ý nghĩa của việc
thực hiện BCBB.
+ Sơ lược về lịch sử hình thành, phát triển chế định BCBB.
+ Nghiên cứu các hình thức thực hiện BCBB.
+ Nghiên cứu các yếu tố bảo đảm thực hiện BCBB.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện BCBB của bị can, bị cáo,
làm sáng tỏ những hạn chế, vướng mắc và rút ra các kết luận cần thiết.
+ Đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật và những kiến nghị khác
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện BCBB.
4. Phạm vi và phƣơng pháp nghiên cứu
Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Những nghiên cứu trong luận văn tập trung ở việc phân tích, đánh giá
và tổng hợp những vấn đề về lý luận và thực tiễn có liên quan đến QBC bắt
buộc trong TTHS Việt Nam. Những văn bản pháp lý quốc tế có liên quan trực
tiếp đến đề tài nghiên cứu cũng được đề cập nhằm làm sáng tỏ mức độ vận

dụng của pháp luật Việt Nam so với chuẩn mực quốc tế. Những vấn đề thực
tiễn trong việc áp dụng pháp luật từ 5 năm trở lại đây để làm cơ sở cho việc
phân tích các quy định pháp luật về BCBB.
Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn, tác giả đã dựa trên cơ sở vận dụng các quan
điểm, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về pháp luật, về quyền con người nói


5

chung và quyền công dân trong xã hội, phát huy dân chủ, bảo đảm thực hiện
quyền cơng dân có hiệu quả. Ngồi ra, luận văn cịn sử dụng một số phương
pháp khác như: Phương pháp phân tích, tổng hợp để phân tích các quy định
pháp luật liên quan đến BCBB và sau đó tổng hợp lại những vấn đề đã phân
tích để có cái nhìn tổng quan về vấn đề; phương pháp thống kê nhằm cung
cấp số liệu thực tiễn làm cho luận văn có tính thuyết phục cao; phương pháp
trao đổi ý kiến với chuyên gia với mục đích tham khảo thêm những quan
điểm của những người nghiên cứu pháp luật tăng thêm tính khách quan cho
việc nghiên cứu; phương pháp lịch sử pháp luật giúp việc nghiên cứu những
quy định pháp luật về BCBB trong quá khứ đạt hiệu quả cao; phương pháp
kết hợp giữa lý luận với thực tiễn để tạo cơ sở cho việc đề xuất những kiến
nghị có tính khoa học và phù hợp với thực tiễn.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Đề tài được tác giả nghiên cứu và trình bày một cách có hệ thống trên
cơ sở lý luận và thực tiễn về QBC bắt buộc trong TTHS. Nội dung và kết quả
nghiên cứu của đề tài có thể được khai thác, sử dụng theo các mục đích khác
nhau liên quan đến QBC bắt buộc trong TTHS. Những kiến nghị mà tác giả
đưa ra có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc sửa đổi, bổ sung
BLTTHS trong tương lai, đồng thời có ý nghĩa như một đề xuất mang tính

khoa học góp phần hồn thiện chế định BCBB trong TTHS Việt Nam.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm hai chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về bào chữa bắt buộc trong TTHS.
Chương 2: Thực trạng quy định và áp dụng pháp luật TTHS Việt Nam
về bào chữa bắt buộc và hướng hoàn thiện.


6

CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BÀO CHỮA BẮT BUỘC
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm bào chữa bắt buộc trong tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm quyền bào chữa
Vấn đề quyền con người và bảo đảm quyền con người là những vấn đề
quan trọng trong mỗi quốc gia và là biểu thị của một xã hội văn minh. Các
vấn đề này được ghi nhận trong hầu hết các văn bản pháp lý về quyền con
người. Cụ thể một số văn bản quốc tế như: Tuyên ngôn thế giới về quyền con
người, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, Cơng ước Châu u
về quyền con người, Công ước Châu Mỹ về quyền con người, Công ước Châu
Phi về quyền con người và quyền công dân... Các bản Hiến pháp của Việt
Nam năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013 đều có quy định Nhà nước có nghĩa
vụ bảo đảm QBC của người bị buộc tội trong quá trình tố tụng hình sự.
Trong các giai đoạn khác nhau của lịch sử, Nhà nước ln có những quy
định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của công dân. Một trong các hình thức thực
hiện quyền cơng dân được Nhà nước bảo đảm thực hiện chính là quyền được
bảo vệ mình trước cơ quan pháp luật, trong đó có QBC. QBC được ghi nhận
trong BLTTHS là cần thiết, giúp CQTHTT giải quyết vụ án được khách quan
và tránh được việc làm oan người vô tội. Hơn nữa, việc tranh tụng công bằng

giữa bên buộc tội (Nhà nước) với bên bào chữa (người bào chữa) trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự sẽ tạo ra cơ chế thuận lợi cho hoạt động TTHS
được tiến hành có hiệu quả. Đó cũng là một trong những cơ sở giúp Tòa án
giải quyết vụ án được chính xác.
Xung quanh khái niệm QBC, hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau.
Cụ thể như:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng, QBC là tổng hòa các hành vi tố tụng đối
với việc bác bỏ sự buộc tội và xác định bị can khơng có lỗi hoặc làm giảm
trách nhiệm của bị can2.
- Quan điểm thứ hai cho rằng, QBC được hiểu rộng hơn, nó khơng chỉ
dừng lại ở việc bác bỏ sự buộc tội và xác định bị can khơng có lỗi hay làm
giảm trách nhiệm của bị can mà nó cịn được thể hiện trong cả việc bảo đảm

2

Phạm Hồng Hải (1999), Đảm bảo QBC của người bị buộc tội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr 14.


7

các quyền và lợi ích được pháp luật bảo vệ của bị can kể cả khi chúng không
trực tiếp liên quan đến việc làm giảm nhẹ trách nhiệm của bị can trong vụ án3.
- Quan điểm thứ ba cho rằng, QBC khơng chỉ thuộc về bị can, bị cáo mà
cịn thuộc về người bị tình nghi phạm tội, người bị kết án, người bào chữa, bị
đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ4.
- Quan điểm thứ tư cho rằng, QBC trong tố tụng hình sự là tổng hòa các
hành vi tố tụng do người bị tam giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án thực hiện
trên cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật nhằm phủ nhận một phần hay
toàn bộ sự buộc tội của CQTHTT, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm của
mình trong vụ án hình sự5.

- Quan điểm thứ năm cho rằng, trong TTHS, bị can, người bị tình nghi
cũng như những công dân tham gia trong TTHS với tư cách khác, trong đó có
cả người bị hại đều cần tới sự bảo vệ các lợi ích có thể bị xâm hại6.
- Quan điểm thứ sáu cho rằng, “không chỉ có bị cáo mà cả người bị hại
cũng cần đến việc bào chữa. Nhân chứng, giám định viên và cả những người
khác cũng vậy, nếu quyền lợi của họ bị xâm hại"7.
- Quan điểm thứ bảy cho rằng: “QBC là tổng hoà các hành vi tố tụng
hướng tới việc bãi bỏ sự buộc tội và xác định bị can không có lỗi hoặc nhằm
làm giảm trách nhiệm của bị can.”8 Quyền này được hiểu rộng hơn, nó khơng
chỉ dừng lại ở việc bãi bỏ và xác định bị can không có lỗi hay làm giảm trách
nhiệm của bị can mà nó cịn được thể hiện trong cả việc đảm bảo các quyền
và lợi ích hợp pháp được pháp luật bảo vệ của bị can kể cả khi chúng không
trực tiếp liên quan đến việc làm giảm trách nhiệm của bị can trong vụ án.
Quan điểm này quá hẹp và không chính xác vì một người tham gia tố tụng với
tư cách bị can khi cơ quan có thẩm quyền có đủ căn cứ xác định họ là người
thực hiện hành vi phạm tội và ra quyết định khởi tố bị can. Trong tố tụng hình
sự, khái niệm bị can chỉ tồn tại cho đến thời điểm trước khi có quyết định đưa
vụ án ra xét xử sau đó vụ án được tiếp tục tham gia tố tụng sẽ có tư cách là bị
3

Phạm Hồng Hải (1999), Đảm bảo QBC của người bị buộc tội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr 18.
VKS nhân dân tối cao (1995), Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của Luật tố tụng hình sự, Kỷ yếu
đề tài khoa học, Hà Nội.
5
Phạm Hồng Hải (1999), Đảm bảo QBC của người bị buộc tội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr 29-30.
6
Phạm Hồng Hải (1999), Đảm bảo QBC của người bị buộc tội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr 17.
7
Ủy ban khoa học và xã hội nhân văn (1992), Những vấn đề lý luận về Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự và
Tội phạm học, Hà Nội, tr 107

8
Xtrơgơvich M.X, “Giáo trình luật tố tụng hình sự Xơ Viết”, tập 1, Nxb Khoa học, M-1968, trang 196
4


8

cáo. Nếu thừa nhận quan điểm trên về QBC của bị can thì vơ hình chung đã
tước đi QBC của bị cáo. Trong giai đoạn này họ là người bị buộc tội thể hiện
ở việc truy tố của VKS và việc Tịa án xem xét có tội hay khơng có tội.
- Quan điểm thứ tám cho rằng: “QBC không chỉ thuộc về bị can, bị cáo
mà còn thuộc về người bị tình nghi, người bị kết án, người bào chữa, bị đơn
dân sự và nguyên đơn dân sự”9. Việc cho rằng QBC trong tố tụng hình sự
khơng chỉ thuộc về bị can, bị cáo mà còn thuộc về những người tham gia tố
tụng hình sự với tư cách khác hoặc người bị kết án là khơng chính xác vì nó
đồng nhất khái niệm QBC trong TTHS với khái niệm quyền cơng dân bảo vệ
các lợi ích hợp pháp của mình. QBC với tư cách là một quyền tố tụng cơ bản
của BLTTHS 2003 chỉ thuộc về người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Ngoài những quan điểm rất khác nhau như trên về QBC, trong BLTTHS
của các nước cũng có những quy định khác nhau về QBC. Cụ thể:
- Theo BLTTHS của Nhật Bản thì QBC chỉ thuộc về bị cáo và người bị
tình nghi, đó là: "Bị cáo hoặc người bị tình nghi có thể lựa chọn luật sư bào
chữa bất kỳ lúc nào" (Điều 30)10.
- Theo BLTTHS của Bungari quy định QBC thuộc về bị can, bị cáo
trong đó QBC của bị can bị hạn chế, vì họ chỉ có quyền nhờ người bào chữa
trong một số trường hợp cụ thể. Đó là: Bị can là người chưa thành niên; Bị
can là người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, khơng thể tự mình bào
chữa được; Khi có sự đồng ý của VKS, nếu sự tham gia của NBC khơng gây
khó khăn cho việc xác định chân lý khách quan về vụ án (Điều 73)11.
- BLTTHS Liên bang Nga quy định: "Người bào chữa được tham gia tố

tụng từ khi nhận được quyết định khởi tố bị can, trong trường hợp người bị
tình nghi thực hiện tội phạm bị tạm giữ hoặc áp dụng biện pháp ngăn chặn
tạm giam trước khi khởi tố bị can thì từ khi nhận được biên bản về việc bắt
hoặc quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam" (Điều 47)12.

9

Hoàng Thị Sơn (2000), “Về khái niệm QBC và việc đảm bảo QBC cho bị can, bị cáo”, Tạp chí Luật học,
(5), trang 40.
10
BLTTHS Nhật Bản (2004)
11
BLTTHS của Bungari (1999), (Bản dịch tiếng Việt), VKSNDTC, Viện Khoa học Kiểm sát, Dự án
VIE/95/018
12
BLTTHS của Liên bang Nga (1999), (Bản dịch tiếng Việt), VKSNDTC, Viện Khoa học Kiểm sát, Dự án
VIE/95/018


9

Hiện nay khái niệm về QBC trong TTHS được hiểu rất khác nhau và
thực tế nó cũng được quy định khác nhau trong pháp luật TTHS của các nước.
Qua việc nghiên cứu các quan điểm khác nhau về QBC cũng như những quy
định về QBC trong pháp luật TTHS của một số nước, tác giả hoàn toàn đồng
ý với quan điểm của BLTTHS 2003 của Việt Nam cho rằng QBC là quyền
của người bị buộc tội. Tại Điều 11 BLTTHS 2003 quy định về bảo đảm QBC
như sau: “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ
người khác bào chữa”. Như vậy, theo quy định của BLTTHS 2003 thì người
bị buộc tội là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Họ thực chất là một người,

nhưng ở từng giai đoạn tố tụng khác nhau thì có tên gọi khác nhau. Trên cơ sở
này, BLTTHS sửa đổi vừa được Quốc hội thông qua đã chính thức ghi nhận
theo tinh thần của Hiến pháp 2013 về việc mở rộng hơn về người bị buộc tội
cũng như quyền bào chữa của họ. Theo đó, người bị buộc tội cịn bao gồm cả
người bị bắt và ngồi việc họ có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào
chữa, họ cịn có quyền được nhận sự trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp
luật.
Khác với những người tham gia tố tụng khác trong vụ án hình sự, người
bị buộc tội tham gia tố tụng chịu sự buộc tội của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Việc buộc tội này thường gắn liền với việc áp dụng biện pháp ngăn
chặn, việc phải chịu trách nhiệm hình sự mà thực tiễn điều ta, truy tố, xét xử
các vụ án hình sự cho thấy khơng phải mọi trường hợp buộc tội đối với người
bị buộc tội đều chính xác mà vẫn cịn có trường hợp buộc tội oan, buộc tội
khơng đúng vì những ngun nhân khác nhau khó có thể chấp nhận. Do vậy,
QBC thuộc về người bị buộc tội là một yêu cầu khách quan trong TTHS
nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hình sự được đúng đắn, tránh được
việc làm oan người vô tội.
Người bị buộc tội có QBC bởi vì họ là đối tượng bị buộc tội, còn những
người tham gia tố tụng khác không phải là đối tượng của sự buộc tội, do vậy
vấn đề bào chữa không đặt ra đối với họ. Tuy nhiên, khi tham gia tố tụng, nếu
quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm hại thì họ cũng có quyền được (tự)
bảo vệ bằng những biện pháp theo quy định của pháp luật, nhưng đó khơng
phải là hoạt động bào chữa. Như vậy, QBC của người bị buộc tội hoàn toàn
khác với việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia
tố tụng khác.


10

Như vậy, QBC của người bị buộc tội có thể hiểu là tổng thể các quyền

mà pháp luật quy định, cho phép họ có thể sử dụng nhằm bác bỏ một phần
hay toàn bộ sự buộc tội và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. QBC là một chuẩn
mực bắt buộc13 trong quyền được xét xử cơng bằng14, có tính chất quan trọng
được luật pháp nhân quyền quốc tế và tập quán quốc tế bảo vệ. QBC được ghi
nhận trong các Cơng ước quốc tế và có hiệu lực ràng buộc về nghĩa vụ pháp
lý với các quốc gia thành viên.
1.1.2.Khái niệm bào chữa bắt buộc
Nghiên cứu về QBC theo các chuẩn mực quốc tế có thể nhận thấy rằng
quan điểm về quyền bào chữa có hai cách tiếp cận, đó là quyền bào chữa chủ
động và quyền bào chữa bắt buộc15. QBC chủ động là các hoạt động bào chữa
phụ thuộc vào ý chí, mong muốn của người bị buộc tội, họ có thể tự bào chữa,
trực tiếp mời hoặc thơng qua NBC. Trong khi đó, QBC bắt buộc được đề cập
đến không chỉ là quyền của người bị buộc tội mà còn là trách nhiệm của các
CQTHTT16 phải bảo đảm có NBC cho họ.
Theo quan điểm của nhà làm luật Việt Nam, người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo được quyền sử dụng tất cả những biện pháp nhằm chống lại, bác bỏ, phủ
nhận lời buộc tội của CQĐT, V S, Tịa án hoặc để giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của mình trong vụ án. Họ có thể trực tiếp tự bào chữa hoặc nhờ người
khác bào chữa cho mình, và ngay cả khi họ đã nhờ người khác bào chữa thì
điều này cũng khơng làm mất đi quyền tự bào chữa của họ. Tuy nhiên, trong
một số trường hợp đặc biệt luật quy định sự tham gia của NBC vào trong vụ
án là bắt buộc. Đó là các trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 57
BLTTHS năm 2003, khoản 1 Điều 121 BLTTHS sửa đổi vừa được thông qua
là: bị can, bị cáo về tội mà BLHS quy định hình phạt tù cao nhất đến 20 năm,
tù chung thân, tử hình; hoặc người bị buộc tội là người chưa thành niên,
13

Chuẩn mực bắt buộc được định nghĩa là “một chuẩn mực được chấp nhận và công nhận bởi công đồng
quốc tế của các quốc gia như một chuẩn mực mà được ph p vi phạm và có thể được sửa đổi bởi một chuẩn
mực sau này của pháp luật quốc tế chung có tính chất tương tự” (Cơng ước Viên về Luật Điều ước quốc tế,

có hiệu lực từ ngày 27/01/1980, Điều 53).
14
Quyền được x t xử công bằng (the right to a fair trial) là tập hợp các quyền để có được chuẩn mực x t xử
công bằng (thường được nhắc đến như những quyền căn bản hay sự bảo đảm tối thiểu về x t xử theo đúng
pháp luật tố tụng) được nêu trong quy định tại Điều 14 ICCPR.
15
Nguyễn Thái Phúc (2007), “Sự tham gia bắt buộc của người ào chữa trong TT S”, Tạp chí khoa học
pháp lý, (4), tr.41.
16
Các cơ quan tiến hành tố tụng gồm có: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án, quy định tại khoản 1
Điều 33 BLTTHS.


11

người có nhược điểm về tâm thần, người có nhược điểm về thể chất mà khơng
thể tự bào chữa.
Ngồi ra, BCBB có một số điểm khác biệt so với bào chữa chủ động như
sau: Cơ sở pháp lý đầu tiên để NBC tham gia vào vụ án là sự chủ động thực
hiện nghĩa vụ bảo đảm QBC của người bị buộc tội từ phía các CQTHTT
thơng qua hình thức u cầu hoặc đề nghị Đoàn luật sư, Trung tâm trợ giúp
pháp lý hoặc UBMTTQ cử NBC. Quyết định quản lý của Đoàn luật sư, Trung
tâm trợ giúp pháp lý hoặc UBMTTQ là cơ sở pháp lý tiếp theo để NBC tham
gia vào vụ án chứ không phải là sự thỏa thuận giữa người bị buộc tội với
NBC. Theo quy định của BLTTHS 2003, người bị buộc tội là người chưa
thành niên hoặc có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất vẫn có quyền yêu
cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa đã được cử cho họ nhưng quyền này
khơng có tính tuyệt đối. Thí dụ, nếu chỉ có bị cáo chưa thành niên từ chối
người bào chữa còn người đại diện hợp pháp của bị cáo không từ chối thì Tịa
án vẫn tiến hành xét xử với sự tham gia của người bào chữa đã được cử. Chi

phí cho người bào chữa do Nhà nước chịu.
BCBB trong TTHS là quy định rất nhân đạo và tiến bộ của BLTTHS
nước ta. Quy định của luật về các trường hợp BCBB là nhằm bảo vệ một cách
tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội và cũng được xem
như là sự bảo đảm gấp đôi quyền bào chữa cho họ. QBC không chỉ cần thiết
cho người bị buộc tội mà cịn cần thiết và có lợi cho chính các CQTHTT, cho
nhiệm vụ xác định sự thật khách quan của vụ án, xét xử đúng người đúng tội,
không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Bảo đảm QBC của
người bị buộc tội là một nguyên tắc của TTHS và là nghĩa vụ của các
CQTHTT phải thực hiện trên thực tế.
Như vậy, BCBB trong TTHS là sự bảo đảm tuyệt đối quyền có người
bào chữa của người bị buộc tội từ phía CQTHTT theo quy định của pháp luật.
Đây còn là một phương thức bảo đảm QBC; không là trường hợp đương
nhiên được bảo đảm mà chỉ áp dụng cho một số đối tượng theo quy định pháp
luật.


12

1.2. Cơ sở lý luận và pháp lý về bào chữa bắt buộc
1.2.1. Cơ sở lý luận về bào chữa bắt buộc
Quyền BCBB dựa trên cơ sở của quyền con người, đó là quyền tất yếu
trong cuộc sống tự nhiên của xã hội lồi người, mà có thể nói, thiếu nó chúng
ta khơng thể sống như những con người thật sự. Những nguyên tắc về quyền
con người trong quá trình phát triển ln được hồn thiện dần theo thời gian
và được ghi nhận trong hầu hết các văn bản pháp lý quốc tế. Ở Việt Nam, các
quyền cơ bản của con người cũng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định
trong bản Tuyên ngôn độc lập ngày 02/9/1945 khai sinh nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa. Quyền con người trở thành một khái niệm toàn cầu như được
thể hiện trong tuyên bố của Hội nghị thế giới Vienna về con người năm 1993

và các Nghị quyết của Liên hiệp quốc đã được thông qua nhân kỷ niệm 50
năm ngày ra đời của Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 194817.
Quyền con người chỉ có thể trở thành hiện thực khi nó được nhà nước
bảo đảm thực hiện bằng các chế định pháp lý. Con người trong mỗi quốc gia
đều được nhà nước quy định cho họ những quyền và nghĩa vụ cụ thể, đồng
thời có những đảm bảo cần thiết để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
mình. Để thực hiện điều đó, nhà nước có những biện pháp cưỡng chế cần thiết
theo quy định của pháp luật, không cho phép bất cứ người nào vì bất kỳ lý do
gì mà xâm phạm đến quyền lợi của người khác. Đồng thời nhà nước cũng
khơng có quyền tước bỏ quyền cơ bản của công dân một cách vô căn cứ. Xuất
phát từ việc đảm bảo quyền của con người, song song với việc quy định và
ghi nhận quyền và nghĩa vụ của công dân, nhà nước còn quy định một hệ
thống những chế tài bắt buộc áp dụng đối với những công dân vi phạm.
Quyền con người hiện hữu trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội
trong đó có lĩnh vực TTHS. Quyền con người trong TTHS không phổ biến,
rộng lớn và diễn ra hàng ngày hàng giờ như các lĩnh vực hành chính, dân sự,
kinh tế, chính trị, văn hóa..., nhưng có thể nói, quyền con người trong TTHS
là quyền dễ bị xâm phạm và bị tổn thương nhiều nhất và hậu quả để lại cũng
nghiêm trọng nhất khi nó động chạm đến quyền được sống, quyền tự do của
một cá nhân. TTHS với tư cách là một q trình mà theo đó nhà nước đưa
một người ra xử lý trước pháp luật khi họ bị cáo buộc là tội phạm, q trình
này ln thể hiện đậm n t tính quyền lực của nhà nước, với sự thiếu cân bằng
17

Wolfgang Benedek (2008), Tìm hiểu về quyền con người, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.


13

về thế và lực của các bên tham gia quan hệ TTHS mà sự yếu thế luôn thuộc

về những người bị buộc tội. Hoạt động TTHS trong bất kỳ nhà nước nào cũng
đều bị xem là hoạt động có nguy cơ cao nhất xâm phạm đến quyền con
người.18
Chính vì vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân nói
chung và đặc biệt là của người bị buộc tội trong hoạt động TTHS, đồng thời
đạt mục đích là tìm ra được sự thật khách quan của vụ án, xét xử đúng người
đúng tội và không làm oan người vô tội, pháp luật TTHS đã quy định các
trường hợp BCBB, nhằm bảo đảm có sự có mặt của người bào chữa trong các
giai đoạn tố tụng. Bất cứ một sơ suất nào xảy ra trong quá trình tố tụng từ
phía các CQTHTT, người THTT hay sự tham gia khơng nhiệt tình, cẩu thả
của người bào chữa cũng sẽ đưa đến hậu quả nghiêm trọng cho người bị buộc
tội. Như vậy, quy định về trường hợp BCBB đối với các người bị buộc tội là
nhằm góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, đưa ra một bản án
công minh, thuyết phục.
Người bị buộc tội thường chịu ảnh hưởng không tốt về mặt tâm lý hoặc
họ khơng có điều kiện, kiến thức về pháp luật để tự bào chữa cho mình. Nhằm
mục đích hỗ trợ cho người bị buộc tội có điều kiện ln có NBC, nên pháp
luật quy định về BCBB là hết sức cần thiết trong những trường hợp này.
Người bào chữa với chuyên mơn và kinh nghiệm của mình, sẽ góp phần c ng
với các CQTHTT xác định sự thật khách quan của vụ án, hạn chế các sai sót
đáng tiếc có thể xảy ra trong suốt q trình tố tụng. Ngồi ra, quy định về
BCBB trong những trường hợp này còn thể hiện tính nhân đạo, cẩn trọng của
pháp luật trước khi quyết định hình phạt đối với người bị buộc tội.
Bên cạnh đó, người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về
thể chất, tinh thần, chưa có khả năng nhận thức, kiểm soát được suy nghĩ,
hành vi của mình. Người chưa thành niên dễ bị chi phối bởi tác động bên
ngoài và thực hiện các hành vi thiếu suy nghĩ chín chắn vì họ chưa hiểu biết
về xã hội và có kiến về pháp luật rất hạn chế. Một khi vướng vào vịng tố
tụng, họ có tâm lý hoang mang, lo sợ và khơng có khả năng tự bảo vệ mình
trước các CQTTHT. Vì vậy, họ thực sự cần có sự giúp đỡ về mặt tâm lý từ

phía người bào chữa trong quá trình tố tụng. Hoặc người có nhược điểm về
tâm thần, thể chất khơng thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình khi
18

Đinh Thế Hưng (2010), Bảo vệ quyền của người ị uộc tội trong TT S, Viện Nhà nước và Pháp luật.


14

tham gia tố tụng. Những người này bị thiệt thòi hơn những người bình thường
do khiếm khuyết của họ, nên họ cũng là đối tượng thực sự cần có sự giúp đỡ
về mặt tâm lý từ phía người bào chữa trong q trình tố tụng.
Từ phân tích trên có thể khẳng định rằng pháp luật quy định các trường
hợp BCBB là nhằm bảo đảm tuyệt đối sự có mặt của người bào chữa trong
các giai đoạn tố tụng, ngay cả khơng phụ thuộc vào ý chí, mong muốn người
bị buộc tội. Sự có mặt của người bào chữa trong quá trình tố tụng là một yêu
cầu khách quan, thiết yếu nhằm tạo ra sự tranh luận, cọ xát về quan điểm,
chứng cứ, đồng thời giúp các CQTHTT giải quyết vụ án một cách khách
quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Tóm lại, cơ sở của việc quy định về BCBB trong TTHS là yêu cầu bảo
đảm thực hiện quyền con người, QBC của người bị buộc tội, đặc biệt đối với
người bị buộc tội là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần
hoặc thể chất. Người bị buộc tội thuộc các trường hợp BCBB luôn được pháp
luật đảm bảo về quyền có người bào chữa trong các giai đoạn tố tụng, ở bất
kỳ lúc nào, không kể thời gian, khơng gian ngay cả khi họ khơng có điều kiện
mời người bào chữa, là quyền con người và nghĩa vụ bảo đảm quyền con
người trong TTHS.
1.2.2. Cơ sở pháp lý về bào chữa bắt buộc
QBC được ghi nhận tại Điều 11 Bản Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền
năm 1948 của Đại hội đồng Liên hợp quốc như sau: “Bất cứ ai bị cáo buộc về

một hành vi phạm tội đều được quyền suy đốn vơ tội cho đến khi bị chứng
minh là phạm tội trước một phiên tịa cơng khai, nơi mà anh ta được cung
cấp những bảo đảm cần thiết cho việc bào chữa”. Với nội dung thể hiện tại
Điều 11 này cho thấy rằng QBC là một chuẩn mực trong quyền được xét xử
công bằng được đề cập tại Điều 10 của Bản Tuyên ngôn: “Bất cứ ai cũng có
quyền được xét xử cơng bằng bởi một tịa án cơng khai với Hội đồng xét xử
độc lập và cơng bằng”.
Ở phạm vi tồn cầu, QBC được ghi nhận tại Điều 14 Công ước quốc tế
về quyền dân sự và chính trị (ICCPR) với nội dung: (điểm d khoản 3) Bị cáo
được tự bào chữa hoặc thông qua sự trợ giúp pháp lý theo sự lựa chọn của
mình; được thơng báo về quyền này nếu chưa có sự trợ giúp pháp lý; và được
nhận sự trợ giúp pháp lý theo chỉ định trong trường hợp lợi ích của cơng lý
địi hỏi và khơng phải trả tiền cho sự trợ giúp đó nếu khơng có đủ điều kiện


15

trả; và (khoản 4) Tố tụng áp dụng đối với những người chưa thành niên phải
xem xét tới độ tuổi của họ và mục đích thúc đẩy sự phục hồi nhân cách của
họ.
QBC tiếp tục được ghi nhận trong các Công ước về quyền con người ở
phạm vi khu vực, bao gồm Châu Âu, Châu Mỹ và Châu Phi. Theo Công ước
Châu Âu về quyền con người (ECHR), QBC được bảo đảm tại Điều 6 của
Cơng ước, theo đó, người bị buộc tội có quyền: (1) được có khoảng thời gian
hợp lý và các điều kiện đầy đủ để chuẩn bị cho việc bào chữa; (2) quyền tự
bào chữa hoặc thông qua người bào chữa do anh ta lựa chọn, hoặc nếu anh ta
khơng có khả năng chi trả cho người bào chữa thì người bào chữa miễn phí sẽ
được cung cấp vì lợi ích chung của cơng lý.
Điều 6.3 của Công ước Châu Âu về quyền con người (ECHR) ghi nhận
bất kỳ ai khi bị cáo buộc phạm tội hình sự phải được bảo đảm các quyền tối

thiểu, trong đó có quyền bào chữa, cụ thể là:
Điều 6.3(c) “Tự bào chữa cho chính mình thơng qua sự trợ giúp pháp lý
do chính người đó lựa chọn hoặc nếu người đó khơng có đủ khả năng chi trả
cho trợ giúp pháp lý thì được nhận trợ giúp pháp lý miễn phí khi cần thiết đạt
được các mục tiêu cơng lý”
Tại Châu Mỹ, QBC được khẳng định tại Công ước Châu Mỹ về quyền
con người (AmCHR). Tương tự như quy định của ECHR, nội dung Điều 8
của AmCHR quy định một người bị cáo buộc về một hành vi phạm tội có
những quyền sau: (1) được có khoảng thời gian hợp lý và các điều kiện đầy
đủ để chuẩn bị cho việc bào chữa (2) có quyền tự bào chữa hoặc thơng qua
người bào chữa do mình lựa chọn. Nền tảng của văn kiện pháp lý về QBC tại
khu vực Châu Phi là Hiến chương Châu Phi về quyền con người và quyền các
dân tộc (AfCHPR). Theo đó, tại Điều 7 của AfCHPR quy định: Mọi cá nhân
đều có QBC, bao gồm quyền được bào chữa bởi người bào chữa do mình lựa
chọn.
Việt Nam đã là thành viên của Liên Hiệp Quốc vào năm 1977, tiếp
nhận Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc năm 1948,
Công ước Liên Hiệp Quốc về quyền dân sự và chính trị năm 1966,… Tại các
bản Hiến pháp của nước ta đều có ghi nhận về quyền bào chữa, bảo đảm QBC
của người bị buộc tội là một nguyên tắc hiến định, một khía cạnh pháp lý
quan trọng của việc bảo đảm quyền công dân – một bảo đảm pháp lý cơ bản


16

của quyền con người. Khoản 4 Điều 31 của Hiến pháp năm 2013 khẳng định:
“Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự
bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”. Nguyên tắc hiến định này
đã được thể chế hoá trong các quy định của BLTTHS.
1.3. Ý nghĩa của việc quy định quyền bào chữa bắt buộc

1.3.1. Ý nghĩa chính trị
Thứ nhất, quy định về QBC bắt buộc trong TTHS là bảo vệ quyền con
người, quyền công dân trong TTHS. Kể từ khi trở thành thành viên của Liên
Hiệp Quốc năm 1977, Việt Nam đã từng bước tham gia hầu hết các văn kiện
quốc tế về quyền con người19 và thực hiện chúng ở cả hai phương diện lập
pháp và thực tiễn. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, BLTTHS đã quy định
cụ thể hơn về QBC của người bị buộc tội và quy định cả những bảo đảm cần
thiết để người bị buộc tội thực hiện QBC của họ nói chung và đối với người
bị buộc tội trong các trường hợp BCBB nói riêng. Những bảo đảm này gồm
các quy định tại Điều 11 BLTTHS 2003, Điều 16 BLTTHS sửa đổi: Cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thơng báo, giải thích và
bảo đảm cho người bị buộc tội thực hiện đầy đủ quyền bào chữa của họ theo
quy định của pháp luật."; quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS 2003, khoản
1 điều 121 BLTTHS sửa đổi: Nếu người bị buộc tội khơng mời người bào
chữa thì Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải yêu cầu hoặc đề nghị
Đoàn luật sư, Trung tâm trợ giúp pháp lý, UBMTTQ Việt Nam cử người bào
chữa cho họ và quy định về bào chữa tại BLTTHS về thủ tục đối với người
chưa thành niên phạm tội. Quy định về BCBB mang một ý nghĩa chính trị rất
sâu sắc, nó tạo ra cơ chế hữu hiệu nhằm bảo đảm thực hiện quyền con người,
quyền công dân của bị can, bị cáo trong TTHS, đồng thời chứng tỏ quyền dân
chủ của công dân và cơ chế tự do dân chủ được tôn trọng và bảo đảm thực
hiện ở nước ta.
Thứ hai, việc pháp luật TTHS nước ta ghi nhận các trường hợp bào chữa
bắt buộc là nhằm bảo đảm cho người bị buộc tội có người bào chữa trong mọi
giai đoạn tố tụng. Người bị buộc tội là những người chưa phát triển đầy đủ về
thể chất, nhận thức và tâm - sinh lý, hoặc họ là những người chịu thiệt thòi do
19

Việt Nam đã gia nhập hầu hết các Công ước nhân quyền quốc tế chủ chốt, trong đó có Cơng ước về quyền
dân sự, chính trị; Cơng ước về quyền kinh tế, xã hội, văn hóa; Cơng ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt

đối xử với phụ nữ; Cơng ước về quyền tr em; phê chuẩn 17 Công ước của Tổ chức Lao động Quốc tế; Công
ước quốc tế về quyền của người khuyết tật; Công ước chống tra tấn”.


17

khiếm khuyết về tâm thần, thể chất, hoặc họ bị buộc tội với mức hình phạt
cao nhất là tử hình theo quy định của BLHS. Quyền bào chữa bắt buộc của
người bị buộc tội trước các CQTHTT và cơ chế bảo đảm thực hiện là nhiệm
vụ của chính các cơ quan đó chứng tỏ bản chất dân chủ của Nhà nước ta. Điều
đó đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Đó cũng là biểu hiện mục tiêu phát
triển vì con người, lấy con người làm trọng tâm và động lực cho sự phát triển
của đất nước.
Thứ ba, thực hiện quy định về bào chữa bắt buộc trong TTHS là thể hiện
của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, con người ln được đặt vào vị trí trung tâm
của chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Bảo đảm QBC của bị can, bị cáo
nói chung và nhất là đối với bị can, bị cáo thuộc các trường hợp bào chữa bắt
buộc theo quy định của BLTTHS là nội dung quan trọng của chính sách vì
con người của Đảng và Nhà nước ta. Thực hiện quy định về bào chữa bắt
buộc trong TTHS còn thể hiện của tính nhân văn trong chính sách hình sự,
quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo luôn luôn được bảo đảm trong
quá trình tố tụng, ngay cả khi họ khơng có điều kiện mời NBC.
1.3.2. Ý nghĩa về mặt xã hội
Thực hiện quy định về BCBB trong TTHS thể hiện chính sách nhân đạo
của Nhà nước ta trong cuộc đấu tranh phịng chống tội phạm nói chung và
trong q trình giải quyết vụ án hình sự nói riêng. Ý nghĩa xã hội của BCBB
trong TTHS bao gồm những nội dung sau:
Thứ nhất, quy định của BLTTHS về các trường hợp BCBB biểu hiện
tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong chính sách hình sự của Nhà nước ta.

Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý, thể chất, mức hình phạt của người bị buộc
tội trong các trường hợp này là những người có hồn cảnh bất lợi hơn so với
những người bị buộc tội khác, do vậy mà pháp luật ln bảo đảm cho họ có
sự trợ giúp pháp lý từ NBC trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Thứ hai, thực hiện quy định về bào chữa bắt buộc là thực hiện dân chủ
trong hoạt động TTHS. Bảo đảm quyền tự do dân chủ của công dân là một
trong những nội dung và cũng là mục đích của xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Hoạt động tố tụng hình sự là một hoạt động
của Nhà nước liên quan rất chặt chẽ với quyền tự do, dân chủ của công dân,
đó cũng là nơi các quyền tự do dân chủ của cơng dân có nguy cơ dễ bị xâm


18

hại nhất. Thực tiễn tố tụng cho thấy các CQTHTT khi thu thập chứng cứ
thường chú trọng đến việc thu thập chứng cứ buộc tội mà xem nhẹ đến chứng
cứ gỡ tội cho bị can, bị cáo. Vì vậy, việc pháp luật quy định cơ chế pháp lý
đảm bảo sự có mặt của NBC trong các trường hợp BCBB là nhằm tạo thế cân
bằng trong việc đưa ra chứng cứ, quan điểm giữa “bên buộc tội” và “bên gỡ
tội”, giúp CQTHTT xác định sự thật của vụ án một cách khách quan và tồn
diện. Một bản án cơng bằng phải là kết quả của việc xem xét đầy đủ chứng cứ
của các bên trong các giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án.20
Thứ ba, thực hiện quy định về bào chữa bắt buộc trong TTHS là góp
phần tích cực vào việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bảo đảm QBC của
người bị buộc tội, đặc biệt là người bị buộc tội theo các trường hợp quy định
tại BLTTHS là thể hiện sự tôn trọng việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của cơng dân, nâng cao trách nhiệm của CQTHTT trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự. Nó khơng chỉ góp phần vào việc xử lý công minh, kịp
thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội
mà cịn góp phần vào việc hạn chế những vi phạm pháp luật của các

CQTHTT, tránh được tình trạng oan, sai đáng tiếc có thể xảy ra làm tổn hại
uy tín của CQTHTT và giảm lịng tin của nhân dân đối với sự công minh của
pháp luật
Thứ tư, thực hiện quy định về bào chữa bắt buộc trong TTHS là góp
phần vào việc giáo dục và nâng cao ý thức pháp luật của người bị buộc tội,
những người tiến hành và tham gia tố tụng nói riêng cũng như quần chúng
nhân dân nói chung. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình một cách
tốt nhất, người bị buộc tội phải biết mình được pháp luật trao cho những
quyền năng tố tụng gì. Điều này thực chất là một trong những hình thức nâng
cao kiến thức pháp luật cho người bị buộc tội. Mặt khác, nó có tác dụng nhắc
nhở những người THTT thường xuyên phải nâng cao trình độ chun mơn,
nghiệp vụ để đáp ứng u cầu trong công tác.
1.3.3. Ý nghĩa về mặt pháp lý
Thứ nhất, quy định về BCBB trong TTHS là góp phần vào việc xác định
sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm trong q trình tố tụng khơng để lọt k

20

Lương Thị Mỹ Quỳnh (2011), “Hoàn thiện quy định về bảo đảm quyền có người bào chữa trong pháp luật
TTHS Việt Nam”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (4)


19

phạm tội, không làm oan người vô tội, bảo đảm điều tra, truy tố, xét xử đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật.
Thứ hai, thực hiện quy định về BCBB là thực hiện nguyên tắc cơ bản của
Luật TTHS như: Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng
hình sự; ngun tắc tơn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của cơng dân; Bảo
đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật; Bảo đảm quyền bất

khả xâm phạm về thân thể của công dân; Bảo hộ tính mạng, sức kho , danh
dự, nhân phẩm, tài sản của công dân; Bảo đảm QBC của người người bị buộc
tội.
Thứ ba, thực hiện quy định về BCBB là thực hiện chức năng cơ bản của
pháp luật TTHS: “Chức năng bào chữa”. Bảo đảm QBC của người bị buộc tội
là khẳng định sự song song tồn tại hai chức năng cơ bản không thể thiếu được
của pháp luật TTHS bên cạnh chức năng x t xử, đó là chức năng buộc tội và
chức năng bào chữa. Hai chức năng này khơng chỉ tồn tại song song mà nó
cịn đối lập và chế ước nhau tạo ra một cơ chế tranh tụng có hiệu quả nhất
trong hoạt động tố tụng nhằm giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Việc quy
định các trường hợp BCBB chính là bảo đảm cho việc thực hiện chức năng
bào chữa trong TTHS.
1.4. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam về bào chữa bắt buộc
BLTTHS đầu tiên của Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày
28/06/1988 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1989. Đây là một bước
ngoặc lớn trong lịch sử lập pháp TTHS nói chung và chế định BCBB nói
riêng ở nước ta. BLTTHS năm 2003 tiếp tục hoàn chỉnh qui định về đảm bảo
QBC bắt buộc cho người bị buộc tội. BLTTHS sửa đổi quy định mở rộng hơn
nữa về diện BCBB đối với người bị buộc tội. Tuy nhiên hiện nay, BLTTHS
sửa đổi vẫn chưa có hiệu lực thi hành.
1.4.1. Giai đoạn trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự
Căn cứ vào quá trình hình thành và phát triển của nghề Luật sư tại nước
ta trong giai đoạn từ năm 1876 đến trước tháng 9 năm 1945, có thể nói việc
bảo vệ quyền lợi của người bị Tịa án xét xử đã được công nhận, thực thi, tồn
tại và phát triển ở nước ta bởi người Pháp. Sau khi Cách mạng tháng tám năm
1945 thành công, về cơ bản, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa vẫn duy



×