Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Vu tru phong thi nghiem thien nhien vi dai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (685.35 KB, 33 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Vũ trụ phịng thí nghiệm thiên nhiên vĩ đại</b>


<b>Vietsciences-Gs Nguyễn Quang Riệu 10/03/05 </b>


1- Bầu trời tuổi thơ
2- Nghể thiên văn


3- Quá trình nghiên cứu khoa học


4- Bức xạ "synchrotron" phát ra từ các thiên hà
5- Nghiên cứu những bức xạ maser trong Vũ trụ
6- Tìm kiếm những phân tử hiếm có trong vũ trụ
7- Kỹ thuật hệ kính giao thoa


8- Những cơng trình nghiên cứu bằng kính vơ tuyến giao thoa
9- Quan sát bằng vệ tinh ISO


10- Triển vọng của ngành thiên văn thế giới
11- Thiên văn học tại Việt Nam


12- Cung khoa học và nhà chiếu hình vũ trụ tại thủ đơ
13- Tài liệu đã dẫn


14- Các tác phẩm phổ biến và giáo khoa


<b>1- Bầu trời tuổi thơ</b>


Hồi hãy còn là học sinh tiểu học Hải Phòng, thành phố cảng đỏ rực hoa phượng
trong những ngày hè, tôi thường được lên chơi trên đỉnh đồi có đài thiên văn Phủ
Liễn ở thị xã Kiến An. Tôi chỉ biết ở nơi đây, người ta hay nhìn lên trời để ngắm
trăng, ngắm sao. Rồi đến mùa thu năm 1946, sau khi thành phố cảng bắt đầu ở
trong cảnh khói lửa của cuộc kháng chiến trường kỳ, tơi lại cùng gia đình đi qua chân


đồi Phú Liễn, lên đường tới vùng Quảng Ninh tạm trú. Trong những năm ở nông thôn,
chúng tôi chỉ tập làm những công việc của nhà nông.


Vào một ngày xuân trước thềm thiên niên kỷ 3, cùng nhạc sĩ Văn Ký và bạn bè, tôi
lại trở về thăm vùng Quảng Ninh, nơi tôi đã từng sống trong thời niên thiếu, cách đây
nửa thế kỷ. Vừa dạo chơi ngắm cảnh sông, núi, tôi vừa kể lại những chuyện xưa. Tơi
cịn nhớ có con sơng Kinh Thầy màu hồng chở nặng phù sa, uốn quanh những dãy
núi đá cây cỏ mọc xanh rờn, xưa kia phong phú những chim thú. Hồi đó, cùng các
anh chị em và các bạn bè, chúng tôi sống những ngay vui vẻ, vô tư của tuổi thơ. Tôi
thường ngắm bầu trời ban đêm có những vì sao lóng lánh và <i>Dải Ngân Hà</i> mờ mờ
ảo ảo. Tôi không ngờ chỉ vài hôm sau buổi đi chơi, nhạc sĩ Văn Ký đã sáng tác một
bài hát đặt tên là <i>Bầu trời tuổi thơ</i>. Nhạc và lời thật là tuyệt tác, ca tụng cảnh thiên
nhiên và tả những kỷ niệm xa xưa mà tôi đã thuật lại. Điều cảm xúc nhất đối với tôi
là, nhân một buổi tôi thuyết trình tại đại giảng đường Đại Học Quốc Gia Hà Nội về
những thành tựu của ngành thiên văn hiện đại, nhạc sĩ Văn Ký cầm cây đàn ghi-ta
lên bục và tự trình bày lần đầu tiên bài <i>Bầu trời tuổi thơ</i>.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Hình vẽ <i>Cuội ngồi gốc cây đa</i> do Nguyễn Quang Riệu thực hiện


<b>2- Nghề thiên văn</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

những ấn tượng trước vẻ đẹp của thiên nhiên đã ngấm ngầm thúc đẩy tôi hâm mộ
ngành thiên văn, để chụp chân dung của những vì sao trong vũ trụ.


Từ thời xa xưa bầu trời vẫn là đối tượng hấp dẫn đối với con người. Có những gì đằng
sau nền trời đầy sao lấp lánh? Mặt trời, Mặt trăng và các tinh tú có ảnh hưởng gì đến
con người? Thiên văn học ngày nay liên quan đến nhiều lĩnh vực khoa học và kỹ
thuật. Vũ trụ là một phòng thí nghiệm thiên nhiên lý, hóa, sinh mà các nhà thiên
văn muốn tìm hiểu. Những sự kiện xảy ra trên bầu trời có thể có tác động đến môi
trường và đời sống nhân loại. Những vệ tinh và những trạm vũ trụ được phóng lên


không gian, không những để thám hiểm các thiên hà xa xơi, mà cịn để quan sát
hành tinh Trái đất quý báu của chúng ta. Trong tầng khí quyển có nhiều phản ứng
hóa học phức tạp diễn ra duới ánh sáng Mặt trời. Ngồi nitơ, oxy, khí carbonic và
hơi nước, cịn có một lớp khí ozon ở độ cao từ 12 đến 50 km. Tầng ozon này che chở
sinh vật vì ngăn chặn được bức xạ tử ngoại độc hại của Mặt trời. Những khí đủ loại
bốc từ mặt đất lên khơng trung có tác động đối với khí quyển và gây ra hiệu ứng
nhà kính.


Liệu chúng ta sống hồn tồn cơ độc trong Vũ trụ, hay cịn có những nền văn minh
khác ở bên ngồi Trái đất? Việc tìm kiếm các nền văn minh này rất phức tạp. Mục
tiêu đầu tiên là cần phát hiện những hành tinh ở bên ngoài Hệ Mặt trời và những
chất hóa học hữu cơ liên quan đến sự sống. Sinh vật chỉ có thể tồn tại trên những
hành tinh có điều kiện lý hóa thích hợp. Cho tới nay, các nhà thiên văn đã phát hiện
được hơn một trăm hành tinh lớn hơn cả hành tinh Mộc, hành tinh "Chúa tể" của Hệ
Mặt trời. Những hành tinh này là những đồng hành của một số sao trong Dải Ngân
Hà. Những kỹ thuật hiện đại dùng để che ánh sáng của ngôi sao đang được phát
triển để phát hiện loại hành tinh nhỏ bé như Trái đất. Nhờ quá trình tiến triển của
khoa học và kỹ thuật làm kính thiên văn lớn, "cánh cửa" của Vũ trụ đã được hé mở
để nhân loại ngó nhìn vào bầu trời bao la.


<b>3- Q trình nghiên cứu khoa học</b>


Tơi chỉ trình bày một số cơng trình mà tơi cho là những cột mốc trên chặng đường
nghiên cứu thiên văn học của tôi. Khởi đầu là một nhà thiên văn vô tuyến, tôi sử
dụng vào những năm đầu của thập niên 60, kính thiên văn của Pháp t ti Nanỗay,
cỏch Paris 180 km v phớa nam. Kớnh thiờn vn vụ tuyn Nanỗay thuc loi ln, có
kích thước 200 met trên 35 met, hoạt động trên lĩnh vực những bước sóng cm (từ 9
tới 21 cm)





</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Bức xạ synchrotron của thiên hà 3C 111 quan sát bởi Nguyễn Quang Riệu và Anders
Winnberg, sử dụng hệ giao thoa VLA gồm 27 ăngten của National Radio Astronomy
Observatory đặt tại bang New Mexico (Mỹ)


Mục tiêu của tôi là dùng kớnh vụ tuyn Nanỗay nghiờn cu bc xạ "synchrotron"
phát ra từ Ngân Hà và những thiên hà xa xơi. Các electron tương đối tính (=


relativistic electron: electron có tốc độ xấp xỉ tốc độ ánh sáng), bị bẫy trong từ
trường, tuy rất yếu (khoảng 10-5<sub> - 10</sub>-6<sub> gauss), của Ngân Hà và của những thiên hà </sub>


và phát ra bức xạ giống bức xạ phát hiện được trong những máy gia tốc
"synchrotron".


Tần số của bức xạ synchrotron là


<b> =16</b>



<b>x </b>


(nu) được đo bằng đơn vị MHz (Megahertz)


từ trường

H

bằng đơn vị µG (microgauss = 10-6<sub> gauss), </sub>


năng lượng

E

của electron bằng đơn vị Gev (Giga electron-volt) = 109<sub> ev). </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

10µG, thì phát ra bức xạ synchrotron trên tần số 1440 MHz (bước sóng ~21 cm)
Từ trường chi phối động lực của khí dựa trên sự khuếch tán electron trong môi
trường giữa các sao và đóng vai trị quan trọng trong q trình hình thành của
những ngôi sao. Dựa trên khuếch tán electron trong mơi trường có từ trường
khơng đồng đều, tơi làm những mơ hình lý thuyết để giải thích kết quả mà tơi đã
quan sát được. Tôi kết luận là bức xạ vô tuyến synchrotron của những thiên hà xuất


phát từ những vụ nổ trong nhân của thiên hà, phun ra electron có năng lượng cao.
Những electron tương đối tính mất dần năng lượng vì phát bức xạ synchrotron,
nhưng được thay thế bằng những luồng electron phun ra liên tục từ trung tâm thiên
hà, để duy trì nguồn bức xạ vơ tuyến [1]


Vụ nổ ngày 2 tháng 9 năm 1972 của thiên thể Cygnus-X3 trong chịm sao Thiên Nga
là dịp để chúng tơi dùng kỹ thuật thiên văn vô tuyến đo khoảng cách và tìm hiểu
thiên thể [2], [3] (xem chi tiết trong bài "Vụ nổ Cygnus-X3".) Đây cũng là chiến dịch
đầu tiên huy động cộng đồng các nhà thiên văn trên thế giới cùng quan sát một sự
kiện hiếm có, xảy ra đột xuất trong vũ trụ. Những kết quả quan sát của các nhà
thiên văn toàn cầu đã được đăng trong tạp chí khoa học Nature số đặc biệt, xuất
bản tháng 10 năm 1972. Vụ nổ Cygnus-X3 phun ra những đợt electron có năng
lượng cao và làm tăng cường độ của bức xạ synchrotron của thiên thể.


5<b>- Nghiên cứu những bức xạ Maser trong Vũ trụ</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Kính thiên văn vơ tuyến 100 met đường kính của Viện Max-Planck (Đức) đặt tại
Effelsberg gần thành phố Bonn


Năm 1973, tôi sang nghiên cứu tại viện Max-Planck (ở thành phố Bonn, hồi đó cịn là
thủ đơ của Cộng Hịa Liên Bang Đức). Trong hai năm cộng tác với những nhà khoa
học từ các nước khác tới, tôi sử dụng kính thiên văn vơ tuyến của viện Max-Planck,
đặt tại Effelsberg ở một vùng đồi núi, cách Bonn 40 km. Kính Effelsberg là loại kính
vơ tuyến cỡ lớn, 100 m đường kính, hoạt động trên những bước sóng centimet, có
khả năng quay như một radar khổng lồ để theo dõi trong hàng giờ, những thiên thể
chuyển động trên bầu trời. Do đó, kính Effelsberg thu được nhiều photon vô tuyến
phát ra từ các thiên hà xa xơi. Chúng tơi dùng kính Effelsberg và phát hiện được
một nguồn bức xạ maser của phân tử hydroxyle (OH), phát ra từ trung tâm thiên hà
Messier 82, cách Trái đất 10 triệu năm ánh sáng (Hình 1). Đây là lần đầu tiên một
bức xạ maser rất mạnh được phát hiện trên bầu trời Bắc Bán cầu, trong một thiên



hà khác, ở hẳn bên ngoài Thiên Hà
của chúng ta [7]


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>




<b>Hình 1:Phổ của phân tử OH phát ra bởi thiên hà Messier 82 trên tần số 1667</b>
<b>MHz (bước sóng 18 centimet). Bức xạ maser xuất hiện dưới dạng một đỉnh rất hẹp </b>
(phía bên trái) trong phổ. Trục tung là cường độ của bức xạ. Trục hoành là tần số,
thường được quy ra thành tốc độ xuyên tâm theo công thức Doppler


<b>v</b>

=

<b>c</b>

<sub></sub>



</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Những bức xạ maser xuất phát từ môi trường xung quanh những ngôi sao
cịn non, đang được hình thành và những ngơi sao đang hấp hối, hoặc đã


<b>Hình 2: </b>


<b>Hình bên trái (a): Thơng thuờng thì phân tử (biểu thị bằng những vòng tròn) </b>
nằm ở những mức năng lượng thấp. Số phân tử càng thưa thớt khi càng lên
những mức năng lượng cao.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

nổ tung. Môi trường này là nơi tập trung của khí và bụi. Bức xạ hồng
ngoại của sao và bụi kích thích các phân tử trong vỏ sao lên những mức
năng lượng cao. Sau đó, các phân tử lại rơi xuống mức năng lượng cơ
bản (thấp nhất). Một số phân tử đọng trên những mức năng lượng trung
gian, theo quy tắc chọn lọc của cơ học lượng tử (Hình 2). Đây là quá
trình "đảo ngược mật độ phân tử," những phân tử ở các năng lượng thấp
được "bơm" lên những mức năng lượng cao. Sự phân bố phân tử trên các


mức năng lượng không còn tuân theo định luật Boltzmann (theo định luật
này thì số phân tử ở những mức năng lượng cao ít hơn số phân tử ở
những mức năng lượng thấp) nên đám khí phân tử khơng ở trạng thái
"cân bằng nhiệt động" (thermodynamic equilibrium). Sau khi các phân tử
tập trung ở những mức trung gian rơi xuống những mức năng lượng
thấp hơn thì phát ra một bức xạ rất mạnh, bức xạ maser (Microwave
Amplification by Stimulated Emission of Radiation). Cơ chế "bơm" phân
tử lên những mức năng lượng cao cũng tương tự như cơ chế bơm laser
(Light Amplification by Stimulated Emission of Radiation) trong phịng thí
nghiệm. Những photon, chủ yếu là photon hồng ngoại phát ra bởi những
ngôi sao và những hạt bụi, hay sự va chạm giữa những phân tử và
hydrogen đều tham gia vào cơ chế bơm các phân tử. Những vạch maser
mạnh nhất phát ra từ những thiên thể là những vạch maser oxyd silic
(SiO), hơi nước (H2O), hydroxyle (OH) : (Bảng 1)


<b>2 atomes</b> <b>3 atomes</b>


<b>H2</b> <b>Hydrogène moléculaire</b> <b>C3</b> <b>Tricarbone</b>


<b>C2</b> <b>Carbone moléculaire</b> <b>H2O</b> <b>Eau</b>


<b>CH+</b> <b><sub>Ion méthylyne</sub></b> <b><sub>CCH</sub></b> <b><sub>Radical éthynyle</sub></b>


<b>CH</b> <b>Radical méthylyne (1)</b> <b>HCN</b> <b>Acide cyanhydrique</b>


<b>OH</b> <b>Radical hydroxyle</b> <b>HNC</b> <b>Acide isocyanique (isomère<sub>de HCN</sub></b>


<b>CO</b> <b>Monoxyde de carbone</b> <b>HCO</b> <b>Radical formyle</b>


<b>CN</b> <b>Radical cyano</b> <b>HCO+</b> <b><sub>Ion formyle</sub></b>



<b>CS</b> <b>Monosulfure de <sub>carbone</sub></b> <b>HOC+</b> <b>Ion isoformyle (isomère de</b>


<b>HCO+<sub>)</sub></b>


<b>NO</b> <b>Monoxyde d'azote</b> <b>N2H+</b> <b>Ion hydrure de diazonium</b>


<b>NS</b> <b>Monosulfure d'azote</b> <b>H2S</b> <b>Sulfure d'hydrogène</b>


<b>NH</b> <b>Hydrure d'azote</b> <b>HNO</b> <b>Hydrure de nitrosyle</b>


<b>SO</b> <b>Monoxyde de soufre</b> <b>OCS</b> <b>Oxysulfure de carbone</b>


<b>SO+</b> <b>Ion monoxyde de </b>


<b>soufre</b> <b>SO2</b> <b>Anhydride sulfureux</b>


<b>SiO</b> <b>Monoxyde de silicium</b> <b>HCS+</b> <b><sub>Ion thioformylium</sub></b>


<b>SiS</b> <b>Monosulfure de siliciumSiC2</b> <b>Dicarbure de silicium</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<b>SiN</b> <b>Nitrure de silicium</b> <b>C2S</b> <b>Dicarbure de soufre</b>


<b>PN</b> <b>Nitrure de phosphore</b>


<b>PC</b> <b>Carbure de phosphore</b>


<b>HCl</b> <b>Chlorure d'hydrogène</b>


<b>NaCl</b> <b>Chlorure de sodium</b>



<b>KCl</b> <b>Chlorure de potassium</b>


<b>AlCl</b> <b>Chlorure d'aluminium</b>


<b>4 atomes</b> <b>5 atomes</b>


<b>NH3</b> <b>Ammoniac</b> <b>C5</b> <b>Pentacarbone</b>


<b>C2H2</b> <b>Acétylène</b> <b>CH4</b> <b>Méthane</b>


<b>H2CO</b> <b>Formaldéhyde</b> <b>CH2NH</b> <b>Méthylénimine</b>


<b>HNCO</b> <b>Acide isocyanique</b> <b>H2CCO</b> <b>Cétène</b>


<b>HOCO+</b> <b>Ion dioxyde de carbone </b>


<b>protoné</b> <b>NH2CN</b> <b>Cyanamide</b>


<b>H2CS</b> <b>Thioformaldéhyde</b> <b>C4H</b> <b>Radical <sub>butatadiynyle</sub></b>


<b>C3N</b> <b>Radical cyanoéthynyle</b> <b>HC3N</b> <b>Nitrile propiolique</b>


<b>HNCS</b> <b>Acide isothiocyanique</b> <b>HCCNC</b> <b>Isonitrile propiolique</b>


<b>C3H</b> <b>Propynylidyne</b> <b>SiH4</b> <b>Silane</b>


<b>C3O</b> <b>Monoxyde de tricarbone</b> <b>C3H2</b> <b>Cyclopropynylidène</b>


<b>C3S</b> <b>Sulfure de tricarbone</b> <b>CH2CN</b> <b>Radical cyanure de <sub>méthyle</sub></b>



<b>HCNH+</b> <b>Acide cyanhydrique </b>


<b>protoné</b> <b>SiC4</b> <b>Tétracarbure de <sub>silicium</sub></b>


<b>H3O+</b> <b>Ion hydroxonium</b>


<b>6 atomes</b> <b>7 atomes</b>


<b>CH3OH</b> <b>Méthanol</b> <b>CH3NH2</b> <b>Méthylamine</b>


<b>CH3CN</b> <b>Acétonitrile</b> <b>CH3CCH</b> <b>Méthylacétylène</b>


<b>NH2CHO</b> <b>Formamide</b> <b>CH3CHO</b> <b>Acétaldéhyde</b>


<b>CH3SH</b> <b>Méthylmercaptan</b> <b>CH2CHCN</b> <b>Acrylonitrile</b>


<b>C2H4</b> <b>Ethylène</b> <b>HC5N</b> <b>Cyanobutadiyne</b>


<b>C5H</b> <b>Radical pentadiynyle</b> <b>C6H</b> <b>Radical <sub>hexatriynyle</sub></b>


<b>HC2CHO</b> <b>Propynaldéhyde</b>


<b>C4H2</b> <b>Diacétylène</b>


<b>8 atomes</b> <b>9 atomes</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<b>CH3C3N</b> <b>Méthylcyanoacétylène</b> <b>CH3OCH3</b> <b>Ether <sub>diméthylique</sub></b>


<b>CH3C4H</b> <b>Méthyldiacétylène</b>



<b>CH3CH2CN</b> <b>Cyanure d'éthyle</b>


<b>HC7N</b> <b>Cyanohexatriyne</b>


<b>10 atomes</b> <b>11 atomes</b>


<b>CH3COCH3</b> <b>Acétone</b> <b>HC9N</b> <b>Cyanooctatétrayne</b>


<b>13 atomes</b>


<b>HC11N</b> <b>Cyanodécapentayne</b>


<b>Bảng 1 Một số phân tử phát hiện được trong dải Ngân Hà </b>


Những đám khí chứa những chất hóa học này có khả năng khuếch đại
tới 1014<sub> lần tín hiệu vơ tuyến sau khi truyền qua đám khí. Lý do là vì </sub>


cường độ của tín hiệu ra (output signal), I, tăng theo hàm mũ với hệ số
khuếch đại G:


I=I

0

exp(G)



I0là cường độ của tín hiệu vào (input signal). Hệ số G phụ thuộc vào


điều kiện lý hóa và đồng thời tỷ lệ với kích thước của đám khí phân tử.
Đám khí maser rộng hàng trăm triệu km nên tỉ số I/I0 rất lớn, trong khi


laser trong phịng thí nghiệm có kích thước rất hạn chế. Điều kiện lý hóa
trong mơi trường gần những ngơi sao cũng rất thích hợp để bơm phân tử.


Tuy nhiên, những phân tử này chỉ được bơm lên những mức năng lượng
quay (rotational excited state) nằm trong mức năng lượng dao động cơ
bản (vibrational ground state). Những mức năng lượng này tương đối
thấp nên những vạch maser chỉ phát ra trên bước sóng vơ tuyến centimet
và milimet. Quan sát bức xạ maser là một phương tiện để "chẩn đốn"
những điều kiện lý hóa như nhiệt độ, mật độ và thành phần vật liệu trong
ngôi sao và mơi trường xung quanh [8].


6<b>- Tìm kiếm những phân tử hiếm có trong Vũ trụ</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

oxyd carbon (CO), hydroxyle (HO), hơi nước (H2O), tới những phân tử


hữu cơ phức tạp như acid HCOOH, amin CH3NH2, rượu C2H5OH, aldehyd


CH3CHO v..v.. (Bảng 1). Sự hiện diện của những phân tử hữu cơ, nhất là


acid và amin, thúc đẩy các nhà thiên văn tìm kiếm acid amin trong Vũ
trụ. Acid amin là thành phần cơ bản của chất đạm cần thiết cho sự sống
và được cấu tạo bởi nhóm chức hóa học acid COOH và nhóm chức hóa
học NH2


Acid amin đơn giản nhất là glycin phân tử
cơ bản trong cơ thể sinh vật dùng để điều
chế các chất hữu cơ khác như chất đường
(glucose). Chúng tơi dùng kính thiên văn
vơ tuyến 30 met đường kính của Viện Thiên
văn Pháp-Đức IRAM (Institut de Radio
Astronomie Millimétrique) đặt trên đỉnh dãy
núi Sierra Nevada ở vùng Andalusia (Tây
Ban Nha), một trong những kính lớn hoạt


động trên những bước sóng milimet để
quan sát phân tử glycin. Tìm kiếm được acid amin trong Vũ trụ là một sự
kiện vô cùng quan trọng, không những về mặt khoa học mà cả về mặt
triết học, vì acid amin đóng vai trò trung tâm trong những vấn đề liên
quan đến nguồn gốc của sự sống.


Mục tiêu quan sát là tinh vân Lạp Hộ (Orion) và vùng trung tâm Ngân Hà,
hai nơi có tiếng là nơi của những ngơi sao trẻ và chứa nhiều phân tử.
Thiết bị gồm có kính vơ tuyến 30 met được trang bị máy thu đặt trong
máy điều lạnh, nhằm giảm tiếng ồn và những phổ kế hoạt động trên
những dải tần số trải dài từ 101000 đến 223000 MHz (bước sóng từ 3 đến
1,4 milimet). Chúng tơi phát hiện tổng cộng 334 vạch phổ trong đó có
157 vạch khơng nhận biết được là của chất hóa học nào. Về ngun tắc,
chúng tơi ước tính, nếu những vạch phổ glycin đủ mạnh phải xuất hiện
trong những dải tần số mà chúng tôi quan sát. Nhưng trên thực tế, các
vạch phổ glycin quá yếu nên bị che bởi những vạch phổ của những phân
tử khác (Hình 3) Chúng tơi có thể đưa ra kết luận là trong Ngân Hà, mật
độ của phân tử glycin phải thấp hơn ít nhất 10 tỉ lần mật độ của hydrogen


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<b>Hình 3: </b>Một miền phổ của tinh vân Lạp Hộ quan sát bởi F. Combes, Nguyễn Quang
Riệu và G. Wlodarczak


Phân tử HC7N và HC9N là những phân tử nặ gọi là cyanopolyne, gồm có


những chuỗi carbon dài, tương đối hiếm trong Vũ trụ. Cơng thức hóa học
khai triển của các loại phân tử này có những liên kết ba (triple bond).
Chẳng hạn phân tử HC9N có cơng thức


<b>H</b>

<b>-</b>

<b>C C</b>

<b>-</b>

<b>C C</b>

<b>-</b>

<b>C C</b>

<b>-</b>

<b>C C</b>

<b>-</b>

<b>C</b>

<b>N </b>




và chỉ tồn tại trong những điều kiện lý hóa đặc biệt. Chúng tôi phát hiện
được những phân tử HC7N và HC9N trong một số sao và nghiên cứu môi


trường sản xuất ra những phân tử này [10], [11].


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

7<b>- Kỹ thuật hệ kính giao thoa</b>


Những bước sóng vơ tuyến (vt ) trải dài từ khoảng 1 mm tới khoảng 10m
nên lớn gấp hàng nghìn lần đến hàng chục triệu lần bước sóng khả kiến


(kk~0,6 µm). Để có độ phân giải /D (là bước sóng, D là đường kính của


kính) tương đương với độ phân giải của kính thiên văn dùng trong vùng
khả kiến, các nhà thiên văn vô tuyến phải dùng các ăngten có đường kính
lớn gấp vt/

kk

lần đướng kính của kính quang học hoạt động trên những
bước sóng khả kiến. Có nghĩa là nếu muốn đạt được độ phân giải cao
bằng độ phân giải của một kính thiên văn quang học có đường kính 1,5m,
kính thiên văn vơ tuyến hoạt động trên bước sóng = 1mm phải có đường
kính lớn bằng = 2500m ! Việc xây một ăngten lớn như thế tốn rất nhiều
kinh phí và khó thực hiện về mặt kỹ thuật. Kính vơ tuyến milimet lớn nhất
hiện nay chỉ có đường kính lớn tới 45m.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

có thể dài hàng chục, thậm chí hàng nghìn kilomet. Các nhà thiên văn vô
tuyến xây những mạng ăngten đặt ở các châu lục khác nhau để đạt tới
độ phân giải cao (10-5<sub> giây cung). Độ phân giải này dùng để phân biệt chi </sub>


tiết trong những thiên hà xa xơi trong Vũ trụ. Vì lý do kỹ thuật, phép đo
giao thoa chưa được dùng trên bước sóng khả kiến. Các nhà thiên văn bắt
đầu xây những kính quang học để áp dụng phương pháp này.



8<b>- Những công trình nghiên cứu bằng kính vơ tuyến giao thoa</b>


Những phân tử ammoniac (NH3) và cyanoprolyne (HC7N) đóng vai trị


quan trọng trong q trình hóa học trong vỏ những ngôi sao. Những
phân tử NH3va chạm với nguyên tử và phân tử hydrogen để tạo ra trạng


thái cân bằng nhiệt, nên NH3 được coi là những nhiệt kế để đo nhiệt độ


trong môi trường xung quanh sao.


Hình 4: Vạch phân tử ammoniac NH3 và vạch phân tử HC7N phát hiện được trong vỏ


của một ngôi sao đang hấp hối, CRL 2688. Các nhà thiên văn Nguyễn Quang Riệu,
Graham và Bujarrabal sử dụng kính vơ tuyến Effelsberg để thực hiện cơng trình quan
sát này (1984)


Chúng tôi phát hiện được NH3 và HC7N trong những vỏ sao bằng kính vơ


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

để xác định sự phân bố các loại phân tử trong vỏ các ngôi sao. Hệ giao
thoa VLA gồm có 27 ăngten, mỗi ăngten có đường kính 25m. Khoảng
cách tối đa giữa những ăngten là 35km. Chúng tôi phát hiện được là phân
tử NH3 tập trung trong một vỏ bụi hình khun bao quanh ngơi sao, cịn


phân tử HC7N phân tán ra thành một vầng rộng [13]. Cho tới nay, các


nhà khoa học vẫn chưa hiểu tại sao những phân tử HC7N lại tồn tại ở


cách xa ngôi sao như thế.



</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

<b>Hình 5: Angten trong hệ kính vơ tuyến giao thoa BIMA của Đại học Berkeley </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Năm 1985 và 1986, tôi sang Đại học Berkeley (California) để cộng tác và
sử dụng hệ giao thoa BIMA (của Đại học Berkeley, Illinois và Maryland)
(Hình 5). Chúng tơi quan sát một số phân tử và tìm hiểu được cơ chế hóa
học cấu tạo ra những phân tử trong vỏ những ngôi sao [14], [15].


Những photon tử ngoại trong mơi trường kế cạnh ngơi sao, ion hóa một
số phân tử. Ion tổng hợp với những phân tử trung hòa để tạo ra những
phân tử hữu cơ phức tạp. Lần đầu tiên, chúng tôi quan sát thấy là hiện
tượng "quang ion hóa" (photoionization) tỏ ra rất quan trọng trong q
trình hóa học xung quanh những ngôi sao.


Năm 1987, tôi được mời sang Đại học Tokyo (Đông Đại) làm giáo sư thỉnh
giảng và Đài thiên văn vô tuyến Nobeyama (thuộc Đại học Tokyo) để
nghiên cứụ Đài Nobeyama có kính vơ tuyến lớn, 45m đường kính, hoạt
động trên những bước sóng milimet và có một hệ phổ kế rất hiện đạị Tôi
cộng tác với các nhà thiên văn Nhật Bản và phát hiện được những phân
tử, như hydrocarbon C2H, C4H và ion HCỢ Những kết quả này giúp


chúng tơi tìm hiểu thêm về q trình tiến hóa của các ngôi sao trong Dải
Ngân Hà [16]


9<b>- Quan sát bằng vệ tinh ISO</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>



<b>Hình 6:</b> Vệ tinh ISO quan sát trong vùng sóng hồng ngoại


Những ngôi sao loại Mặt trời đang ở tuổi trung niên và những thiên hà lấp


lánh đầy sao, đều phát ra ánh sáng. Cịn những ngơi sao già đã hao mòn
vật chất, cùng những sao sơ sinh và những thiên hà đang được hình
thành chủ yếu chỉ phát bức xạ hồng ngoại. Vì khí quyển Trái đất hấp thụ
bức xạ hồng ngoại, nên các nhà thiên văn phải đặt những kính thiên văn
trên vệ tinh, phóng ra hẳn ngồi khí quyển để quan sát. Chúng tơi làm
những mơ hình lý thuyết để tiên đoán cường độ của các vạch phổ, nhằm
đưa vào chương trình quan sát của vệ tinh ISO, những vạch đủ mạnh để
có thể phát hiện được và có lợi ích cho các mục tiêu nghiên cứu [17].
Chúng tơi có những buổi họp thường xun cùng những nhà thiên văn
nước ngoài để trao đổi kết quả.


Sau 10 năm chuẩn bị, vệ tinh ISO được phóng bằng một tên lửa Ariane
của ESA, ngày 17 tháng 11 năm 1995. Các máy điện tử thu tín hiệu của
các thiên thể phải được ướp lạnh trong một bình chứa helium lỏng để giữ
thiết bị ở nhiệt độ 4K, nhằm giảm đến mức tối thiểu tiếng ồn của máy thu
và tăng độ nhạy của kính. Vệ tinh ISO chứa đủ helium để hoạt động tới
ngày 8 tháng 4, năm 1998. Trong số những kết quả chúng tôi thu được,
đáng chú ý là trong vỏ một ngơi sao, W Hydra, có một "rừng" hàng trăm
vạch phổ của phân tử H2O mà các nhà thiên văn chưa phát hiện được từ


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

<b>Hình 7: Một "rừng" phổ hồng ngoại của phân tử H</b>2O phát hiện được trong vỏ ngôi


sao W Hydra. Những vạch phổ H2O được xác định bằng những mũi tên và những


con số tương ứng với những mức năng lượng quay của phân tử. Đây là một trong
những kết quả đầu tiên thu được bởi các nhà thiên văn, sử dụng các thiết bị đặt trên
vệ tinh hồng ngoại ISO (Infrared Space Observatory) [Barlow, Nguyễn Quang Riệu
và 41 cộng sự, 1996)


Bài báo công bố kết quả đầu tiên mang tên 43 tác giả, những nhà khoa


học đã tham gia vào cơng trình nghiên cứu này [18]. Những phân tử H2O


tồn tại trong vỏ những ngôi sao đang hấp hối và đang thổi ra những luồng
gió gọi là gió sao. Tốc độ gió sao lên tới hàng vạn kilomet/giờ. Nhiệt độ
trong vỏ sao phụ thuộc vào hai yếu tố, cơ chế hun nóng và cơ chế làm
nguội khí. Những photon tử ngoại và sự va chạm giữa những hạt bụi và
khí hun nóng khí. Những phân tử H2O phát ra nhiều vạch phổ nên là một


thành phần làm nguội khí. Sự phát hiện những vạch phổ hồng ngoại H2O


đã giúp các nhà thiên văn nghiên cứu được hiện tượng gió sao và q
trình cân bằng nhiệt trong môi trường xung quanh những ngôi sao.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

được giải thích bằng một mơ hình lý thuyết [19], [20] (Hình 8). ây là l n Đ ầ
đ u tiên, c ch b m b c x maser OH đ c phát hi n b ngầ ơ ế ơ ứ ạ ượ ệ ằ m t cu c thí nghi m thiên ộ ộ ệ
v n.ă


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

rơi xuống những mức năng lượng thấp, những phân tử phát ra bức xạ maser trên tần
số 1612 MHz, ở mức năng lượng quay cơ bản 23/2 (Sylvester, Barlow, Nguyễn
Quang Riệu và cộng sự, 1997)


Phổ kế đặt trên vệ tinh ISO còn được dùng để quan sát những vạch phổ
nguyên tử và phân tử phát ra bởi những thiên hà xa xơi. Ngồi thành
phần khí, các nhà thiên văn cịn tìm thấy những vụn đá q như hồng
ngọc, bám vào những hạt bụi.


10<b>- Triển vọng của ngành thiên văn thế giới::</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

Kính (có đường kính 8m) của hệ kính thiên văn VLT của cộng đống Âu Châu



Muốn thu được bức xạ của những thiên hà ở tận cùng Vũ trụ, các nhà
thiên văn phải xây những kính thiên văn lớn để thu thập thật nhiều
photon và để có độ phân giải cao. Những kính thiên văn quang học hiện
đại có đường kính từ 8 tới 10 met. Các nhà thiên văn có dự án xây những
hệ kính vơ tuyến giao thoa gồm hàng chục ăngten cách xa nhau hàng
chục tới hàng nghìn kilomet để đạt được độ phân giải cao. Trào lưu của
ngành thiên văn hiện đại là phát hiện được những loại thiên thể xa xơi
phát ra những bức xạ rất yếu, nhưng đóng vai trị quan trọng trong q
trình tiến hóa của Vũ trụ.


Một ngành mũi nhọn trong thiên văn học là sự tìm kiếm các hành tinh ở
bên ngồi Hệ Mặt trời. Sự phát hiện những hành tinh trong những hệ sao
rất phức tạp, bởi vì ánh sáng yếu ớt của hành tinh bị át bởi ánh sáng chói
lọi ủa ngơi sao đồng hành. Cũng như một cặp người nhảy múa quay và di
chuyển khi gần nhau, khi xa nhau, ngơi sao nhích đi nhích lại vì bị nhiễu
bởi hành tinh đồng hành. Dùng kỹ thuật đo lường công phu để phát hiện
được sự thay đổi tốc độ xuyên tâm của những ngôi sao, các nhà thiên
văn đã phát hiện được trên dưới một trăm hành tinh trong những hệ sao.
Tuy nhiên, những hành tinh được phát hiện từ trước tới nay là những
thiên thể ở thể khí, lớn ít nhất bằng hành tinh Mộc trong Hệ Mặt trời và
khơng có khả năng có sự sống. Các nhà thiên văn có đề án phóng ra
ngồi Trái đất một số kính thiên văn để đo sự chuyển động của những
ngôi sao với nhiều chi tiết hơn. Họ cũng định áp dụng cả phương thức
giao thoa để che ánh sáng của ngôi sao. Các nhà thiên văn hy vọng sẽ
phát hiện được những hành tinh đồng hành bé nhỏ có vỏ rắn như Trái đất
và có khả năng có sinh vật.


Những hành tinh trong Hệ Mặt trời cũng được thăm dò bằng những vệ
tinh. Hành tinh Hỏa có khả năng có biển bị phủ dưới một lớp băng. Nước
là yếu tố cần thiết cho đời sống của sinh vật, nên các nhà khoa học cho


rằng có thể có sự sống dưới dạng vi sinh vật trên hành tinh Hỏa. Các nhà
sinh vật học và các nhà hóa học cộng tác với các nhà thiên văn học để
tìm hiểu nguồn gốc của sự sống trên Trái đất và có thể cả trên một số
hành tinh trong Hệ Mặt trời.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

xu hướng thiên về tơn giáo. Bởi vì trong Kinh thánh của đạo Thiên Chúa
có nói là thế giới mn lồi đều do một Đấng Thượng Đế tối cao tạo ra chỉ
một lần cho mãi mãi. Sự tranh luận sơi nổi trong giới khoa học là chuyện
bình thường. Tuy nhiên, những sự kiện và số liệu quan sát chứng minh
rằng thuyết Big Bang miêu tả được nhiều hiện tuợng xẩy ra trong Vũ trụ.
Thuyết Big Bang có phần đúng, tuy khơng giải thích được tất cả những
hiện tượng thiên nhiên quan sát thấy và cịn phải được cải tiến. Hầu như
tồn thể các nhà khoa học hiện nay chấp thuận thuyết Big Bang.


Ngay sau Big Bang, Vũ trụ bung ra thật nhanh trong một khoảnh khắc,
mà các nhà khoa học gọi là thời kỳ "lạm phát". Vài phút đồng hồ sau vụ
nổ Big Bang, những phản ứng hạt nhân được tiến hành để tổng hợp các
hạt nhân của hydrogen thành hạt nhân của những nguyên tử nhẹ nhất,
như helium. Mãi về sau, những nguyên tử nặng, như carbon và sắt, mới
được đièu chế trong lịng các ngơi sao.


Các nhà thiên văn sử dụng những kính thiên văn ngày càng lớn để quan
sát những thiên thể xa xôi và để thâm nhập sâu vào Vũ trụ. Họ lập ra
những mơ hình lý thuyết phức tạp để giải thích những kết quả quan sát
và suy đoán được những sự kiện xẩy ra trong Vũ trụ thời xa xưa và trong
tương lai. Thiên thể ở càng xa thì ánh sáng và tín hiệu vơ tuyến của
chúng càng phải mất nhiều thời gian mới truyền tới Trái đất. Nghĩa là ánh
sáng và tín hiệu của những thiên thể rất xa mà các nhà thiên văn quan
sát được hiện nay là những bức xạ phát ra từ hồi thiên thể này còn rất
trẻ. Đây là những thiên hà thế hệ đầu tiên không lâu sau vụ nổ Big Bang.


Quan sát sâu vào Vũ trụ tức là tìm hiểu được trạng thái của Vũ trụ ở giai
đoạn vừa mới được hình thành. Những sự kiện xẩy ra trong Vũ trụ ban
đầu giống như những sự kiện mà các nhà vật lý quan sát thấy trong
những máy gia tốc. Các nhà thiên văn cộng tác với các nhà vật lý để
cùng nhau tìm hiểu Vũ trụ. Nghiên cứu thế giới vi mô của những hạt cơ
bản cực nhỏ giúp các nhà khoa học khám phá được thế giới vĩ mô.
Một thành tựu khoa học quan trọng trong thế kỷ 20 vưa qua là sự phát
hiện ra "Bức xạ Vũ trụ", tàn dư của vụ nổ Big Bang tạo ra Vũ trụ. Tất cả
Vũ trụ cịn chìm đắm trong bức xạ di tích này. Bức xạ tàn dư của Vũ trụ
hiện nay là một "bức xạ vật đen" (black-body radiation). Các nhà thiên
văn đo được chính xác nhiệt độ của bức xạ Vũ trụ, chỉ thấp khoảng bằng
2,735 K. Năn 1992, họ dùng vệ tinh COBE và phát hiện ra những thăng
giáng nhiệt độ rất yếu, chỉ vào cỡ 3.10-5<sub> K. Sự thăng giáng này tương </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

nào đó, có tác động ngược lại với lực hút hấp dẫn và đẩy vật chất ra xa
nhau. Lực đẩy át hẳn lực hút hấp dẫn, làm Vũ trụ càng ngày càng dãn nở
nhanh. Những kết quả quan sát gợi lại ý của Einstein, khi ngay từ đầu thế
kỷ 20 ơng đã đưa vào phương trình một số hạng tương ứng với một lực
đẩy trong Vũ trụ. Sự tiến hóa của Vũ trụ phụ thuộc vào hai yếu tố, mật
độ của vật chất trong Vũ trụ thường được gọi là

và hằng số Vũ trụ

.


Tham số

càng lớn thì lực hấp dẫn càng mạnh. Hằng số

tương ứng với


một lực đẩy (tỷ lệ thuận với khoảng cách) có tác dụng ngược lại với lực
hút hấp dẫn (tỷ lệ nghịch với khoảng cách bình phương). Sự quan sát vào
các sao siêu mới ở biên giới tận cùng của Vũ trụ sẽ giúp các nhà khoa học
xác định

. Tuy nhiên, các nhà khoa học đang tranh luận để tim


hiểu bản chất của lực đẩy này.



11<b>- Thiên văn học tại Việt Nam</b>


Sự phát triển ngành khoa học thiên văn là một cơng trình lâu dài. Hiện
nay các nhà thiên văn coi vũ trụ như một phịng thí nghiệm, trong đó có
nhiều hiện tượng lý hóa, đơi khi rất độc đáo, tiến hành một cách tự nhiên.
Kính thiên văn là thiết bị thu tín hiệu được chế tạo bằng những kỹ thuật
hiện đại đòi hỏi nhiều kinh phí. Do đó ngành thiên văn hầu như chỉ được
phát triển ở những nước có nhiều khả năng về mặt kinh tế. Tuy nhiên,
nước ta cần có những biện pháp phổ biến thiên văn học, để trong tương
lai chúng ta có một đội ngũ cán bộ tham gia với cộng đồng các nhà khoa
học trên thế giới trong cuộc chinh phục Vũ trụ. Phổ biến thiên văn học
cũng là một biện pháp bài trừ mê tín, và nâng cao trình độ của nhân dân.
Thiên văn học là một ngành liên quan đến nhiều lãnh vực như vật lý, hóa
học, sinh học, tốn học và kỹ thuật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

<b>Hình 9: </b>Kính vơ tuyến giao thoa với 2 angten (ở cận cảnh và vin cnh) lm ti
Trung tõn Vụ tuyn Nanỗay (thuc Đài Thiên văn Paris) dùng để quan sát nhật thực
toàn phần tại Phan Thiết, ngày 24 tháng 10 năm 1995. Sau nhật thực, kính được đặt
tại Đại học Sư phạm Hà nội để sinh viên thực tập.


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

<b>Hình 10:</b> Nhật thực quang học:<b> Mép gồ ghề của Mặt Trăng để ánh sáng của </b>
Mặt trời lọt qua, trơng như những mặt kim cương lóng lánh (chụp bởi Koutchmy tại
Phan Thiết nhân nhật thực ngày 24/10/1995


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

Quốc gia Hà Nội một hợp đồng để giới thiệu và giảng dạy cho các cán bộ
khoa học trong nước, môn thiên văn vật lý và những kỹ thuật xử lý hình
và điện tử. Trong những khóa học gần đây, chúng tôi đã đưa thêm vào
chưng trình mơn vật lý khí quyển và mơi trường (xem bài của Mégie và
của Leppelmeier trong cuốn sách này).



Nước ta ở vùng nhiệt đới có khí hậu nóng và ẩm, nên không thuận lợi cho
ngành thiên văn quang học. Bởi vì ánh sáng của các thiên thể khó truyền
qua khí quyển mờ đục. Bức xạ vơ tuyến trên những bước sóng centimet
và dài hơn, có khả năng truyền qua những đám mây ẩm ướt mà không bị
hấp thụ. Các nhà thiên văn Ấn Độ hiểu rõ tình huống này, nên đã xây một
hệ kính vơ tuyến giao thoa lớn để thám hiểm Vũ trụ. Sự quan sát bầu trời
trên những bước sóng vơ tuyến cũng có thể thích hợp với Việt Nam.


Hội Thiên văn Quốc tế cũng quan tâm đến sự phát triển thiên văn học tại
nước ta và tổ chức những hội thảo và lớp học về ngành này. Tháng 8 năm
2000, Hội Thiên văn Quốc tế đã tổ chức tại thành phố Manchester (nước
Anh) một hội thảo trong đó có những khóa họp đề nghị những biện pháp
để phát triển ngành thiên văn tại những nước chưa có đủ phương tiện kỹ
thuật. Tơi đã trình bày trong hội thảo phương pháp xây một loại kính vơ
tuyến đơn giản và khơng địi hỏi nhiều kinh phí [21]. Một kính loại này đã
được xây và sử dụng tại Việt Nam để quan sát nhật thực toàn phần năm
1995 (Hình 9; Hình 11)


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

che hồn tồn bởi Mặt trăng, từ 11 giờ 14 phút đến 11 giờ 6 phút, cường độ của bức
xạ vô tuyến của Mặt trời giảm đi rất nhiều


Chương trình quốc tế HOU (Hands-On Universe), có nghĩa là "Vũ trụ thực
hành", tạo điều kiện cho học sinh phổ thông và sinh viên đại học ở bất cứ
nước nào để sử dụng, qua Internet, một mạng kính thiên văn đặt ở các
nước trên thế giới. Mạng kính này hoạt động hồn toàn tự động để phục
vụ riêng cho mục tiêu giáo dục và phổ biến ngành thiên văn trên hoàn
cầu. Cụ thể là ta có thể vào Internet để tự điều khiển mạng kinh thiên
văn này, cách xa hàng nghìn kilomet, hoặc sử dụng số liệu và ảnh của
các thiên thể đã thu được bằng kính. Nước ta cũng có thể dùng những
kính thiên văn có sẵn để tham gia vào mạng HOU.



Để phổ biến rộng rãi những hiểu biết về Vũ trụ, tôi đã viết một số sách để
đọc, dễ hiểu và thích ứng với đối tượng trong nước. Tơi khơng trình bày
những đề tài q phức tạp, mà chính các nhà thiên văn chuyên ngành
cũng chưa hiểu rõ và cũng không đề cập đến những vấn đề triết học quá
cao siêu liên quan đến nguồn gốc của Vũ trụ. Những đề tài khoa học phức
tạp đã được giải thích trong một cuốn sách giáo trình thiên văn song ngữ
Việt-Anh, cấp đại học, xuất bản trong nước, mà tôi đã soạn cùng với một
số nhà thiên văn trong nước và nước ngoài. Những vấn đề liên quan đến
khí quyển, Trái đất và môi trường cũng đề cập trong những cuốn sách
phổ biến nói trên, cùng những biện pháp cụ thể để bảo vệ hành tinh của
chúng ta.


12<b>- Cung khoa học và nhà chiếu hình vũ trụ tại thủ đơ</b>


Đề án xây tại thủ đơ Hà Nội một khu giải trí phổ biến khoa học cho thiếu
nhi và cho cả người lớn, trong đó có nhà chiếu hình vũ trụ đang được tiến
hành thuận lợi. Nhà chiếu hình vũ trụ có vịm 14 met đường kính, tương
đương với kích thước của nhà chiếu hình vũ trụ tại Paris. Những hiện
tượng xảy ra trên bầu trời sẽ được tái tạo trên màn hình dưới vịm hình
bán cầu. Nhân viên điều khiển máy chỉ cần bấm nút là trên vịm hình sẽ
hiện ra bầu trời ở bất cứ thời điểm nào và ở bất cứ nơi nào trên toàn cầu.
Ngoài sự hấp dẫn của Vũ trụ, người đến xem cịn có thể trực tiếp tiếp cận
với những thí nghiệm khoa học đơn giản.


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

nhà chiếu vũ trụ. Cung khoa học sẽ là nơi giải trí trí tuệ của các em thiếu
nhi và nhân dân thủ đô. Tôi rất quan tâm tới đề án này và tham gia hoạt
động để điều ước mơ sớm trở thành hiện thực.


13<b>- Tài liệu đã dẫn</b>



<b>Tên các tạp chí khoa học </b>


 Ann. Astrophys . Annales d'Astrophysiquc (France)


 Nature Phys. Sci. = Nature Physical Science (United Kingdom)


 M.N.R.S.= Monthly Notices of the Royal Astronomical Society (United


Kingdom)


 A.&A. = Astronomy and Astrophysics (Europe)
 Ap.J. - Astrophysical Journal (USA)


[I] Nguyen Quang Rieu, Ann. Astrophys. 31, 401 (1968)


[2] R. Lauqué, J. Lequeux, Nguyen Quang Rieu, Nature Phys. Sc. 239, 119 (1972)
[3] R. Lauqué, J. Lequeux, Nguyen Quang Rieu, Nature Phys. Sc. 241, 94 (1973)
[4] Nguyen Quang Rieu, R. Fillit, M. Gheudin, A.&A. 14, 154 (1971)


[5] R. Fillit, M. Gheudm, Nguyen Quang Rieu, M. Paschenko, V, Slysh, A.&A. 21, 317
(1972)


[6] Nguyen Quang Rieu, A. Winnberg, J. Guibert, J.R.D. Lépine, L. E.. B.. Johansson,
W.M. Goss, A.&A. 46, 413 (!976)


(7] Nguyen Quang Rieu, U. Mebold, A. Winnberg, J. Guibert, R. Booth, A.&A. 52, 467
(1976)


[8] Nguyen Quang Rieu, V. Bujarrebal, H. Olofsson, L. E. B. Johansson, B.E. Turner,


Ap.J. 286, 276 (1984)


[9] F. Combes, Nguyen Quang Rieu, G. Wlodarczak. A.&A., 308, 618 (1996)
[10] Nguyen Quang Rieu, D, Graham» V. Bujarrabal, A.&A., 138, L5 (1984)
[II] Truong Bach, D. Graham, Nguyen Quang Rieu, A.&A., 277, 133 (1993)


[12] Nguyen Quang Rieu, C. Henkel, J.M. Jackson, R, Mauersberger, A.& A., 241, L33
(1991)


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

[14] J.H. Bieging, Nguyen Quang Rieu, Ap.J. 329, L107 (1988)
[15] Nguyen Quang Rieu» J.H. Bieging, Ap.J. 359, 131 (1990)


[16] Nguyen Quang Rieu. S. Deguchi, H. Izumiura, N. Kaifu, M. Ohishi, H, Suzuki, N.
Ukita, Ap.J. 330, 374 (1988)


(17] Shuji Deguchi, Nguyen Quang Rieu, Ap.J. 360, L27 (1990)


[18] M. J. Barlow, Nguyen Quang Rieu, Truong Bach, J. Cernicharo, E.
Gonzalez-Alfonso, X.-W. Liu, P. Cox, R. J. Sylvester, P.E. Clegg, M. J. Griffin, B. M. Swinyard, S. J.
Unger, J. P. Baluleau, E. Caux, M. Cohen, R. J. Cohen, R. J. Emery, J. Fischer, I.


Furniss, W. M. Glencross, M. A. Greenhouse, C. Gry, M. Joubert, T. Lim, D. Lorenzetti,
B. Nisini, A. Omont, R. Orfei, D. Péquignot, P. Saraceno, G. Serra, C.J. Skinner, H. A.
Smith, H. J.. Walker, C.. Armand, M. Burgdorf, D. Ewart, A. Di Glorgio, S. Molinari, M.
Price, S. Sidher, D. Texier, N. Trams, A.&A. 315, L241 (!996)


[19] R. J. Sylvester, M. J. Barlow, Nguyen Quang Rieu, X. W. Lin, C. J. Skinner, R. J.
Cohen, T. Lim, P. Cox, Truong Bach, H. A. Smith, H. J. Habing, M. N. R. A. S. 291, L42
(1997)



[20] Thai Quang Tung, Dinh van Trung, Nguyen Quang Rieu, V. Bujarrabal, T. Le
Bertre, E. Gérard, ÁA., 331, 317 (1998)


[21] Nguyen Quang Rieu, in "Astronomy for Developing Countries", Special Session of
the XXIV General Assembly of the International Astronomical Union, Edited by Alan.
H. Batten, 255 (2000).


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

1. Vũ trụ phòng thí nghiệm thiên nhiên vi đại (Nhà Xuất bản Giáo dục, 1995)
2. Lang thang trên dải Ngân hà (Nhà Xuất bản Văn hoá Thông tin, 1997)


3. Sông Ngân khi tỏ khi mờ – Les Reflets du Fleuve d’Argent (song ngữ Việt-Pháp, Nhà
Xuất bản Văn hoá Thông tin, 1998)


4. Bầu trời Tuổi thơ ( Nhà Xuất bản Giáo dục, 2002)


5. Thiên văn Vật lí – Astrophysics (Nhà Xuất bản Giáo dục, 2000), sách giáo khoa song
ngữ Việt-Anh cấp Đại học (Tác giả D. Wentzel, Ng.Q uang.Riệu, Ph. V.Trinh,
Ng.Đ.Noãn, Ng.Đ.Huân)


6. Những con đường đến với các vì sao (Nhà Xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, 2003), trình
bầy những bài giảng trong khóa học ông tổ chức năm 2002 tại Đại học Quốc gia Hà Nội
(cùng với nhiều tác giả)


7. Radioastronomy (tiếng Anh trong The Microwave Engineering Handbook, Volume 3,
Publisher: Chapman and Hall)


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33></div>

<!--links-->

×