Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.97 KB, 9 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Nguồn: fpe.hnue.edu.vn </b>
<i><b>"Tun ngơn của </b><b>Đảng cộng sản" vẫn sống, những tư </b></i>
<i><b>tưởng về hình thái kinh tế - xã hội và phát triển vượt cấp gắn với tác phẩm này </b></i>
<i><b>vẫn sống. Thế giới đã bước vào một thời kỳ mới, một thời cuộc mới. Nhưng thời </b></i>
<i><b>đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới </b></i>
<i><b>mở ra từ Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 vẫn đang tiếp diễn và không </b></i>
<i><b>thể </b><b>đảo ngược được. Tiến trình quá độ vượt cấp lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua </b></i>
<i><b>chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam cũng vẫn đang tiếp diễn và không thể đảo </b></i>
<i><b>ngược được. Tuyên ngôn bất hủ với những tư tưởng thiên tài vạch thời đại của </b></i>
<i><b>Mác – Ăngghen vĩ đại vẫn đang soi sáng, thúc đẩy tiến trình cách mạng vơ sản </b></i>
<i><b>thế giới và con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. </b></i>
Phạm Văn Chúc - PGS.TS., Phó Tổng biên tập Báo điện tử Đảng Cộng sản
<i>Việt Nam </i>
Lương Khắc Hiếu - TS., Phó Giám đốc Học viện Báo chí và Tun truyền
<b>Hình thái kinh tế - xã hội và quan niệm duy vật lịch sử</b>
Trong tác phẩm <i>Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, c</i>ả những học trò
của C.Mác - Ph.Ăngghen lẫn bất kỳ độc giả nào cũng đều không tìm thấy
thuật ngữ <i>hình thái kinh tế - xã hội theo nguyên d</i>ạng của nó. Thuật ngữ
này, như ghi nhận của giới chuyên môn, xuất hiện muộn hơn khá nhiều.
Lần đầu tiên, vào năm 1859, tức là sau Tun ngơn đến hơn 10 năm, nó
được Mác sử dụng trong Lời tựa cho cuốn sách Góp phần phê phán khoa
Tuy nhiên, khi nắm bắt thực chất tinh thần câu chữ trong văn bản và
phân tích đối chiếu với cấu trúc nội hàm khái niệm ở trình độ hồn thiện,
chín muồi của nó thì có thể khẳng định rằng, vấn đề hình thái kinh tế - xã
<i>hội n</i>ằm trong số những nội dung cơ bản quan trọng hàng đầu của Tuyên
<i>ngôn. </i>
xã hội, loại hình xã hội tương ứng. Theo trình tự thời gian lịch sử, lần lượt
đó là: 1- xã hội thời kỳ tiền sử, chưa “thành văn”, tức công xã nguyên thuỷ;
và các xã hội thời kỳ “thành văn”, bao gồm: 2- xã hội cổ đại, chiếm hữu nô
lệ, với các giai cấp đối kháng cơ bản là người tự do và nơ lệ, q tộc và
bình dân; 3- xã hội trung cổ phong kiến với chúa đất và nông nô, thợ cả và
thợ bạn; 4- xã hội tư bản hiện đại với tư sản và vô sản; 5- xã hội cộng sản
văn minh tương lai sẽ ra đời từ sự diệt vong của xã hội tư bản.
Trong những phần sau, Mác - Ăngghen tập trung tiến hành việc
nghiên cứu, “giải phẫu” sâu sắc xã hội tư bản trước hết ở nền tảng kinh tế
- xã hội và phương thức sản xuất của nó. Từđây các ông đã vạch ra được
quy luật phát sinh, phát triển và diệt vong của xã hội này nói riêng, quy luật
vận động phổ biến, chung nhất của tất cả các loại hình xã hội trong lịch sử
nói chung. Đó là quy luật về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất, xác định rằng, sự phát triển tới hạn của lực lượng sản xuất sẽ
dẫn đến chỗ phá vỡ quan hệ sản xuất cũ, thúc đẩy phương thức sản xuất
phát triển lên một trình độ mới cao hơn, cách mạng hố tồn bộ đời sống
xã hội…
Như vậy, cấu trúc nội dung chung của quan niệm duy vật lịch sử đã
được xác lập hồn chỉnh ở <i>Tun ngơn bao g</i>ồm hai bộ phận hợp thành
chính: Một là, hệ thống lơ gíc lý luận có tính khái qt, tổng hợp và trừu
tượng cao gồm các nguyên lý, quy luật, phạm trù, khái niệm triết học duy
vật lịch sử phản ánh toàn bộ kết cấu “cơ thể” xã hội nói chung; Hai là,
những khảo sát, phân tích cụ thể sinh động từ góc độ tiếp cận của các
khoa học chuyên ngành lịch sử, xã hội, kinh tế…
Hai hợp phần nội dung này là kết quả của hai tuyến nghiên cứu độc
lập tương đối với nhau, nhưng vẫn thống nhất với nhau trong một tiến
trình chung, vừa làm tiền đề cho nhau, vừa là hệ quả của nhau để đạt tới
nhận thức khoa học sâu sắc, đúng đắn và chính xác về hệ thống quy luật
phổ biến, chung nhất của lịch sử, xã hội. Ở đây thể hiện rõ phương pháp
biện chứng khoa học đặc sắc “đi từ cái cụ thể (trong hiện thực) - đến cái
trừu tượng - trở về cái cụ thể (trong tư duy)”. Phương pháp đó được Mác
cắt nghĩa và trình bày trực tiếp sáng tỏ về sau, trong tiểu mục <i>Phương </i>
<i>pháp của khoa kinh tế chính trị, </i>ở <i>Lời nói đầu (1857) cu</i>ốn Góp phần phê
<i>phán khoa kinh tế chính trị. </i>
Thứ nhất, với tính cách là “cái cụ thể trong hiện thực”, hình thái kinh
<i>tế - xã hội </i>phản ánh lịch sử xã hội loài người bao gồm các thời kỳ, giai
đoạn với các loại hình, chếđộ cơ bản khác nhau, kế tiếp và tương đối tách
biệt nhau. Trong đó, mỗi thời kỳ, giai đoạn lịch sử, mỗi loại hình, chế độ
này lại có những nội dung, tính chất, đặc điểm riêng biệt khác nhau nhất
định về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, về cơ sở hạ tầng và kiến
Thứ hai, với tính cách là “cái cụ thể trong tư duy”, hình thái <i>kinh tế - </i>
<i>xã hội th</i>ống nhất, kết hợp, tổng hợp với hệ thống các nguyên lý, quy luật,
phạm trù, khái niệm triết học duy vật lịch sử để tạo thành một quan niệm
duy vật lịch sử có nội dung chung vừa khái quát vừa sinh động, vừa mang
tính lơ gíc vừa mang tính lịch sử, vừa bao hàm cái chung vừa thể hiện cái
riêng, vừa khẳng định cái phổ biến vừa phản ánh cái đặc thù…
Với nội hàm ý nghĩa như thế, quan niệm duy vật lịch sử này trở thành
thế giới quan và phương pháp luận khoa học thực sự để nhận thức và
định hướng đúng đắn cho hoạt động cải tạo thế giới. Nó khác biệt về chất
so với những triết học - lịch sử mang “đức tính cao cả nhất là ở tính siêu
lịch sử”, tách rời khỏi mọi hoàn cảnh thực tiễn cụ thể, có cao vọng trở
thành chìa khố vạn năng để hiểu biết toàn bộđời sống lịch sử, xã hội[2].
<i>Hình thái kinh tế - xã hội v</i>ới tính cách là một đối tượng nghiên cứu
chỉnh thể cũng được Mác - Ăngghen đi sâu phân tích kỹ lưỡng hơn cũng
theo phương pháp “cụ thể - trừu tượng - cụ thể”, giống như đối với quá
trình nghiên cứu toàn bộ cấu trúc “cơ thể” đời sống xã hội, tồn bộ lịch sử
nhân loại nói chung. Nhờ vậy các ơng đã phác hoạ, khái qt tồn bộ lịch
trình tiến triển xã hội lồi người thành “mơ hình”, “sơ đồ” mang tính “chuẩn
hóa” gồm 5 hình thái kinh tế - xã hội. Trong đó, sự vận động, phát triển
của mỗi hình thái kinh tế - xã hội cũng như bước chuyển từ hình thái kinh
<i>tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác </i>đều tuân theo các quy
luật duy vật lịch sử chung nhất, phổ biến, tất yếu.
Đồng thời, Mác - Ăngghen cũng luôn xem xét, khảo sát một cách cụ
thể chi tiết và sâu sắc diễn biến, nội dung đời sống lịch sử hiện thực trực
tiếp của nhiều loại hình xã hội đã từng tồn tại ở Tây Âu và các nước, khu
vực khác trên thế giới. Từ đó hai ơng đã đạt tới nhận thức toàn diện về cả
cái lịch sử lẫn cái lơ gíc, cái đặc thù lẫn cái phổ biến, cả cái riêng lẫn cái
chung, cả cái bộ phận lẫn cái toàn thể…, tức là cả “cái cụ thể trong hiện
thực” lẫn “cái trừu tượng”. Kết quả cuối cùng của sự nghiên cứu theo
phương pháp này là sự thống nhất, hợp nhất, tổng hợp của chúng thành
“cái cụ thể trong tư duy” vừa sinh động phong phú hơn, vừa sâu sắc đầy
thấy. Trong khi đó, các nhà “phê phán Mác - Ăngghen” cả trước lẫn nay thì
thường bỏ qua để rồi quay lại quy kết các ông là “giáo điều”, coi học thuyết
<i>hình thái kinh tế - xã hội là m</i>ột loại quyết định luận mang tính “kinh viện”,
“định mệnh”, “khn mẫu”, “cứng nhắc” và chỉ có ý nghĩa “hạn hẹp”, “cục
bộ”…(!).
<b>Hình thái kinh tế - xã hội và phát triển vượt cấp </b>
Sự quan tâm nghiên cứu toàn diện như thế của Mác - Ăngghen đối
với cái lịch sử, cái đặc thù, cái riêng, cái bộ phận (“cái cụ thể trong hiện
thực”), đã đem lại những số kết quả quan trọng vừa mang tính khoa học lý
luận đặc sắc độc đáo, vừa mang tính thời sự trực tiếp cấp thiết đối với tiến
trình chủ nghĩa xã hội thế giới cuối thế kỷ XX - đầu thế kỷ XXI nói chung,
cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và sự nghiệp Đổi mới ở Việt Nam
hiện nay nói riêng. Đáng chú ý trong số đó là tư tưởng về việc cần phải
“hạn chế tính tất yếu lịch sử” của sự phát triển chủ nghĩa tư bản mà chính
các ông đã vạch ra, chỉ trong phạm vi những nước Tây Âu[3] và tư tưởng
về phát triển vượt cấp đặc thù, “phi chuẩn hóa” của các hình thái kinh tế -
khơng đồng nhất với nhau nhưng vẫn hoàn toàn thống nhất với nhau.
Ngay trong Tun ngơn, tư tưởng về hình thái kinh tế - xã hội đã gắn
liền với tư tưởng về phát triển vượt cấp. Bởi vì thực ra những tư tưởng đó
cùng với nhiều tư tưởng cơ bản quan trọng khác trong tổng thể nội dung
chung của quan niệm duy vật lịch sử, đều đã được Mác - Ăngghen nêu lên
và tiếp tục đề cập đến trong suốt những năm 40 thế kỷ XIX, tức là trong
giai đoạn các ơng mới hình thành thế giới quan duy vật biện chứng - duy
vật lịch sử, lập trường cộng sản chủ nghĩa của mình. Ngồi ra, phát triển
<i>vượt cấp </i>cũng cần được xem là vấn đề thuộc về chính nội dung của
<i>Tun ngơn n</i>ếu chú ý rằng, nó đã được Mác - Ăngghen trực tiếp nhắc tới
trong <i>Lời tựa cu</i>ối cùng mà hai ông cùng soạn thảo, viết cho Tuyên ngôn
xuất bản bằng tiếng Nga lần thứ hai vào năm 1882.
Tư tưởng của Mác - Ăngghen về phát triển vượt cấp bao gồm một số
nội dung chính như sau:
này thực ra vẫn không mâu thuẫn mà còn thống nhất với sự phát triển
tuần tự qua “sơ đồ” chung đó của lịch sử tồn thế giới. Cịn bản thân “sơ
đồ mẫu” cũng khơng loại trừ mà lại bao hàm chính những bước nhảy vượt
cấp, bỏ qua. Đây chính là phép biện chứng sinh động giữa cái chung và
cái riêng, cái trừu tượng và cái cụ thể, cái phổ biến và cái đặc thù, cái tổng
thể và cái bộ phận trong sự vận động, phát triển của lịch sử hiện thực của
- Những điều kiện cơ bản cho sự phát triển vượt cấp bao gồm: Một là,
xã hội thứ nhất phải vừa có mối liên hệ trực tiếp ít nhiều sâu rộng chặt
chẽ, đồng thời vừa có vị thế độc lập tương đối nhất định đối với xã hội thứ
hai. Hai là, xã hội thứ hai khơng chỉ là phải đang tồn tại, mà cịn phải phát
triển đến một mức độ chín muồi nhất định của chính nó. Ba là, tuy xã hội
thứ nhất có trình độ kinh tế - xã hội thấp hơn, phương thức sản xuất kém
phát triển hơn, nhưng vẫn phải có được những nhân tố vật chất - xã hội
nội tại nhất định có sức sống mạnh mẽ và mang tính tích cực bền vững,
để có thể tham gia được vào quá trình kết hợp tổng hợp hình thành nên
kết cấu kinh tế - xã hội mới của xã hội thứ ba.
Theo sự khảo sát, phân tích lịch sử của Mác - Ănghen, thì phát triển
<i>vượt cấp </i>đã từng diễn ra với một số trường hợp. Chẳng hạn xã hội công
xã nguyên thuỷ của người Giéc - manh và xã hội chiếm hữu nô lệ của
người người La Mã thời kỳ cuối cổ đại chuyển sang đầu trung đại. Lúc đó
người Giéc - manh có trình độ phát triển thấp hơn, nhưng lại chinh phục
được đế quốc La Mã phát triển cao hơn. Kết quả là các xã hội này đã
thống nhất, hợp nhất với nhau và cùng đi lên xã hội phong kiến. Ở đây,
phương thức sản xuất mới hình thành chính là kết quả của việc kế thừa,
kết hợp, tổng hợp, cải biến hai yếu tố chính: lực lượng sản xuất của người
La Mã và tổ chức quân sự của người Giéc - manh.
Hoặc ngay trong thời hiện đại, có liên quan đến chủ đề này là nước
Nga phong kiến chuyên chế nửa cuối thế kỷ XIX. Trong cuộc đời và hoạt
động của mình, Mác - Ăngghen đã sớm quan tâm đến nước Nga. Đây là
một cường quốc Âu - Á có kiến trúc thượng tầng phong kiến chuyên chế
và cơ sở hạ tầng tư bản chủ nghĩa phát triển không cao, được hai ông đề
cập riêng đến khá nhiều trong khoảng vài ba thập niên cuối đời. Mác -
Ăngghen khơng chỉ chú ý đến tình thế cách mạng đang ngày càng gay gắt
tại Nga nói chung, mà cịn nhìn thấy ở nước này những khả năng nhất
i-a” là những nỗi tai ương, đau khổ của chủ nghĩa tư bản. Trên cơ sở các
tài liệu cụ thể, sinh động đó, hai ơng cũng củng cố, khẳng định và khái
qt vững chắc thêm nội dung lơ gíc lý luận chung trong tư tưởng về phát
<i>triển vượt cấp v</i>ốn sớm hình thành từ thời kỳ mới viết “những tác phẩm
đầu tay” cho đến Tuyên ngôn.
Trong giai đoạn từ <i>Tuyên ngôn tr</i>ở đi, với thực tiễn của chủ nghĩa tư
bản nửa cuối thế kỷ XIX, trong đó có tình hình nước Nga phong kiến
chuyên chế đã bước vào con đường tư bản hóa từ năm 1861, hai ơng lại
tiếp tục tiến hành việc nghiên cứu khoa học chuyên biệt về vấn đề <i>phát </i>
<i>triển vượt cấp v</i>ới sự vận dụng phương pháp biện chứng “cụ thể - trừu
tượng - cụ thể”. Theo đó, Mác - Ăngghen đã bổ sung thêm vào các tài liệu
lịch sử cụ thểđã có từ thời cổ - trung đại và cận đại về phát triển vượt cấp
bằng những tài liệu mới của nước Nga đương thời. Qua đấy “cái cụ thể
trong hiện thực” về hiện tượng lịch sử đặc biệt này được làm phong phú
thêm, đồng thời “cái trừu tượng” (lơ gíc lý luận chung về hiện tượng đó)
cũng được củng cố, khẳng định thêm. Cuối cùng quá trình nhận thức đạt
đến “cái cụ thể trong tư duy” vừa khái quát hơn vừa sinh động hơn. “Cái
cụ thể trong tư duy” này chính là tiền đề nhận thức, lý luận dẫn đến tư
tưởng về sự phát triển vượt cấp trong thời hiện đại với nội dung bỏ qua xã
hội tư bản quá độ lên xã hội cộng sản như một khả năng mới mẻ có tính
hiện thực trực tiếp cao. Khả năng này có thể cịn khơng phải là ngoại lệ cá
biệt, xét trong bối cảnh mới của chủ nghĩa tư bản cuối thế kỷ XIX đã cơng
nghiệp hóa và quốc tế hóa mạnh mẽ, bắt đầu vượt ra khỏi phạm vi Tây Âu
để vươn sang địa bàn Đông Âu, châu Á, Bắc Mỹ và toàn thế giới.
Như vậy, tư tưởng của Mác - Ăngghen trong Tuyên ngôn và từ Tun
<i>ngơn v</i>ề <i>hình thái kinh tế - xã hội, g</i>ồm cả nội dung đặc sắc về <i>phát triển </i>
<i>vượt cấp, </i>đã bao quát toàn diện hiện thực xã hội tư bản kể từ nửa cuối thế
kỷ XIX trở đi ở cả vùng trung tâm vốn vẫn tiến triển tuần tự theo “khn
mẫu” điển hình lẫn vùng ngoại vi diễn biến “bất thường” theo mơ hình phát
<i>triển vượt cấp. Nh</i>ững tư tưởng cách mạng khoa học thiên tài ấy của các
ông đã dự báo, dự kiến chính xác cả hai tuyến vận động chuyển hố phổ
biến và đặc thù diễn ra đồng thời, thống nhất biện chứng với nhau trong
sự vận động, phát triển chung của hệ thống tư bản thế giới từ khi bước
vào thời hiện đại. Đó là q trình chuyển biến lên xã hội cộng sản từ các
xã hội tư bản phát triển cao, điển hình; và quá trình chuyển biến lên xã hội
cộng sản từ các xã hội tư bản phát triển khơng cao, khơng điển hình, kể cả
các xã hội tiền tư bản như sẽ diễn ra về sau trong thế kỷ XX.[4]
<i><b>Tuyên ngôn và th</b></i><b>ời đại ngày nay </b>
tưởng của Mác – Ăngghen về <i>phát triển vượt cấp, có ý ngh</i>ĩa khoa học và
thực tiễn quan trọng. Về mặt khoa học, tư tưởng này trước hết làm cho nội
hàm khái niệm <i>hình thái kinh tế - xã hội thêm </i>đầy đủ sinh động và bản
thân nó trở thành một khái niệm mang tính biện chứng khoa học sâu sắc.
Đồng thời tư tưởng đó mở ra một hướng nghiên cứu mới mẻ độc đáo và
thiết thực cho cả lý luận lẫn sự vận dụng lý luận duy vật lịch sử.
Về mặt thực tiễn, sự vận động của lịch sử toàn thế giới 160 năm qua
trên những nét cơ bản đã làm sáng tỏ và minh chứng hùng hồn giá trị vượt
thời đại của Tun ngơn nói chung, tư tưởng về <i>hình thái kinh tế - xã hội </i>
trong đó nói riêng. Chỉ vài thập niên sau khi Tuyên ngôn ra đời, Công xã
Pa-ri bùng nổ và đứng vững hơn 70 ngày. Sự kiện này chứng tỏ rằng mâu
thuẫn cơ bản nội tại trong xã hội tư bản là hết sức gay gắt, rằng chế độ
này khơng phải là “hồn hảo”, “vạn năng”, “vĩnh cửu”. Trái lại, kể từ đó một
vết rạn nứt sâu sắc khơng gì xố nhồ được của hệ thống tư bản đã hiển
hiện rõ ràng trước mắt mọi người.
Tròn 70 năm sau thời điểm Mác – Ăngghen khởi thảo <i>Tuyên ngôn, </i>
Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại năm 1917 đã giành thắng
lợi tại nước Nga, mở ra thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của
Liên Xơ và sau đó là của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới từ cuối những
năm 40 thế kỷ XX kéo theo thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc
trong suốt 3/4 thế kỷ XX, đã xác nhận rực rỡ giá trị khoa học vạch thời đại
của Tuyên ngôn và của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội. Thực tế này
cho thấy tính đúng đắn của những tư tưởng của Mác - Ăngghen về mâu
thuẫn nội tại và sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản; về sự chuyển
biến, ra đời và thắng lợi tất yếu của thời kỳ quá độ từ xã hội tư bản lên xã
đi lên chủ nghĩa xã hội từ xuất phát điểm là các xã hội tư bản phát triển
không cao, khơng điển hình, kể cả tiền tư bản, thì đó cũng chính là lời
khẳng định mạnh mẽ đầy thuyết phục cho tính hiện thực khả thi trực tiếp
của sự phát triển vượt cấp lên xã hội cộng sản trong thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới ngày nay.
Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự sụp đổ của chếđộ
xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu cuối thế kỷ XX là thuộc về nhân tố
chủ quan. Đó là tình trạng các đảng cộng sản và công nhân cầm quyền tại
nói chung, sự <i>phát triển vượt cấp b</i>ỏ qua xã hội tư bản quá độ lên xã hội
cộng sản nói riêng.
Thực tiễn của Việt Nam, Trung Quốc và một số nước khác hiện nay
vẫn đang vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đẩy mạnh
công cuộc đổi mới và cải cách, mở rộng giao lưu hội nhập và hợp tác quốc
tế chính là bằng chứng sinh động, vững chắc khẳng định cho tính chân lý
của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Mác - Ăngghen về hình thái kinh tế -
<i>xã hội và v</i>ề <i>phát triển vượt cấp. T</i>ại Đại hội X vừa qua, Đảng Cộng sản
Việt Nam tiếp tục khẳng định “giá trị định hướng và chỉ đạo có ý nghĩa to
lớn của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
<i>xã hội (n</i>ăm 1991)”1. Đường lối, quan điểm của Đảng ta coi cách mạng
Việt Nam đang ở “thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” mà chưa phải đã ở
trong chủ nghĩa xã hội “phát triển” hay ở “giai đoạn đầu” của chủ nghĩa xã
hội, là xuất phát từ chính tình hình thực tiễn đất nước ta. Đường lối, quan
điểm đó cũng là duy nhất đúng đắn và phù hợp với lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng hồ Chí Minh, với tư tưởng của Mác - Ăngghen
trong Tun ngơn về hình thái kinh tế - xã hội và về phát triển vượt cấp.
Sự thắng thế và lan rộng của phong trào cánh tả ở Mỹ la-tinh, nơi từ
hàng trăm năm nay vốn là sân sau của chủ nghĩa tư bản Bắc Mỹ, với
những tuyên bố công khai mạnh mẽ về con đường xã hội chủ nghĩa trong
khoảng 10 năm trở lại đây, đã thể hiện rõ rệt xu hướng phản kháng quyết
liệt chống chủ nghĩa đế quốc áp đặt cường quyền, chống chủ nghĩa tư bản
tự do mới ở vùng trung tâm, phương Bắc và phương Tây. Cho dù đây có
thể chưa phải là sự khẳng định thật sự đối với chủ nghĩa xã hội, thì nó
cũng đã là sự phản ánh và phê phán những hạn chế, bế tắc, kém thuyết
phục của chủ nghĩa tư bản xét trên quy mơ hệ thống tồn thế giới của hình
thái xã hội đó.
Cịn chính ở địa bàn q hương của chủ nghĩa tư bản, nơi mà nó vẫn
duy trì tiến trình, nhịp độ chuyển biến tuần tự tiệm tiến theo “chuẩn mẫu”
điển hình hố thì tình hình ra sao? Tại đây, thực tế là các nước tư bản
hàng đầu Tây Âu, Bắc Mỹ vẫn tiếp tục phát triển lên những tầng cấp, mức
độ đáng kể mới về kinh tế, sản xuất, khoa học - công nghệ, năng suất lao
động, tổng sản phẩm quốc dân, thu nhập bình quân đầu người… Tuy
nhiên, đó thật ra chỉ là sự tăng trưởng về lượng hơn là sự phát triển theo
nghĩa một sự tiến bộ về chất. Bản chất của các quan hệ kinh tế - xã hội cơ
bản mà giai cấp tư sản thống trị ở những nước này ra sức quyết liệt củng
cố, duy trì vẫn hồn tồn khơng thay đổi. Sự xuất hiện của những nhân tố
tư bản áp dụng, thực thi. Một số hiện tượng nổi trội trong thế giới tư bản
từ nửa sau thế kỷ XX trở lại đây, như cách mạng khoa học - cơng nghệ và
tồn cầu hố, tuy có mặt gắn với sự tiến bộ của toàn thế giới, toàn nhân
loại, nhưng về nhiều mặt khác lại bộc lộ rõ rằng, chúng chính là những
cứu cánh cho chế độ tư bản, quan hệ sản xuất tư bản, hơn là những
thành quả đạt được từ hiệu năng tự thân nội tại của chế độ và quan hệ
sản xuất đó.
Rõ ràng, ngay trong một thế giới “hậu chiến tranh lạnh” bước vào thế
kỷ XXI hiện nay, khi khơng cịn hệ thống xã hội chủ nghĩa như trong “cục
diện lưỡng cực” cũ, thì Tuyên ngơn vẫn sống, những tư tưởng về hình thái
<i>kinh tế - xã hội và phát triển vượt cấp g</i>ắn với tác phẩm này vẫn sống. Thế
giới đã bước vào một thời kỳ mới, một thời cuộc mới. Nhưng thời đại quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới mở
ra từ Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 vẫn đang tiếp diễn và khơng
thể đảo ngược được. Tiến trình quá độ vượt cấp lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam cũng vẫn đang tiếp diễn và
không thể đảo ngược được. Tuyên ngôn bất hủ với những tư tưởng thiên
tài vạch thời đại của Mác – Ăngghen vĩ đại vẫn đang soi sáng, thúc đẩy
tiến trình cách mạng vô sản thế giới và con đường cách mạng xã hội chủ