Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Nhan cach Nguyen Cong Tru nhin tu quan diem banthe luan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.14 KB, 10 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Nhân cách Nguyễn Công Trứ, nhìn từ quan điểm bản thể luận
PGS.TS. Trần Nho Thìn


Khoa Văn học, ĐH KHXH & NV, Đại học Quốc gia Hà Nội




Nguyễn Công Trứ là mợt nhân vật lịch sử văn hóa khá đợc đáo so với truyền thống Nho gia Việt
Nam. Từ rất sớm, giới nghiên cứu đã nhận ra điều mà họ gọi là “tương phản”, “mâu thuẫn” ở Nguyễn
Công Trứ và cố gắng tìm cách mô tả, cắt nghĩa, đánh giá. Tuy nhiên, phương pháp nhận diện và đánh
giá này hiện vẫn còn là vấn đề phải tiếp tục xem xét, thảo luận.


Phần lớn các mô tả về nhân cách Nguyễn Công Trứ cho đến nay thường lấy các học thuyết triết
học- đạo đức Nho- Đạo- Phật làm hệ qui chiếu để phân tích, lý giải. Nhìn từ bất cứ một học thuyết nào,
ta cũng dễ thấy Nguyễn Công Trứ khơng hề là đệ tử th̀n thành. Kích thước của tư tưởng và tâm hồn
ơng rất khó đo đạc bằng các khn học thuyết có sẵn, với việc dẫn dụng các loại kinh điển. Trong khi
khơng ít tác giả văn học cố gắng tạo cho mình một khuôn mặt phù hợp với các khuôn mẫu kinh điển
thì với Nguyễn Công Trứ, tất cả các khuôn mẫu đều vừa rộng lại vừa hẹp. Dùng các khuôn khổ tư
tưởng triết học đạo đức có sẵn để nhận diện Ngũn ln khiến chúng ta ngạc nhiên, khó hiểu. Nhưng
nếu chúng ta cớ gắng sử dụng các nguồn tài liệu thực tế, ví dụ nguồn thông tin đến từ <i>Đại Nam thực</i>
<i>lục </i>để dựng lại chân dung nhân cách Ngũn Cơng Trứ, có thể kết quả lại khác đi.


Mặt khác, các mô tả xưa nay về Nguyễn Công Trứ thường chủ yếu dựa vào sáng tác Nôm của
ông, đặc biệt là thơ hát nói mà khơng có giới thuyết nào về kiểu tư liệu nghiên cứu này. Nhưng ta phải
lưu ý rằng, đối với người xưa, bộ phận sáng tác chữ Nôm và bợ phận sáng tác chữ Hán có giá trị bợc lộ
tư tưởng khác nhau. Những thể loại thơ ca chữ Nơm trong đó có hát nói, chỉ là phần văn chơi, hay là


<i>tục văn học, </i>khác với bộ phận thơ chữ Hán và thơ Đường luật, kể cả Đường luật Nơm, được coi như
phương tiện thể hiện tư tưởng có tính chính thức, quan phương. Đới với Ngũn Cơng Trứ, việc ơng
sáng tác chủ yếu bằng thể thơ hát nói có tính cách như mợt kiểu đới phó với cấm kỵ, nằm ngoài vùng
kiểm soát của tư tưởng đạo đức thẩm mĩ chính thớng. Do đó, phân tích các sáng tác thuộc mảng này


cần hết sức chú ý đến vai trị riêng của chúng. Nếu mợt sáng tác, như thơ Đường luật bằng chữ Hán
(hay Nôm) - cách thể hiện tư tưởng chính thớng, lại có tính cách tun chiến với tư tưởng đạo đức
thẩm mỹ Nho gia thì sáng tác ấy hẳn phải được đánh giá khác so với một sáng tác để chơi, tức là một
sáng tác đã được khoác mặt nạ “văn chơi” có điều kiện phát biểu tư tưởng phi chính thớng tḥn lợi
hơn (khơng ai trách cứ hay “chấp” những sáng tác chơi, sáng tác để cho ả đào hát hoặc đòi hỏi chúng
phải nghiêm trang, đạo mạo như một bài thơ Đường luật). Nhưng mặt khác, việc sử dụng mợt cách hệ
thớng, có ý thức các thể loại “văn chơi” lại cần được xem như là một chỉ báo quan trọng về tư tưởng
đạo đức- thẩm mỹ của tác giả.


*


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

hiểu được. “Xưa nay những kẻ anh hùng hào kiệt đã có cái tài “xuất chúng” thì thường hay có cái khí
“siêu nhân”. Cơng đâu ăn lẫn với gà, rồng đâu ở vùng nước cạn, đã là người hào kiệt thì quả không
chịu lẩn quất trong cái khn sáo người thường. Có lẽ cũng vì thế nên trong sự hành vi của cụ Nguyễn
Công Trứ, nhiều khi hình như lạ mắt trái tai, mà trong văn chương của cụ cũng lắm khi trái với cái tục
kiến của người đời. Tức như ở chùa mà có ả đầu đi theo, thân làm việc đời mà miệng lại thích ngâm
vịnh cái cảnh nhàn, khiến người đời sau, xem sử cụ, đọc văn cụ, không sao khám phá được cái tâm sự
của cụ” (tr. 493)(1)<sub>. </sub>


Nhà thơ Lưu Trọng Lư (1939) đã nêu rõ đặc điểm của Nguyễn Công Trứ như là người có khả năng
“điều hịa” những nhân tớ trái ngược. “Thật là mợt sự điều hịa kì diệu của những cái tương phản nhau:
sự điều hòa của mộng với thực, cái ngông cuồng của một kẻ lãng tử, với cái nề nếp của một nho sinh,
và ći cùng là sự điều hịa của thơ văn với Khổng giáo. Nguyễn Du muốn là bạn hoàn toàn của thơ
văn đã phải lảng Nho mà theo Phật… Ngũn Cơng Trứ vẫn ở trong cái phong khí khắc khổ của Nho
mà vẫn khoáng dật thích thảng như một đồ đệ của Lão - Trang. Tiên sinh vừa hành binh, trị nước, vừa
ngâm hoa vịnh nguyệt mà cái này không hại đến cái kia” (tr.494). Nhà thơ lãng mạn này cảm thấy
luyến tiếc một kiểu nhân cách sống như thế: “Cái thời buổi của những nhà nho tuy vẫn nhọc nhằn cặm
cụi với nhân sinh, nhưng cũng là kẻ “bớc giời”, phung phí mà khơng tiếc tay, những kho tàng của vũ
trụ, những kẻ biết sống mà cũng biết chơi, biết làm trọn nghĩa vụ và cũng biết vỗ cái đùi non mà dốc
hớp rượu cuối cùng (…). Nguyễn Công Trứ vào đời nghiêm trang như Đức Trọng Ni, ra đời hiền vui


như thầy Trang Tử. Không phải chỉ là một thi nhân đáng lưu truyền hậu thế, mà là một quan niệm về
nhân sinh đáng truyền bá ra giữa một cuộc đời Âu Tây chật vật” (tr.495). Dẫu sao thì Lưu Trọng Lư đã
dùng mô hình Nho gia và Lão Trang để đọc Nguyễn Công Trứ.


Vũ Đình Trác - qua một luận văn Tiến sĩ - chủ trương mở rộng tìm trong các mẫu hình ứng xử của triết
gia Trung Hoa những cội nguồn dẫn đến quan niệm sống khác thường của Nguyễn Công Trứ. Trong
luận án của ông, ta gặp nhiều học thuyết, nhiều tên tuổi các nhân vật văn hóa trong lịch sử Trung
Q́c, ví dụ: “mợt đàng ơng đóng vai trị mợt nhà Nho đạo mạo với đủ phần trí thức và minh triết,
đàng khác ông lại sống đầy đủ nếp sống của mợt con người tình cảm. Ơng khơng chủ trương khắc khổ
như Hàn Phi Tử, mà cũng không theo đường lới phóng tình hay duy tình như Dương Chu. Ông tự
phản tỉnh và đi vào đường lối của Tuân Tử hay đường lối của Trung Dung: phát dục cho trúng tiết”
(tr.789). Về đời sống tình cảm của Nguyễn Công Trứ, Vũ Đình Trác cũng cố gắng liên hệ với một câu
trong sách Trung Dung: “Nhưng đặc biệt là nó khiến ta gợi nhớ tới bầu khơng khí của sách Trung
Dung, khi Thánh nhân viết:“Quân tử chi đạo tạo đoan hồ phu phụ, cập kì chí giả sát hồ thiên địa” =
Đạo quân tử mở mối từ vợ chồng, hiểu tới cực đỉnh, sẽ thấu hợi cái lí của trời đất mn vật”. Ơng cũng
cớ gắng liên hệ với phạm trù Lễ của Nho gia: “Tơi cho rằng: Lễ chính là chỗ tương tham của Tình và
Lí, Ngũn Cơng Trứ đã giữ trọn Lễ vậy” (tr.795). Theo ông, bản chất của phong cách Nguyễn Công
Trứ là <i>chấp kỳ lưỡng đoan </i>như tinh thần của Trung Dung. Nói đơn giản, Ngũn Cơng Trứ theo triết
lý quân bình và triết lý toàn diện, không bao giờ quá khích, khơng cực đoan.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Dường như Trương Chính lại cho cách bình luận tương tự như trên là khơng thích hợp. Ơng u cầu
nên thấy được sự biến động thay đổi trong tư tưởng của Ngũn Cơng Trứ: “Có nhiều người nghiên
cứu thơ Nguyễn Công Trứ thấy nội dung khá phức tạp, vừa lạc quan tin tưởng, lại vừa bi quan thất
vọng, vừa ca tụng con người hoạt động, lại vừa cầu nhàn, vừa đề cao Nho giáo lại vừa ca tụng Đạo
giáo, vừa chê những người theo đạo Phật là “không quân thần phụ tử”, lại vừa ca tụng đạo Phật là trên
trời dưới đất không gì bằng, vừa tự khẳng định mình lại vừa tự phủ định mình, v.v... thì cho Nguyễn
Công Trứ là một “khối mâu thuẫn lớn”. Như vậy là tách bài ra mà xét, tách thơ và con người làm thơ.
Chứ nhìn bao quát, sẽ thấy ngay <i>đó là sự diễn biến từ cực nọ sang cực kia, một sự diễn biến có nguyên</i>
<i>nhânrõ ràng, và sự diễn biến ấy là một bằng chứng đanh thép về sự suy sụp của chế độ phong kiến </i>
<i>dưới triều Nguyễn bắt đầu từ nửa thế kỉ XIX, đến nửa cuối thế kỉ XIX thì khơng cịn cơ khơi phục lại </i>


<i>được nữa” </i>(tr.759)<i>.</i> Dẫu là xem xét tư tưởng Nguyễn Công Trứ trong quá trình vận động thì điểm
nhìn của Trương Chính vẫn là từ các hệ thớng tư tưởng triết học- đạo đức.


Phân tích văn bản thi văn Nguyễn Cơng Trứ, nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu có thể là người đầu tiên
đã lưu ý, khơng có căn cứ để gọi tên tư tưởng Nguyễn Công Trứ là Nho hay là Lão Trang: “Nguyễn
Công Trứ là nhà nho nhưng ơng khơng hoàn toàn nho. Ơng bàn đến xuất xử, hành tàng như nhà nho
nhưng ơng có nhiều đam mê, có nhiều dục vọng, ḿn có cái thú vui của người lập nên sự nghiệp
lừng lẫy mà cũng ḿn có cả những thú vui của người nhàn dật mê cảnh núi sơng giăng gió. Ơng
ḿn làm “trượng phu kềnh” chứ không phải “đại trượng phu”. Đối với ông, cái gì cũng chưa đủ.


<i>Hiếu tĩnh vị năng vong thuỷ thạch,</i>
<i>Duy nhàn phi thị học thần tiên.</i>


Ông muốn tự sắp xếp cuộc đời hành xong thì tàng, hành để tàng hưởng mọi vui thú. Ơng có nhiều ham
ḿn và sớng hết mình. Đó là chỗ ơng khơng thể chịu được sự kiềm chế, sự uốn nắn của Nho giáo.
Khát khao tự do làm ông gần Trang Tử. Nhưng thực ra Trang Tử cũng không thành la bàn cho ông đi
trong cuộc đời. Là Nho, ông không thể sống theo tài tình, buông thả hành lạc mà là Trang thì lại không
thể “vô danh”, “vô công”, “vô kỉ” sống nhàn tuân theo tự nhiên. Sống theo tài theo tình tức là theo cá
nhân chính là chỗ mới của ông, không hẳn là Nho mà cũng không hẳn là Trang. Nho hay Trang cũng
đều chưa nghĩ đến mợt con người như vậy có quyền tồn tại trong c̣c sớng” (tr.844). Nghĩa là rất khó
dùng mẫu hình nhân cách Nho hay Trang để định danh Nguyễn Công Trứ: nhà nghiên cứu định danh
cho mẫu hình nhân cách này là <i>nhà nho tài tử. </i>Nói cách khác, mẫu người tài tử này là một dạng thức
đặc biệt của con người cá nhân, được xác định bằng “tài” và “tình”. Trong mợt xã hợi địi hỏi con
người yên phận, “Nguyễn Công Trứ muốn phá khn khổ và sớng tuỳ thích. Ơng bước vào mảnh đất
của chủ nghĩa cá nhân và ông xây dựng sự tự do cho mình trên mảnh đất ấy” (tr.912).


Cũng một quan điểm tương tự, Trần Ngọc Vương khẳng định tính chất “đa trị” của nhân cách Ngũn
Cơng Trứ: “Xét cho cùng, đối với người tài tử, tư tưởng Lão Trang hay Phật giáo là những thế năng
sống và trong nhiều trường hợp, là những chặng đời chứ không phải là điểm hội tụ, nơi tìm đến cuối
cùng. Đã tự giải thoát để trở nên những nghệ sĩ đích thực, cho nên như đới với bất kì nghệ sĩ đích thực


nào khác ở mọi thời đại và mọi phương trời, không một triết thuyết nào thỏa mãn bản năng hướng
ngoại, cảm quan đời sống đa trị của họ” (tr.865).


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Nhưng cịn có một số cách cắt nghĩa khác nhau về sự độc đáo trong mô hình nhân cách Nguyễn Công
Trứ. Không dừng lại ở sự mô tả thuần túy, Trương Tửu (1943) đã vận dụng phép biện chứng duy vật
để cắt nghĩa những gì mà giới nghiên cứu từng hình dung là mâu thuẫn, là đặc điểm của anh hùng, hào
kiệt. Theo ông, con người là sản phẩm của hoàn cảnh lịch sử- xã hợi, nó vận đợng, biến đổi theo sự
biến đổi của lịch sử xã hội. Hành động và quan niệm sống của Nguyễn Công Trứ là sản phẩm của xã
hội. Quan niệm “hành lạc” và “tang bồng hồ thỉ” chính là bắt nguồn từ thái đợ chớng lại bọn phú hợ
giàu có khi ấy đã thành một tầng lớp xã hội do ngoại thương phát đạt. Chống lại bọn phú hộ tất dẫn
đến chống lại đồng tiền. Trương Tửu viết: “Quan niệm “cầm kì thi tửu” là một quan niệm tài tử…
Người phú hợ chỉ say có mợt thứ: sự làm việc, chỉ mê có mợt vật: <i>tiền bạc. </i>Hai quan niệm xung đột
nhau như nước với lửa. Cho nên, muốn chống phú hộ, Nguyễn Công Trứ đã dùng đến triết lí hành lạc
của phường tài tử. Ơng đã ca tụng rượu, đàn, thơ, cờ, giăng, gió. Hơn nữa, ông đã sống đầy đủ, sống
nghênh ngang triết lí tài tử, suốt một kiếp người” (tr.524-525). Sự sống bằng giác quan - một nhu cầu
của thời đại - đã được tài tử Nguyễn Công Trứ biểu hiện ra ở sự hành lạc mê man tế nhị. Mà trong các
cách hành lạc, chỉ có hát ả đào là kích thích đủ các thứ giác quan đang thèm sớng. Chỉ có lới chơi ấy là
thỏa mãn được con người một cách cầu kì, quý tộc. <i>Sống bằng giác quan, bằng tình dục, bằng các thứ</i>
<i>vật chất bác tạp, nhưng vẫn giữ được tính cách q tộc khơng lẫn với các đẳng cấp xã hội khác, đó là </i>
<i>tất cả nguyện vọng hành lạc của Nguyễn Công Trứ. Và chỉ có sự hát ả đào là giúp ơng đạt được ý </i>
<i>muốn ấy.</i>


Bởi vậy nên Ngũn Cơng Trứ thích ả đào, yêu cô đào, lấy cô đào, nhớ cô đào “<i>đối mặt hoa mà cầm, </i>
<i>mà kì, mà tửu, mà thi</i>”, mà tận hưởng cuộc sống của giác quan. Ông đã dám ngang nhiên bênh vực sự
hát ả đào” (tr.530). Trương Tửu cũng giải thích nguyên nhân của hoạt động xã hội của Nguyễn Công Trứ
bằng tinh thần chống bọn “phú hộ” này. Hành lạc chỉ là cách chớng tiêu cực, chính nhập thế mới là cách
chiến đấu chớng phú hợ tích cực. “Phú hợ ra làm quan là để kiếm lợi và đè nén. Còn nho sĩ (Nguyễn
Công Trứ) ra làm quan là để thực hiện mợt lí tưởng, thỏa mãn mợt chí khí” (tr.534). Từ đây dẫn đến chí
nam nhi. Đó là nguồn gốc của hai hành vi tưởng như mâu thuẫn là hành đạo và hành lạc. Từ đây, Trương
Tửu khái quát về kiểu nhân cách Ngũn Cơng Trứ: “Tính chất ấy là mợt tính chất hiếu thắng vậy.


Người có tính chất ấy là người nuôi một quan niệm cực đoan về nhân sinh: không sống thì thôi đã sống
phải “có danh với non sơng”, khơng thi thì thơi đã thi thì phải “<i>miếngkhoa giáp ăn xanh phường sĩ tử</i>”,
không lập sự nghiệp thì thôi, đã lập thì phải “<i>ba vạn anh hùng đè xuống dưới</i>”. Đó là mợt người lúc nào
cũng muốn làm hơn người, làm khác người, làm những cái lạ mà thiên hạ không ai làm được” (tr.618).
Trần Ngọc Vương cắt nghĩa chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ như là tia hồi quang - sự tiếp biến -
của “người anh hùng thời loạn” trong hoàn cảnh chế độ chuyên chế nhà Nguyễn.


Vậy là có hai cách cắt nghĩa Ngũn Cơng Trứ: một cách dựa vào các yếu tố Nho- Phật- Đạo và mợt
cách dựa vào hiện thực lịch sử chính trị, văn hóa, xã hợi. Nhưng trong mỗi hướng cắt nghĩa đó, lại có
những quan điểm khác nhau, đưa đến kết quả khác nhau. Một số nhà nghiên cứu ở miền Bắc trước đây
(trước 1975) trên lập trường giai cấp thường phê phán “chí nam nhi” của Ngũn Cơng Trứ là xa lạ
với quần chúng, là biểu hiện “anh hùng cá nhân”, đi ngược lại quyền lợi của nhân dân (ý nói ơng trấn
áp các c̣c “khởi nghĩa nơng dân”). Nhưng khơng ít người lại cho mẫu hình nhân cách của Nguyễn
Công Trứ là mẫu mực, đạo sống của ông là lý tưởng cho nhân cách Việt Nam.


Vậy nên cắt nghĩa như thế nào để tiệm cận sự thực lịch sử về nhân cách Nguyễn Công Trứ?
*


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

ở <i>Đại Nam thực lục</i> Nguyễn Công Trứ xuất hiện với 261 sự kiện. Nghiên cứu kỹ các sự kiện này,
cùng với sự khảo sát văn bản thơ văn Nguyễn Công Trứ có thể cho chúng ta những ánh sáng mới để lý
giải mô hình nhân cách Nguyễn Công Trứ.


Nguyễn Công Trứ xuất thân quan văn. <i>Đại Nam thực lục </i>cho ta biết Nguyễn Công Trứ rất giỏi về chữ
nghĩa. Chưa rõ vì sao ông đỗ đạt muộn, song trong kỳ thi năm 1819, ơng được Giám thí trường thi
Hoàng Kim Hoán đánh giá là người khoa mục xuất sắc. Đến tháng 5-1824 ông được bổ làm Thự Tư
nghiệp Quốc Tử Giám. Hai lần, từng làm Chánh chủ khảo trường thi (1840 - Hà Nội, 1847 - Nam
Định). Đó là những chức trách tḥc phạm vi của quan văn. Ông cũng từng được bổ nhiệm Hữu Thị
lang Bộ Lễ tháng 7-1827- một chức vụ của quan văn. Vậy có thể nghĩ, ơng cũng tḥc loại người học
giỏi, thiên kinh vạn quyển. Nhưng ông lại hầu như không thể hiện mình trong hoạt động của quan văn.
Ơng khơng thành danh trên đường khoa cử, cũng khơng trổ tài thơ văn như các nhà nho khác, sáng tác


để lại thi tập cho con cháu - nói theo nghĩa là sáng tác thi tập Hán văn, một loại sáng tác có tính chất
chính thớng, dẫu cho tiềm năng trong ơng đáng kính nể. Hoạt đợng xã hội nhiều mặt của ông, chưa kể
sáng tác văn thơ bằng chữ Nôm là chủ yếu, khiến chúng ta phải suy nghĩ:


1) các chức trách ông đảm nhiệm trong thời gian dài khơng có liên quan gì đến văn chương mà ơng đã
dùi mài, nhưng có ấn tượng mạnh nhất, thành công nhất lại thuộc ngạch võ quan: những nơi khó khăn
nhất, phức tạp nhất cả nước hồi ấy về quân sự đều thấy có mặt ông (vùng núi phía Bắc với các cuộc
nổi loạn, điển hình là của Nông Văn Vân; các cuộc xâm nhập quấy rối của hải tặc người Hoa ở vùng
biển Đơng Bắc; thổ phỉ ở Thanh Hóa; vùng biên giới Trấn Tây và Cămpuchia). Tuy có lần bị phạt hay
giáng cấp, nhưng tháng 5-1835, nhân đạo quân của ông phục giết được Nông Văn Vân, được vua cho
về Kinh ăn mừng, vua ban thưởng nghi thức trọng thể “ơm gới vua”, chính tay vua rót rượu ban cho và
dụ: “Nay nghĩ Trứ xuất thân từ quan văn, thế mà ngày ngày làm được việc quân, đến nay đã 3 năm,
khơng quản ngại khó nhọc, kể cũng đáng khen. Vậy chuẩn cho một người con được tập ấm làm Hiệu
uý vệ Cẩm y”. Tháng 7/1835, được giữ chức Thượng thư Bộ Binh! Đến năm 1838, Minh Mạng cho
dựng “bia võ công” để ghi công những người có nhiều cơng lao trong qn lữ nhất, 20 người trong đó
có Ngũn Cơng Trứ được đề nghị ghi tên vào bia này, con của họ được tập ấm.


2) Các hoạt động đa dạng trong lĩnh vực kinh tế: khai hoang, trị thủy (đê sông Hồng); đấu tranh với tệ
cường hào ở nông thôn; kiến nghị về quĩ xã thương (dự trữ gạo), về việc cấp tiền dưỡng liêm để chống
tham nhũng… cũng được Nguyễn Công Trứ thực hiện đầy tinh thần trách nhiệm, có hiệu quả, dù có
những kiến nghị khơng được vua và đình thần ủng hộ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i>người ta thành mồ cơi, vợ người ta thành gố bụa, giết cả tính mạng của người ta, hết cả gia tài của </i>
<i>người ta, mà việc không lộ, cho nên cứ cơng nhiên khơng kiêng sợ gì. Chỗ nào chúng cũng cùng nhau </i>
<i>anh chị, chuyên lợi làm giàu, dối cợt quan lại, để thoả lịng riêng. Có cơng điền cơng thổ thì chúng </i>
<i>thường thường bày việc th mướn làm béo mình, những dân nghèo cùng khơng kêu vào đâu được.</i>


Giáo hoá không thấm xuống dưới, đức trạch khơng đến khắp nơi, chưa hẳn là khơng bởi đó. <i>Thậm chí </i>
<i>cịn ẩn lậu đinh điền, ruộng đến nghìn mẫu không nộp thuế, chỉ đầy túi của hào cường, đinh đến trăm </i>
<i>suất không đăng sổ chỉ phục dịch riêng cho hào cường.</i> Nay xin trích lấy mợt vài người đưa ra pháp


luật và bãi lệ thuê mướn ruộng đất công” (chỗ in ngả do chúng tôi nhấn mạnh). Phải lăn lộn trong thực
tế nông thôn Việt Nam và có quan điểm thực tiễn cao mới thấy được những vấn đề như thế. Trong
kiến nghị trị thủy sông Hồng của Nguyễn Công Trứ đệ trình Minh Mạng tháng 10 - năm 1835, mấy
tháng sau khi ông cùng các đồng sự thanh toán được Nông Văn Vân cũng khẳng định điều đó. Ơng đã
tham vấn các bô lão là những người hiểu biết nhiều, nhận thấy chỉ có 2-3/10 sớ người được hỏi đồng ý
giữ đê, đa phần xin bỏ đê; từ đó, ơng đưa ra phương án bỏ đê và nạo vét lòng sông để nước đổ nhanh
ra biển (phương án này đã không được vua chấp nhận). Dễ thấy cách nhìn của ông rất khác với cung
cách quan sát cuộc sống trong thi ca nhà Nho thường thấy: motip đi qua một vùng quê, nhân quan sát
thấy một hiện tượng gì tḥc đời sớng xã hợi thì có cảm xúc và ao ước vẽ được bức tranh dâng lên vua
rõ là motip khá phổ biến trong thơ nhà Nho xưa, phản ánh một cung cách suy nghĩ sách vở, khá “quan
liêu”, hời hợt, lười biếng của họ, coi như thế đã là thể hiện đầy đủ bổn phận của nhà Nho thân dân.
Theo chúng tôi, tinh thần thực tiễn của Nguyễn Công Trứ bộc lộ một mặt ở chỗ ông đã không viết
những bài thơ bằng chữ Hán có tinh thần “thân dân” kiểu đó; mặt khác là ở các kiến nghị, các bản tấu
đậm đà hơi thở của thực tiễn c̣c sớng. Ơng hiểu biết sâu sắc cuộc sống và ưa hành động để giải
quyết các vấn nạn của thực tế hơn là than thở hay phiếm luận. Nhân đây chúng ta cũng nên đặt
Nguyễn Công Trứ vào bối cảnh văn hóa Nho giáo Việt Nam, nơi mà hầu như khơng thấy nhà Nho
Việt Nam nào có trước tác bàn về nông nghiệp hay thủy lợi vốn là những lĩnh vực thiết yếu đối với
một xã hội nông nghiệp như nước ta. Xa hơn nữa, ta nhớ đến câu chuyện Khổng Tử chê Phàn Trì là
tiểu nhân chỉ vì người học trò này xin thầy dạy cho nghề làm vườn, nghề làm ṛng(2)<sub>. Thật khó qui </sub>


Ngũn Cơng Trứ vào một truyền thống Nho giáo, dù là Việt Nho hay Nguyên Nho, Hán Nho, Minh
Nho, Tống Nho, Thanh Nho... Những diễn ngơn của ơng có thể mượn những từ ngữ nào đó của Nho
gia như <i>trung hiếu, quân thân, công nghiệp </i>hay chương trình kẻ sĩ <i>(Luận kẻ sĩ),</i> sau những từ ngữ đó
là mợt con người với phương pháp suy nghĩ đầy tính hiện thực, tự nhiên, trong mơi trường văn hóa
phương Đơng đầy tính giáo điều, kinh viện. Khơng ít diễn ngôn của ông thể hiện khát vọng lập công
danh như một sự thôi thúc từ bên trong, tự nhiên, khác với tinh thần Nho giáo:


<i>Chí những toan xẻ núi lấp sông</i>
<i>Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<i>xả chi tắc tàng</i> đầy cao ngạo của nhà Nho vớn cậy mình có đức. Tuy Minh Mạng có nghiêm khắc quá
mức với ơng trong nhiều lần trách phạt, giáng chức như thế (để thị uy ?), song nhìn chung, ông ta vẫn
biết đánh giá đúng tài năng của Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Công Trứ cũng không lấy việc bị trách
phạt làm điều. Những câu thơ dường như được ông viết từ khi chưa nhập thế hành đạo đã báo trước
phương cách xử thế của ông cho cả cuộc đời, không chút ảo tưởng về khả năng giữ nhân cách cao cả
khi phải làm quan dưới trướng của một ông hoàng đế “con trời” chuyên chế; chấp nhận dấn thân vì
“con trời” đồng nghĩa với chấp nhận cả vinh và nhục, đón nhận cả ân và uy:


<i>Đương cơn khổ nhục lắm người khinh,</i>
<i>Vốn hễ làm người nhục có vinh.</i>
<i>Vận đỏ ghe người cho muối cá</i>
<i>Hồi đen lắm kẻ xóc xương kình.</i>
<i>Đại nhân bao quản nhờichênh lệch,</i>
<i>Quân tử khôn từ chốn đá đanh.</i>
<i>Thơi hẵng đợi trời bình trị đã,</i>
<i>Gặp thời vỗ cánh sẽ ra danh.</i>


Những cử chỉ ân cần không phải đơn thuần chỉ là nghệ thuật lung lạc nhân tài mà phản ánh sự quí
trọng thực sự của nhà vua dành cho viên quan văn nhưng lại làm quan võ giỏi, quan kinh tế tài năng:
năm 1826, có tang mẹ, ông về để tang, được Minh Mạng ban tặng cho 100 lạng bạc; từng được đề
nghị ghi tên vào bia võ công và được bổ nhiệm Binh bộ Thượng thư…Một người như Nguyễn Công
Trứ được khắc họa qua <i>Đại Nam thực lục </i>như thế có đầy đủ quyền được tự hào, được nghĩ về mình
như là người tài, mợt điển hình của chí nam nhi. Có mợt sự tương ứng rất rõ giữa thơ viết về chí nam
nhi của ông với tiểu sử ông được dựng lại qua những dòng ghi chép của <i>Đại Nam thực lục. </i>Phán
đoán như Trương Tửu cho rằng ơng nêu cao chí nam nhi để “đánh” bọn phú hộ chỉ là suy diễn thiếu
căn cứ mặc dù sự biện luận của ông có vẻ duy vật biện chứng. Nhưng nếu là một người ảo tưởng về
nhân cách cao thượng mà phản ứng, mà lui về ẩn dật thì có lẽ Nguyễn chẳng bao giờ làm được
những công trạng lẫy lừng để cả vua phải khen, dân lập sinh từ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<i>Có khi từng gác cheo leo,</i>



<i> Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang. </i>


Có lẽ không phải đợi đọc Trang Tử thì quan chức, q tợc hay thương nhân thời Lê-Trịnh - Tây
Sơn - Ngũn mới có thú hưởng lạc. Những người tḥc các khuynh hướng chính trị- tư tưởng
khác nhau trong hàng thế kỷ đều gặp nhau tại chiếu hát của các ả đào, các ca nhi, kỹ nữ. Đó là
“phong khí” của thời đại. Đừng nghĩ là chỉ riêng Nguyễn Công Trứ mới hát, mới chơi. Tất nhiên,
cũng có mẫu người như Phạm Đình Hổ, lờ mờ khơng hiểu gì về câu ca bản đàn thơ văn Nôm và
hát ca trù, song mẫu người này không phổ biến.


Nguyễn Công Trứ viết bài <i>Luận kẻ sĩ</i>, chia c̣c đời của kẻ sĩ thành ba chặng chính với các hoạt
đợng tách rời nhau, khi cịn ở miền hương đảng thì tu dưỡng, gương mẫu về đạo lý; khi ra hành
đạo thì “đem quách cả sở tồn làm sở dụng” và lúc về ở ẩn, thì hưởng lạc, vui sớng. Nhưng đó thực
ra chỉ là mợt tun ngơn có tính chất sách vở chứ khơng phải là thực tế c̣c đời ơng như nó đã
diễn ra. Ông hưởng lạc ngay từ thời thanh niên, từ ngày làm chân kép hát và vẫn duy trì cách sống
ấy trong lúc hành đạo, cho đến tận “mái tóc đã phau phau”, ơng hoạt đợng xã hợi say mê và
thường xuyên nếm mùi trách phạt, thăng giáng nên khơng phải chỉ đến già mới thấm thía nhân
tình thế thái. Bị trách phạt, giáng chức nhưng không lấy thế làm điều mà tự ái, oán hận, bỏ dở giữa
chừng công việc - dẫu than thở chán chường trong các bài thơ, hát nói - mà vẫn hăng hái, tận tâm
làm việc cho đến tận cuối đời, ông xin ra trận đánh giặc năm 1858 - khi nghe tin Pháp gây hấn ở
Đà Nẵng. <i>Vinh/ nhục, hành/ tàng</i> nếu hiểu tách bạch thành những cặp phạm trù đới lập thì khơng
thích hợp với con người Nguyễn Công Trứ.


<i>Ra trường danh lợi vinh liền nhục</i>
<i>Vào cuộc trần ai khóc trước cười.</i>


Ơng khơng oán trách c̣c đời mà nhận thức đây mới chính là c̣c đời. Và ông cũng không ảo
tưởng về một thời đại Nghiêu Thuấn như nhiều nhà Nho khác. Trong hoàn cảnh chế đợ chun chế
đợc đoán, đấy chính là tư tưởng hiện thực tỉnh táo<i>. </i>Nhiều lần kiến nghị bị vua và đình thần bác bỏ,
khơng nản chí, cứ tiếp tục kiến nghị, nêu sáng kiến; bị cách chức, thậm chí có lúc bị nghị án tử hình


mà cứ ung dung hành đạo, cứ tiếp tục kiến nghị, nêu các bản tấu sớ (năm 1834, Bộ Hình từng đề
nghị kết án ông (và Lê Văn Đức) tội tử hình vì chậm trễ hành quân, vua châm chước cho lập công
chuộc tội: “<i>trước hãy </i>tước mũ áo, đoạt hết lương bổng - Lê Văn Đức bị giáng 4 cấp, Nguyễn Công
Trứ giáng 3 cấp, khiến họ thu công về sau để chuộc tội trước” rồi cuối năm lại khen và phục hồi 1
cấp, tháng 1/1835 thì cho phục cấp cũ do bắt được vợ Nông Văn Vân). Hệt như trong thơ, Nguyễn
Công Trứ than nhục vinh, trách thế thái nhân tình rồi lại vẫn hăm hở nhập c̣c với chí nam nhi.
Thật khác xa tâm lý cao đạo, dễ tổn thương của nhiều nhà Nho mà mẫu hình được ca ngợi chính là
Đào Tiềm, người lập tức treo ấn từ quan khi ḅc phải khom lưng đón quan trên. Thậm chí trước
Đào Tiềm, có mẫu nhà Nho như Bá Di, Thúc Tề và Khuất Nguyên đã lấy cái chết để bảo toàn nhân
cách độc lập, cao đạo ấy. Đây là hiện tượng lạ nếu ta nhìn từ góc đợ mợt mẫu hình nhân cách được
khái quát có hệ thống như Nho- Phật- Đạo. Dường như ông ý thức được bản chất của chế độ chuyên
chế, độc đoán và lý tưởng về việc kết hợp vừa làm quan, hành đạolại vừa bảo toàn nhân cách cao
thượng tuy rất đẹp song chỉ là một ảo tưởng<i>.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

điểm, và ngay cả khi về hưu, vẫn tiếp tục ngất ngưởng, tức là không trình diện mình trong cuộc đời
một cách trọng thể, trang nghiêm “xuất môn như kiến đại tân, sử dân như thừa đại tế”; ông thừa
nhận mình “khơng Phật khơng Tiên nhưng khác tục”. Ơng hát hò vui vẻ với các ả đào như rất nhiều
nhà nho khác, nhiều tướng lĩnh khác, chỉ có điều khác là nếu như họ im lặng không nói lời nào về
đề tài này thì ơng lại khoe tướng lên với mọi người, vì ông không quan niệm rằng kể mợt sự thật hị
hát, liếc mắt đưa tình với các cơ ả đào là chuyện có thể làm hoen ố nhân cách. Chơi là quyền sống
mà cũng là nghệ thuật:


<i>- Cuộc hành lạcbao nhiêu là lãi đấy, </i>
<i>Nếu không chơi thiệt ấy ai bù. </i>
<i>Nghề chơi cũng lắm công phu</i>
<i>- Chơi cho lịch mới là chơi,</i>


<i>Chơi cho đài các cho người biết tay.</i>
<i>Tài tình dễ mấy xưa nay.</i>



Cũng như thế, ông không coi chuyện “khoe” bảy mươi ba tuổi cưới vợ hầu là chuyện có thể hạ nhục
nhân cách<i>.</i>


Xét về con người bản thể, Ngũn Cơng Trứ là mợt con người tự nhiên. Ơng là con người theo
mẫu nhất nguyên luận (monism), kết hợp trong bản thân nhiều khả năng, nhiều thế lựa chọn. Ơng
học giỏi, đọc thơng các kinh sách thánh hiền nhưng lại nghĩ và sống không câu nệ theo kinh sách.
Ơng vào đời như mợt người tự nhiên, làm việc, hành đạo, chơi bời, <i>Hành tàng bất nhị kì quan</i>, với
tất cả suy nghĩ thành thực của con người tự nhiên đó, khơng hề quan tâm như thế nào là hiền nhân
quân tử, như thế nào là phàm nhân. Từ ngay chính trong bản thân mẫu hình nhân cách ông đã bao
hàm tất cả các khả năng, không thể tách biệt phàm/ thánh, thanh/tục, lễ/ tục, hành/ tàng trong khi văn
hóa Nho giáo chính thống đối lập các phạm trù này... Ngay thơ hát nói, với ơng, cũng là mợt hình
thức nghệ tḥt tổng hợp, vừa nói chí, vừa để các cơ đào cất lên tiếng hát hòa với tiếng đàn nhịp
phách - vì thế ông viết bằng chữ Nôm mà không viết bằng chữ Hán - các bản tấu sớ chữ Hán đã đảm
nhiệm quá đủ sứ mệnh chuyển tải quan điểm chính trị - xã hợi rồi. Nhưng thơ hát nói của ơng khác
với hát nói của mợt sớ nhà nho khác, vừa dùng để ca tụng thú ăn chơi, ca tụng thú <i>tài tình (khi đắc ý </i>
<i>mắt đi mày lại/ đủ thiên thiên thập thập thêm nồng/ nợ phong lưu ai nỡ chối không/ duyên tri ngộ </i>
<i>nên đeo đẳng mãi)</i>, vừa nói chí nam nhi (<i>đường trung hiếu chữ quân thân là gánh vác/ có trung </i>
<i>hiếu nên đứng trong trời đất/ không công danh thời nát với cỏ cây)</i>


___________


(1) Theo sách <i>Nguyễn Công Trứ trong dòng lịch sử </i>(Đoàn Tử Huyến chủ biên - Chương Thâu, Trần Nho Thìn,
Nguyễn Hoàng Diệu Thủy biên soạn). Nxb. Nghệ An, Trung tâm Văn hóa- Ngơn ngữ Đơng Tây, 2008.


(2) Mợt học trị của Khổng Tử là Phàn Trì xin được thầy dạy làm ruộng, làm vườn nhưng Khổng Tử đều trả
lời rằng mình không rành các nghề này. Khi anh học trị đi ra, Khổng Tử nói đại khái: anh này là tiểu nhân. Nếu
người trên chuộng Lễ thì dân đâu dám bất kính, trên cḥng nghĩa, dân đâu dám bất phục, trên cḥng tín, dân đâu
dám sai ngoa. Nếu người trên đủ lễ, nghĩa, tín thì dân bốn phương sẽ đến để phục dịch mình, đâu cần học cày cấy


(<i>Luận ngữ, Tử Lộ</i>). Một số nhà nghiên cứu cho rằng không thể coi đây là bằng chứng của việc nhà Nho coi nhẹ



</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

yếu của lịch sử phát triển nhân loại. Khổng Tử thiên về lao đợng trí óc, qn tử dụ ư đức, tiểu nhân dụ ư lợi”, “quân
tử mưu đạo bất mưu thực”. Do đó ơng địi hỏi học trị có cớng hiến lớn về lao đợng trí óc chứ khơng có ý coi rẻ lao
động chân tay như làm ruộng; c) Khổng Tử từng nói “sử dân dĩ thời”: chữ “thời” đây có ý coi trọng thời vụ nơng
nghiệp. (Xem 乐爱国. 也谈孔子反对“樊迟学稼” Nhạc Ái Quốc, Lại bàn về chuyện Khổng Tử phản đối Phàn Trì
học trồng lúa. http :// www . confucius 2000. com / confucius / ytkzfdfcxj . htm .)


</div>

<!--links-->
Tình hình quản trị nhân sự tại Công ty đầu tư phát triển Trung Anh, thực trạng và giải pháp.doc
  • 35
  • 954
  • 9
  • ×