Tải bản đầy đủ (.pdf) (161 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về phát triển con người với việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ tại thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 161 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHẠM ANH TÚ

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI VỚI VIỆC ĐÀO TẠO, BỒI
DƯỠNG CÁN BỘ TRẺ
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHẠM ANH TÚ

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI VỚI VIỆC ĐÀO TẠO, BỒI
DƯỠNG CÁN BỘ TRẺ
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
TS. CAO XUÂN LONG

TP. HỒ CHÍ MINH - 2015




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn là kết quả nghiên cứu độc lập của tôi dưới
sự hướng dẫn của TS. Cao Xuân Long và chưa từng được công bố trên một cơng trình
khoa học nào. Các số liệu, tài liệu, trích dẫn trong luận văn là trung thực, chính xác và
có nguồn gốc rõ ràng.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 12 năm 2015
Tác giả

Phạm Anh Tú


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1: ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ - XÃ HỘI VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ
HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN CON
NGƯỜI .................................................................................................................. 15
1.1 ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ - XÃ HỘI VỚI VIỆC HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI ................................................................. 15
1.1.1 Điều kiện lịch sử - xã hội của thế giới nửa cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ
XX ....................................................................................................................................15
1.1.2 Điều kiện lịch sử - xã hội của Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX đến đầu thế
kỷ XX...............................................................................................................................21
1.2 TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN CHO VIỆC HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI ...................................................................................... 26
1.2.1 Truyền thống văn hóa Việt Nam với việc hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về phát triển con người .........................................................................................26
1.2.2 Tư tưởng phương Đơng, phương Tây với việc hình thành tư tưởng Hồ

Chí Minh về phát triển con người ..................................................................................31
1.2.3 Chủ nghĩa Mác - Lê-nin với việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
phát triển con người ........................................................................................................44
1.3 TIỀN ĐỀ CHỦ QUAN VỚI VIỆC HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI ...................................................................................... 49
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ..................................................................................... 62
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN
CON NGƯỜI VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG VIỆC ĐÀO TẠO, BỒI
DƯỠNG CÁN BỘ TRẺ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ........................ 63
2.1 NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI..... 63
2.1.1 Quan niệm về phát triển con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh .............64
2.1.2 Điều kiện tiên quyết đế phát triển con người ..............................................77
2.1.3 Mục tiêu phát triển con người ......................................................................83


2
2.1.4 Phương pháp phát triển con người ...............................................................85
2.2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
TRẺ TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH ................................................................................................................................. 105
2.2.1 Cán bộ trẻ và yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trẻ phục vụ
quá trình cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa tại Thành phố Hồ Chí Minh .................... 105
2.2.2 Những kết quả đạt được trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ tại
Thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua....................................................................... 112
2.2.3 Nhận xét, đánh giá về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ tại Thành
phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua ........................................................................ 123
2.3 VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI
VỚI VIỆC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ TRẺ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH ................................................................................................................................. 131
2.3.1 Cần khẳng định đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ là nội dung quan

trọng, nền tảng mà Thành phố Hồ Chí Minh cần phải quán triệt thực hiện
trong quá trình phát triển ........................................................................................ 131
2.3.2 Phương hướng nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ trẻ theo tư tưởng Hồ Chí Minh ............................................................................ 134
2.3.3 Một số giải pháp khi vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển
con người với việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ tại Thành phố Hồ Chí Minh140
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ................................................................................... 148
PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................. 150
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 152


3

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln dành sự quan tâm to lớn đối với việc
xây dựng và phát triển con người. Người chỉ rõ: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã
hội trước hết cần phải có con người xã hội chủ nghĩa” [56, tr.159], tức là việc
phát triển con người, xây dựng thế hệ tương lai - người chủ tương lai của đất
nước phải là một nhiệm vụ chiến lược trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Vì vậy, Người luôn quan tâm chăm lo đào tạo ra những con người mới vừa
“hồng” vừa “chuyên”, đặc biệt là bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau - lực
lượng không chỉ trực tiếp gánh vác và giải quyết những nhiệm vụ hiện tại, mà
còn là đội ngũ kế cận, nguồn bổ sung có đủ năng lực để kế thừa và tiếp tục phát
triển sự nghiệp của những thế hệ đi trước. Thật vậy, trong tiến trình cách mạng,
những lớp người hiện tại đã trực tiếp giải quyết thành công nhiều nhiệm vụ,
nhưng cũng có khơng ít cơng việc cịn dang dở; hơn nữa, thực tiễn cuộc sống
luôn đặt ra những vấn đề mới đòi hỏi phải tiếp tục giải quyết. Do đó, nếu thiếu
lực lượng kế cận xứng đáng thì chẳng những sự nghiệp cách mạng sẽ gặp khó
khăn, mà ngay cả những gì đã có cũng khó được gìn giữ, bảo tồn.

Qua các thời kỳ cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định tầm
quan trọng của nhân tố con người cũng như vấn đề phát triển con người, coi
nguồn lực con người là giá trị quý báu nhất và đóng vai trị quyết định nhất; vừa
là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển; trong đó, đội ngũ cán bộ là một
trong những nguồn nhân lực quan trọng quyết định sức mạnh của hệ thống chính
trị. Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam ln chăm lo đến công tác cán bộ, đặc biệt
coi trọng việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; nhằm trang bị, bổ sung,
nâng cao kiến thức, kỹ năng cho cán bộ với mục tiêu tạo ra đội ngũ cán bộ, công


4
chức đạt hiệu quả cao nhất nhiệm vụ được giao trên các lĩnh vực, góp phần thực
hiện thành cơng chiến lược phát triển nguồn nhân lực quốc gia.
Từ khi đất nước thực hiện công cuộc đổi mới, yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới càng trở nên cấp bách.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng qua các nhiệm kỳ đã thể hiện rõ
quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức; trong đó,
đổi mới cơng tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm hướng đến mục tiêu là xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu thực tiễn, từng bước tiến tới chuyên
nghiệp, hiện đại, có năng lực thi hành công vụ, tận tụy phục vụ sự nghiệp phát
triển đất nước và phục vụ nhân dân. Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương 4 Khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” tiếp tục khẳng
định tầm quan trọng của công tác cán bộ, trong đó vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ được xem là công việc gốc của Đảng. Đây được xác định là một công việc
quan trọng, phải được tiến hành thường xuyên.
Cùng với cả nước, Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm qua luôn quan
tâm đẩy mạnh thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ, nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ trẻ kế thừa có bản lĩnh chính trị vững vàng,
phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn cao, năng động, dám nghĩ, dám làm,
có năng lực nắm bắt và vận dụng hiệu quả khoa học, cơng nghệ; góp phần xây
dựng và phát triển Thành phố ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại, nghĩa tình.

Trong đó chú trọng giáo dục đạo đức cách mạng, nâng cao trình độ lý luận chính
trị, kiến thức chun mơn vững vàng, sâu sát thực tế, hiểu biết về pháp luật, để
vận dụng nhuần nhuyễn trong giải quyết công việc.
Trong giai đoạn hiện nay, cùng với xu thế tồn cầu hóa, cả nước nói chung và
Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng đang trong tiến trình hội nhập và phát triển.
Trước sự phát triển như vũ bão của khoa học - kỹ thuật - công nghệ, kinh tế thế
giới đã chuyển sang “nền kinh tế tri thức”, thì cơng tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ


5
cán bộ kế thừa có phẩm chất, năng lực, trình độ văn hóa, chun mơn kỹ thuật,
ngoại ngữ, tin học… theo tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người, nhằm
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của quá trình cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất
nước, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Vì vậy, tác giả chọn vấn đề: “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người với việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
trẻ tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” làm đề tài luận văn Thạc sĩ Triết học.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Từ ý nghĩa lý luận và thực tiễn trên, đề tài tư tưởng Hồ Chí Minh về phát
triển con người và vấn đề đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển đất
nước, đã có nhiều cơng trình trong và ngồi nước nghiên cứu. Nhưng tựu chung
chúng ta có thể phân thành ba hướng nghiên cứu như sau:
Hướng thứ nhất, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng
Hồ Chí Minh về phát triển con người nói riêng, có thể kể đến các cơng trình như:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách xã hội do Lê Sĩ Thắng chủ
biên, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996; Những nhận thức cơ bản về tư tưởng
Hồ Chí Minh của Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1998; Tư tưởng triết học về con người trong chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí
Minh của Nguyễn Tĩnh Gia và Vấn đề con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh của
Mai Trung Hậu, Chương V, sách Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh do Lê Hữu
Nghĩa chủ biên, Nxb. Lao Động, Hà Nội, 2000; Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự

nghiệp xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện của Thành Duy, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001; Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách
mạng Việt Nam do Đại tướng Võ Nguyên Giáp chủ biên, Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2003; Góp phần tìm hiểu cuộc đời và tư tưởng Hồ Chí Minh của Đinh
Xuân Lâm, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Tư tưởng Hồ Chí Minh về
quyền con người do Phạm Ngọc Anh chủ biên, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2005; Phát triển văn hóa và con người Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh của


6
Hoàng Anh - Nguyễn Duy Bắc - Phạm Văn Thủy, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2010; Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người tồn diện của Nguyễn
Hữu Cơng, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010; Hồ Chí Minh - Nhà tư tưởng
thiên tài của Trần Nhâm, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011; Hồ Chí Minh Nhân văn và phát triển của Nguyễn Đài Trang, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật,
Hà Nội, 2013; Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và giải phóng con người của
Lương Minh Cừ - Nguyễn Trung Dũng, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2014…
Trong đó, đáng chú ý là: cơng trình Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường
cách mạng Việt Nam do Cố Đại tướng Võ Nguyên Giáp chủ biên, gồm ba phần, đã
trình bày một cách có căn cứ khoa học và tồn diện những vấn đề lý luận cơ bản,
về quá trình hình thành, phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh, về những luận điểm
sáng tạo lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh, về đường lối và phương pháp, chiến lược
và sách lược cách mạng, về tư tưởng quân sự, tư tưởng nhân văn, đạo đức, văn
hóa; đặc biệt đã nêu lên những “đặc trưng cơ bản nhất” của phương pháp luận Hồ
Chí Minh (quan điểm thực tiễn; ngun tắc tồn diện; phát hiện mâu thuẫn và giải
quyết mâu thuẫn với phương pháp phù hợp, hiệu quả; quan điểm phát triển, đổi
mới; quan điểm về con người, về nhân dân; giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện
chứng giữa dân tộc và giai cấp như một nguyên tắc cơ bản trong giải quyết những
vấn đề xã hội), trong đó, quan điểm phát triển được quán triệt, vận dụng hết sức
phong phú, gắn với sự đổi mới, phát triển của cách mạng, của xã hội, của con
người. Hay trong cuốn Góp phần tìm hiểu cuộc đời và tư tưởng Hồ Chí Minh, tác

giả Đinh Xuân Lâm đã trình bày các đặc điểm hình thành và phát triển của tư
tưởng Hồ Chí Minh - sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa yêu nước truyền thống và
tinh hoa văn hóa nhân loại với tinh thần phong phú, sáng tạo; thể hiện rõ những
mốc lớn có tính quyết định, mang ý nghĩa bước ngoặc lịch sử trên con đường hoạt
động yêu nước cách mạng của Người với mục tiêu cao cả cuối cùng là giải phóng
và phát triển con người. Cơng trình Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng


7
con người Việt Nam phát triển toàn diện của tác giả Thành Duy, gồm 6 chương,
đã phân tích sâu sắc mối quan hệ giữa văn hóa với việc xây dựng con người Việt
Nam toàn diện phù hợp với thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất
nước; trình bày nguồn gốc và quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người phát triển tồn diện, về bản chất con người Việt Nam phát triển toàn diện; từ
đó đề ra các giải pháp xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện trong bối
cảnh hiện nay. Ngồi ra, trong tác phẩm Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con
người toàn diện của tác giả Nguyễn Hữu Công, gồm 2 chương, đã đi sâu phân tích
cơ sở lý luận, những nội dung cơ bản về phát triển con người toàn diện - một nội
dung quan trọng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc trong hệ thống quan điểm,
tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Qua đó trình bày những chủ trương đào tạo,
rèn luyện con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhằm xây dựng con người mới,
phát triển cao về trí tuệ, có đạo đức trong sáng, có lý tưởng, quan điểm sống đúng
đắn, tích cực, có sức khỏe dồi dào… là nhân tố quyết định sự thành bại của một
quốc gia, dân tộc. Tư tưởng phát triển con người toàn diện là một tư tưởng nhân
văn rất đặc sắc của Hồ Chí Minh, đã, đang và sẽ cho chúng ta những chỉ dẫn quý
báu, sáng suốt để xây dựng thành công chiến lược con người trong điều kiện mới,
nhằm đào tạo cho đất nước những con người mới, có đủ tài năng, đạo đức, sức
khỏe, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Tác phẩm Phát triển văn hóa và con
người Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh của Hoàng Anh - Nguyễn Duy Bắc Phạm Văn Thủy tập hợp những bài viết, bài nghiên cứu về vấn đề phát triển văn
hóa và con người Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh, có tính định hướng giáo

dục sâu sắc, nhất là đối với các thế hệ trẻ Việt Nam. Cơng trình Hồ Chí Minh Nhà tư tưởng thiên tài của Trần Nhâm là một cơng trình nghiên cứu tư tưởng Hồ
Chí Minh khá cơng phu, gồm 12 chương, trong đó tập trung phân tích một cách
tồn diện một số vấn đề lý luận cơ bản như: về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội - sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh, về tư tưởng đại đồn


8
kết dân tộc - một chiến lược xuyên suốt trong quá trình kết hợp độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, động viên lực lượng đại đoàn kết toàn dân, kết hợp sức mạnh của
dân tộc và sức mạnh quốc tế, hình thành sức mạnh tổng hợp to lớn để đánh thắng
kẻ thù dân tộc và chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu; về tư tưởng “Nhà nước của dân,
do dân và vì dân” - một nhà nước “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì
hại đến dân, ta phải hết sức tránh”; tư duy mới về Đảng cầm quyền, mối quan hệ
giữa Đảng - Nhà nước và nhân dân, về xây dựng Đảng ta thành một đảng trí tuệ,
trong sạch - vững mạnh, xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ thật trung
thành của nhân dân… Điểm mới và cũng là đóng góp của cuốn sách này là đã đi
sâu làm rõ tư tưởng triết học Hồ Chí Minh là triết học thực tiễn và nhân sinh, triết
học giải phóng và phát triển, qua đó làm nổi bật phép biện chứng Hồ Chí Minh
được Người tiếp thu từ nhiều nguồn, nhiều hướng, nhiều cơ sở khác nhau, tất cả
đều được đặt trong những điều kiện lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam, được
hình thành một cách tự nhiên, hết sức sinh động, sáng tạo, không nhầm lẫn với bất
cứ nhân vật lịch sử nào. Cơng trình Hồ Chí Minh - Nhân văn và phát triển của
Nguyễn Đài Trang, gồm 7 chương với những nội dung và chủ đề riêng biệt, trong
đó đi sâu nghiên cứu những lý tưởng sâu xa của Hồ Chí Minh - đó là độc lập dân
tộc, hịa bình, tiến bộ, công bằng xã hội, phát triển bền vững - những mục tiêu cao
cả nhất mà nhân loại đang theo đuổi và sức ảnh hưởng mạnh mẽ của những lý
tưởng cao đẹp đối với đất nước Việt Nam - một dân tộc nghèo, bị áp bức nhưng đã
đoàn kết đánh thắng ba cường quốc thực dân trong thế kỷ XX, cũng như ý nghĩa
áp dụng trong bối cảnh phát triển đất nước hiện nay. Sự đa dạng của các chủ đề
trong bộ sách kết hợp với sự tìm tịi, phân tích những ảnh hưởng có tác động đến

tư tưởng Hồ Chí Minh của cá nhân tác giả đã đem lại hiểu biết rộng lớn, linh hoạt,
phong phú và sinh động về “một vĩ nhân với một nhân cách vượt thời gian” - chính
là một điểm hấp dẫn của cuốn sách này. Cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
và giải phóng con người của Lương Minh Cừ - Nguyễn Trung Dũng, gồm 3


9
chương, trình bày khái quát những nội dung cơ bản về vấn đề con người và giải
phóng con người trong lịch sử triết học, phân tích một cách có hệ thống và làm
sáng tỏ những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và giải
phóng con người, tập trung nghiên cứu, lý giải và đề xuất một số giải pháp cơ bản
có tính chất định hướng nhằm góp phần vào sự nghiệp xây dựng, phát triển và giải
phóng con người ở nước ta hiện nay.
Hướng thứ hai, nghiên cứu công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
trong việc phát triển con người với tư cách là nguồn nhân lực trong sự nghiệp
đổi mới đất nước, có thể kể đến các cơng trình như: Qn triệt tư tưởng Hồ Chí
Minh về cơng tác huấn luyện, đào tạo cán bộ, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ hiện nay của Nguyễn Văn Chỉnh, Nxb. Đà Nẵng, 2000; Phát triển
năng lực tư duy của người cán bộ lãnh đạo hiện nay của Hồ Bá Thâm, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2003; Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ
công chức do Thang Văn Phú và Nguyễn Minh Phương đồng chủ biên, Nxb.
Thanh niên, 2005; Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước của Vũ Văn Hiên,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007; Luận cứ khoa học và một số giải pháp xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường hiện nay của Nguyễn Duy Hùng chủ biên,
Nxb. Chính trị Quốc gia, 2007; Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh với việc giáo dục
đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay của Hoàng Trang - Phạm Ngọc Anh đồng chủ
biên, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008; Quy hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý
của Đỗ Minh Cương, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2009; Chủ tịch Hồ Chí Minh với
công tác tổ chức, cán bộ do Bùi Kim Hồng biên soạn, Nxb. Chính trị Quốc gia,

2009; Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng phong cách làm việc của cán
bộ lãnh đạo, quản lý nước ta hiện nay do Nguyễn Thế Thắng chủ biên, Nxb. Chính
trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2010; Hồ Chí Minh đào tạo cán bộ và trọng dụng
nhân tài của Đức Vượng, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012; Tiếp


10
tục đổi mới đồng bộ công tác cán bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa - hiện đại
hóa của Nguyễn Minh Tuấn, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012…
Trong đó, đáng chú ý là: cơng trình Phát triển năng lực tư duy của người cán
bộ lãnh đạo hiện nay của Hồ Bá Thâm, gồm 4 chương, tập trung nghiên cứu hoạt
động lãnh đạo và năng lực tư duy của người lãnh đạo, phân tích những mặt mạnh và
những hạn chế trong phong cách tư duy lý luận của cán bộ lãnh đạo trong thời kỳ
đổi mới; từ đó đề xuất các giải pháp định hướng phát triển năng lực tư duy, năng lực
trí tuệ của người lãnh đạo hiện nay. Cơng trình Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất
nước của tác giả Vũ Văn Hiên, gồm 4 chương, trong đó trình bày tư tưởng Hồ Chí
Minh và những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng ta về xây dựng đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý, trên cơ sở phân tích bối cảnh của Việt Nam trong q trình
cơng nghiệp hóa, ưu - nhược điểm của đội ngũ cán bộ chủ chốt hiện nay cũng như
thực trạng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý; qua đó, tác giả nêu
những yêu cầu mới đối với cán bộ lãnh đạo và những giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao hiệu quả việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của nước ta hiện nay.
Cơng trình Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh với việc giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng
viên hiện nay của Hoàng Trang và Phạm Ngọc Anh đồng chủ biên, gồm 3 chương,
trong đó đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống về cơ sở hình thành, đặc điểm, vị
trí và những nội dung cơ bản của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh; từ đó khẳng định
giá trị và sức sống bền vững của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp
giáo dục thế hệ cách mạng đời sau. Đồng thời, tác giả cũng tập trung làm rõ điểm
khác biệt về nội dung, bản chất và giá trị của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh với

chủ nghĩa nhân văn của giai cấp tư sản: nếu như tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh lấy
triết học Mác - Lê-nin và chủ nghĩa cộng sản khoa học làm cơ sở lý luận với bản
chất giải phóng hồn tồn con người thốt khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất cơng thì chủ
nghĩa nhân văn tư sản lấy chủ nghĩa cá nhân và hệ tư tưởng tư sản làm cơ sở lý luận


11
cho lý tưởng nhân văn của họ với bản chất chống lại con người bị áp bức, bóc lột;
chính vì thế, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là một bước tiến so với hệ tư tưởng
nhân đạo tư sản trong vấn đề giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột. Tác phẩm
Chủ tịch Hồ Chí Minh với cơng tác tổ chức, cán bộ do Bùi Kim Hồng biên soạn,
gồm 3 phần, trong đó sưu tầm một số lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng những
bài viết của tác giả về vấn đề cán bộ, những mẩu chuyện, bài học rút ra từ tư tưởng
của Người về công tác tổ chức và cán bộ - nguồn lực quan trọng, nhân tố làm nên
mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cơng trình Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
vào xây dựng phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý nước ta hiện
nay do Nguyễn Thế Thắng chủ biên, gồm 2 chương, trong đó trình bày có hệ thống
tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý và
những quan điểm của Đảng trong quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất, năng
lực tốt, có phong cách làm việc thực sự dân chủ và quyết đoán, sâu sát cơ sở, tự tin
tiếp bước con đường mà Đảng và Bác Hồ đã chọn, tiến hành cơng nghiệp hóa - hiện
đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh.
Cơng trình Hồ Chí Minh đào tạo cán bộ và trọng dụng nhân tài của tác giả Đức
Vượng trình bày một cách có hệ thống những hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trong từng giai đoạn cách mạng Việt
Nam; việc Người đã dày công đào tạo các bậc tiền bối của Đảng ta đủ đức, đủ tài,
hết lòng phụng sự Tổ quốc và nhân dân, trong đó nổi bật có những gương mặt các
cán bộ lãnh đạo cách mạng được Người đào tạo trực tiếp hoặc gián tiếp như Trần
Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Trường Chinh, Lê Duẩn,

Nguyễn Văn Linh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng, Võ
Nguyên Giáp...; qua đó, Người nêu rõ những phẩm chất cần có của người cán bộ
cách mạng: có đạo đức trong sáng, gương mẫu trước nhân dân, tôn trọng nhân dân,
có đủ năng lực phụ trách cơng việc được giao phó, tích cực học tập và rèn luyện,


12
khơng ngừng nâng cao trình độ và năng lực cơng tác; đồng thời nhấn mạnh việc lựa
chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải đi đôi với việc sử dụng, bố trí cán bộ cho khéo,
đúng chỗ, đúng việc, hợp lý, hợp tình. Cuốn sách cũng đã rút ra những vấn đề then
chốt nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đào tạo cán bộ và trọng dụng
nhân tài với tư tưởng lớn: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Phải trọng nhân
tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho cơng việc của chúng ta”. Cơng
trình Tiếp tục đổi mới đồng bộ cơng tác cán bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa hiện đại hóa của tác giả Nguyễn Minh Tuấn, gồm 3 chương, tập trung nghiên cứu
về công tác cán bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và
những địi hỏi của việc tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ từng khâu trong công tác
cán bộ; từ đó đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đáp
ứng yêu cầu tình hình mới.
Hướng thứ ba, nghiên cứu về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tại Thành
phố Hồ Chí Minh, chỉ mới có cơng trình Đào tạo cán bộ lãnh đạo và quản lý Kinh nghiệm từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Tần Xuân Bảo, Nxb.
Chính trị Quốc gia - Sự thật, 2012. Đây là kết quả của việc nghiên cứu tổng kết,
căn cứ trên thực trạng cũng như nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản
lý ở Thành phố Hồ Chí Minh; tập trung làm rõ các khái niệm, chất lượng đào tạo
và những tiêu chí cơ bản để đánh giá chất lượng đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý
chủ chốt; bước đầu đưa ra khung lý thuyết làm cơ sở cho việc phân tích chất lượng
đào tạo đội ngũ cán bộ, quản lý; từ đó nêu ra những kiến nghị, đề xuất nhằm không
ngừng nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý tại Thành phố
Hồ Chí Minh. Ngồi ra, các văn kiện Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh qua các kỳ
Đại hội cũng luôn xác định rõ tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ trong chiến lược phát triển con người đáp ứng yêu cầu của từng giai đoạn cách

mạng: Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ VII
(nhiệm kỳ 1995 - 2000), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí


13
Minh lần thứ VIII (nhiệm kỳ 2000 - 2005), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ
Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ IX (nhiệm kỳ 2005 - 2010), Văn kiện Đại hội đại
biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ X (nhiệm kỳ 2010 - 2015)…
Như vậy, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh về
phát triển con người cũng như về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Đó là những tài liệu khoa học hữu
ích để tác giả kế thừa và vận dụng nghiên cứu về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ trẻ tại thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay - một nhiệm vụ quan
trọng nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ kế thừa đáp ứng yêu cầu tình hình mới.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí
Minh về phát triển con người và sự vận dụng vào công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ trẻ tại thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn: Một là, trình bày, phân tích làm rõ
những điều kiện lịch sử - xã hội, tiền đề lý luận, tiền đề chủ quan và nội dung tư
tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người. Hai là, phân tích, khảo sát và đánh
giá thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ tại thành phố Hồ Chí Minh
trong thời gian qua. Ba là, từ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con
người, trên cơ sở thực trạng về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ tại thành
phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua, đề xuất một số giải pháp góp phần nâng
cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trẻ kế thừa của thành
phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển
con người và sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào cơng tác đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ trẻ tại thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.


14
Phạm vi nghiên cứu luận văn: Trong khuôn khổ của luận văn, tác giả cố
gắng giải quyết các nhiệm vụ của luận văn trên cơ sở phân tích và làm rõ tư
tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người, từ đó vận dụng đối với cơng tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ tại thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận của luận văn: Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở thế
giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn: Luận văn sử dụng phương pháp
phân tích - tổng hợp, logic - lịch sử, diễn dịch - quy nạp, so sánh - đối chiếu trong
nghiên cứu nhằm thực hiện mục đích mà đề tài đã đặt ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về ý nghĩa lý luận, luận văn góp phần làm rõ một cách có hệ thống nội dung
tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người.
Về ý nghĩa thực tiễn, trước thực tại đất nước đang trên con đường hội nhập
và phát triển, tại một thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí Minh - trung tâm kinh
tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật lớn của cả nước và khu vực, việc nghiên cứu một
cách tỉ mỉ hơn về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ - một lực lượng kế thừa
năng động, sáng tạo thực sự có ý nghĩa thực tiễn. Nội dung của luận văn có thể
làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh và những
cơng trình nghiên cứu liên quan.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, kết cấu của luận văn
gồm 2 chương, 6 tiết và 15 tiểu tiết.



15
CHƯƠNG 1
ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ - XÃ HỘI VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI
1.1 ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ - XÃ HỘI VỚI VIỆC HÌNH THÀNH TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI
1.1.1 Điều kiện lịch sử - xã hội của thế giới nửa cuối thế kỷ XIX đến đầu
thế kỷ XX
Vào nửa cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, lịch sử thế giới có nhiều chuyển
biến to lớn, đánh dấu một bước ngoặt lớn trong tiến trình phát triển của nhân loại.
Sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là các phát minh khoa học
từ thế kỷ XVIII như học thuyết Niu-tơn, thuyết tiến hóa của Đác-uyn và hàng loạt
các phát minh khác về ngành hóa học, điện, điện thoại, vơ tuyến truyền thanh… đã
thúc đẩy sức sản xuất xã hội phát triển vượt bậc, góp phần làm tăng nhanh chóng
sản lượng của các ngành công nghiệp, làm cho chủ nghĩa tư bản phát triển một
cách mạnh mẽ, như C.Mác đã viết: “Sự chinh phục những lực lượng thiên nhiên,
sự sản xuất bằng máy móc, việc áp dụng hóa học vào cơng nghiệp và nông nghiệp,
việc dùng tàu chạy bằng hơi nước, đường sắt, máy điện báo, việc khai phá từng lục
địa ngun vẹn, việc khai thơng các dịng sơng…, có thế kỷ nào trước đây lại ngờ
được rằng có những lực lượng sản xuất như thế vẫn nằm tiềm tàng trong lịng xã
hội…” [45, tr.603]. Chính những phát triển vượt bậc đó đã dẫn đến những biến đổi
to lớn trong xã hội tư bản, thể hiện qua nhiều mặt: kinh tế, chính trị, xã hội…, tác
động mạnh mẽ đến tình hình thế giới nói chung và xã hội Việt Nam nói riêng.
Từ những năm 1860 - 1870, chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn tự do cạnh tranh
phát triển dần lên giai đoạn độc quyền của chủ nghĩa đế quốc và trở thành một hệ
thống thế giới. Các nước đế quốc chuyển từ mở rộng thị trường buôn bán sang việc
mở rộng xâm chiếm thuộc địa, tranh giành, xâu xé, nô dịch các dân tộc nhỏ yếu


16

trong vịng kìm kẹp thuộc địa của chúng. Phần lớn các nước nhược tiểu ở châu Á,
châu Phi và khu vực Mỹ La-tinh đã trở thành thuộc địa hoặc phụ thuộc vào chúng.
Nhân dân ở các nước thuộc địa bị chúng tước hết những giá trị văn hóa tinh thần,
quyền lợi kinh tế và địa vị xã hội… Mạng sống của người dân thuộc địa “không
đáng một đồng trinh” [48, tr.59], đúng như Hồ Chí Minh nhận xét: “Các tập đồn
thống trị ở các nước đế quốc lớn đang bóp nghẹt những quyền tự do căn bản nhất
của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc, trong lúc đó thì, ở nhà tù và nơi tra khảo,
chúng lại nêu khẩu hiệu “Tự do, bình đẳng, bác ái”. Trong điều kiện của chế độ tư
bản và thực dân áp bức, khẩu hiệu đó vang lên thật là mỉa mai” [54, tr.566],
“…nạn đói và dịch bệnh thường xảy ra, tàn phá các thuộc địa… Tại những miền
châu Phi thuộc Ý, Tây Ban Nha cũng có một chế độ cướp bóc, làm phá sản, giết
chóc và tàn phá một cách khủng khiếp như vậy. Ở Công-gô thuộc Bỉ, năm 1891 số
dân là 25 triệu, thế mà đến năm 1911 chỉ còn 8,5 triệu… Cơng-gơ thuộc Pháp năm
1894 có 20.000 dân, thế mà đến 1911 chỉ cịn có 9.700 người” [47, tr.288].
Cùng với mâu thuẫn cơ bản trong xã hội tư bản - mâu thuẫn giữa giai cấp
vô sản với giai cấp tư sản và mâu thuẫn giữa các nước tư bản, đế quốc với nhau,
chủ nghĩa đế quốc làm phát sinh một mâu thuẫn mới - mâu thuẫn giữa các dân
tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc thực dân. Mâu thuẫn này ngày
càng trở nên gay gắt, trở thành mâu thuẫn hết sức sâu sắc của thời đại. Vì vậy,
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đã khơng cịn là hành động riêng rẽ của mỗi
nước chống lại sự xâm lược và thống trị của chủ nghĩa đế quốc, mà trở thành
cuộc đấu tranh chung của các dân tộc thuộc địa gắn với cuộc đấu tranh của giai
cấp vô sản quốc tế chống giai cấp tư sản ở chính quốc.
Chủ nghĩa Mác ra đời năm 1848 với Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã
phát hiện ra quy luật tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời của chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản; trở thành hệ tư tưởng chính thống của phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế.


17

Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân ngày một mạnh mẽ, dù bị đàn áp khốc liệt sau khi Công xã Paris bị
đàn áp đẫm máu năm 1871. Phong trào cơng nhân và cộng sản quốc tế nhanh
chóng được phục hồi. Các chính đảng của giai cấp cơng nhân lần lượt ra đời, lãnh
đạo phong trào đấu tranh và tiến tới thành lập Quốc tế II. Tuy bọn cơ hội chủ
nghĩa và bọn xét lại tìm cách thao túng, song phong trào công nhân quốc tế đã
tiến tới đỉnh cao là cuộc bãi công của công nhân Chi-ca-gô ngày 01 tháng 5 năm
1886 và cuộc Cách mạng Nga năm 1905 - 1907. Chủ nghĩa Mác sau gần nửa thế
kỷ đấu tranh chống hệ tư tưởng tư sản và các trào lưu phản bội dưới mọi hình
thức, đã khẳng định vị trí của mình trong cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân
nhằm lật đổ chủ nghĩa tư bản và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cuối những năm 20 của thế kỷ XX, cuộc khủng hoảng trong phong trào công
nhân châu Âu diễn ra ngày càng sâu sắc, dẫn đến sự phân liệt trong nội bộ các
đảng Xã hội dân chủ thuộc Quốc tế II. Một số đảng bị phân hóa, phái tả trong các
đảng tách ra, thành lập các đảng Cộng sản. Trong điều kiện mới của lịch sử, chủ
nghĩa Lê-nin ra đời, kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác trong giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa. Tháng 3 năm 1919, Lê-nin thành lập Quốc tế III - Quốc tế Cộng sản,
đưa phong trào cộng sản thoát khỏi chủ nghĩa cải lương, theo đuổi các chính quyền
tư sản của các đảng xã hội. Tác phẩm Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lê-nin và các văn kiện Đại hội II Quốc tế
Cộng sản đánh dấu sự khẳng định về mặt lý luận việc thực hiện mối quan hệ hữu
cơ giữa cách mạng vơ sản và cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa,
có ảnh hưởng sâu sắc đến phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Nét nổi bật trong phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, giải phóng
dân tộc vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX là bên cạnh sự đoàn kết quốc tế
giữa cơng nhân các nước tư bản, đã có thêm sự đồn kết giữa cơng nhân ở chính
quốc với nhân dân các nước thuộc địa và giữa nhân dân các nước thuộc địa và


18

phụ thuộc với nhau. Từ đó, phong trào đấu tranh sôi nổi của công nhân các nước
tư bản, phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi đã dẫn đến một cao trào
mới của cách mạng thế giới với đỉnh cao là thắng lợi vĩ đại của cuộc Cách mạng
Tháng Mười Nga năm 1917, lật đổ nhà nước tư sản, thiết lập chính quyền Xơ-viết
cách mạng, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử loài người với sự xuất hiện của
chế độ xã hội chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc từ đây gắn liền với
con đường của cách mạng vô sản, gắn liền với cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa tư bản.
Trong khi các nước tư bản phương Tây nhanh chóng phát triển sang giai đoạn
đế quốc chủ nghĩa thì các nước phương Đông như Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan,
Việt Nam… là những quốc gia phong kiến hình thành lâu đời, vốn có nền văn hóa
phát triển sớm, vẫn chìm sâu dưới sức nặng của quan hệ sản xuất phong kiến chuyên
chế, bảo thủ. Do đó, lực lượng sản xuất chậm phát triển, trình độ khoa học kỹ thuật
lạc hậu; đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân lao động cực khổ
và bế tắc; mâu thuẫn giữa giai cấp địa chủ phong kiến thống trị với nhân dân lao
động, mà tuyệt đại đa số là nông dân, ngày càng sâu sắc. Trước sự suy yếu không
thể vực dậy về mọi mặt của đời sống xã hội, các nước phương Đông đều lần lượt bị
đế quốc xâm lược, trở thành những nước thuộc địa và phụ thuộc. Nhiều phong trào
đấu tranh giành độc lập của các nước phương Đông đã diễn ra dưới sự lãnh đạo của
hệ tư tưởng phong kiến, tư sản, tiểu tư sản nhưng đều lần lượt thất bại.
Bước sang đầu thế kỷ XX, nhiều sự kiện lớn trên thế giới, đặc biệt là thành
công của phong trào duy tân tại Nhật Bản và thắng lợi của cách mạng Tân Hợi
năm 1911 tại Trung Quốc đã có những ảnh hưởng to lớn đến tình hình thế giới
nói chung và Việt Nam nói riêng.
Nhật Bản vốn là một nước phong kiến “bế quan tỏa cảng”, dưới thời Thiên
hồng Minh Trị với những chính sách duy tân mang tính đột phá, đã thực hiện
cuộc cải cách lớn như: dời kinh đô và tập trung quyền lực về tay Thiên hoàng;


19

mọi lãnh địa được trao trả cho Thiên hoàng và các lãnh chúa, các võ sĩ sa-mu-rai
trở thành thường dân; giáo dục khơng ngừng phát triển với chính sách mời các
nhà khoa học về giảng dạy và cử hàng ngàn sinh viên ra nước ngoài học tập, tiếp
thu các tri thức mới và trở về làm nòng cốt trong việc xây dựng đất nước: “Trong
thời gian rất ngắn: ba chục năm. Các sĩ phu đều hăng hái học tập phương Tây,
dịch sách Âu, Mỹ, nghiên cứu chính thể kỹ nghệ. Chính phủ đón thầy Âu dạy học
cho dân: kỹ sư Anh dạy cách cất đường xe lửa và đóng tàu, người Pháp dạy về
luật và binh bị, giáo sư Đức dạy về y học và hóa học, nhà chun mơn Hoa Kỳ tổ
chức giáo dục, các nghị sĩ Ý thì dạy âm nhạc và điêu khắc” [41, tr.143]. Nhật
Bản hiểu rằng chỉ có mạnh dạn mở cửa thơng thương với phương Tây, mới giúp
họ tiếp thu được những thành tựu văn hóa, văn minh để hiện đại hóa đất nước.
Nhờ đó, từ một đất nước suy yếu về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, Nhật Bản
đã nhanh chóng vươn lên, phát triển vượt bậc về mọi mặt trên con đường tư bản
chủ nghĩa, như Hồ Chí Minh đã nhận định: “… trong khoảng một nửa thế kỷ,
nước Nhật đã biết tạo lập được một chế độ đưa nó vào hạng những cường quốc
đứng đầu thế giới…” [47, tr.6]. Và Nhật trở thành một cường quốc tư bản hiện
đại hùng mạnh về kinh tế, khoa học kỹ thuật và quân sự; là tấm gương về sự nhạy
bén trước những diễn biến mới của thời đại, về sự tiếp thu những thành tựu tiên
tiến của phương Tây để đổi mới, xây dựng đất nước.
Trong khi Nhật Bản đã có những biến đổi lớn lao như vậy thì Trung Quốc
vốn đã từng tỏ rõ sức mạnh của một nước lớn trong khu vực, lại đang suy yếu
dần trong sự bảo thủ, trì trệ của chế độ phong kiến, bị chủ nghĩa tư bản phương
Tây xâm nhập, chèn ép, đã dần rơi vào tình trạng nửa thuộc địa, đứng trước nguy
cơ mất nước ngày càng lộ rõ. Trước tình hình đó, nhiều chí sĩ yêu nước Trung
Quốc đã lấy Nhật Bản làm tấm gương, hy vọng cũng có thể thực hiện được việc
vực dậy đất nước đang ngày một suy yếu bằng cách nhanh chóng tiếp thu những
thành tựu kinh tế, kỹ thuật và văn hóa của phương Tây. Trong khoảng thời gian


20

10 năm kể từ sau chiến tranh Trung - Nhật kết thúc (1895), ở Trung Quốc đã diễn
ra phong trào du học khá rầm rộ với hơn một vạn lượt người sang học tại Nhật
Bản. Phong trào dịch sách tân học từ tiếng Nhật sang tiếng Trung, phong trào học
tiếng Nhật cũng dấy lên mạnh mẽ để có thể đọc trực tiếp các tác phẩm của người
Nhật viết và các sách của phương Tây đã dịch sang tiếng Nhật mà chưa dịch sang
tiếng Trung Quốc. Nhiều tác phẩm do chính những tác giả người Trung Quốc
viết cũng bắt đầu xuất hiện, đặc biệt nổi bật và gây được nhiều ảnh hưởng trong
xã hội lúc bấy giờ là các tác phẩm của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu với tư
tưởng duy tân: đẩy mạnh phát triển khoa học - kỹ thuật, trang trị máy móc hiện
đại, đề cao dân chủ, cải cách văn hóa - giáo dục theo kiểu phương Tây. Các tư
tưởng duy tân mặc dù còn mang nặng khuynh hướng cải lương chủ nghĩa, không
được thực thi do bị ràng buộc bởi điều kiện lịch sử, song đã có tác dụng tích cực
kêu gọi tinh thần chống bảo thủ và tìm tịi học tập những cái mới của thời đại thể
hiện ở văn hóa và con người phương Tây.
Từ đó, trào lưu tư tưởng văn hóa tiến bộ của phương Tây đã xâm nhập vào
Trung Quốc, dần xóa đi lý thuyết xem Trung Quốc là “thượng quốc”, xem “vạn
quốc” đều là những dân tộc thấp kém hơn mình đã ăn sâu gốc rễ bấy lâu. Trào
lưu tân học đã thổi một làn gió mới vào xã hội Trung Quốc, mở rộng tầm nhìn
của người dân, khơi dậy những tư tưởng cách tân, góp phần tạo nên những
chuyển biến bước đầu trên con đường chấn hưng đất nước. Trong đó, nổi bật và
tiêu biểu nhất là nhà chính trị kiệt xuất Tôn Trung Sơn với chủ nghĩa tam dân dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc, thấm đượm tinh thần dân
chủ, dân quyền của tư tưởng phương Tây, đã lãnh đạo cuộc Cách mạng Tân Hợi
năm 1911 thắng lợi, đập tan triều đại cuối cùng của chế độ phong kiến Trung
Quốc, thiết lập chế độ chính trị mới dưới ngọn cờ của giai cấp tư sản.
Như vậy, vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, lịch sử thế giới có nhiều
chuyển biến to lớn, chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh chóng, chuyển từ giai đoạn


21
tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền của chủ nghĩa đế quốc và trở thành một

hệ thống thế giới. Các nước đế quốc ra sức mở rộng xâm chiếm thuộc địa, tranh
giành, xâu xé, nô dịch, áp bức các dân tộc nhỏ yếu, làm xuất hiện hàng loạt các
mâu thuẫn ngày càng gay gắt: mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản ở
các nước đế quốc; mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với đế quốc thực dân; mâu
thuẫn giữa quần chúng nhân dân lao động - chủ yếu là nông dân với giai cấp địa
chủ phong kiến, triều đình phong kiến ở các nước phương Đông, mâu thuẫn giữa
giai cấp công nhân ở các nước thuộc địa với giai cấp tư sản bản xứ và giai cấp tư
sản thực dân; mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau trong phân chia thị
trường… Những mâu thuẫn đó đặt nhân loại trước yêu cầu bức thiết phải giải
quyết, từ đó làm xuất hiện nhiều phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, giải
phóng con người; trong đó nổi bật là thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã
đưa nhân dân Nga từ thân phận nô lệ bước lên làm chủ vận mệnh và cuộc sống của
mình, biến chủ nghĩa xã hội từ một lý luận khoa học trở thành hiện thực, cổ vũ
mạnh mẽ các dân tộc bị áp bức đứng lên tự giải phóng mình. Bên cạnh đó, trên thế
giới xuất hiện ngày càng nhiều tư tưởng canh tân đất nước; nổi bật là thành công
của Nhật Bản và Trung Quốc trên con đường canh tân, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát
triển xã hội. Thực tiễn tình hình thế giới đặt ra cho dân tộc Việt Nam câu hỏi phải
bằng con đường cách mạng nào để giải phóng dân tộc, giải phóng con người, xây
dựng và phát triển đất nước theo kịp các quốc gia trong khu vực. Chính những điều
kiện lịch sử - xã hội của thế giới như thế đã ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình
thành tư tưởng của Hồ Chí Minh về phát triển con người.
1.1.2 Điều kiện lịch sử - xã hội của Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX đến
đầu thế kỷ XX
Việt Nam là một nước có lịch sử và nền văn hiến lâu đời với truyền thống
chống ngoại xâm vô cùng oanh liệt. Tuy nhiên, cũng như các nước phương Đông


22
khác, bước sang thế kỷ XIX, Việt Nam vẫn ở trong tình trạng trì trệ, kém phát
triển dưới chế độ phong kiến lạc hậu.

Từ sau chiến thắng của cuộc khởi nghĩa nông dân Tây Sơn, các vua đầu triều
Nguyễn đã xây dựng một quốc gia phong kiến thống nhất với một nền nông
nghiệp tự cấp tự túc khá đa dạng nhưng vẫn chưa vượt ra khỏi phương thức sản
xuất cổ truyền nên vẫn ở trong tình trạng kém phát triển; công thương nghiệp
cũng giậm chân tại chỗ do thủ công nghiệp không thay đổi phương thức sản xuất,
thương nghiệp suy giảm trước chính sách “bế quan tỏa cảng”, khơng bn bán
với các nước phương Tây. Ở giai đoạn này, xã hội Việt Nam chia làm hai giai
cấp lớn: giai cấp thống trị bao gồm vua quan trong hệ thống chính quyền và địa
chủ; giai cấp bị trị gồm toàn bộ nhân dân lao động dưới sự áp bức, bóc lột khiến
cho đời sống vơ cùng cực khổ, đói kém.
Từ khi lên ngơi năm 1847, Tự Đức sớm nhận thấy tình trạng lạc hậu của đất
nước, nhưng chỉ thực hiện được một vài cải cách nhỏ giọt như: chọn một số ít
thanh niên đi học ở các nước Pháp, Anh về kỹ thuật đóng tàu, lái tàu, đúc sung,
học ngoại ngữ; cho người trong nước tự do buôn bán và ra Hương Cảng làm ăn…
Tuy nhiên, do còn ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng phong kiến bảo thủ, cô lập,
nên không đổi mới trong suy nghĩ và hành động, trước sau chỉ quanh quẩn với
nông nghiệp, không chịu mở cửa tiếp nhận các thương nhân nước ngồi đến làm
ăn bn bán. Mãi tới những năm 70 của thế kỷ XIX, khi triều đình nhà Nguyễn
thực hiện việc mở cửa thơng thương bn bán, giao lưu với nước ngồi, thì lúc ấy
đất nước đã gần như hoàn toàn rơi vào tay bọn thực dân Pháp.
Cùng với việc đổi mới về kinh tế quá muộn màng, những dự định bước đầu
về cải cách chính trị - xã hội cũng chưa kịp thực hiện đúng lúc. Kết quả là chế độ
phong kiến triều Nguyễn đã đẩy đất nước vào thảm cảnh bị xâm chiếm, độc lập
dân tộc bị kẻ thù bên ngoài tới cướp đoạt. Khác với thời đại Lý, Trần, Lê, triều
đình phong kiến nhà Nguyễn khơng cịn khả năng tập hợp nhân dân để đánh thắng


×