Chúng tôi sinh ra và lớn lên không phải từ những năm tháng chiến tranh.Nhưng hơn nửa thế
kỷ trôi qua, giờ nhìn lại nền thơ ca kháng chiến,tôi không khỏi bồi hồi ,xúc động.Có một nền
thơ ca xuất hiện trong gian khổ mà vẫn không ít câu thơ có sức căng nở tâm hồn.Một nền
thơ phản ánh sự bùng nổ toàn diện sức mạnh tiềm tàng của dân tộc ,trước vận hội lịch sử
đã tích tụ qua nhiều thế kỷ.Đọc thơ ca Việt Nam giai đoạn 1945-1975,chúng ta thấy cuồn
cuộn niềm vui của hàng triệu ,hàng triệu người ra trận,thấy được những mất mát ,đau
thương ,những khát khao ,ước vọng chân thành…Ba mươi năm liên tục đấu tranh chống kẻ
thù cũng là khoảng thời gian văn học phát triển mạnh mẽ không ngừng dưới sự lãnh đạo
của Đảng.Văn học lấy đề tài chiến tranh,viết về chiến tranh cách mạng.Thơ cũng như văn
hết lòng ca ngợi người anh hùng,người lính, người mẹ, thanh niên xung phong…Tất cả hiện
lên trong tác phẩm với mọi tầng lớp ,lứa tuổi,dân tộc …y như thật trên đời.Và họ đẹp-cái
đẹp tiêu biểu cho cả thời đại.Cái đẹp ấy kết tinh đậm đà ở hình tượng anh bộ đội Cụ Hồ –
anh giải phóng quân.Bởi chính các anh là người anh hùng suốt hai cuộc kháng chiến trường
kỳ.
Chiến tranh với quy luật vốn có đã để lại những mẫu người không dễ gì lặp lại hôm
nay.Hình tượng anh bộ đôi trong thơ Việt Nam giai đoạn 1945-1975 nổi bật bởi những nét
đẹp về tâm hồn,tính cách,về phẩm chất và tư tưởng Cách mạng.
(1)Họ là những con người bình dị ,trẻ trung và rất giàu tình cảm.Sau những
ngày Tổng khởi nghĩa thắng lợi,thơ ca ngập tràn niềm hân hoan vui sướng.Với không khí
ngày hội Cách mạng ,Xuân Diệu từng viết:
Có một suối thơ chảy từ gần gũi
Ra xa xôi và lại đến gần quanh
Một suối thơ lá ngọt với hoa lành
Nói trong xóm và giỡn cười dưới phố
Người ta xúc động gọi tên sông ,tên núi bằng những tiếng rất đỗi trang
trọng ,tự hào:giang sơn nước Việt …Cách mạng đã tái sinh biết bao con người .Cảm hứng
ngợi ca và chất men lãng mạn say lòng người .Kháng chiến càng kéo dài ,tư tưởng lành
mạnh về cuộc chiến tranh nhân dân càng thấm sâu trong tâm người cầm bút.Trong thơ
kháng chiến chống Pháp,anh bộ đội là những vệ quốc quân ,những nông dân ngày đầu mặc
áo lính.Ở họ đậm đà duyên quê,mộc mạc ,chân tình.Các anh ra đi với tất cả quyết tâm và
lòng tự nguyện.Dẫu buổi đầu ấy ,như Hồng Nguyên có kể: Súng bắn chưa quen
Quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến
(Nhớ-Hồng Nguyên)
Có ai ngờ rằng ,bên trong cái vẻ chân chất, mộc mạc của người “áo vải chân
không”đó tiềm ẩn một sức mạnh ,chí khí anh hùng ,một niềm tin ,một tấm lòng luôn tươi
trẻ .Ra đi,người lính để lại nơi quê nhà những mối tình thân thuộc với mẹ già ,vợ trẻ ,giếng
nước ,gốc đa…Ta lặng nghe giọng thơ trầm lắng của Hồng Nguyên hay cũng là lời tâm sự
rất thực của người lính:
Ba năm rồi gửi lại quê hương
Mái lều tranh,tiếng mõ đêm trường
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya
(Nhớ)
Anh bô đôi trong thơ kháng chiến chống Pháp là anh vệ quốc quân hiền lành ,đáng
yêu mà như bài thơ “Cá nước”,Tố Hữu có nói:
Anh chiến sĩ hiền lành
Tì tay lên mũi súng
Chính các anh là người chủ động đánh giặc bằng tinh thần tự lực tự cường và ý chí
quyết tâm cao.Giặc Pháp được trang bị vũ khí hiện đại,còn anh lính của ta thì:
Lột sắt đường tàu
Rèn thêm dao kiếm
Aó vải chân không
Đi tìm giặc đánh (Nhớ)
Đến với thơ kháng chiến chống Mĩ, nổi bật là hình ảnh anh giải phóng quân-con
người đứng ở tầm cao của thời đại.Cái đẹp của các anh còn ở trái tim giàu tình cảm với quê
hương,đất nước,với mẹ già ,dân quân đồng chí… Trong sâu thẳm tâm hồn,những cảm nghĩ
trân trọng đầu tiên anh thường dành cho mẹ.Nhà thơ Thanh Thảo đã hạnh phúc khi nói về
mẹ ở trường ca “Những người đi tới biển”.Mẹ vừa là nguồn sức mạnh trực tiếp nuôi dưỡng
các con vừa biểu trưng cho hậu phương ,đất nước .Vì thế, không gì vui sướng bằng được
tâm sự cùng mẹ:
Cho con xin bắt đầu từ mẹ
Để nói về chúng con
Lớp tuổi hai mươi,ba mươi
Xanh màu áo lính
Đã từng sung sướng ,đã từng ngọt ngào
Được làm con của mẹ
Đuợc ra trận những năm đất nước mình khốc liệt
(Những người đi tới biển)
Tình đồng chí,đồng đội biểu hiện ngay trong quan hệ giao tiếp sinh hoạt thường
ngày và cả trong chiến đấu.Một người ngã xuống là hàng loạt người đứng lên tiếp bước trả
thù,muôn trái tim hoà chung một mối.Trong tâm hồn người lính, tình yêu nước là tình cảm
lớn nhất.Chưa bao giờ Tổ quốc được đặt ở tầm cao đến thế !Tổ quốc thúc giục bước chân
người ra đi.Vũ khí làm cho kẻ thù kinh hoàng chính là ý chí quyết tâm bảo vệ giang sơn
nước Việt, dù phải hi sinh đến hơi thở cuối cùng.Trên trang viết, các nhà thơ đã tạo nên
nhiều tương phản nghệ thuật :giữa cái nóng bỏng và dịu êm của thời chiến,giữa cái bình dị
và cao cả…Một vầng trăng dịu êm vượt lên quầng lửa chiến tranh,một chùm hoa lặng lẽ
trong hương thầm,một tiếng chim bay bổng hát vang …Tất cả trở thành khoảnh khắc bình
yên hiếm hoi nơi bom đạn đặc dày…Để rồi khát vọng hoà bình là mong ước chung của hết
thảy mọi người.
(2)Những người lính ấy rất đỗi anh dũng và giàu nghị lực. Có thể nói,tinh thần dũng
cảm sự hi sinh và ý chí nghị lực kiên cường của các anh đã soi sáng tâm hồn bao thế hệ.Tố
Hữu ngợi ca:
Hoan hô chiến sĩ Điên Biên
Chiến sĩ anh hùng
Đầu nung lửa sắt
Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn
(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên)
Dù gian khổ song người chiến sĩ Điện Biên vẫn đứng vững trên mặt trận chống
giặc.Con đường cách mạng như Tố Hữu nói :là con đường “máu đỏ thành hoa”.Viết về
những hi sinh gian khó của người lính,thơ chống Mĩ không rơi vào sự mềm yếu,tủi hờn mà
nỗi bật vẫn là phẩm chất kiên cường , anh dũng tuyệt vời.Trên trận tuyến,nhà thơ Xuân
Diệu ngợi ca dũng khí oai hùng của Phan Hành Sơn:
Hăm mốt tuổi căm hờn
Diệt địch gấp hai mươi lần số tuổi
Đánh trăm trận ,ba năm vào bộ đội
( Phan Hành Sơn )
Nhà thơ Lê Anh Xuân cũng dùng ngôn ngữ thi ca để tạc nên bức tượng anh giải
phóng quân hi sinh trên đường băng Tân Sơn Nhất.Tư thế bất khuất ,hùng dũng khi mà:
Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo đạn lửa cầu vồng
(Dáng đứng Việt N am)
Hình tượng thơ mang ý nghĩa biểu trưng cao:giữa cái chết hiên ngang của người
chiến sĩ với dáng đứng Việt Nam có mối liên hệ tương đồng sâu xa.Tác giả hoàn thiện bức
tranh về “ Anh” bằng bút pháp nghệ thuật nhân hoá,làm nổi rõ luồng sáng rực rỡ chói
loà.Đấy là lúc:
Bởi anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đàng hoàng nổ súng tấn công
Chính dáng đứng của anh đã trở thành dáng đứng của đất nước hôm nay : vời
vợi ,tuyệt trần.
Từ dáng đứng của anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân
Hình bóng Anh đi vào lịch sử đất nước.Viết về anh giải phóng quân,các nhà thơ
không miêu tả cụ thể ,chân thực những chi tiết từ thực tế riêng tư mà có xu hướng khái
quát hoá ,nâng lên tầm vóc cao ,đại diện cho cả dân tộc ,thời đại.Bởi thế ,trang viết đậm
khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.Trong văn xuôi cũng vậy ,khi viết về anh hùng
Núp ,Nguyên Ngọc khái quát thành “
Đất nước
đứng lên
”; viết về chị út Tịch ,Nguyễn Thi đặt
nhan đề là “
Người mẹ cầm súng”…
Trong chiến tranh ,sự sống và cái chết luôn đan cài bên nhau.Những tổn thất
đau thương được xoa dịu bởi lòng tin chiến thắng.Đọc trường ca “Bài ca chim Chơ rao” của
Thu Bồn,chúng ta xúc động trước những suy nghĩ và hành động rất anh hùng của tuổi trẻ
miền Nam.Lời thơ giàu tính hiện thực chiến đấu ,giàu chất lãng mạn.Thu Bồn đã dựng nên
bao con người trẻ tuổi,đẹp ,hào hùng và cao quý.Các anh vượt qua đòn tra tấn dã man của
kẻ thù,vượt qua giây phút yếu mềm để hát bài ca ca ngợi lòng dũng cảm.Lý tưởng Cách
mạng đã giúp người anh hùng thêm nghị lực ,sẳn sàng đón nhận hiểm nguy về mình để
giành phần sống cho dân tộc ,cho đất nước:
Tất cả thứ này tôi thử hết
Trong đấu tranh sống chết lẽ thường
Tôi cầm súng cứu nhà cứu nước
Giải phóng miền Nam tôi chỉ có một đường
Hầu hết các nhà thơ khi viết về anh bộ đội đều chú ý làm rạng rỡ phẩm chất anh
hùng ,lý tưởng cách mạng và sự hi sinh của những con người giàu nghị lực.Viết về các anh
cũng là thể hiện lòng biết ơn,tạc nên tượng đài nghệ thuật giá trị.
(3)Mặc dù chiến tranh gian khổ song người lính luôn mang trong mình tâm hồn
lạc quan,yêu đời và giữ vững niềm tin cách mạng.Ra đi,họ bất chấp gian nguy,một lòng
trung thành vì Tổ quốc quyết sinh;phơi phới niềm tin chiến thắng.Ngay cả khi đi giữa “ thành
phố trụi” Tố Hữu vẫn cất cao lời ca:
Từ trong đổ nát hôm nay
Ngày mai sẽ đến từng giây từng giờ
Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngược xuôi tàu chạy ,bốn bề lưới giăng…
(Việt Bắc)
Và ai ngờ rằng trong cảnh :
Súng bắn chưa quen
Quân sự mươi bài
Mà “lòng vẫn cười vui kháng chiến” (Nhớ-Hồng Nguyên)
Niềm tin cách mạng giúp các anh sống lạc quan ,yêu đời.Những giây phút bình
yên sau cuộc chiến,anh vệ quốc quân đã :
Kỳ hộ lưng nhau bên bờ cát trắng
Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa
(Nhớ –Hồng Nguyên)
Người lính đi vào cuộc chiến đấu với tất cả tinh thần chủ động ,tự tin ,một tâm hồn
thanh thản ,trẻ trung .Phạm Tiến Duật có viết:
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa ,phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
(Tiểu đội xe không kính)
Đọc những trang thơ kháng chiến giai đoạn 1945-1975,chúng ta hiểu thêm cách
nhìn ,cách cảm, cách nghĩ của con người sống trong chiến tranh ác liệt.Đồng thời ,ta thấy
được bản chất anh hùng cách mạng của người lính.
Thơ kháng chiến là tiếng đại bác gầm rung và cũng là tiếng chim ca hát bình
minh .Chất trữ tình và chất anh hùng ca hoà quyện trong hồn thơ, trong mỗi bài ,mỗi câu
,mỗi ý thơ.Nó bảo tồn được sức sống không chỉ vì đó là tiếng nói của thời đại lịch sử mà
còn là tiếng nói trái tim của những phong cách thơ riêng. Thơ giai đoạn này đã phát hiện tư
thế người lính đối diện với lịch sử,với chân trời tự nhiên luôn giãn nở.Các anh là linh hồn của
hai cuộc kháng chiến trường kỳ .Ở các anh có sự hội tụ đầy đủ phẩm chất ,tâm hồn và tính
cách ,hành động tiêu biểu cho những con người anh hùng dân tộc..Chiến tranh đã qua đi
nhưng ký ức về những con người làm nên lịch sử còn hằn sâu trong tâm trí mỗi người dân
Việt Nam.Lớp người của thế hệ hôm nay xin tiếp nối truyền thống cha ông để làm vẻ vang
non sông,để đất nước Việt Nam mãi là: “Đất Nước Nhân dân”:
Phân tích bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy
1. Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu
nước. Nguyễn Duy nổi tiếng với các bài thơ như : “Tre Việt Nam”, “Hơi ấm ổ rơm”, ... Hiện
nay, Nguyễn Duy vẫn tiếp tục sáng tác, ông viết đều những bài thơ tài hoa, đậm chất suy
tư.
“Ánh trăng” (1978) là một trong những bài thơ của Nguyễn Duy được nhiều người ưa thích
bởi tình cảm chân thành, sâu sắc, tứ thơ bất ngờ, mới lạ :
Hai khổ thơ đầu, tác giả nhắc đến những kỉ niệm đẹp :
“Hồi nhỏ sống với đồng.
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ”.
Trăng gắn bó với tác giả ngay từ thời thơ ấu. Trăng gắn với đồng ruộng, dòng sông, biển cả.
Dù ở đâu, đi đâu trăng cũng gắn bó với người. Nhưng phải đến khi ở rừng nghĩa là lúc tác
giả sống trên tuyến đường Trường Sơn xa gia đình, quê hương vầng trăng mới trở thành “tri
kỉ”. Trăng với tác giả là đôi bạn không thể thiếu nhau. Trăng chia ngọt, sẻ bùi, trăng đồng
cam cộng khổ.
Tác giả khái quát vẻ đẹp của trăng, khẳng định tình yêu thương quí trọng của mình với
trăng :
“Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa”.
Trăng có vẻ đẹp vô cùng bình dị, một vẻ đẹp không cần trang sức, đẹp một cách vô tư, hồn
nhiên. Trăng tượng trưng cho vẻ đẹp hồn nhiên nên trăng hoà vào thiên nhiên, hoà vào cây
cỏ. “Vầng trăng tình nghĩa”, bởi trăng từng chia ngọt, sẻ bùi, đồng cam cộng khổ, bởi trăng
là người bạn, tri âm, tri kỉ.
Ấy mà có những lúc tác giả tự thú nhận là mình đã lãng quên cái “vầng trăng tình nghĩa”
ấy :
“Từ hồi về thành phố
Quen ánh điện, cửa gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường”.
Trước đây, tác giả sống với sông, với bể, với rừng bây giờ môi trường đã thay đổi. Từ hồi về
thành phố đời sống cũng thay đổi theo :“quen ánh điện, cửa gương”. “Ánh điện”, “cửa
gương” tượng trưng cho cuộc sống sung túc, đầy đủ sang trọng ... dần dần “cái vầng trăng
tình nghĩa” ngày nào bị lãng quên. “Vầng trăng” ở đây tượng trưng cho những tháng năm
gian khổ, đó là tình bạn, tình đồng chí được hình thành từ những tháng năm ấy. Trăng bây
giờ thành “người dưng”... Con người ta thường hay đổi thay như vậy. Bởi thế đời vẫn
thường nhắc nhau : “ngọt bùi nhớ lúc đắng cay”. Ở thành phố vì quen với “ánh điện, cửa
gương” quen với cuộc sống đầy đủ tiện nghi nên người đã không thèm để ý đến “Vầng
trăng” - con người, mảnh đất từng là tri kỉ một thời.
Phải đến lúc toàn thành phố mất điện :
“Phòng buyn đinh tối om
Vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn”
“Vầng trăng” xuất hiện thật bất ngờ, khoảnh khắc ấy, phút giây ấy... người lính năm xưa
mới bàng hoàng trước vẻ đẹp kì diệu của vầng trăng. Bao nhiêu kỉ niệm xưa bỗng ùa về làm
"Con người này" cứ “rưng rưng” nước mắt.
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rưng rưng..."
"... Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình...”.
Trăng vẫn thủy chung mặc cho ai thay đổi, vô tình với trăng. Trăng bao dung và độ lượng
biết bao ! Tấm lòng bao dung độ lượng ấy “đủ cho ta giật mình” mặc dù trăng không một lời
trách cứ. Trăng tượng trưng cho vẻ đẹp bền vững, phẩm chất cao quí của nhân dân, trăng
tượng trưng cho vẻ đẹp bền vững của tình bạn, tình đồng đội trong những tháng năm
“không thể nào quên”. Tượng trưng cho "mảnh đất nuôi ta thành dũng sĩ.
“Ánh trăng” của Nguyễn Duy đã gây được nhiều xúc động đối với độc giả bởi cách diễn đạt
bình dị như lời tâm sự, lời tự thú, lời tự nhắc chân thành. Giọng thơ trầm tĩnh sâu lắng. Tứ
thơ bất ngờ mới lạ ,“Ánh trăng” còn mang ý nghĩa triết lí về sự thuỷ chung khiến cho người
đọc phải “giật mình” suy nghĩ, nhìn lại chính mình để sống đẹp hơn, nghĩa tình hơn.
1
. Trong đội ngũ cả dân tộc ra trận thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, có sự góp mặt của một
"binh chủng" đặc biệt: Thanh niên xung phong. Trên tuyến đường Trường Sơn huyền thoại
nối liền Bắc - Nam, lực lượng thanh niên xung phong có một vai trò hết sức quan trọng:
tham gia mở đường, phá bom, san lấp hố bom, bảo đảm cho con đường huyết mạch ấy luôn
được thông suốt cho những đoàn quân, đoàn xe ra trận. Viết về Trường Sơn, không thể
thiếu hình ảnh các cô gái thanh niên xung phong - bởi chiếm số đông trong lực lượng này là
nữ thanh niên. Văn học thời kỳ kháng chiến chống Mỹ đã ghi lại được nhiều hình ảnh đẹp,
chân thực, cao cả của các cô gái thanh niên xung phong, trong thơ Phạm Tiến Duật (Trường
Sơn Đông - Trường Sơn Tây; Gửi em, cô gái thanh niên xung phong), Lâm Thị Mỹ Dạ
(Khoảng trời - hố bom), Nguyễn Đình Thi (Lá đỏ), truyện ngắn của Đỗ Chu (Ráng đỏ), tiểu
thuyết của Đào Vũ (Con đường mòn ấy)... Truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh
Khuê góp thêm những chân dung đẹp, chân thực và sinh động vào loại hình tượng nhân vật
khá quen thuộc ấy của văn học một thời.
2. Truyện kể về cuộc sống và công việc thường ngày của một tổ trinh sát mặt đường gồm
ba cô gái thanh niên xung phong tại một trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn. Nhiệm
vụ của họ là quan sát địch ném bom, đo khối lượng đất đá phải san lấp do bom địch gây ra,
đánh dấu vị trí các trái bom chưa nổ và phá bom. Công việc của họ hết sức nguy hiểm vì
thường xuyên phải chạy trên cao điểm, giữa ban ngày và máy bay địch có thể ập đến bất cứ
lúc nào. Họ ở trong một cái hang, dưới chân cao điểm, tách xa đơn vị. Cuộc sống của ba cô
gái ở nơi trọng điểm giữa chiến trường dù khắc nghiệt và nguy hiểm nhưng vẫn có những
niềm vui hồn nhiên của tuổi trẻ, những giây phút thanh thản, mơ mộng và đặc biệt là rất
gắn bó, yêu thương nhau trong tình đồng đội dù mỗi người một cá tính.
Cũng như nhiều tác phẩm văn học thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, truyện Những ngôi sao xa
xôi đã làm nổi bật chủ nghĩa anh hùng và vẻ đẹp tâm hồn của thế hệ trẻ Việt Nam trong
hoàn cảnh chiến tranh. Nhưng điều gì làm nên sức hấp dẫn riêng của truyện ngắn này, và
cũng là đóng góp riêng của tác giả? Theo tôi, đó là nghệ thuật trần thuật và miêu tả tâm lý
nhân vật.
3. Truyện được trần thuật theo ngôi thứ nhất - nhân vật xưng tôi, Phương Định, cũng là một
nhân vật chính. Lựa chọn cách kể như vậy, mọi hình ảnh và sự kiện, con người ở nơi trọng
điểm ác liệt của chiến tranh sẽ được hiện lên qua cái nhìn và thái độ của chính người trong
cuộc. Đồng thời, cách kể ấy cũng tạo thuận lợi để tác giả miêu tả thế giới nội tâm nhân vật
qua những độc thoại nội tâm. Nhưng lựa chọn cách trần thuật này cũng là một thử thách
không dễ với tác giả, vì người viết phải thực sự am hiểu nhân vật của mình và có khả năng
hóa thân cao độ vào nhân vật xưng tôi trong truyện. Tác giả Lê Minh Khuê có thể làm được
điều đó, thậm chí đã nhập vai nhân vật Phương Định một cách thuần thục, bởi vì nhà văn đã
từng sống cuộc sống của những thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.
Sự lựa chọn vai kể như trên đi liền với một đặc điểm nữa trong nghệ thuật trần thuật của
truyện. Đó là mạch truyện được triển khai theo dòng tâm trạng của nhân vật kể chuyện,
không theo trình tự thời gian sự kiện, mà thường đan xen giữa hiện tại và hồi tưởng quá
khứ. Có thể coi, đó là kiểu cốt truyện tâm lý. Riêng ở phần cuối, truyện được kể tập trung
vào sự kiện một lần phá bom của tổ trinh sát, rồi Nho bị thương, và đoạn kết là cảnh các cô
gái hồn nhiên, háo hức trước một cơn mưa đá đến bất chợt giữa vùng trọng điểm.
Thống nhất với sự lựa chọn vai kể như trên, truyện đã có một thứ ngôn ngữ và giọng điệu
rất phù hợp với nhân vật. Truyện thường dùng các câu ngắn, loại câu kể xen với câu tả và
cách diễn đạt rất gần với khẩu ngữ. Ví dụ đây là lời nhân vật Phương Định kể về công việc
của các cô: Còn chúng tôi thì chạy trên cao điểm cả ban ngày. Mà ban ngày chạy trên cao
điểm không phải là chuyện chơi. Thần chết là một tay không thích đùa. Hắn ta lẩn trong
ruột những quả bom. Mối hiểm nguy và sự căng thẳng luôn phải đối mặt với cái chết đã
được các cô gái cảm nhận với sự bình tĩnh, không chút sợ hãi, qua cái giọng bình thản pha
một chút hóm hỉnh, nhưng vẫn rất tự nhiên, không hề lên gân, cao giọng. Đấy đúng là ngôn
ngữ của tuổi trẻ ở giữa chiến trường. Chúng ta nhớ đến chi tiết về cô thanh niên xung
phong trong thơ Phạm Tiến Duật: Em ở Thạch Kim sao lại đùa anh nói là Thạch Nhọn... Cái
miệng em ngoa cho chúng bạn cười giòn.
4. Truyện có ba nhân vật: Phương Định, Nho và Thao. Ba cô gái có nhiều nét giống nhau và
họ là một tập thể nhỏ rất gắn bó, yêu thương nhau. Nhưng mỗi nhân vật vẫn là một cá tính,
và đó chính là thành công của tác giả trong xây dựng nhân vật.
Ba cô gái từ những miền quê khác nhau đến với con đường Trường Sơn, tại một vùng trọng
điểm ác liệt và ở họ đều hình thành những phẩm chất chung của người chiến sĩ thanh niên
xung phong: Tinh thần trách nhiệm cao đối với nhiệm vụ, lòng dũng cảm không sợ hy sinh,
tình đồng đội gắn bó. Ở họ còn có những nét chung của các cô gái trẻ: dễ xúc cảm, nhiều
mơ ước, hay mơ mộng, dễ vui mà cũng dễ trầm tư. Họ cũng thích làm đẹp cho cuộc sống
của mình, ngay cả trong hoàn cảnh chiến trường (Nho thích thêu thùa, chị Thao chăm chép
bài hát, Định thích ngắm mình trong gương, ngồi bó gối mơ mộng và hát). Trong ba người
thì Nho và Phương Định trẻ hơn nên cũng hồn nhiên và giàu mơ mộng, còn chị Thao lớn tuổi
hơn nên những mơ ước và dự định về tương lai cũng thiết thực hơn. Người tổ trưởng ấy
chiến đấu rất dũng cảm, chỉ huy rất kiên cường nhưng lại rất sợ khi phải nhìn thấy máu và
còn sợ cả vắt nữa. Phương Định là nhân vật kể chuyện, đồng thời cũng là nhân vật trung
tâm của truyện. Ở nơi trọng điểm ác liệt, hàng ngày giáp mặt với hiểm nguy và cái chết,
chiến đấu dũng cảm, nhưng ở cô vẫn không mất đi sự hồn nhiên, nhạy cảm, tâm hồn trong
sáng và nhiều mơ mộng. Cũng như các cô gái mới lớn, Phương Định nhạy cảm và quan tâm
đến hình thức của mình. Cô tự đánh giá: Tôi là con gái Hà Nội. Nói một cách khiêm tốn, tôi
là một cô gái khá, hai bím tóc dày tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa
loa kèn. Còn mắt tôi thì các anh lái xe bảo: "Cô có cái nhìn sao mà xa xăm!". Cô biết mình
được nhiều người, nhất là các anh lính để ý và có thiện cảm. Điều đó làm cô thấy vui và cả
tự hào, nhưng chưa dành riêng tình cảm cho một ai. Nhạy cảm, nhưng cô lại không hay biểu
lộ tình cảm của mình, tỏ ra kín đáo giữa đám đông, tưởng như là kiêu kỳ. Phương Định là cô
gái hồn nhiên, hay mơ mộng và thích hát (Tôi mê hát. Thường cứ thuộc một điệu nhạc nào
đó rồi bịa ra lời mà hát. Lời tôi bịa lộn xộn mà ngớ ngẩn đến tôi cũng ngạc nhiên, đôi khi bò
ra mà cười một mình, Tôi thích nhiều bài. Những bài hành khúc bộ đội hay hát trên những
ngả đường mặt trận. Tôi thích dân ca quan họ mềm mại, dịu dàng. Thích Ca-chiu-sa của
Hồng quân Liên Xô. Thích ngồi bó gối mơ màng).
Phương Định là con gái Hà Nội vào chiến trường. Cô có một thời học sinh hồn nhiên, vô tư
bên người mẹ, một căn buồng nhỏ ở một đường phố yên tĩnh trong những ngày thanh bình
trước chiến tranh ở thành phố của mình. Những kỷ niệm ấy luôn sống lại trong cô ngay giữa
chiến trường dữ dội. Nó vừa là niềm khao khát, vừa làm dịu mát tâm hồn trong hoàn cảnh
căng thẳng, khốc liệt của chiến trường. (Để đỡ dài, văn bản truyện đưa vào sách giáo khoa
đã lược đi nhiều đoạn hồi tưởng của nhân vật).
Tâm lý nhân vật Phương Định được bộc lộ qua những lời kể, lời tự bạch một cách tự nhiên
như lời trò chuyện với bạn đọc - một kiểu độc thoại nội tâm đơn giản. Đây là cảm giác của
một người chạy trên cao điểm giữa ban ngày và giữa những loạt bom của máy bay địch. Có
ở đâu như thế này không: đất bốc khói, không khí bàng hoàng, máy bay đang ầm ì xa dần.
Thần kinh căng như chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu, chân chạy mà vẫn biết rằng khắp
chung quanh có nhiều quả bom chưa nổ. Có thể nổ bây giờ, có thể chốc nữa. Nhưng nhất
định sẽ nổ... Rồi khi xong việc, quay lại nhìn cảnh đoạn đường một lần nữa, thở phào, chạy
về hang.
Tâm lý nhân vật Phương Định trong một lần phá bom đã được miêu tả rất cụ thể, tinh tế
đến từng cảm giác, ý nghĩ dù chỉ thoáng qua trong giây lát. Mặc dù đã rất quen công việc
nguy hiểm này, thậm chí một ngày có thể phải phá tới năm quả bom, nhưng mỗi lần vẫn là
một thử thách với thần kinh cho đến từng cảm giác. Từ khung cảnh và không khí chứa đầy
sự căng thẳng đến cảm giác là các anh cao xạ ở trên kia đang dõi theo từng động tác, cử
chỉ của mình, để rồi lòng dũng cảm ở cô như được kích thích bởi sự tự trọng: Tôi đến gần
quả bom. Cảm thấy có ánh mắt các chiến sĩ dõi theo mình, tôi không sợ nữa. Tôi sẽ không
đi khom. Các anh ấy không thích kiểu đi khom khi có thể cứ đàng hoàng mà bước đi. Ở bên
quả bom, kề sát với cái chết im lìm và bất ngờ, từng cảm giác của con người như cũng trở
nên sắc nhọn hơn: Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai
người cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên
một tí! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành. Tiếp đó là cảm giác căng thẳng chờ đợi
tiếng nổ của quả bom.
Đoạn kết truyện cũng là một sáng tạo rất thành công của tác giả. Sau một trận chiến đấu
của ba cô gái để phá bốn quả bom giữa vùng trọng điểm, căng thẳng, hồi hộp và cả sự lo
lắng khi Nho bị sập hầm, bị thương, thì bất chợt một cơn mưa kéo đến, mà lại là một trận
mưa đá. Cơn mưa ấy làm dịu cả bầu không khí ngột ngạt ở bên ngoài hang và cũng làm dịu
mát tâm hồn ba côn gái sau những căng thẳng của một trận chiến đấu, nó đánh thức dậy sự
hồn nhiên, vô tư của tuổi trẻ và gợi về những kỷ niệm tuổi thơ với những trận mưa nơi
thành phố quê hương. Đến đây thì người đọc đã cảm nhận được trọn vẹn vẻ đẹp của Những
ngôi sao xa xôi - vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng và tâm hồn trong sáng của những cô gái
thanh niên xung phong ở nơi trọng điểm ác liệt trên đường Trường Sơn, cũng là tiêu biểu
cho vẻ đẹp của cả thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Những ngôi sao lấp lánh
một thứ ánh sáng không rực rỡ mà sáng trong, tưởng như xa mà lại rất gần.
KHÚC HÁT RU NHỮNG EM BÉ LỚN TRÊN LƯNG MẸ
__________Nguyeen Khoa Điềm_____________(sưu tầm)
Bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm ra đời ngay tại chiến
khu Trị – Thiên, trong những ngày kháng chiến chống Mĩ đang dần đến thắng lợi nhưng vẫn còn
vô cùng gian khổ. Nhà thơ đã tận mắt chứng kiến hình ảnh những bà mẹ Tà-ôi giã gạo nuôi bộ
đội đánh Mĩ, để cảm xúc từ hiện thực thăng hoa thành những vần thơ có sức lay động mãnh liệt.
Bài thơ “thể hiện tình yêu thương con gắn với lòng yêu nước, với tinh thần chiến đấu của
người mẹ miền tây Thừa Thiên bằng những khúc ru nhịp nhàng, mang giọng điệu ngọt ngào trìu
mến”.
Người mẹ trong thi ca từ sau cách mạng tháng Tám luôn là hình tượng trung tâm, có sự
phát triển về tầm vóc và chiều sâu tình cảm tư tưởng, hài hoà riêng chung. Từ những
người mẹ trong thơ Tố Hữu thời kì kháng chiến chống Pháp như bà Bầm, bà Bủ, bà mẹ
Việt Bắc đến người mẹ trong Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên, chúng ta đã từng được
cảm nhận sự gắn kết giữa người mẹ với cách mạng và kháng chiến. Đến thời kì kháng
chiến chống Mĩ, với tính chất quyết liệt gian khổ, chúng ta từng gặp những vẻ đẹp như
hình tượng người mẹ đào hầm giấu hàng sư đoàn dưới đất ở Đất quê ta mênh mông
của nhà thơ Dương Hương Ly. Có thể nói hình tượng người mẹ trong bài thơ của
Nguyễn Khoa Điềm là sự kế thừa tốt đẹp những đặc trưng người mẹ quê hương – người
mẹ chiến sĩ, tập trung những cảm xúc trong trẻo nhất của nhà thơ, gợi về vẻ đẹp tâm
hồn của đồng bào dân tộc theo kháng chiến. Không phải ngẫu nhiên khi phổ nhạc bài thơ
này, nhạc sĩ Trần Hoàn đã đặt lại tựa đề là Lời ru trên nương, bởi lẽ chính những lời
ru đã làm thành cấu tứ của bài thơ, dẫn dắt ta vào một thế giới mang đậm bản sắc
riêng của người Tà-ôi. Bài thơ như là minh chứng của tấm lòng đồng bào dân tộc một
lòng tin theo Đảng, , thương con thương bộ đội, thương yêu núi rừng nương rẫy làng bản,
thương đất nước. Tình thương thành điệp khúc xuyên suốt theo nhịp chày của mẹ :
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
Có lẽ đây là lời của nhà thơ, hàm chứa bao trìu mến dành cho chú bé Tà-ôi như muốn góp thêm
bao thương mến hoà cùng khúc ru của mẹ. Hình ảnh ấy khiến người đọc bồi hồi nhớ lại những
câu thơ viết về người mẹ Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp của nhà thơ Tố Hữu :
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Người mẹ chống Pháp và người mẹ chống Mĩ có những điểm tương đồng trong công việc.
Nhưng ở Nguyễn Khoa Điềm, hình ảnh thơ này không xuất phát từ nỗi nhớ mà được cất lên
ngay giữa hiện thực chống Mĩ. Nét đẹp của hình tượng được khơi lên từ tính chất công việc
“Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội”. Người mẹ được khắc hoạ trong từng chi tiết sống động nhất, nổi
bật với tứ thơ thật đẹp :
Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng.
Tưởng như trong động tác của mẹ cũng đã ngân lên nhịp điệu ru ngọt ngào và nhịp đưa em đều
đặn an bình như trên một cánh võng êm. Tác giả hoàn toàn không thi vị hoá mà bằng ngòi bút tả
thực giúp người đọc nhận ra : mồ hôi mẹ nóng hổi, vai mẹ gầy – bao vất vả như đọng cả trên
đôi vai mẹ. Mỗi khúc ru hiện lên hình ảnh mẹ trong nhiều tư thế cũng như công việc khác nhau :
giã gạo, tỉa bắp, chuyển lán, đạp rừng… như hoàn chỉnh bức chân dung lao động khoẻ khoắn
cũng như niềm hân hoan được hoà vào những công việc kháng chiến. Không những thế, qua
những hình ảnh này, ta còn hình dung một nhịp sống bình thản của những người dân và cán bộ
chiến sĩ ở chiến khu chống Mĩ. Mặc dù, trong thực tế, đây là nơi hứng chịu rất nhiều bom đạn kẻ
thù và luôn phải đương đầu với những cuộc hành quân lùng sục “tìm và diệt”, càn quét hòng xóa
sạch dấu tích của vùng chiến khu đầu mối Bắc – Nam này. Cuộc sống khó khăn thiếu thốn đòi
hỏi phải tự cấp tự túc, tăng gia sản xuất, bảo đảm nuôi quân đánh giặc. Hình ảnh người mẹ giã
gạo khiến ta lại liên tưởng đến những nhịp chày trong bài hát Tiếng chày trên sóc Bom Bo của cố
nhạc sĩ Xuân Hồng. Ở đâu cũng vậy, khi cách mạng được bao bọc, chăm chút bằng tất cả tình
cảm yêu nước của nhân dân, khi biết dựa vào dân thì không sức mạnh tàn bạo nào của kẻ thù có
thể khuất phục.
Gạo dành để nuôi quân, mẹ lại lên nương tỉa bắp, cùng với a-kay. Đàng sau hành động đó ẩn
chứa vẻ đẹp của sự hi sinh, nhường cơm sẻ áo cho người cách mạng. Lòng mẹ bao dung lại
được cảm nhận bằng bao tình cảm thương mến của nhà thơ :
Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ
Em ngủ ngoan em đừng làm mẹ mỏi
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ, con nằm trên lưng
Lời thơ thật dịu dàng như ru sâu thêm giấc ngủ cho em cu Tai, như muốn sẻ chia những vất vả
nhọc nhằn trong công việc của mẹ. Không gian mênh mang của vùng núi rừng tây Thừa Thiên
như mở ra với ánh mặt trời lan toả khắp núi đồi. Nổi bật giữa khung cảnh là người mẹ Tà-ôi với
công việc cần mẫn. Nhưng mẹ không hề đơn độc chính vì có mặt trời của mẹ – em cu Tai đang
ngon giấc. Với cách ví von đặc sắc này, nhà thơ đã tạo nên liên tưởng về mối quan hệ mật thiết
của con người với núi rừng, nương rẫy. Không có tình cảm gắn bó, không thể tạo được liên
tưởng thú vị giữa hạt bắp với con nằm trên lưng. Mặt trời không gợi ra cảm giác về độ nóng, độ
chói mà trở thành hình tượng biểu trưng cho nguồn sống mạnh mẽ. Mặt trời của bắp đem lại hạt
mẩy hạt chắc. Mặt trời của mẹ – em cu Tai là hạnh phúc, nguồn sống của mẹ. Những chú bé
Tà-ôi được tắm trong ánh sáng sẽ trở nên vạm vỡ săn chắc, ánh mặt trời hào phóng ban tặng cho
mẹ những đứa con khoẻ mạnh của núi rừng. Hình tượng sáng tạo của Nguyễn Khoa Điềm đã
đem lại những rung cảm thẩm mĩ đặc biệt.
Người đọc còn nhận ra tấm lòng mẹ mênh mông trong hình ảnh mẹ con không cách xa : Lưng
đưa nôi và tim hát thành lời . Lời tim ngân nga suốt ba đoạn thơ thành điệp khúc dạt dào thương
mến :
Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay…
Khởi nguồn của mọi hành động cao cả bắt đầu từ tình yêu bình dị nhất. Điểm xuất phát của lời
ru chính từ tấm lòng mẹ thương a-kay vô bờ bến này ! Còn tình thương nào bình dị, gần gũi mà
sâu sắc bằng tình mẹ thương con ? Âm vang lòng mẹ cất thành lời ru, thành lời thơ đầy xúc cảm
của Nguyễn Khoa Điềm, với những chiều liên tưởng gắn bó trực tiếp với từng công việc của mẹ,
bộc lộ vẻ đẹp rất giản dị mà cao cả. Mẹ thương a-kay ! – rất ngắn gọn nhưng cũng rất đầy đủ,
đẹp đẽ vẻ đẹp tâm hồn mẹ. Hơn thế nữa, đó là xuất phát điểm của những tình cảm thời đại :
mẹ thương bộ đội. Có ranh giới nào của tình thương rất đầm ấm ấy không ?
Sự sống của a-kay cũng là tương lai của buôn làng. Bởi thế cũng rất tự nhiên khi mẹ thương a-
kay, mẹ thương làng đói. Cuộc sống của người Tà-ôi những năm chống Mĩ còn bao cơ cực thiếu
thốn nhưng sức mạnh của tình thương sẽ giúp người mẹ vượt lên tất cả. Bàn tay mẹ cần mẫn
tỉa bắp, gieo mầm sự sống với niềm mong mỏi thật bình dị : hạt bắp lên đều. Núi rừng, làng buôn
và đứa con thân thương vô cùng với tâm hồn mẹ. Tình cảm yêu thương ấy còn thăng hoa trong
những ước mơ về sự sống buôn làng. Đẹp thay và cũng dạt dào thương mến là lời thơ : Con mơ
cho mẹ…hạt gạo trắng ngần, hạt bắp lên đều. Giấc mơ giản dị truyền sang em cu Tai còn chứa
đựng niềm mong ước về tương lai của con :
Mai sau con lớn vung chày lún sân
… Mai sau con lớn phát mười kalưi
Hình ảnh gắn với tương lai của con thật kì vĩ, như mang theo sức mạnh của các nhân vật sử thi
huyền thoại. Ước vọng về con làm nên sức mạnh, sự bền bỉ của mẹ. Đồng thời còn hội tụ cả sức
mạnh cộng đồng từ quá khứ đến hiện tại gắn với tinh thần cuộc chiến đấu lâu dài, vượt qua bao
sóng gió thử thách.
Cảm hứng của khúc ru cuối gắn liền với hiện thực khốc liệt và khẩn trương của cuộc kháng
chiến chống Mĩ, với nhịp sống chiến khu Trị – Thiên. Hình ảnh của mẹ trong đoạn thơ này có
một sự thay đổi, không phải trong một dáng chênh chao trong nhịp chày nghiêng, không lặng thầm
nhẫn nại gieo từng hạt giống mà rất dứt khoát mạnh mẽ :
Mẹ đi chuyển lán, mẹ đi đạp rừng
Dáng vẻ con người được tô đậm qua hai động từ “đi” gợi tư thế chủ động với những công việc
tiếp sức chiến đấu : chuyển lán, đạp rừng như hàm chứa ý thức tự hào của người Tà-ôi làm chủ
vùng núi rừng của ta. Con người trong tư thế đối mặt với kẻ thù, quyết tâm chiến đấu giữ đất
giữ rừng. Kẻ thù với dã tâm “đuổi ta phải rời con suối”, người Tà-ôi vẫn một dạ kiên trung !
Không chỉ có mẹ, mà anh trai cầm súng, chị gái cầm chông và em cu Tai cũng theo mẹ vào trận
cuối. Những câu thơ hừng hực tinh thần bất khuất của người dân tộc miền tây Thừa Thiên, đem
lại cảm hứng lạc quan của cuộc chiến đấu chống Mĩ. Sự trưởng thành của mỗi con người từ
nhận thức đến hành động đã được khẳng định bằng hai câu thơ thật khoẻ khoắn :
Từ trên lưng mẹ, em đến chiến trường
Từ trong đói khổ, em vào Trường Sơn
Tinh thần của bao thế hệ người Tà-ôi theo cách mạng đã truyền cả sang a-kay, dạt dào một niềm
tin, khẳng định dứt khoát con đường em đi sẽ hoà vào đội ngũ chiến đấu với ý chí quyết thắng.
Đó là cơ sở cho ước mơ thật đẹp :
Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn làm người Tự do
Trong tình cảm của người Tà-ôi cũng như của những đứa con miền Nam chiến đấu chống Mĩ,
Bác Hồ luôn là nguồn động viên, là biểu tượng sáng chói của cách mạng, của chiến thắng. Bởi
vậy, mong ước được gặp Bác luôn là cảm xúc thường trực, dù cho thời điểm viết bài thơ này là
1971. Bởi lẽ, chỉ có thống nhất, mẹ mới được ra với Bác. Giấc mơ đẹp gắn liền với ước nguyện
giành lại trọn vẹn non sông, thoả lòng Bác mong. Lời ru kết lại cùng hình tượng em cu Tai của
tương lai là người Tự do của một đất nước hoà bình. Đó cũng là mong ước chung của nhân
dân, của những người Việt Nam yêu nước.
Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm đã tạo được những cảm xúc
đồng điệu với bao người con miền Nam anh dũng thời chống Mĩ, nói lên trọn vẹn vẻ đẹp và tâm
tư của người dân tộc miền tây Thừa Thiên trung dũng kiên cường, thủy chung với cách mạng.
Cảm xúc bình dị trong sáng với hình tượng người mẹ đã làm nên sức hấp dẫn riêng của tác
phẩm. Từ ngôn ngữ đến hình ảnh thơ đều đậm chất dân tộc, đem đến cho người đọc những
cảm nhận đặc biệt thương mến cùng hoà theo lời ru cho giấc ngủ thanh bình của em bé Tà-ôi.
Bài thơ toát lên tinh thần lạc quan cách mạng, kết đọng những ân tình sâu lắng của nhà thơ về
nhân dân đất nước cũng như niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mĩ.
Niềm tin ngày ấy giờ đây đã thành hiện thực. Em cu Tai ngày ấy giờ đây cũng đã trưởng thành
và sống làm người Tự do như niềm mong mỏi ngày nào thiết tha trong lời ru của mẹ. Nhưng lời
ru ngày ấy mãi còn sức vang ngân trong lòng bao thế hệ, bồi đắp tình yêu quê
Phân tích tình cmar cha con trong bài "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng
Có câu nói:”Những tình cảm đẹp sẽ là động lực mạnh mẽ trong tâm hồn mỗi người!”Vì lòng yêu
cha,một cô bé nhỏ mới tám tuổi nhưng nhất quyết không nhận người khác làm bố,cho dù bị đánh.Vì
lòng thương con,một người chiến sỹ dù ở sa trường vẫn luôn cặm cụi làm một chiếc lược để tặng đứa
con gái bé bỏng.Có người nhận xét rằng “tình phụ tử không thể ấm áp và đẹp đẽ như tình mẫu
tử”.Song nếu đọc truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng ,có thể bạn sẽ phải có cái
nhìn khác mới mẻ và chân thực hơn.Câu chuyện khắc họa hình ảnh một nhân vật bé Thu đầy ấn tượng
và tinh tế, hơn thế lại ca ngợi tình cha con thiêng liêng,vĩnh cửu dù trong chiến tranh.
Nguyễn Quáng Sáng sinh năm 1933 ở An Giang.Thời kỳ kháng chiến chống Pháp ông tham gia bộ đội
và hoạt động ở chiến trường Nam Bộ.Sau năm 1945, ông tập kết ra Bắc và bắt đầu viết vănn.Có lẽ vì
sinh ra va hoạt động chủ yếu ở miền Nam nên các tác phẩm của ông hầu như chỉ viết về cuộc sống và
con người Nam Bộ.Các tác phẩm chính là Chiếc lược ngà(1968),Mùa gió chướng(1975),Dòng sông
thơ ấu(1985),…Nguyễn Quang Sáng có lỗi viết văn giản dị,mộc mạc nhưng sâu sắc,xoay quanh những
câu truyện đời thường nhưng ý nghĩa.Chiếc lược ngà viết năm 1966 tại chiến trường Nam Bộ chống
Mỹ ,là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Quang Sáng, khẳng định nghệ thuật
miêu tả tâm lý đặc sắc,xây dựng tình huống bất ngờ và ca ngợi tình cha con thắm thiết.Vẫn viết về một
đề tài dường như đã cũ song truyện mang nhiều giá trị nhân văn sâu sắc.
Câu truyện xoay quanh tình huống gặp mặt của bé Thu và ông Sáu.Khi ông Sáu đi kháng chiên chống
Pháp,lúc đó bé Thu chưa đầy một tuổi.Khi ông có dịp thăm nhà thì con gái đã lên 8 tuổi.Song bé Thu
lại không chịu nhận cha vì vết thẹo trên má làm ông Sáu không giống như bức ảnh chụp chung với
má.Trong ba ngày ở nhà, ông Sáu dùng mọi cách để gần gũi nhưng con bé vẫn không chịu gọi một
tiếng “Ba”. Đến khi bé Thu nhận ra cha mình thì cũng là khi ông Sáu phải ra đi. Ông hứa sẽ mang về
tặng con một cái lược ngà.Những ngày chiến đầu trong rứng, ông cặm cụi làm chiếc lược cho con
gái.Chiếc lược làm xong chưa kịp trao cho con gái thì ông đã hi sinh.Trước khi nhắm mắt ông chỉ kịp
trao cây lược cho người bạn nhờ chuyển lại cho con mình.