Tải bản đầy đủ (.pdf) (317 trang)

Ẩn dụ tri nhận về con người trong tác phẩm của nguyễn ngọc tư (qua một số tác phẩm tiêu biểu)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.08 MB, 317 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ MÔN NGÔN NGỮ HỌC

CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN

ẨN DỤ TRI NHẬN VỀ CON NGƯỜI
TRONG TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ
(QUA MỘT SỐ TÁC PHẨM TIÊU BIỂU)

NHÓM SINH VIÊN THỰC HIỆN:
1. TRẦN THỊ DIỆP TRÚC (Chủ nhiệm)

1356020062

2. HUỲNH NGUYỄN THANH THỦY

1356020052

3. NGUYỄN THỊ TUYẾT MAI

1356020072

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: ThS. TRẦN THỊ MINH THU

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ MÔN NGÔN NGỮ HỌC



CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN

ẨN DỤ TRI NHẬN VỀ CON NGƯỜI
TRONG TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ
(QUA MỘT SỐ TÁC PHẨM TIÊU BIỂU)

NHÓM SINH VIÊN THỰC HIỆN:
1. TRẦN THỊ DIỆP TRÚC (Chủ nhiệm)

1356020062

2. HUỲNH NGUYỄN THANH THỦY

1356020052

3. NGUYỄN THỊ TUYẾT MAI

1356020072

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: ThS. TRẦN THỊ MINH THU

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2017


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành cơng trình này, ngồi sự cố gắng của các thành viên trong nhóm
cịn nhờ vào sự tận tình hướng dẫn, quan tâm và giúp đỡ của rất nhiều thầy cơ.
Nhóm chúng tơi xin chân thành cám ơn Th.S Trần Thị Minh Thu, người đã hướng
dẫn nhóm thực hiện cơng trình này. Cơ là người đã dành nhiều thời gian và tâm huyết

hướng dẫn, khuyến khích nhóm tìm tịi, khám phá, tiếp thêm ngọn lửa nhiệt huyết trên
con đường nghiên cứu ngơn ngữ.
Đồng thời nhóm chúng tôi cũng xin cám ơn đến quý thầy cô Bộ môn Ngôn ngữ
học của trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo
điều kiện thuận lợi cho nhóm chúng tơi thực hiện cơng trình này.

NHĨM TÁC GIẢ


1

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................................3
2. Lịch sử nghiên cứu ...................................................................................................4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...........................................................................5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................6
5. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................... 6
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn.....................................................................7
7. Kết cấu của đề tài .....................................................................................................7
PHẦN NỘI DUNG..........................................................................................................8
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM .......8
1.1.

ẨN DỤ THEO QUAN ĐIỂM TRUYỀN THỐNG...............................................8

1.1.1. Khái niệm ...........................................................................................................8
1.1.2. Phân loại ...........................................................................................................10
1.2. ẨN DỤ THEO QUAN ĐIỂM CỦA NGÔN NGỮ HỌC TRI NHẬN................... 16
1.2.1. Ngôn ngữ học tri nhận...................................................................................... 16

1.2.1.1. Vài nét về ngôn ngữ học tri nhận............................................................... 16
1.2.2.2. Một số khái niệm trong ngôn ngữ học tri nhận .........................................18
1.2.2. Ẩn dụ tri nhận (conceptual metaphor) ............................................................. 20
1.2.3. Phân loại ...........................................................................................................26
1.2.3.1. Ẩn dụ cấu trúc (Structural Metaphors) ...................................................... 26
1.2.3.2. Ẩn dụ bản thể (Ontological Metaphors) .................................................... 29
1.2.3.3. Ẩn dụ định hướng (Orientational metaphors) ...........................................35
1.3. TỔNG QUAN VỀ TÁC GIẢ VÀ CÁC TÁC PHẨM ...........................................39
1.2.1. Tác giả Nguyễn Ngọc Tư .................................................................................39
1.2.1.1. Cuộc đời và sự nghiệp ...............................................................................39
1.2.1.2. Phong cách sáng tác ................................................................................... 40
1.2.2. Tổng quan về các tác phẩm ..............................................................................42
TIỂU KẾT ..................................................................................................................... 53
CHƯƠNG 2. ẨN DỤ TRI NHẬN VỀ CON NGƯỜI TRONG CÁC TÁC PHẨM
CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ .......................................................................................... 54
2.1. Ẩn dụ cấu trúc .....................................................................................................54
2.2. Ẩn dụ bản thể ......................................................................................................82
2.3. Ẩn dụ định hướng .............................................................................................102


2

TIỂU KẾT ...................................................................................................................108
CHƯƠNG 3. VÀI NÉT VỀ VĂN HÓA NAM BỘ QUA CÁC ẨN DỤ TRI NHẬN
VỀ CON NGƯỜI TRONG CÁC TÁC PHẨM TIÊU BIỂU CỦA NGUYỄN NGỌC
TƯ ................................................................................................................................109
3.1. Văn hóa Nam Bộ ..................................................................................................109
3.1.1. Khái niệm .......................................................................................................109
3.1.2. Đặc trưng của văn hóa Nam Bộ .....................................................................110
3.2. Vài nét văn hóa Nam Bộ qua các ẩn dụ tri nhận về con người trong tác phẩm của

Nguyễn Ngọc Tư ........................................................................................................114
3.2.1. Tính cách văn hóa người Việt Nam Bộ .........................................................114
3.2.2. Yếu tố văn hóa sơng nước ..............................................................................121
3.2.3. Yếu tố văn hóa nơng nghiệp ..........................................................................125
3.2.4. Một số yếu tố văn hóa khác ...........................................................................134
TIỂU KẾT ...................................................................................................................147
KẾT LUẬN .................................................................................................................148
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................................................150
PHỤ LỤC 1 .................................................................................................................154
PHỤ LỤC 2 .................................................................................................................168
PHỤ LỤC 3 .................................................................................................................305


3

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngôn ngữ học tri nhận là một hướng nghiên cứu mới xuất hiện trong khoảng thế
kỷ XX. Tiếp cận hướng nghiên cứu này vào những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI,
Việt ngữ học có nhiều cơng trình nghiên cứu về lý thuyết lẫn ứng dụng về ngôn ngữ học
tri nhận như cơng trình Ngơn ngữ học tri nhận – Từ lý thuyết đại cương đến thực tiễn
tiếng Việt của Lý Tồn Thắng (2005), cơng trình Ngơn ngữ học tri nhận (ghi chép và
suy nghĩ) (2007) và Khảo luận ngôn ngữ học tri nhận (2009) của Trần Văn Cơ… Việc
nghiên cứu ngôn ngữ học tri nhận, đặc biệt là ẩn dụ tri nhận vẫn đang là vấn đề mới và
cần thiết trong thực tiễn ngôn ngữ học Việt Nam hiện nay.
Nghiên cứu về ẩn dụ tri nhận không chỉ thể hiện ngơn ngữ và điểm nhìn của tác
giả về cuộc sống mà cịn cho chúng ta một cái nhìn tổng quan về văn hóa nhận thức của
dân tộc thể hiện trong ngôn ngữ. Nếu ẩn dụ theo hướng tiếp cận của ngữ học truyền
thống cho chúng ta hiểu biết về các sáng tạo về mặt ngôn từ của riêng tác giả thì ẩn dụ
tri nhận giúp chúng ta hiểu biết về ngơn ngữ đời sống đồng thời thể hiện văn hóa và môi

trường mà tác giả chịu ảnh hưởng khi sáng tác.
Nguyễn Ngọc Tư là một trong những nhà văn mới nổi bật của nền văn học Việt
Nam ở thế kỷ XXI. Các tác phẩm của chị mang giọng văn và phong cách văn khá đặc
biệt – đậm chất Nam Bộ. Từ khi bắt đầu sáng tác, với truyện ngắn Ngọn đèn không tắt
– Giải nhất cuộc vận động sáng tác Văn học tuổi 20, xuất bản lần đầu năm 2000, cho
đến nay, nhà văn đã dần trưởng thành và có nhiều tiến bộ trong phong cách viết. Chị
cũng luôn tự làm mới và thay đổi mình qua nhiều thể loại từ truyện ngắn, tản văn, tạp
văn, tiểu thuyết, tùy bút đến thơ. Tác phẩm của chị chủ yếu lấy bối cảnh miền sông nước
Nam Bộ với đề tài về thân phận người phụ nữ và những người dân nghèo nơi đây. Mỗi
tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư đều chứa đựng cả tâm tư người Nam Bộ thông qua chủ
đề, bối cảnh, hình tượng nhân vật, tính cách nhân vật đồng thời thể hiện phong cách
ngôn ngữ tác giả một cách sâu sắc. Giọng văn Nam Bộ làm nên nét đặc biệt cho tác
phẩm của Nguyễn Ngọc Tư, nhờ nó mà nhà văn đến gần hơn với độc giả, thể hiện rõ
hơn đề tài, chủ đề của tác phẩm.
Không hoa mỹ cầu kỳ, ngôn ngữ của Nguyễn Ngọc Tư rất mộc mạc và gần mới
đời sống hằng ngày. Tuy nhiên, mỗi tác phẩm của chị đều thấm nhuần ngơn ngữ, văn
hóa và đời sống con người Nam Bộ. Điều này không chỉ làm nên phong cách của tác giả
mà còn thể hiện sự nhận thức của nhà văn và những tác động của văn hóa – mơi trường
đến việc tạo lập tác phẩm. Đây là cơ sở hình thành nên các ẩn dụ ý niệm.
Đã có nhiều nghiên cứu về tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư cả trên bình diện văn
học lẫn ngôn ngữ học. Tuy nhiên, các nghiên cứu về ẩn dụ tri nhận trong tác phẩm của
Nguyễn Ngọc Tư cịn chưa nhiều và chi tiết. Do đó, chúng tơi chọn đề tài Ẩn dụ tri nhận
về con người trong tác phẩm Nguyễn Ngọc Tư (qua một số tác phẩm tiêu biểu) để nghiên
cứu. Đề tài nghiên cứu dựa trên lý thuyết ngôn ngữ học tri nhận và mở rộng vấn đề hơn


4

với việc tìm hiểu văn hóa tri nhận của con người Nam Bộ thông qua tác phẩm của
Nguyễn Ngọc Tư.

2. Lịch sử nghiên cứu
Xét trên cả lĩnh vực văn học lẫn ngôn ngữ học, các tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư
đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm với các cơng trình như cơng trình Khảo sát
ngơn ngữ truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư (trong hai tập truyện ngắn Ngọn đèn không
tắt và Cánh đồng bất tận) (luận văn thạc sỹ) của Lê Thị Cúc (2008); Luận văn thạc sỹ
Đặc điểm ngôn ngữ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư của Hồng Thị Thu Hà (2008);
cơng trình Chất Nam Bộ trong ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (luận văn thạc
sỹ) của Phạm Thị Hồng Nhung (2012)… Các khóa luận tốt nghiệp của sinh viên cũng
thường lấy đề tài nghiên cứu về các tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư như công trình Từ
địa phương trong tập truyện Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư của Nguyễn Thị
Kim Anh (2014)…
Ở lĩnh vực Ngôn ngữ học tri nhận, trong Metaphors We live by, George Lakoff
and Mark Johnson đã mở đầu bằng một quan niệm mới khác với những quan niệm truyền
thống về ẩn dụ: Ẩn dụ không chỉ xuất hiện trong thi ca, trong văn học, trong ngôn ngữ
mà ngay cả ngôn từ sinh hoạt hằng ngày, những suy nghĩ giản dị, bình thường nhất cũng
ẩn chứa ẩn dụ dưới ngóc nhìn tri nhận. Đó là một trong những cách nhìn mở đầu theo
hướng ngôn ngữ học tri nhận trên thế giới.
Giới Việt ngữ học biết đến Ngôn ngữ học tri nhận vào những năm cuối thế kỷ
XX, tuy nhiên, hướng nghiên cứu này mới chỉ thực sự nổi bật trong những năm gần đây
với các cơng trình như cơng trình Từ lý thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt của Lý
Toàn Thắng (2005); Trần Văn Cơ với Khảo luận ẩn dụ tri nhận (2007) và Ngôn ngữ
học tri nhận – Ghi chép và suy nghĩ (2009)… Đây là những công trình tiêu biểu, mang
tính chất giới thiệu đồng thời đặt những bước chân đầu tiên đi vào khoa học tri nhận.
Song hành với những cơng trình ấy là những cơng trình mang tính cụ thể, chi tiết, khơng
chỉ giới thiệu lý thuyết mà còn đi vào áp dụng lý thuyết tri nhận vào thực tiễn tiếng Việt
thông qua các đối tượng nghiên cứu cụ thể như: Cơng trình Tìm hiểu tiếng Việt từ góc
độ ngơn ngữ học tri nhận (luận văn thạc sỹ) của Võ Thị Dung (2003); cơng trình Sự tri
nhận khơng gian biểu hiện qua nhóm từ chỉ quan hệ vị trí trong tiếng Việt so sánh với
tiếng Anh (luận văn thạc sỹ) của Nguyễn Thị Tâm (2004); cơng trình Hiện tượng ẩn dụ:
Nhìn từ các quan điểm truyền thống và quan điểm tri nhận luận của Hà Thanh Hải

(2007); cơng trình Ẩn dụ dưới góc độ ngơn ngữ học tri nhận (luận án tiến sỹ) của Phan
Thuế Hưng (2008); cơng trình Thành ngữ tiếng Anh và thành ngữ tiếng Việt có yếu tố
chỉ bộ phận con người dưới góc nhìn của ngơn ngữ học tri nhận (luận án tiến sỹ) của
Nguyễn Ngọc Vũ (2008)… Mới đây, có những cơng trình như cơng trình Ẩn dụ tri nhận
biểu thức ẩn dụ cấu trúc trên cứ liệu ca từ Trịnh Công Sơn (luận văn thạc sỹ) của Nguyễn
Thị Thanh Huyền (2009); cơng trình Ẩn dụ trong thi pháp dưới góc nhìn của G. Lakoff
và M. Turner (luận văn thạc sỹ) của Lê Thị Ánh Hiền (2009); cơng trình Ẩn dụ tri nhận
trong thơ Xuân Diệu (luận văn thạc sỹ) của Nguyễn Thị Thùy (2013)…


5

Những cơng trình nghiên cứu về ẩn dụ tri nhận nói riêng và ngơn ngữ học tri nhận
nói chung ngày càng phát triển cho thấy sự phát triển của khoa học tri nhận tại Việt
Nam. Nó khơng chỉ là một vấn đề chun ngành mà cịn mang tính chất liên ngành,
đóng vai trị như cánh cửa mở vào thế giới bên trong con người ở chiều sâu tâm lý, phản
ánh nhận thức và tư duy của con người.
Trên cơ sở kế thừa thành quả trong những cơng trình mà các tác giả đi trước đã
nghiên cứu, với đề tài nghiên cứu về Ẩn dụ tri nhận về con người trong tác phẩm của
Nguyễn Ngọc Tư (qua một số tác phẩm tiêu biểu), chúng tôi sẽ tiếp cận vấn đề ẩn dụ
trong tác phẩm văn học, cụ thể là ẩn dụ về con người qua một số tác phẩm tiêu biểu của
nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, trên cơ sở ngôn ngữ học tri nhận và mở rộng vấn đề sang lĩnh
vực văn hóa tri nhận của người Việt ở Nam Bộ thơng qua các ẩn dụ được khảo sát.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là khảo sát các loại ẩn dụ trong các tác phẩm tiêu biểu của
Nguyễn Ngọc Tư theo quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận. Thông qua phân tích ngữ
liệu khảo sát, chúng tơi sẽ khái qt được vai trò của ẩn dụ tri nhận trong cách tác giả
ghi nhận và phản ánh sống động hiện thực về con người và xã hội Nam Bộ, cùng những
nét văn hóa đặc trưng của miền sơng nước. Đồng thời, chúng tơi cũng mong muốn tìm

hiểu những ảnh hưởng của văn hóa Nam Bộ đến sự hình thành các ý niệm ẩn dụ tri nhận
trong các tác phẩm.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung vào các nhiệm vụ sau:
Hệ thống hóa các cơ sở lý thuyết về ẩn dụ tri nhận và cơ chế nhận biết ẩn dụ tri
nhận.
Khảo sát, phân loại và phân tích ẩn dụ tri nhận về con người trong các truyện ngắn
tiêu biểu của Nguyễn Ngọc Tư, cụ thể là qua ba loại ẩn dụ: ẩn dụ cấu trúc, ẩn dụ bản
thể, ẩn dụ định hướng.
Miêu tả và phân tích các loại ẩn dụ để khái quát nên vai trò và cơ chế của ẩn dụ tri
nhận trong việc xây dựng nên hình tượng con người và xã hội đặc trưng Nam Bộ qua
tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư.
Cuối cùng, thông qua những ẩn dụ tri nhận về con người, tìm hiểu sự ảnh hưởng
của văn hóa Nam Bộ đến sự hình thành các ý niệm ẩn dụ trong tác phẩm của Nguyễn
Ngọc.


6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về ẩn dụ tri nhận về con người trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc
Tư, trên nền tảng ba loại chính của ẩn dụ tri nhận: ẩn dụ cấu trúc, ẩn dụ bản thể, ẩn dụ
định hướng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nguyễn Ngọc Tư là một trong những cây bút trẻ nổi bật trong làng văn học Việt
Nam thế kỷ XXI. Số lượng những tác phẩm được công bố của chị cho đến hiện nay khá
lớn (trên 30 tác phẩm) ở cả văn xuôi lẫn văn vần. Tuy nhiên, nhà văn nổi bật nhất trong
sáng tác văn xuôi ở các thể loại như truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn. Do đó, ở đề tài
này, chúng tơi đã chọn ra 14 tuyển tập tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Ngọc Tư trải dài

từ giai đoạn đầu sáng tác đến thời gian gần đây (2016), gồm bảy truyện ngắn, năm tản
văn, một tạp văn và một tiểu thuyết.
Dựa vào nguồn ngữ liệu trong các tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư, chúng tơi tiến
hành tìm hiểu một số ẩn dụ tri nhận về con người theo quan niệm ngôn ngữ học tri nhận
và quan niệm sáng tác của tác giả. Chúng tơi cũng sẽ đi sâu phân tích những ẩn dụ tri
nhận này và tìm hiểu sự chi phối của văn hóa Nam Bộ đến việc hình thành các ý niệm
ẩn dụ về con người trong tác phẩm Nguyễn Ngọc Tư.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp định lượng
- Phương pháp thống kê: Dựa trên ngữ liệu là các tác phẩm (tiểu thuyết) và tuyển
tập tác phẩm (truyện ngắn, tản văn, tạp văn) của Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi tiến hành
thống kê và phân loại các ẩn dụ tri nhận theo quan điểm của Ngôn ngữ học tri nhận.
Số liệu thu được là minh chứng khách quan cho các lập luận và kết luận chuyên
ngành. Bên cạnh đó, dựa vào kết quả thống kê chúng ta có thể chúng ta có thể thấy được
mức độ tác động của văn hóa Nam Bộ đến các sáng tác của nhà văn.
5.2. Phương pháp định tính
- Phương pháp so sánh – đối chiếu: So sánh đối chiếu để phân biệt được ẩn dụ
theo quan điểm của Ngôn ngữ học tri nhận và ẩn dụ theo quan điểm truyền thống. Từ
đó, xác định đúng đối tượng mà đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp miêu tả: Miêu tả các đặc điểm cấu trúc của ẩn dụ tri nhận theo quan
điểm của ngôn ngữ học tri nhận.
- Phương pháp phân tích – tổng hợp: Dựa vào ngữ liệu khảo sát về ẩn dụ tri nhận
về con người trong các tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư, chúng tơi tiến hành phân tích,
tìm ra ý niệm nguồn, ý niệm đích và sự ánh xạ giữa hai miền ý niệm này nhằm xác định
cơ sở hình thành nên các ẩn dụ tri nhận về con người trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc


7

Tư; và sự ảnh hưởng của văn hóa, mơi trường sống đến việc hình thành các ẩn dụ tri

nhận.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
6.1. Ý nghĩa khoa học
Cơng trình nghiên cứu góp phần thống kê, miêu tả và phân tích những ẩn dụ tri
nhận về con người trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư. Đồng thời, qua đó tìm hiểu sự
ảnh hưởng của văn hóa Nam Bộ đến việc hình thành các ẩn dụ tri nhận trong tác phẩm
của Nguyễn Ngọc Tư.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Công trình nghiên cứu của chúng tơi có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho các bài tiểu luận, các bài viết, đề tài của sinh viên chuyên ngành Ngơn ngữ học và
các chun ngành khác. Đồng thời, góp phần bổ sung và giúp người học tiếng Việt nói
chung cũng như người nước ngồi nói riêng có cái nhìn rõ ràng hơn về sự chi phối của
văn hóa Nam Bộ đến việc hình thành những ẩn dụ tri nhận về con người trong tác phẩm
của Nguyễn Ngọc Tư.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài của chúng gồm phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận, thư mục tài liệu
tham khảo và phụ lục. Trong đó, phần nội dung gồm ba chương như sau:
Chương 1. Những vấn đề về ẩn dụ và ẩn dụ tri nhận
Trong chương một, chúng tôi sẽ giới thiệu các quan điểm, phân loại ẩn dụ theo
quan điểm truyền thống và theo lý thuyết Ngôn ngữ học tri nhận. Chúng tôi sẽ đi sâu
giới thiệu lý thuyết và phân loại ẩn dụ của Ngôn ngữ học tri nhận, trong đó nêu ra các
định nghĩa ba loại chính của ẩn dụ tri nhận: Ẩn dụ cấu trúc, ẩn dụ bản thể, ẩn dụ định
hướng. Đồng thời, ở chương này, chúng tôi cũng sẽ giới thiệu về cuộc đời, sự nghiệp
cũng như phong cách sáng tác của tác giả Nguyễn Ngọc Tư.
Chương 2. Ẩn dụ tri nhận về con người trong các tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư
Trong chương hai, từ kết quả khảo sát ngữ liệu về ẩn dụ tri nhận về con người
trong 14 tác phẩm và tuyển tập tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư, chúng tơi tiến hành phân
loại, miêu tả, phân tích các miền ý niệm và sự ánh xạ giữa các miền ý niệm để thấy được
cơ sở hình thành ẩn dụ theo lý thuyết ngôn ngữ học tri nhận.
Chương 3. Vài nét về văn hóa Nam Bộ qua các ẩn dụ tri nhận về con người trong

các tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư
Chương này chúng tơi sẽ trình bày về mối quan hệ giữa ẩn dụ tri nhận và văn hóa
Nam Bộ, từ đó tìm hiểu và giải thích sự chi phối của đặc trưng tri nhận trong văn hóa
Nam Bộ đến việc hình thành các ý niệm ẩn dụ về con người trong tác phẩm Nguyễn
Ngọc Tư.


8

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
1.1.

ẨN DỤ THEO QUAN ĐIỂM TRUYỀN THỐNG
1.1.1. Khái niệm

Ẩn dụ theo quan điểm truyền thống là biện pháp tu sức cho từ bằng cách thực hiện
một so sánh ngầm. Theo Đinh Trọng Lạc (1999), ẩn dụ là “định danh thứ hai mang ý
nghĩa hình tượng dựa trên sự giống nhau hay tương đồng – có tính chất hiện thực hoặc
tưởng tượng ra – giữa khách thể (hoặc hiện tượng, hoạt động, tính chất) A được định
danh với khách thể (hoặc hiện tượng, hoạt động, tính chất) B có tên dọi được chuyển
sang dùng cho A”. Hay hiểu nôm na, ẩn dụ là cách gọi tên sự vật, hiện tượng này bằng
tên của một sự vật hiện tượng khác dựa trên mối quan hệ tương đồng giữa chúng.
Trong 777 khái niệm ngôn ngữ học, ẩn dụ được Nguyễn Thiện Giáp (2010) định
nghĩa: Ẩn dụ là “sự chuyển đổi tên gọi dựa vào sự giống nhau giữa các sự vật, hiện
tượng được so sánh với nhau”.
Đỗ Hữu Châu (2005) quan niệm rằng: “Ẩn dụ là cách gọi tên một sự vật này
bằng tên một sự vật khác, giữa chúng có mối quan hệ tương đồng”. Sau này ông giải
thích cụ thể hơn như sau: “Cho A là một hình thức ngữ âm, X và Y là những ý nghĩa
biểu vật. A vốn là tên gọi của X (tức X là nghĩa biểu vật chính của A). Phương thức ẩn

dụ là phương thức lấy tên gọi A của X để gọi tên Y (để biểu thị Y), nếu như X và Y có
nét nào đó giống nhau”.
Theo quan điểm của ngôn ngữ học truyền thống, ẩn dụ thường xuất hiện trong văn
chương. Bằng ẩn dụ và thông qua ẩn dụ, nhà văn, nhà thơ xây dựng nên những hình
tượng nghệ thuật độc đáo, có tính sáng tạo và mang màu sắc cá nhân. Ẩn dụ làm cho
ngôn từ mang những ý nghĩa phái sinh, hàm ẩn, tạo nên nét đẹp độc đáo về ý nghĩa
không chỉ của từ, ngữ, câu đó mà cho tồn đoạn, tồn tác phẩm đó.
Thí dụ, để nói đến một người phụ nữ đẹp chúng ta có một số cách nói sau:
(1) Cơ ấy thật xinh đẹp!
(2) Cô ấy đẹp/ xinh quá!
(3) Cô ấy đẹp như hoa.
(4) Xót nàng chút phận thuyền quyên
Cành hoa đem bán vào thuyền lái buôn
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Câu (1), (2) là cách nói trực tiếp. Đây là cách nói bình thường, khơng hoa mỹ,
khơng ẩn dụ. Câu (3) là câu so sánh. Người phụ nữ đẹp được so sánh với hoa làm tăng
tính hình tượng, song câu nói chưa hay. Ở ví dụ (4), ý nghĩa bề mặt, nghĩa đen của từng


9

của từ không cho ta biết, không cho ta hiểu về việc Nguyễn Du nói đến một người phụ
nữ đẹp, Nguyễn Du xót xa cho phận hồng nhan. Tuy nhiên, khi đi vào ý nghĩa hàm ẩn,
ta nhận thấy Nguyễn Du dùng liễu và hoa ẩn dụ cho Thúy Kiều – một người phụ nữ đẹp,
tài hoa và dùng thuyền lái buôn để ẩn dụ cho những phường buôn thịt bán người. Nói
cách khác, hoa ở ví dụ (4) là hình ảnh ẩn dụ cho người phụ nữ đẹp và thuyền lái buôn
được dùng để ẩn dụ cho những kẻ bn người. Câu thơ đẹp, ý thơ hay chính ở phép ẩn
dụ này.
Không chỉ trong văn học viết, ngay trong văn học dân gian, những hình ảnh ẩn dụ
cũng thường xuyên xuất hiện làm tăng tính thẫm mỹ cho tác phẩm.

Ví dụ:
Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào.
(Ca dao)
Những hình ảnh ẩn dụ mận, đào, vườn hồng được sử dụng để thổ lộ tình yêu giữa
những người yêu nhau một cách ý nhị, tinh tế. Đây vốn dĩ là những biểu tượng quen
thuộc với người lao động Việt Nam ngày xưa. Sử dụng mận để chỉ người con trai, đào
để chỉ người con gái và vườn hồng chỉ tình cảm, chuyện hơn nhân của cơ gái cũng như
tình u của hai người khiến cho bài ca dao trở nên mềm mại, uyển chuyển, kín đáo mà
vẫn chuyển tải hết thơng điệp tình yêu giữa những người yêu nhau.
Cách nói ẩn dụ trong văn chương làm cho tác phẩm giàu tính trữ tình, tăng tính
thẫm mỹ và tạo nên ý vị sâu xa “ba phần nổi bảy phần chìm” mà tác giả muốn truyền
đạt đến người đọc.
Các hình ảnh ẩn dụ khơng phải bất biến, nó thay đổi, biến đổi theo sự sáng tạo của
tác giả. Ví như hoa có thể ẩn dụ cho người phụ nữ đẹp nhưng hoa cũng có thể dùng để
ví người tình nhân hào hoa, phong nhã:
Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa.
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Ẩn dụ tăng sức biểu cảm, tăng tính hình tượng cho từ ngữ. Trong các tác phẩm văn
chương, ẩn dụ làm nên phong cách tác giả. Dựa trên vốn từ ngữ, khả năng hình tượng,
tư duy và ý nghĩa muốn truyền tải đến người đọc, tác giả sáng tạo nên những hình ảnh
ẩn dụ riêng dựa trên sự tương đồng giữa các sự vật, hiện tượng. Bên cạnh đó, ân dụ cũng
làm cho tác phẩm trở nên hoa mỹ, trang trọng và giàu tính trữ tình.


10


Tuy nhiên, khi xuất hiện Ngôn ngữ học tri nhận (Cognitive linguistics), ẩn dụ được
hiểu theo một định nghĩa mới. Ẩn dụ không chỉ là biện pháp tu sức cho từ, là một phương
tiện diễn đạt suy nghĩ mà còn là phương thức của tư duy, thể hiện tư duy và văn hóa dân
tộc. Ẩn dụ khơng chỉ có trong văn chương mà ẩn dụ có ở khắp nơi trong cuộc sống của
chúng ta.
1.1.2. Phân loại
Có nhiều cách phân loại ẩn dụ theo quan điểm của ngôn ngữ học truyền thống.
Trong tiếng Việt, có ba cách phân loại ẩn dụ nổi bật là phân loại ẩn dụ dựa trên sự giống
nhau về đặc điểm, tính chất giữa hai sự vật; hoặc dựa vào từ loại và chức năng của từ
ngữ ẩn dụ.
Về phân loại ẩn dụ theo Đỗ Hữu Châu có các loại ẩn dụ sau đây:
a. Ẩn dụ hình thức là những ẩn dụ dựa trên sự giống nhau về hình thức giữa các
sự vật. Ví dụ: Những ẩn dụ trong các từ mặt trong mặt bàn, mặt ghế, mặt hồ, mặt gương,
mặt nước…; từ chân trong chân bàn, chân ghế, chân dốc, chân núi, chân tường, chân
cột, chân trời…; từ mũi trong mũi tàu, mũi thuyền, mũi Né, mũi Cà Mau, mũi Hảo Vọng,
mũi dao, mũi kéo…; từ cánh trong cánh quạt, cánh buồm, cánh đồng, cánh máy bay…
chính là những ẩn dụ chỉ hình thức.
b. Ẩn dụ chỉ cách thức là những ẩn dụ dựa vào sự giống nhau về cách thức thức
hiện giữa hai hành động hai hiện tượng. Ví dụ như khi nói nắm thơng tin, nắm tư tưởng,
đừng có vặn nhau nữa, cắt hộ khẩu, cắt công việc… là chúng ta chỉ rõ cách thức nhận
tư tưởng, nhận thông tin, cách thức “truy hỏi nhau cho rõ ngọn ngành”… cũng giống
như ta: nắm, cắt, vặn... một sự vật cụ thể, vật lý nào đó.
c. Ẩn dụ chức năng là ẩn dụ dựa vào sự giống nhau về chức năng giữa các sự vật.
Ví dụ: bến trong bến xe, bến tàu… khơng có sự tương đồng về mặt hình dạng, lẫn vị trí,
kích thước so với bến sơng, bến đị, bến nước, nhưng nó lại tương đồng với nhau về mặt
chức năng cùng “là đầu mối giao thông, nơi các phương tiện chuyển di, dừng đỗ”. Tương
tự như chốt trong chốt biên phòng, chốt trạm, chủ chốt… so với chức năng ban đầu là
“chốt cửa – bộ phận để khóa, nối cửa và bản lề”; cửa trong cửa sông, cửa biển, cửa
rừng, cửa hang… so với chức năng ban đầu “là cánh cửa – bộ phận của căn nhà”…
d. Ẩn dụ kết quả là những ẩn dụ dựa vào sự giống nhau về tác động của các sự vật

đối với con người. Ví dụ: “nỗi lo âu quằng nặng trên vai” là muốn nói tới tác động của
nỗi lo lắng đối với lí trí, tình cảm của chúng ta cũng giống như một vật nào đó có trọng
lượng lớn mà chính chúng ta phải gánh nó trên vai, kềnh càng, cực nhọc.
e. Trong ẩn dụ kết quả cịn có loại ẩn dụ gọi tên những cảm giác thuộc giác quan
này để gọi tên những cảm giác của giác quan khác hay những “cảm giác” của trí tuệ,
tình cảm. Ví dụ như: chua, cay, mặn, nhạt, ngọt, đắng… là những cảm giác thuộc trường
vị giác, khi dùng chúng với vai trị ẩn dụ, vượt ra ngồi biên giới của vị giác chúng xuất


11

hiện trong trường thính giác, có thể kể đến như: lời nói cay đắng, nói ngọt lọt đến xương,
giọng chua lt, pha trị nhạt q! và ở các ví dụ chứa ẩn dụ này, khơng cịn đơn thuần
thuộc trường thính giác mà cịn có trí tuệ, tình cảm xen lẫn vào. Tương tự ta có các từ
thuộc về trường xúc giác như: nặng, nhẹ, êm… được dùng cho trường thị giác và thính
giác như: giọng nói êm êm, tiếng nói vùng biển nghe rất nặng, nhẹ giọng thôi, màu xanh
rất nhẹ, màu tím nhẹ…
Đinh Trọng Lạc đã căn cứ vào từ loại và vào chức năng của từ ngữ ẩn dụ, để chia
ẩn dụ thành ba loại:
a) Ẩn dụ định danh: là thủ pháp có tính chất thuần túy kĩ thuật dùng để cung cấp
những tên gọi mới bằng cách dùng vốn từ vựng cũ.
Ví dụ: đầu thơn, bụng thuyền, má phanh, tay ghế, chân mây…
b) Ẩn dụ nhận thức: nảy sinh do kết quả của việc làm biến chuyển khả năng kết
hợp của những từ chỉ dấu hiệu khi làm thay đổi ý nghĩa của chúng từ cụ thể đến trừu
tượng.
Ví dụ: Những tính từ như: giá lạnh, mơn mởn, hiền hịa, vằng vặc…
c) Ẩn dụ hình tượng: là nguồn sản sinh ra đồng nghĩa.
Ví dụ:
“Lặn lội thân cị nơi qng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đị đơng”

(Thương vợ – Tú Xương)
Nghĩa gốc cị chính là con vật thuộc họ chim, gắn bó với văn minh nơng nghiệp
lúa nước. Ở đây cị là hình ảnh tượng trưng cho người vợ của Tú Xương, nói rộng ra là
hình ảnh người phụ nữ, những người nông dân chân lấm tay bùn, quanh năm dầm mưa
dãi nắng, thân cò lặn lội sớm. Đây là sự sáng tạo mang tính chất cá nhân, tăng tính hấp
dẫn cho người tiếp nhận.
Ngồi những ẩn dụ đã trình bày, Đinh Trọng Lạc cịn phân biệt ẩn dụ bổ sung và
ẩn dụ tượng trưng.
Ẩn dụ bổ sung (ẩn dụ chuyển đổi cảm giác) là sự kết hợp của hai hay nhiều từ chỉ
những cảm giác sinh ra từ khu trung cảm giác khác nhau. Cơ sở tâm lý học của nó là sự
tác động lẫn nhau giữa các giác quan, sự hợp nhất của chúng.
Thính giác + xúc giác: giọng cô ấy ấm áp
Thị giác + xúc giác: màu xanh xanh mát mắt
Thính giác + vị giác: câu chuyện nhạt phèo
Thị giác + khứu giác: thấy thơm rồi đó nha!
Khứu giác + vị giác: một mùi đăng đắng
Thị giác + vị giác: thấy mặn ở đầu mơi
Thính giác + xúc giác: một tiếng nghe sắc nhọn đâm thẳng vào tim.


12

Ẩn dụ tượng trưng là sự kết hợp của một khái niệm trừu tượng với một khái niệm
về cảm giác.
Ví dụ: Nỗi buồn dìu dịu. Những ý nghĩ đắng cay. Cỏ cây một màu khổ não. Xanh
ve mãi lên một niềm hy vọng. Mùa đỏ giận dữ.
(Nguyễn Tuân)
Ở đây có sự kết hợp của các từ ngữ: màu với khổ não, màu đỏ với giận dữ. Sự kết
hợp đó được thực hiện trên cơ sở khác loại, bởi vì một khái niệm thì trừu tượng, một
khái niệm thì cụ thể.

Ẩn dụ tượng trưng là đặc điểm ngôn ngữ thơ. Đây là một công cụ đắc lực trong
việc bộc lộ tâm hồn sâu kín qua cái cảm quan kì diệu của con người.
Ví dụ:
“Tai nương nước giọt mái nhà
Nghe trời nằng nặng, nghe ta buồn buồn
Nghe đi rời rạc trong hồn
Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi.”
(Buồn đêm mưa – Huy Cận)
Quan điểm của Đinh Trọng Lạc thể hiện ẩn dụ dưới góc nhìn của phong cách học.
Các loại ẩn dụ có thể kể đến như: ẩn dụ tượng trưng với những đặc điểm riêng phù hợp
với thơ ca qua đó thể hiện được tâm tư tình cảm và phong cách sáng tác của tác giả; ẩn
dụ bổ sung, ẩn dụ định danh vừa có tác dụng làm tăng vốn từ vừa tạo nên sự đa dạng,
phong phú trong cách diễn đạt, thể hiện cảm xúc…; ẩn dụ hình tượng đem đến cho
người đọc sự liên tưởng và nhiều tầng ý nghĩa sâu sắc thơng qua hệ thống hình tượng
giàu chất gợi.
Trong Từ vựng học Tiếng Việt, Nguyễn Thiện Giáp nhận định: “Ẩn dụ là sự chuyển
đổi tên gọi dựa vào sự giống nhau giữa các sự vật hoặc hiện tượng được so sánh với
nhau”. Dựa vào tính chất của sự giống nhau, Nguyễn Thiện Giáp chia thành tám kiểu
ẩn dụ:
Kiểu ẩn dụ 1: Sự giống nhau về hình thức
Kiểu ẩn dụ này được hình thành dựa vào sự tương đồng về hình thức, tạo nên nghĩa
ẩn dụ của các sự vật. Ta có, chân là bộ phân dưới cùng của cơ thể người, động vật. Do
đó các bộ phận nằm ở vị trí dưới cùng của các sự vật thường được gọi là chân: chân
mây, chân bàn, chân tủ, chân đèn, chân giường, chân trời, chân nhang…
Ví dụ:
Bần thần hương huệ thơm đêm
Khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn
Chân nhang lấm láp tro tàn
Xăm xăm bóng mẹ trần gian thưở nào.



13

(Mẹ và quả - Nguyễn Duy)
Anh xa em
Trăng cũng lẻ
Mặt trời cũng lẻ
Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn.
(Thơ viết ở biển – Hữu Thỉnh)
Bảo rằng cách trở đị giang,
Khơng sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xơi mấy cho tình xa xơi...
(Tương tư – Nguyễn Bính)
Trong những bài thơ trên, các tác giả đã vận dụng ẩn dụ về chân nhang, đầu đình,
cánh buồm dựa mối tương liên giữa chân, đầu (thuộc bộ phận cơ thể người) và cánh
(thuộc bộ phận cơ thể của con vật).
Trong tiếng Việt loại ẩn dụ dựa vào sự giống nhau về hình thức rất đa dạng và
phong phú: miệng giếng, miệng hố, răng lược, chân tóc, mũi ghe, mũi thuyền…
Kiểu ẩn dụ 2: Sự giống nhau về màu sắc
Dựa vào sự giống nhau giữa các sự vật, hiện tượng mà hình thành các ẩn dụ làm
cho gam màu sắc trong tiếng Việt trở nên đa dạng, phóng phú, sống động, gần gũi và dễ
hình dung. Thay vì chỉ sử dụng các gam màu cơ bản, thì trong tiếng Việt hình thành
thêm các từ chỉ màu sắc mang nét ẩn dụ như: màu xanh rêu, màu xanh lá chuối, màu
xanh lá mạ, màu hồng cánh sen, màu hồng dâu, màu hồng đất, màu hồng đào, màu đỏ
gạch, màu cam đất, màu xanh da trời, màu da cam, màu cánh gián…
Kiểu ẩn dụ 3: Sự giống nhau về chức năng
Ẩn dụ này dựa vào sự giống nhau về chức năng của các sự vật. Trong tiếng Việt
từ bến chỉ nơi chuyên dùng để các phương tiện giao thông tập trung, để hành khách lên

xuống như: bến xe, bến tàu, bến sông… Bên cạnh đó, từ bến cịn chỉ nơi người con gái
có thể nương đậu tình duyên của mình, bến lúc này được hiểu là người con gái. Ví dụ:
Trăm năm dù lỗi hẹn hò
Cây đa bến cũ con đò khác đưa


14

Con đò sớm thác năm xưa
Cây đa bến cũ còn lưa đến chừ.
(Ca dao)
Trong câu ca dao trên ta thấy bến chỉ người con gái, còn đò là người con trai.
Người con trai có về, có đi đâu chăng nữa thì lịng dạ người con gái vẫn sắt son đợi chờ,
sự chờ đợi này tựa như bến đợi đò.
Kiểu ẩn dụ 4: Sự giống nhau về một thuộc tính, tính chất nào đó
Dựa vào sự tương đồng của một thuộc tính, tính chất với các sự vật, hiện tượng
khác mà ta có hệ thống từ mang nghĩa ẩn dụ. Trong tiếng Việt từ ngọt ngào chỉ vị giác
khi trải nghiệm các món ăn có vị ngọt như: mía, đường, kẹo… Bên cạnh đó, ngọt ngào
cũng được dùng khi nói về tình cảm, cảm xúc của con người, mang lại cảm giác dễ
chịu, say đắm như: tình cảm ngọt ngào, hạnh phúc ngọt ngào, cảm xúc ngọt ngào…
Ngồi ra cịn chỉ về mặt âm thanh như: giọng nói ngọt ngào, lời ru ngọt ngào, tiếng hát
ngọt ngào…
Kiểu ẩn dụ 5: Sự giống nhau về một đặc điểm, một vẻ ngoài nào đó
Kiểu ẩn dụ này được hình thành dựa trên sự giống nhau về một đặc điểm hay một
vẻ bề ngoài nào đó. Nhân vật Tây Thi hay Thúy Kiều được dùng để chỉ những người
phụ nữ đẹp, còn Sở Khanh để chỉ người đàn ông trăng hoa, bội bạc. Trong tác phẩm Chí
Phèo của Nam Cao thì nhân vật Thị Nở được miêu tả là người phụ nữ có ngoại hình xấu
xí đến “ma chê quỷ hờn” Chí Phèo là kẻ nghiện rượu chuyên rạch mặt ăn vạ, nên Thị
Nở là nhân vật được dùng ẩn dụ để nói về những người phụ nữ có ngoại hình xấu và Chí
Phèo được dùng chỉ những hạng người đâm thuê chém mướn, đập đầu ăn vạ …

Kiểu ẩn dụ 6: Những ẩn dụ từ cụ thể đến trừu tượng
Kiểu ẩn dụ này dựa vào những sự vật, hiện tượng cụ thể mà để nói cái trừu tượng.
Lửa là cái cụ thể có thể nhìn thấy được, cảm nhận được, nhưng cũng có thể dùng lửa để
nói đến những phạm trù trừu tượng như: lửa căm thù, lửa giận hờn, lửa tình yêu, lửa
đam mê, lửa tình…
“Tơi u em: đến nay chừng có thể
Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tài phai
Nhưng khơng để em bận lịng thêm nữa
Hay hồn em phải gợn bóng u hồi”
(Tơi u em – A.S.Pushkin, bản dịch của Nguyễn Đức Quyết)


15

Trong đoạn thơ, Pushkin đã sử dụng hình ảnh lửa một cách ẩn dụ, ngọn lửa khơng
cịn là cái cụ thể mà đã trở thành ngọn lửa tình mang tính trừu tượng.
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
(Từ ấy – Tố Hữu)
Mặt trời chân lý, ánh sáng chân lý… đều là những ẩn dụ độc đáo thể hiện sức sáng
tạo và phong cách cá nhân của nhà thơ. Lấy cái cụ thể mặt trời, ánh sáng để làm nền
cho cái trừu tượng là chân lý.
Kiểu ẩn dụ 7: Chuyển tên các con vật thành tên người
Sử dụng tên các con vật để gọi tên người, thay tên người bằng tên gọi của các
con vật dựa vào những đặc tính giống nhau. Ví dụ: cơ ấy là một con bồ câu; con chim
non của mẹ; con cún con của ba; anh ta là một con hổ dũng mãnh…
Kiểu ẩn dụ 8: Chuyển tính chất của sinh vật sang sự vật hoặc hiện tượng khác
Từ tính chất của sinh vật chuyển sang tính chất của sự vật hoặc hiện tượng khác,
được xem là hiện tượng nhân cách hóa. Ví dụ: thời gian trơi, mưa khóc, chiếc lá đau,
khăn thương nhớ…

Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
(Sang thu – Hữu Thỉnh)
Nhưng mỗi năm, mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầụ
(Ơng đồ - Vũ Đình Liên)
Qua các kiểu ẩn dụ trên, ta thấy rằng ẩn dụ xảy ra ở trường hợp danh từ (chân, bến,
thuyền...), động từ (đi, chạy, giữ, nắm…), tính từ (ngọt ngào, đắng, cay…)
Trên đây là những cách phân loại ẩn dụ của một số nhà nghiên cứu ngôn ngữ học:
Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp và Đinh Trọng Lạc. Quan điểm thống nhất của các
nhà ngơn ngữ học và ngữ văn học chính là thừa nhận có hai loại ẩn dụ là: ẩn dụ từ vựng
và ẩn dụ tu từ. Quan niệm cũng như cách phân loại về ẩn dụ khác nhau nhưng không


16

mâu thuẫn, đối lập mà chúng bổ sung cho nhau giúp đọc giả hiểu và thống nhất về cách
phân loại ẩn dụ.
1.2. ẨN DỤ THEO QUAN ĐIỂM CỦA NGÔN NGỮ HỌC TRI NHẬN
Nếu như ẩn dụ truyền thống là sự sáng tạo của nhà văn trong các tác phẩm văn
chương thì ẩn dụ tri nhận là sự thể hiện kinh nghiệm sống của nhà văn đồng thời phản
ánh tư duy và văn hóa dân tộc. Ẩn dụ tri nhận (cịn được gọi là ẩn dụ ý niệm) khơng chỉ
có trong văn chương mà tồn tại phổ biến trong ngôn ngữ đời sống hằng ngày.
Ẩn dụ tri nhận. Trước khi bàn đến vấn đề này chúng ta cần có một cái nhìn khái
qt về ngơn ngữ học tri nhận – khơng gian chứa đựng ẩn dụ tri nhận.
1.2.1. Ngôn ngữ học tri nhận
1.2.1.1. Vài nét về ngôn ngữ học tri nhận
Ngôn ngữ học tri nhận (Cognitive Linguistics) là ngành khoa học nghiên cứu ngôn

ngữ trong mối quan hệ với con người, lấy ngôn ngữ tự nhiên hay ngôn ngữ trong đời
sống thường ngày của con người làm đối tương nghiên cứu. Ngôn ngữ học tri nhận xem
ngôn ngữ tự nhiên của con người như một bộ phận cấu thành ý thức. Đối tượng nghiên
cứu này khiến cho ngôn ngữ học tri nhận khơng chỉ bó hẹp trong việc nghiên cứu ngơn
ngữ mà phải mở rộng giải quyết những vấn đề liên ngành khác để giải thích những điều
liên quan đến tư duy, trí tuệ và bộ não con người. Do đó, khi đề cập đến ngôn ngữ học
tri nhận mà không nói đến những ngành khoa học tri nhận (Cognitie science) có liên
quan trực tiếp đến nó thì thật là thiếu sót.
Trong q trình hình thành và phát triển của mình, ngôn ngữ học tri nhận luôn
được đặt trong mối quan hệ với những ngành khoa học tri nhận khác như Nhân chủng
học tri nhận (Cognitive anthropology), Tâm lý học tri nhận (Cognitive psychology)…
Bên cạnh đó các ngành như triết học, văn hóa học, dân tộc học, logic học cũng là những
ngành có liên quan mật thiết đến khoa học tri nhận.
Trong khoảng những năm 60 của thế kỷ XX khoa học tri nhận bắt đầu phát triển ở
Mỹ. Và ngay sau đó, khoảng những năm cuối thập niên 70 của thế kỷ XX, Chomsky
đưa ra lý thuyết về ngữ pháp tạo sinh. Hai sự kiện này có ảnh hưởng qua lại lẫn nhau,
trở thành động lực thúc đẩy sự hình thành và phát triển sau này của ngôn ngữ học tri
nhận. Thực chất, lý thuyết ngữ pháp tạo sinh của Chomsky ra đời trong khuôn khổ của
khoa học tri nhận [24:12] đồng thời chịu ảnh hưởng trực tiếp từ tâm lí học tri nhận.
Tâm lý học tri nhận quan tâm nghiên cứu đến đối tượng là những trạng thái tâm
lý, tinh thần – những phạm trù thuộc về tổ chức trí tuệ bên trong con người. Solso – một
nhà tâm lý học Ý nổi tiếng – đã đưa ra nhận định cụ thể hơn về đối tượng của ngành tâm
lý học tri nhận, ông cho rằng tâm lý học tri nhận “nghiên cứu xem con người tiếp nhận
các thông tin về thế giới như thế nào, những thơng tin đó được con người hình dung ra
sao, chúng được lưu trữ trong kí ức và được cải biến thành tri thức như thế nào và các
tri thức này ảnh hưởng ra sao đến sự chú ý và hành vi của chúng ta” [24:13]. Dưới sức


17


ảnh hưởng của tâm lý học tri nhận và lý thuyết ngữ pháp tạo sinh, khoảng cuối thập niên
70 của thế kỷ XX, ngôn ngữ học bắt đầu xuất hiện những khuynh hướng nghiên cứu về
vấn đề tri nhận luận. Khoảng cuối những năm 80 của thế kỷ XX, lý thuyết ngôn ngữ học
tri nhận được phát triển bởi các nhà nghiên cứu tên tuổi như Ch. Fillmore, G. Lakoff,
M. Johnson, R. Langacker, L. Talmy… Đặc biệt, G. Lakoff và M. Johnson với cơng
trình “Metaphors we live by” (Chúng ta sống bằng ẩn dụ) ra đời năm 1980, mà theo John
M. Lawler – nhà ngôn ngữ học ở Đại học Michigan (Mỹ): đây là một cuốn sách có thể
được xem như là sách giáo khoa về ngôn ngữ học tri nhận, đánh dấu sự phát triển và
hồn thiện của ngơn ngữ học tri nhận. Theo J.M. Lawler, nhiều nhà ngôn ngữ học đã
vọng tưởng về một ngày mà những giá trị phức tạp trong ngơn ngữ của lồi người trở
nên bình thường, và chúng được sử dụng rộng rãi khơng chỉ trong nền văn hóa của một
dân tộc mà cịn ở cả các nền văn hóa khác; một ngày mà chúng ta có thể giải mã tất cả
những bí mật về tư duy và thông tin, và một ngày mà con người sẽ ngừng thắc mắc rằng
chúng ta nói bao nhiêu ngôn ngữ. Ngày này vẫn chưa đến, nhưng “Metaphors we live
by” sẽ mang nó gần gũi hơn với chúng ta. (Every linguist dreams of the day when the
intricate variety of human language will be a commonplace, widely understood in our
own and other cultures; when we can unlock the secrets of human thought and
communication; when people will stop asing us how many languages we speak. This
day has not yet arrived; but the present book brings it somewhat closer).
G. Lakoff và M. Johson đã nêu trong cơng trình của mình rằng hầu hết mọi người
nhận định ẩn dụ là phương thức làm cho trí tưởng tượng của ta trở nên thi vị và là biện
pháp tu sức cho từ – là một phần đặc biệt hơn ngôn ngữ tự nhiên. Hơn nữa, ẩn dụ là nét
đặc thù chỉ có ở ngơn ngữ, nó thuộc về ý nghĩa của từ hơn là tư duy hay hành động. Đây
là lý do khiến cho nhiều người nghĩ rằng chúng ta có thể sống tốt mà khơng cần có ẩn
dụ. Nhưng thực chất khơng phải như vậy, ẩn dụ lan tỏa khắp nơi trong cuộc sống của
chúng ở mọi thời điểm, khơng chỉ có trong ngơn ngữ mà cịn có trong tư duy và hành
động. Hệ thống ý niệm thông thường của chúng ta, trong cả suy nghĩ và hành động, về
cơ bản mang tính ẩn dụ. (Metaphor is for most people a device of the poetic imagination
and the rhetorical flourish — a matter of extraordinary rather than ordinary language.
Moreover, metaphor is typically viewed as characteristic of language alone, a matter of

words rather than thought or action. For this reason, most people think they can get
along perfectly well without metaphor. We have found, on the contrary, that metaphor
is pervasive in everyday life, not just in language but in thought and action. Our
ordinary conceptual system, in terms of which we both think and act, is fundamentally
metaphorical in nature) [52:4].
Cùng thời điểm với G. Lakoff và M. Johnson, Langacker (1988) đã đưa ra lý thuyết
về ngữ pháp tri nhận Cognitive Grammar. Năm 1989, tại Đức, Hiệp hội Ngôn ngữ học
tri nhận quốc tế được thành lập, sau đó, cho ra đời tạp chí Cognitive Linguistic. Sau này,
giới ngôn ngữ học lấy năm diễn ra sự kiện này làm mốc ra đời của ngôn ngữ học tri
nhận.


18

Từ khi ra đời cho đến nay, ngôn ngữ học tri nhận đã phát triển mạnh mẽ trên toàn
thế giới. Ở Việt Nam, ngôn ngữ học tri nhận được tiếp nhận như một khuynh hướng
nghiên cứu ngôn ngữ học mới với nhiều mảnh đất màu mỡ để khai phá từ những năm
đầu thế kỉ XXI – muộn hơn nhiều so với thế giới với những cơng trình ngơn ngữ học tri
nhận của Trần Văn Cơ, Lý Toàn Thắng, Hữu Đạt…
1.2.2.2. Một số khái niệm trong ngôn ngữ học tri nhận
Sự ra đời của ngôn ngữ học tri nhận đưa đến cho chúng ta một số khái niệm chuyên
môn như tri nhận (cognition), ý niệm (concept), điển dạng (prototype), phạm trù…
1. Thuật ngữ “tri nhận” (cognition) trong tiếng Anh vốn mang nhiều nghĩa, trong
đó có nghĩa nhận thức là khá nổi bật. Tuy nhiên, khi chuyển dịch sang tiếng Việt,
cognition được dịch là tri nhận. Theo Trần Văn Cơ, “tri nhận” và “nhận thức” tuy hai
mà một. Cả hai thuật ngữ này đều liên quan đến quá trình nhận thức, quá trình tư duy
của con người, nghĩa là quá trình con người phản ánh thế giới khách quan vào ý thức
của mình [3:18].
Tri nhận (Cognition) là khái niệm trung tâm của khoa học tri nhận. Nó chứa đựng
hai nghĩa của những từ Latin kết hợp lại: cognitio có nghĩa là nhận thức và cogitatio có

nghĩa là tư duy, suy nghĩ. Khái niệm này biểu hiện một quá trình nhận thức hoặc là tổng
thể những q trình tâm lí (tinh thần, tư duy) – tri giác, phạm trù hóa, tư duy, lời nói…
phục vụ cho việc xử lí và chế biến thơng tin. Nó bao gồm cả sự nhận thức và đánh giá
bản thân mình trong thế giới xung quanh và xây dựng bức tranh thế giới đặc biệt – tất
cả những cái tạo thành cơ sở cho hành vi con người [3:17].
2. Hoạt động tri nhận của con người là một q trình thu nhập thơng tin tạo nên sự
hiểu biết nhất định của con người. Kết quả của hoạt động tri nhận xây dựng nên hệ thống
ý niệm của con người để con người dựa trên đó mà suy nghĩ, tưởng tượng và giải mã
thế giới xung quanh mình. Tuy nhiên, sự tri nhận và ý niệm hóa của mỗi người là khơng
giống nhau, nó phụ thuộc vào những điều kiện văn hóa nhất định.
3. Ý niệm (Concept) là đơn vị nhỏ nhất của quá trình tri nhận. Ý niệm là kết quả
của việc chúng ta tri giác và phản ánh thế giới xung quanh thông qua phương tiện là
ngôn ngữ dân tộc. Ý niệm của mỗi người chịu tác động bởi các thành tố văn hóa (tơn
giáo, tín ngưỡng, truyền thống dân tộc, nghệ thuật, phong tục tập quán…) trong ý thức
của người đó. Ý niệm là kết quả của quá trình tri nhận là quá trình tạo ra những biểu
tượng tinh thần (mental representation). Cấu trúc của biểu tượng tinh thần gồm ba thành
tố: trí tuệ, cảm xúc và ý chí, cả ba thành tố này đều được biểu hiện trong ngôn ngữ: trong
ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp [3:28].
Ý niệm là đơn vị tinh thần hoặc tâm lý của ý thức chúng ta, là đơn vị nội dung của
bộ nhớ động, của từ vựng tinh thần và của bộ não (lingua mentalis), của toàn bộ bức
tranh thế giới được phản ánh trong tâm lí con người [3:29]. Trong quá trình tư duy của


19

mình, con người làm nảy sinh những ý niệm qua hoạt động nhận thức thế giới và quy
những ý niệm này về một hệ thống – hệ thống ý niệm.
Trong ngôn ngữ học, ý niệm được biểu hiện trong ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp,
trong đó từ vựng là phương tiện biểu đạt các ý niệm rõ nét nhất. Langacker cho rằng:
“Ngữ nghĩa học là sự ý niệm hóa. Các từ ngữ đều biểu đạt các ý niệm và các ý niệm đều

tương ứng với các ý nghĩa” [7:11]. Ông đã đưa ra một ví dụ bằng tiếng Anh như sau:
radius là một từ tiếng Anh có ý niệm là “bán kính”, nghĩa là đoạn thẳng được nối từ tâm
hình trịn đến một điểm bất kì trên đường trịn. “Bán kính” khơng phải là một đoạn thẳng
bất kì mà là một đoạn thẳng được xác định với khoảng cách từ tâm đến đường trịn, nó
được đặt trong mối quan hệ với đường trịn. Ta hiểu được ý niệm “bán kính” là nhờ vào
ý niệm nền “đường trịn”. Khái qt ví dụ này chúng ta nhận thấy rằng một ý niệm phải
được hiểu trên ý niệm nền hay cái khung của nó, “hệ thống ý niệm liên quan với nhau
theo cái cách mà để hiểu bất kì một ý niệm nào trong đó chúng ta phải hiểu cái cấu trúc
tồn thể mà ý niệm đó ăn khớp với” (Fillmore, 1982) [25:26]. Khi nhắc đến ý niệm tí,
sửu, dần, mão thì ta không thể bỏ qua cái khung con giáp trong văn hóa Trung Hoa.
Khi chúng ta tạo ra một phát ngơn, chúng ta đồng thời đưa vào đó những kinh
nghiệm, văn hóa mà chúng ta mong muốn chuyển tải đến người nghe và tạo nên nhiều
q trình ý niệm hóa (conceptualization) – đây là quá trình hình thành các ý niệm. Việc
hình thành các ẩn dụ trong ngơn ngữ cũng được coi là một q trình ý niệm hóa.
4. Phạm trù là đối tượng được nhiều ngành khoa học quan tâm. Theo Trần Ngọc
Thêm (2011), trong triết học, phạm trù được định nghĩa là khái niệm rộng nhất phản ánh
những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các hiện tượng
của hiện thực và nhận thức. Trong ngôn ngữ học, phạm trù ngữ pháp là sự khái quát
của một số ý nghĩa ngữ pháp nhất định được thể hiện ra bằng những phương thức ngữ
pháp nhất định [5:255].
Không chỉ trong khoa học mà trong đời sống thường này chúng ta cũng nói đến
một cách gián tiếp về các phạm trù. Ví dụ bố mẹ dạy cho con: Đây là ơng nội, kia là bà
nội, đó là cơ, chú, bác… Thì ơng nội, bà nội, cơ, chú, bác là những tiểu phạm trù thuộc
phạm trù quan hệ thân tộc.
Trong ngơn ngữ học tri nhận, phạm trù có thể được hiểu là một sự vật và những
loại tương tự tạo thành một phạm trù. Mở rộng hơn, phạm trù cũng có thể được hiểu là
ý niệm. Tuy nhiên, phạm trù là sự quy loại sự vật trong tri nhận thì ý niệm là phần khái
niệm, ý nghĩa của những từ ngữ, hình ảnh trên cơ sở phạm trù.1
5. Phạm trù hóa là một khái niệm được ngơn ngữ học tri nhận đặc biệt quan tâm.
Đây là một trong những khái niệm quan trọng trong việc miêu tả nhận thức của con


Đặng Thị Thu Hiền (2014), Chiếu vật thiên nhiên trong truyện Kiều của Nguyễn du – Nhìn từ góc độ ngơn ngữ
học tri nhận (qua nhóm biểu thức chiếu vật sông nước trong truyện Kiều), nguvan.hnue.edu.vn
1


20

người cho biết năng lực, kinh nghiệm hay hoạt động tri nhận và cách thao thức tư duy:
so sánh, đồng nhất, thiết lập sự giống nhau và tương đồng [3:23 – 24].
Theo nghĩa hẹp, phạm trù hóa là việc đưa những hiện tượng, đối tượng, quá trình…
vào phạm vi kinh nghiệm, vào phạm trù và thừa nhận nó là một thành tố của phạm trù
này song theo nghĩa rộng hơn thì đó là q trình cấu tạo và phân suất chính bản thân các
phạm trù, là q trình phân chia thế giới bên ngoài và thế giới bên trong của con người,
quá trình sắp xếp các hiện tượng theo thứ tự số lượng ít hơn hoặc hợp nhất chúng lại.
Đồng thời đó là kết quả của hoạt động phân loại [3:24].
6. Điển dạng là khái niệm có liên quan chặt chẽ với sự phạm trù hóa.
Ngơn ngữ học, tâm lí học, xã hội học và văn hóa học là những ngành vốn có quan
hệ mật thiết với nhau. Ngơn ngữ tự nhiên của con người là một hiện tượng xã hội, nó
khơng thể tách biệt khỏi tâm lí và xã hội con người. Trong khi ngôn ngữ của một dân
tộc cụ thể lại ln gắn liền với tâm lí, văn hóa và xã hội của dân tộc đó. Chính những
yếu tố bên ngoài này đã tác động và quyết định hoạt động tri nhận của người bản ngữ.
Mỗi hệ thống ngơn ngữ có một hệ thống ý niệm tương đương và nhờ đó người bản ngữ
nhận thức, hiểu, cấu trúc hóa, phân loại và thuyết giải thơng tin từ thế giới bên ngồi.
Phạm trù hóa trong ngơn ngữ học tri nhận cho phép sự quy loại những phạm trù thành
các nhóm có sự tương đồng nhất định. Khơng dừng lại ở đó, ngơn ngữ học tri nhận cịn
hướng đến mục đích chính hơn là miêu tả cấu trúc của ý niệm và thuyết giải tên gọi của
sự vật và đối tượng bằng những tên gọi đã được cố định trong hệ thống từ vựng của
ngôn ngữ, miêu tả ý tưởng, chứ khơng đơn thuần là miêu tả hình ảnh cảm tính của đối
tượng điển hình, đây chính là sự miêu tả điển dạng. Điển dạng được hiểu như là sự biểu

hiện bằng sơ đồ hạt nhân ý niệm của phạm trù.
1.2.2. Ẩn dụ tri nhận (conceptual metaphor)
Theo Lakoff và Johnson trong cơng trình Metaphors We Live By (Chúng ta sống
trong ẩn dụ), ẩn dụ tri nhận là quá trình nhận thức dựa trên kinh nghiệm, trong đó miền
đích được suy luận dựa trên miền nguồn. Miền đích thường là một khái niệm trừu tượng
như CUỘC SỐNG, trong khi đó, miền nguồn thường là một khái niệm cụ thể hơn, ví dụ
như NGÀY.”
Chúng ta cũng có thể hiểu “ẩn dụ tri nhận (conceptual metaphor) là một ẩn dụ
(hoặc so sánh tượng trưng) mà một ý niệm (hoặc phạm vi ý niệm) được hiểu thông qua
một khái niệm khác. Trong ngôn ngữ học tri nhận, phạm vi ý niệm mà chúng ta ánh xạ
lên môt phạm vi ý niệm khác được gọi là miền nguồn. Cịn phạm vi ý niệm được giải
thích theo cách trên là miền đích” (Dẫn theo Richard Nordquist) [58].
Trong Việt ngữ học, Trần Văn Cơ định nghĩa ẩn dụ tri nhận (conceptual metaphor)
là “một trong những hình thức ý niệm hóa, một q trình tri nhận biểu hiện và hình
thành những khái niệm mới và khơng có nó thì khơng thể nhận được tri thức mới” [3:39].


21

Như vậy, nhìn chung, ẩn dụ tri nhận là một ẩn dụ mà một ý niệm này được hiểu
thông qua một ý niệm khác cụ thể hơn. Có thể nói, đây là q trình cụ thể hóa những
khái niệm trừu tượng hoặc tương đối trừu tượng.
Khác với ẩn dụ tu từ là những ẩn dụ được các nhà văn, nhà thơ sáng tạo nhằm tu
sức cho từ thêm bóng bẩy, và được sử dụng trong phạm vi văn chương văn học; ẩn dụ
tri nhận là những ẩn dụ vốn có trong ngôn ngữ, được tạo lập một cách tự nhiên bởi cộng
đồng ngơn ngữ đó, được sử dụng rộng rãi trong cả ngôn ngữ đời sống lẫn ngôn ngữ văn
chương. Vì lẽ đó mà Lakoff và Johnson nói rằng “Metaphors We Live By” (Chúng ta
sống trong ẩn dụ). Ẩn dụ khơng cịn là thành quả sáng tạo của một cá nhân, không chỉ
nằm trong văn học mà chúng vốn luôn tồn tại xung quanh chúng ta. Chúng tồn tại một
cách gần gũi, tự nhiên trong đời sống ngôn ngữ và vì thế nếu khơng chú ý, khơng quan

tâm thì sẽ khó nhận ra, khó ý thức được sự có mặt của chúng.
Với tần số và mật độ xuất hiện cao cùng phạm vi hoạt động đa dạng trong mọi
phong cách ngôn ngữ từ phong cách ngôn ngữ đời sống đến phong cách ngôn ngữ văn
chương, ẩn dụ tri nhận cho ta thấy sự tồn tại vô cùng mạnh mẽ và là phạm trù phổ quát
của mọi ngôn ngữ.
Ẩn dụ tri nhận luôn được thể hiện bằng một mệnh đề, câu, phát ngơn và biểu thị
một phán đốn trọn vẹn. Trong khi đó, ẩn dụ tu từ khơng thể hiện một phán đốn mà
chuyển tải một ý nghĩa hàm ẩn thơng qua từ (vì mục đích tu sức cho từ). Vì vậy, muốn
quan sát và hiểu được ẩn dụ tri nhận, chúng ta không chỉ dừng lại ở việc xem xét, phân
tích một từ mà phải nhìn nhận, xem xét ẩn dụ tri nhận trong cả một mệnh đề, một câu.
Ẩn dụ tri nhận cho phép chúng ta giải thích từ cấu trúc ý niệm nguồn cụ thể hơn
tới miền đích trừu tượng hơn. Trong đó, miền nguồn là miền ý niệm mà từ đó mơ hình ý
niệm được rút ra. Cịn miền đích là miền đích là tính chất hoặc kinh nghiệm được mô tả
hoặc xác định bằng miền nguồn (dẫn theo Richard Nordquist) [60]. Miền nguồn thường
là những khái niệm cụ thể và miền đích thường là những khái niệm trừu tượng.
Trong ẩn dụ tri nhận, thuật ngữ miền đích và miền nguồn được giới thiệu bởi
George Lakoff và Mark Johnson trong Chúng ta sống trong ẩn dụ (Metaphors We Live
By, 1980). Tuy nhiên, trước đó, I.A. Richards (1936) đã sử dụng hai thuật ngữ nội dung
(tenors) và phương tiện (chuyển tải nội dung) (vehicle) tương đương với miền đích và
miền nguồn mà Lakoff và Johnson nói đến sau này. Song, Richard khơng nhấn mạnh
đến tính tương tác giữa nội dung (tenor) và phương tiện (vehicle. William P. Brown chỉ
ra rằng, thuật ngữ miền đích và miền nguồn khơng chỉ thừa nhận một số nội dung tương
đương giữa ẩn dụ và tham chiếu của nó mà nó cịn làm rõ hơn động lực xảy đến khi một
sự vật, hiện tượng nào đó liên quan đến ẩn dụ – một sự ánh xạ chồng chéo hoặc đơn lẻ
của một miền này lên một miền khác (dẫn theo Richard Nordquist) [64].
Alice Deignan (2005) cho rằng “ẩn dụ ý niệm là một liên kết giữa hai vùng ngữ
nghĩa, hoặc ý niệm” (dẫn theo Richard Noquist) [60].


22


Trong cơng trình Introducing Metaphor (2006), Knowles và Moon chú ý rằng ẩn
dụ ý niệm ngang hàng với hai vùng ý niệm. Ví dụ như trong TRANH LUẬN LÀ CUỘC
CHIẾN, khái niệm miền nguồn được sử dụng cho vùng ý niệm được ẩn dụ mơ tả là
CUỘC CHIẾN. Miền đích được sử dụng cho vùng ý niệm gắn với TRANH LUẬN trong
ẩn dụ.
“Ẩn dụ kết nối hai miền ý niệm: miền đích và miền nguồn. Trong đó q trình ẩn
dụ miền nguồn tương ứng với miền đích. Nói cách khác, có một sự ánh xạ (mappings)
hoặc phóng chiếu (projects) giữa miền nguồn và miền đích. Miền đích X được hiểu trên
sự biểu thị của miền nguồn Y” (András Kertész, Cognitive Semantics and Scientific
Knowledge. John Benjamins, 2004).
Ở đây, thuật ngữ ánh xạ (mappings) được dùng để chỉ những nét đặc trưng của
miền nguồn (ví dụ như Objects) được phóng chiếu lên một miền đích (ví dụ như Ideas)
(Lakoff). Tập hợp những ánh xạ thu được hợp thành các yếu tố của miền đích. Như vậy,
hiểu một ẩn dụ ý niệm tức là hiểu được hệ thống ánh xạ của một cặp miền nguồn – đích
nhất định. Chính sự ánh xạ này đã tạo nên ý nghĩa của ẩn dụ ngôn ngữ học tạo nên một
biểu thức ẩn dụ ý niệm (metaphorical expression) cụ thể.
Theo Lakoff, biểu thức ẩn dụ (metaphorical expression) được dùng để chỉ những
biểu thức ngôn ngữ (như một từ, ngữ, hoặc câu). Đây là sự biểu thực tế của sự ánh xạ
miền này lên miền kia (cross-domain mapping) (Lakoff)-comphacker).
Ví dụ: ẩn dụ ý niệm ARGUMENT IS WAR/ TRANH LUẬN LÀ CHIẾN TRANH
được biểu thị bằng những biểu thức ẩn dụ như sau:
1. Your claims are indefensible.
Những khẳng định của bạn là vô căn chứng cứ.
2. He attacked every weak point in my argument.
Anh ta tấn công vào từng điểm yếu trong lập luận của tôi.
3. His criticisms were right on target.
Lời phê phán của anh ta đã đánh trúng đích.
4. I demolished his argument.
Tơi đã đập tan luận chứng của anh ta.

5. I've never won an argument with him.
Tôi không bao giờ thắng anh ta trong tranh luận.
6. You disagree? Okay, shoot!
Anh không đồng ý ư? Thôi được, nổ súng đi!
7. If you use that strategy, he'll wipe you out.


×