Một số chuyên đề về công tác Giáo viên chủ nhiệm các trường THPT
MỤC LỤC
Nội dung Trang
Chuyên đề 1: 2
NGƯỜI GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM LÀ CHIẾC CẦU NỐI ĐA CHIỀU – THPT chuyên
Lương Thế Vinh
Chuyên đề 2: 7
QUẢN LÝ LỚP HỌC BẰNG CÁC BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỶ LUẬT TÍCH CỰC –
THPT Long Thành
Chuyên đề 3: 21
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NGĂN NGỪA “BẠO LỰC HỌC ĐƯỜNG” CỦA GIÁO VIÊN CHỦ
NHIỆM – THPT Sông Ray
Chuyên đề 4: 27
“GIẢI PHÁP CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM TRONG VIỆC NGĂN NGỪA HỌC SINH
ĐÁNH NHAU MANG TÍNH BẠO LỰC” – THPT Tam Phước
Chuyên đề 5: 36
PHỐI HỢP GIỮA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM VỚI TỔ CHỨC ĐOÀN TRONG NHÀ
TRƯỜNG; HỘI CHA MẸ HỌC SINH, CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG VÀ CÁC TỔ
CHỨC XÃ HỘI TRONG VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HỌC SINH – THPT Trương Vĩnh Ký
Chuyên đề 6: 42
SỰ PHỐI HỢP GIỮA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM VỚI TỔ CHỨC ĐOÀN, TRONG NHÀ
TRƯỜNG; HỘI CHA MẸ HỌC SINH, CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG VÀ CÁC TỔ
CHỨC XÃ HỘI TRONG VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HỌC SINH – THPT Long Phước
Chuyên đề 7: 52
PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ LỚP HỌC BẰNG CÁC BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỶ LUẬT
TÍCH CỰC – THPT Long Khánh
Chuyên đề 8: 57
SỰ PHỐI HỢP GIỮA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM VỚI TỔ CHỨC ĐOÀN TRONG NHÀ
TRƯỜNG; HỘI CHA MẸ HỌC SINH, CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG VÀ CÁC TỔ
CHỨC XÃ HỘI TRONG VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HỌC SINH – THPT Thanh Bình
Chuyên đề 9: 62
PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÍ LỚP HỌC BẰNG CÁC BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỈ LUẬT
TÍCH CỰC – THPT Võ Trường Toản
Chuyên đề 10: 70
PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÍ LỚP HỌC BẰNG CÁC BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỈ LUẬT
TÍCH CỰC – THPT Tôn Đức Thắng
Chuyên đề 11: 77
BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT MỘT SỐ VẤN ĐỀ THƯỜNG GẶP TRONG CÔNG TÁC
QUẢN LÝ HỌC SINH – TH, THCS & THPT Bùi Thị Xuân
Chuyên đề 12: 82
BẠO LỰC HỌC ĐƯỜNG – THPT Điểu Cải
Trang 1
Một số chuyên đề về công tác Giáo viên chủ nhiệm các trường THPT
Chuyên đề 1 : NGƯỜI GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM LÀ CHIẾC CẦU NỐI
ĐA CHIỀU
Thực hiện: GV Ngô Đình Vân Nhi
Đơn vị: THPT chuyên Lương Thế Vinh
PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm:
Cuối tháng 7, đầu tháng 8 năm 2010, tại Hải Phòng và TP.HCM đã diễn ra Hội thảo
về công tác giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông. Hội thảo có sự góp mặt của gần
300 đại biểu. Có năm nội dung chính về công tác chủ nhiệm được đưa ra bàn thảo tại hội
thảo này:
+ Đặc điểm, những khó khăn, thuận lợi của công tác giáo viên chủ nhiệm lớp trong
bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay;
+ Các yêu cầu đối với giáo viên làm công tác chủ nhiệm lớp (nội dung, phương
pháp và kỹ năng thực hiện công tác chủ nhiệm của giáo viên ở trường phổ thông);
+ Kinh nghiệm công tác giáo viên chủ nhiệm lớp;
+ Phương hướng, giải pháp tăng cường năng lực làm công tác chủ nhiệm cho giáo
viên ở trường phổ thông;
+ Giáo viên chủ nhiệm lớp với việc triển khai có hiệu quả phong trào thi đua: “Xây
dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
Đây là hội thảo thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ
GD&ĐT Nguyễn Thiện Nhân. Hội thảo này đã có ý nghĩa quan trọng để nâng cao hiệu quả
công tác chủ nhiệm, từ đó nâng cao chất lượng giáo dục.
Từ tổng kết của hội thảo này, chúng ta có thể khẳng định: Giáo viên chủ nhiệm có
một vai trò rất lớn trong việc nâng cao chất lượng cũng như hình thành nhân cách cho học
sinh. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm khi tham gia công tác giáo dục, không chỉ là nắm
được những chỉ số của quản lý hành chính đơn thuần, như tên, tuổi, số lượng, hoàn cảnh
gia đình của học sinh, trình độ học sinh về học lực, hạnh kiểm mà còn phải dự báo xu
hướng tổ chức giáo dục, dạy học phù hợp điều kiện khả năng của từng học sinh.
II. Vai trò của sự liên kết nhà trường - gia đình - xã hội.
Nhà trường, gia đình và xã hội đều có vai trò trong giáo dục phẩm chất chính trị,
đạo đức, lối sống cho học sinh. Các phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của con người
nói chung, học sinh nói riêng được hình thành và phát triển trong các môi trường: gia đình,
nhà trường và xã hội. Lúc sơ sinh, vai trò của gia đình là chủ đạo; tuổi học mầm non, gia
đình và nhà trường góp phần quyết định; tuổi học phổ thông (từ tiểu học tới trung học) vai
trò của nhà trường, gia đình và xã hội càng quan trọng. Để làm tốt việc giáo dục phẩm chất
chính trị, đạo đức, lối sống cho học sinh THPT, giáo viên chủ nhiệm phải kết hợp chặt chẽ
với gia đình.
Nhìn một cách toàn diện thì nhà trường, gia đình và xã hội có vai trò giáo dục khác
nhau đối với sự hình thành và phát triển phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của học
sinh. Trong mối quan hệ đó, nhà trường được xem là trung tâm – nơi chủ động định hướng
trong việc phối hợp với gia đình và xã hội. Nhà trường là môi trường giáo dục toàn diện
nhất, là cơ quan nhà nước thực hiện chức năng giáo dục chuyên nghiệp nhất. Cho nên nhà
Trang 2
Một số chuyên đề về công tác Giáo viên chủ nhiệm các trường THPT
trường là lực lượng giáo dục có hiệu quả nhất, hội tụ đủ những yếu tố cần thiết để có thể
huy động sức mạnh giáo dục từ phía gia đình và xã hội.
Do đó, việc phát huy sức mạnh giáo dục của mối liên kết bộ ba nhà trường - gia
đình - xã hội là một điều vô cùng cần thiết cho công tác giáo dục. Người giáo viên chủ
nhiệm nếu không ý thức điều này thì rất khó hoàn thành nhiệm vụ.
III. Yêu cầu của thực tiễn giáo dục hiện nay
Gần đây, bạo lực học đường xuất hiện ở nhiều nơi và có xu hướng gia tăng. Một
loạt Clip học sinh đánh nhau được tung lên mạng, nhiều ý kiến cho rằng việc giáo
dục đạo đức cho học sinh đang bị buông lỏng. Để hạn chế thực trạng này, cần đến
sự hợp sức từ nhiều phía: gia đình, nhà trường và xã hội. Trong đó vai trò của giáo
viên chủ nhiệm là rất quan trọng. Trong lĩnh vực giáo dục, người thầy không chỉ có
lòng yêu nghề mến trẻ đem hết nhiệt tình để truyền đạt kiến thức cho học sinh mà quan
trọng hơn nữa là phải lưu tâm đến việc hình thành nhân cách cho học sinh. Công việc
trồng người ấy không hề dễ dàng. Nó đặt ra nhiều thách thức cho giáo viên chủ nhiệm.
Lúc này, trước nhiều lời cảnh báo về nhân cách học sinh thời hiện đại, mọi người
quan tâm nhiều hơn vai trò của giáo viên chủ nhiệm. Vì vậy, người giáo viên chủ nhiệm
cần tìm lời đáp án cho câu hỏi: Phương pháp chủ nhiệm như thế nào mới là hiệu quả?
Trong một bài báo cáo của cô giáo Đàm Thị Kim Hoa (Giáo viên Trường THPT
Chuyên Lương Văn Chánh - Phú Yên), tôi đã tìm được một bài học kinh nghiệm đáng quý.
Theo cô Hoa, người giáo viên chủ nhiệm cần tạo được mối liên hệ mật thiết giữa giáo viên
với học sinh, giữa giáo viên với gia đình, giữa gia đình với nhà trường. Đó là phương pháp
thực sự cần thiết nhằm tạo điều kiện cho mỗi học sinh được phát triển toàn diện cả về tri
thức lẫn nhân cách.
Từ kinh nghiệm của cô giáo Kim Hoa, tôi tìm ra lời đáp án cho công tác chủ nhiệm:
Người giáo viên chủ nhiệm là chiếc cầu nối đa chiều
PHẦN 2
NỘI DUNG
I. Đặc điểm tình hình:
1/Thuận lợi:
- Công tác chủ nhiệm ở một lớp chuyên, tại một trường chuyên của tỉnh là
thuận lợi lớn nhất đối với một giáo viên trẻ như tôi. Ban giám hiệu nhà trường luôn quan
tâm và chỉ đạo sâu sát công tác chủ nhiệm của các giáo viên trẻ.
- Đoàn trường, chi đoàn giáo viên, các hiệp hội, câu lạc bộ của trường cũng
luôn tạo điều kiện tốt nhất cho giáo viên chủ nhiệm
- Sự cộng tác chặt chẽ từ phía giáo viên bộ môn.
- Học sinh lớp chuyên khá ngoan, có ý thức và chịu lắng nghe.
- Là giáo viên dạy văn, tôi có nhiều thời gian trên lớp để nhanh chóng nắm
bắt tình hình lớp và kịp thời uốn nắn học sinh. Một tuần có ít nhất 4 lần tôi trực tiếp có mặt
tại lớp. Ngoài ra, môn văn có đặc trưng của một môn học khoa học xã hội, vì vậy, trong lúc
truyền thụ kiến thức chuyên môn, tôi cũng có nhiều cơ hội hơn cho công tác rèn luyện cách
sống cho học sinh.
2/ Khó khăn:
- Học sinh ở huyện lên học và ở ký túc xá. Các em xa gia đình nên có nhiều
vấn đề phức tạp hơn trong khâu quản lí.
Trang 3
Một số chuyên đề về công tác Giáo viên chủ nhiệm các trường THPT
- Nhiều ảnh hưởng của công nghệ hiện đại được học sinh nắm bắt nhanh,
tất nhiên trong đó có cả những thói quen không tốt, những ảnh hưởng chưa tích cực.
II. Nội dung thực hiện châm ngôn:
Giáo viên chủ nhiệm giữ vai trò như là chiếc cầu nối đa chiều
GVCN là mắt xích quan trọng của sự kết hợp các mối quan hệ cụ thể gia đình –
học sinh - nhà trường. Tôi luôn ý thức GVCN là chiếc cầu nối đa chiều để tạo nên mối liên
kết đó. Vì chỉ như vậy, người giáo viên chủ nhiệm mới có thể hoàn thành tốt vai trò, mục
tiêu của mình.
Vai trò ấy được từng bước thực hiện như sau:
1. Mối quan hệ giữa giáo viên chủ nhiệm và học sinh
1.1. Nguyên tắc chung:
Đối với sự nghiệp trồng người, hình ảnh người thầy giáo mẫu mực luôn là tấm
gương sáng cho các em học sinh; Do vậy, xuất phát từ vai trò trách nhiệm và sự gắn kết
với học sinh mà đòi hỏi mỗi giáo viên chủ nhiệm phải giàu lòng nhân ái, vị tha, kiên trì,
nhiệt tình, biết tôn trọng nhân cách học sinh và được các em tin yêu.
Giáo viên chủ nhiệm cần có uy và có sức cảm hóa thuyết phục, có bản lĩnh để xử lý
kịp thời các tình huống sư phạm đa dạng, phải biết đối xử khéo léo, công bằng và nghiêm
minh trong nhận xét đánh giá đối với học sinh; là người chịu trách nhiệm về sự phát triển
toàn diện của học sinh lớp mình phụ trách. Hoạt động của giáo viên chủ nhiệm về bản chất
là một trong những hoạt động sáng tạo nhất trong quá trình giảng dạy; là người xây dựng
kế hoạch giáo dục riêng để giáo dục tập thể học sinh lớp mình; biết tìm hiểu, nghiên cứu
đối tượng để xây dựng kế hoạch phát triển tập thể học sinh, tạo nên sự đoàn kết thống nhất
trong lớp, tạo điều kiện để phát huy ý thức tự quản của học sinh, xây dựng đội ngũ cán bộ
lớp có năng lực để điều hành hoạt động của lớp; chủ động tiếp xúc với học sinh để nắm bắt
về điều kiện và hoàn cảnh của học sinh; động viên, an ủi giúp cho các em có hoàn cảnh gia
đình khó khăn hoặc ốm đau, bệnh tật cố gắng yên tâm học tập và biết vượt khó, vươn lên.
Điều đó vừa là trách nhiệm, vừa thể hiện được tình người trong mối quan hệ “Thầy - Trò”,
tạo được ấn tượng tốt và xây dựng nên hình ảnh đẹp đẽ, cao cả của những Thầy, Cô giáo
trong ký ức của các em học sinh.
1.2. Khẩu hiệu đầu tiên tôi nói khi gặp học sinh lớp chủ nhiệm là: Chúng ta là
một gia đình, lớp học chúng ta là ngôi nhà.
Tôi dành thời gian phân tích cho học sinh hiểu khẩu hiệu ấy như sau:
+ Thứ nhất, mỗi chúng ta là một người chủ nhỏ của ngôi nhà. Mỗi thành viên cần có
ý thúc giữ gìn ngôi nhà thật sạch và đẹp. Vì nó là bộ mặt của tất cả chúng ta.
Từ sự phân tích trên, tôi hướng dẫn học sinh cách làm sạch ngôi nhà. (Sạch đây cần
hiểu theo nhiều nghĩa)
Tiết chủ nhiệm thứ 2, tôi hướng dẫn các em trang trí ngôi nhà của mình. Các em rất
hào hứng. Xong việc, tôi dặn: làm sạch và đẹp lớp học không chỉ ở việc vệ sinh lớp học,
các em phải học tập và ứng xử để khi ai đó nhắc đến lớp chúng ta cũng phải mỉm cười.
Nếu một bạn nào đó không có ý thức giữ gìn “gương mặt” của mình, bạn ấy sẽ làm ảnh
hưởng đến ngôi nhà chung của tất cả.
Tuyên bố đó được thực hiện trong thời gian tôi chủ nhiệm. Mỗi khi một học sinh vi
phạm nội quy của trường. Tôi đều nhắc lại lời dặn ấy. Vì vậy, các em rất ít khi vi phạm vì
luôn sợ “ảnh hưởng đến lớp”. Tôi thấy rằng việc dạy các em biết trách nhiệm với việc
mình làm, không nên ảnh hưởng xấu cho tập thể là một việc cần thiết cho con đường đời
sau này.
Trang 4
Một số chuyên đề về công tác Giáo viên chủ nhiệm các trường THPT
+ Thứ hai, vì lớp là ngôi nhà, tất cả chúng ta sống dưới một mái nhà nên phải biết
yêu thương và quan tâm nhau.
Bất cứ lúc nào bước vào lớp, tôi luôn nhìn sĩ số. Nếu một em nào vắng, lập tức tôi
hỏi em bên cạnh về lí do bạn vắng học. Nếu em đó trả lời được lí do, tôi khen trước lớp.
Nếu em ấp úng, tôi lập tức nhắc nhở: chúng ta là một gia đình, đã chung gia đình phải biết
chia sẻ và quan tâm lẫn nhau…Từ đó, tôi hình thành trong thói quen của các em cách biết
quan tâm nhau từ việc nhỏ nhất.
1.3. Nguyên tắc để điều hòa quan hệ giữa giáo viên chủ nhiệm và học sinh là:
Cô trò mình cùng thực hiện.
Đó là câu nói của tôi mỗi khi đưa ra một quy định nào đó đối với học sinh. Xuất
phát từ ý thức: giáo viên là tấm gương để học sinh noi theo. Tôi biết, học sinh sẽ thường
xuyên nhìn vào mình để hành động. Do vậy, đây là nguyên tắc cực kì quan trọng. Nguyên
tắc ấy đã giúp tôi ứng dụng trong một số trường hợp cụ thể sau:
+ Nhà trường ra quy định học sinh phải đội nón bảo hiểm khi đi xe đạp và xe máy.
Tôi thực hiện trước, các em làm theo.
+ Các em được quy định đi học vào lớp đúng giờ, nhưng nếu GV vào lớp trễ thì
sao? Khi có việc gì vào lớp trễ, tôi luôn nói “xin lỗi các em” và đưa ra lí do, tất nhiên đó
phải là lí do chính đáng.
+ Nhà trường quy định: trong giờ học, học sinh không được sử dụng điện thoại di
động. Học sinh vẫn sẽ dùng di động nếu giáo viên còn sử dụng, thế nên, tôi không bao giờ
cầm theo di động vào lớp. Do đó, khi nhắc nhở một số em còn để chuông điện thoại reo,
các em ấy không dám tái phạm.
+ Hội Chữ thập đỏ của trường phát động phong trào ủng hộ lũ lụt, hay đi thăm gia
đình cụ già neo đơn, tôi đều khuyến khích các em tham gia bằng cách “cô trò mình cùng
làm”. Học sinh khi thấy các phong trào có sự tham gia của GVCN sẽ hiểu rằng đó là việc
tốt, quan trọng, ý nghĩa nên các em sẽ hào hứng hơn.
* Tóm lại nguyên tắc Cô trò mình cùng thực hiện đã giúp tôi hoàn thành công tác
chủ nhiệm hiệu quả hơn.
1.4. Mục tiêu phấn đấu: Cô sẽ là nhà tâm lí tư vấn cho em
Học sinh trung học phổ thông thường bắt đầu có tâm lí của tuổi mới lớn. Vì vậy, tôi
luôn chú ý đến tâm sinh lí của các em. Tôi muốn mình trở thành người bạn mà các em có
thể tâm sự và chia sẻ. Khi cần, sẽ lắng nghe để các em trút nỗi lòng. Khi cần, sẽ đưa ra
những ý kiến đóng góp.
2. GVCN là cầu nối cho mối quan hệ giữa nhà trường với gia đình học sinh.
- Nhà trường và gia đình sẽ là các lực lượng giáo dục thông qua đầu mối liên kết là
giáo viên chủ nhiệm. Giáo viên chủ nhiệm trở thành người trung gian trao đổi thông tin
giữa nhà trường và gia đình, thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội và truyền đạt những chủ trương
của nhà trường đến với gia đình đồng thời thu nhận ý kiến, nguyện vọng của gia đình để
báo cáo lại lãnh đạo nhà trường. Nếu giáo viên làm được chiếc cầu nối giữa nhà trường và
gia đình việc giáo dục học sinh sẽ có hiệu quả hơn. Tôi đã tiến hành các việc làm như sau:
+ Mời phụ huynh học sinh tham gia Hội phụ huynh học sinh nhằm phát huy tính
tích cực của các bậc phụ huynh trong việc tham gia cùng nhà trường để giáo dục con em
mình.
+ Tổ chức họp phụ huynh học sinh định kỳ theo qui định của nhà trường, trong
những trường hợp đặc biệt chủ động xin ý kiến Ban Giám hiệu để tổ chức họp đột xuất
hoặc gặp riêng và trao đổi với từng phụ huynh học sinh để bàn bạc, trao đổi thông tin,
nhằm đề ra những biện pháp khắc phục, uốn nắn kịp thời. Qua đó đã thể hiện sự quan tâm
Trang 5
Một số chuyên đề về công tác Giáo viên chủ nhiệm các trường THPT
sâu sát của nhà trường, đồng thời tạo được sự tin tưởng của phụ huynh học sinh đối với
nhà trường khi con em mình được học tập tại trường.
+ Cho số điện thoại riêng để khi cần thiết, gia đình và giáo viên có thể trò chuyện
trực tiếp và nhanh chóng có những thông tin phản hồi kịp thời.
3. GVCN bắt kênh thông tin từ mối quan hệ giữa các giáo viên bộ môn và học
sinh của lớp.
Trong quá trình giảng dạy, bên cạnh sự quán xuyến, đôn đốc, theo dõi của giáo viên
chủ nhiệm còn có tập thể các Thầy, Cô trực tiếp giảng dạy và truyền đạt kiến thức bộ môn.
Qua trao đổi, tiếp nhận thông tin từ các giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm có thể nắm
bắt thêm về tinh thần, thái độ học tập, ý thức tổ chức kỷ luật, học lực... của từng học sinh
trong lớp. Từ đó, tạo điều kiện cho giáo viên chủ nhiệm có sự nhìn nhận và đánh giá khách
quan về chất lượng học tập của từng học sinh trong lớp đồng thời có biện pháp động viên,
nhắc nhở, giáo dục phù hợp đối với từng học sinh.
Trong các buổi sinh hoạt lớp phải thật sự cởi mở và thể hiện sự quan tâm tận tình để
các em có điều kiện đề đạt ý kiến, nguyện vọng về công tác giảng dạy của giáo viên bộ
môn. Qua đó, giáo viên chủ nhiệm đúc kết có chọn lọc và chuyển tiếp nguyện vọng của
học sinh đến với các giáo viên bộ môn để tập thể sư phạm giảng dạy tại lớp có tinh thần
cộng đồng trách nhiệm trong việc giáo dục học sinh.
PHẦN III
KẾT LUẬN
Có thể đây chưa phải là những kinh nghiệm lớn về công tác chủ nhiệm. Song nó
cũng là sự trải nghiệm của chính bản thân tôi qua 6 năm làm chiếc cầu nối ấy. Tôi nhận
thấy làm chủ nhiệm là một việc khó khăn và quan trọng không kém việc truyền thụ kiến
thức cho học sinh. Bởi vì, để có thể trở thành chiếc cầu nối đa chiều là một việc đòi hỏi tôi
cố gắng nhiều hơn nữa.
Trang 6
Một số chuyên đề về công tác Giáo viên chủ nhiệm các trường THPT
Chuyên đề 2: QUẢN LÝ LỚP HỌC BẰNG CÁC BIỆN PHÁP GIÁO DỤC
KỶ LUẬT TÍCH CỰC
Thực hiện: GV Lê Hoài Nhân
Đơn vị: THPT Long Thành
I. Khái quát về phương pháp giáo dục học sinh bằng biện pháp kỷ luật tích cực
1. Khái niệm
- Giáo dục kỷ luật dựa trên nguyên tắc vì lợi ích tốt nhất của học sinh, không làm
tổn thương đến thể xác và tinh thần của học sinh và phù hợp với tâm sinh lý học sinh.
- Kỷ luật tích cực là dựa trên cơ sở cùng thảo luận khi có đầy đủ thông tin và tôn
trọng lẫn nhau. Kỷ luật tích cực nhấn mạnh đến việc thay đổi hành vi hơn là xử phạt, theo
tư duy nguyên nhân và hậu quả.
- Kỷ luật tích cực là cách giúp các em tự kiểm điểm bản thân, có trách nhiệm với
hành vi của mình, đồng thời xây dựng cho các em kỹ năng giải quyết vấn đề và tinh thần
hợp tác.
2. Nguyên tắc
- Không nên chỉ áp đặt quy tắc từ phía giáo viên chủ nhiệm. Việc cả giáo viên chủ
nhiệm và học sinh cùng xây dựng quy tắc thể hiện rõ giáo viên chủ nhiệm tôn trọng học
sinh.
- Giáo viên chủ nhiệm cần giải thích rõ các quy tắc cho học sinh,
để hiểu rõ tại sao cần phải tuân thủ các nguyên tắc đó, tránh gây tranh cãi liên miên.
Tương tự như vậy, học sinh cũng cần giải thích rõ tại sao các em đặt ra quy tắc.
- Các quy tắc có thể thay đổi nếu có lý do chính đáng. Những sự thay đổi này phải
được cả giáo viên chủ nhiệm lẫn học sinh đồng ý.
- Học sinh có quyền thắc mắc về những quy tắc và những lý do cần phải có nguyên
tắc đó. Giáo viên chủ nhiệm phải lắng nghe và giải thích cho học sinh hiểu.
- Quá trình xây dựng những nguyên tắc này giúp học sinh phát triển tính độc lập và
khả năng tự kiểm soát hành vi của mình.
- Mọi chiến lược kỷ luật hợp tác đều nhắm tới giáo dục để học sinh không chỉ là
vâng lời người lớn mà chính là phải xây dựng những giá trị của chính mình và học cách xử
sự một cách rõ ràng, mạch lạc theo những giá trị đó.
II. Thực hiện quản lý lớp học bằng các biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực
2.1. Tìm hiểu và nắm vững đối tượng giáo dục
- Nhà giáo dục vĩ đại Nga Usinxki nói rằng: “muốn giáo dục con người về mọi mặt
thì phải hiểu con người về mọi mặt”
- Nếu hiểu học sinh thì có thể chọn lựa được những tác động thích hợp. Nếu không
hiểu học sinh thì không thể tìm được những phương pháp giáo dục phù hợp với đối tượng
và do đó có thể thất bại. Kể cả việc lựa chọn nội dung và các hình thức giáo dục cũng cần
căn cứ vào đặc điểm đối tượng. Chú ý đặc điểm đối tượng là nguyên tắc quan trọng của
giáo dục học. Tìm hiểu học sinh và tập thể học sinh vừa là điều kiện vừa là một nội dung
quan trọng trong công tác chủ nhiệm lớp.
- Giáo viên chủ nhiệm cần tìm hiểu và nắm vững các đặc điểm cơ bản về tâm sinh
lý, tính cách, năng lực, sức khỏe, năng lực phát triển trí tuệ, sở thích, nguyện vọng, năng
khiếu, phẩm chất đạo đức của học sinh. Về hoàn cảnh sống, mối quan hệ với tập thể, bạn
bè .... Qua đó để thấy mặt mạnh, mặt yếu của từng học sinh, của tập thể lớp để phát huy và
Trang 7
Một số chuyên đề về công tác Giáo viên chủ nhiệm các trường THPT
khắc phục. Trên cơ sở đó phát hiện những yếu tố mới, những mầm mống, những nhân tố
tích cực để làm nòng cốt cho phong trào chung của lớp.
- Để tìm hiểu và nắm vững đối tượng giáo dục, Giáo viên chủ nhiệm có thể vận
dụng những cách thức sau:
a. Thông qua phiếu lý lịch đầu năm học, trong buổi đầu tiên lớp gặp Giáo viên
chủ nhiệm trước khi bước vào năm học mới: (PHỤ LỤC trang 28)
- Tác dụng:
Từ phiếu lý lịch trên, giáo viên chủ nhiệm sẽ nắm bắt kịp thời đặc điểm sơ lược của các
em, đây cũng là cơ sở quan trọng để giáo viên chủ nhiệm lựa chọn Ban cán sự lớp – lực
lượng nòng cốt và quan trọng hỗ trợ đắc lực cho giáo viên trong quá trình áp dụng biện
pháp kỷ luật tích cực.
b. Thông qua, giấy tờ cá nhân của học sinh (khai sinh , hộ khẩu ...), phiếu học
sinh do nhà trường chuẩn bị: ( PHỤ LỤC trang 29 - 30)
Nếu giáo viên chủ nhiệm không có thời gian chuẩn bị phiếu lý lịch trên thì sử dụng từ
nguồn do nhà trường cung cấp
- Tác dụng:
Từ giấy khai sinh hoặc hộ khẩu của học sinh chúng ta nắm bắt những thông tin
chính xác hơn về học sinh, kịp thời sửa chữa những sai sót về lý lịch của các em. Kết hợp
với tư liệu từ phiếu học sinh, chúng ta tổng kết những thông tin cần thiết về học sinh về
mọi mặt, để từ đó có biện pháp giáo dục thích hợp với từng đối tượng.
c. Thông qua giấy tờ, hồ sơ, sổ sách của lớp :
c1. Sổ gọi tên và ghi điểm trung học phổ thông (PHỤ LỤC trang 31)
- Điểm danh số ngày vắng của học sinh trong sổ gọi tên và ghi điểm ( PHỤ LỤC
trang 32 )
- Tác dụng:
Rút ra đặc điểm về chuyên cần học tập của học sinh, căn cứ vào số lượng ngày nghỉ
trong tháng, giáo viên chủ nhiệm có thể nắm được những đối tượng thường xuyên nghỉ
học. Từ đó tìm hiểu nguyên nhân và có biện pháp giúp đỡ các em trong học tập.
- Điểm số của học sinh trong sổ gọi tên và ghi điểm (PHỤ LỤC trang 33)
- Tác dụng:
Theo dõi quá trình học tập hàng tháng của học sinh, cập nhật những thông tin quan
trọng như học sinh giỏi, khá, học sinh yếu, kém. Những môn học có nhiều học sinh điểm
thấp…nhằm kịp thời khắc phục trong tháng sau.
c2. Sổ đầu bài (PHỤ LỤC trang 34)
Từ sổ đầu bài giáo viên chủ nhiệm sẽ nắm được đặc điểm của lớp học có tích cực
hay không tích cực, có nhiều hay ít học sinh vi phạm nội quy, theo dõi những em thường
xuyên vi phạm …. (PHỤ LỤC trang 35)
d. Thông qua sổ chủ nhiệm của giáo viên chủ nhiệm (cẩm nang quan trọng
của giáo viên chủ nhiệm trong tìm hiểu đặc điểm của đối tượng giáo dục). Vì vậy trong sổ
chủ nhiệm giáo viên phải liên tục cập nhật những thông tin sau :
- Giáo viên chủ nhiệm phải nắm bắt đầy đủ, kịp thời tất cả các thông tin cá nhân của
từng học sinh trong lớp (PHỤ LỤC trang 36)
- Giáo viên chủ nhiệm phải biết rõ tình hình cư trú theo từng địa bàn của học sinh,
để có những phương pháp giáo dục thích hợp với từng học sinh theo đặc điểm của địa
phương nơi học sinh ở. (PHỤ LỤC trang 37)
- Giáo viên theo dõi những trường hợp học sinh có hoàn cảnh khó khăn trong suốt
năm học.
Ví dụ:
Trang 8
Một số chuyên đề về công tác Giáo viên chủ nhiệm các trường THPT
HỌC SINH CÓ HOÀN CẢNH KHÓ KHĂN
HỌ TÊN HOÀN CẢNH GIA ĐÌNH
1 Nguyễn Vũ Phương Ánh Ba mới qua đời, mẹ đi làm nuôi hai chị em đi học
2 Nguyễn Thị Mai Phương Hộ nghèo ( có chứng nhận của địa phương )
3 Nguyễn Thị Phương Thảo
Gia đình làm ruộng, Ba đang điều trị Lao, Mẹ phải
phẫu thuật ung bướu, nuôi người cô ung thu u sọ hầu
- Giáo viên chủ nhiệm phải quan tâm theo dõi các học sinh xa nhà và đang phải ở
trọ, cần biết chính xác nơi các em ở trọ. (PHỤ LỤC trang 37)
- Ngoài ra giáo viên chủ nhiệm còn phải nắm thông tin chi tiết về phụ huynh học
sinh như số điện thoại di động, để biết hoàn cảnh đặc biệt của các em thông qua phụ huynh
học sinh (do các em ngại trình bày với giáo viên chủ nhiệm) như ba mẹ đã ly dị, ly thân,
gia đình có thành phần phức tạp, mâu thuẫn….. (PHỤ LỤC trang 38)
- Những thông tin thu được qua quá trình tìm hiểu học sinh cần được Giáo viên chủ
nhiệm phân tích, tổng hợp, so sánh, phân loại.... để rút ra những kết luận chính xác, khách
quan về đối tượng giáo dục, tránh kết luận vội vàng, nhầm lẫn, thiếu thiện chí.
2.2. Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa Giáo viên chủ nhiệm và học sinh – nền
tảng quan trọng của phương pháp quản lý lớp học bằng các biện pháp kỷ luật tích cực
Quan hệ bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau giữa người với người ở đất nước ta hiện nay
là điều kiện thuận lợi để hình thành quan hệ tốt đẹp giữa người lớn và thanh niên mới lớn.
Đặc biệt chúng ta đang thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Tuy
vậy khó tránh khỏi những xung đột nhỏ giữa thanh thiếu niên và người lớn, hay giữa giáo
viên chủ nhiệm và học sinh. Điều đó một phần do học sinh và giáo viên chủ nhiệm sống và
phát triển ở hai giai đoạn khác nhau. Mặt khác nó phụ thuộc nhiều vào thái độ của hai phía
đối với nhau, quan điểm của hai phía về nhau.
Quan hệ giữa giáo viên chủ nhiệm và học sinh có thể tốt đẹp nếu giáo viên chủ
nhiệm thực sự tin tưởng vào học sinh, tạo điều kiện để các em được thỏa mãn tính tích cực,
độc lập trong hoạt động, tạo điều kiện để nâng cao tinh thần trách nhiệm của học sinh.
Giáo viên chủ nhiệm không được quyết định thay, làm thay cho học sinh, như vậy các em
sẽ mất hứng thú và cảm thấy phiền toái. Mặt khác , thái độ “đỡ đầu” quá cặn kẽ của giáo
viên chủ nhiệm sẽ củng cố ở học sinh tính trẻ con, thờ ơ và vô trách nhiệm. Nếu quen với
cảm giác “đỡ đầu” đó các em sẽ rụt rè, không dám quyết định khi cần thiết. Giáo viên chủ
nhiệm cần tổ chức lớp tích cực, tự quản nhưng không phải thờ ơ, để mặc lớp làm gì thì
làm, phải lôi kéo tất cả học sinh vào hoạt động chung, kích thích được tinh thần trách
nhiệm, sự tự giáo dục và giáo dục lẫn nhau của các em.
Về điều này tôi đã tiến hành khảo sát và tìm ra được những điều học sinh cần và
chưa đồng ý về giáo viên chủ nhiệm, để từ đó giáo viên chủ nhiệm rút kinh nghiệm để xây
dựng được mối quan hệ tốt và nhận được sự ủng hộ của học sinh trong quá trình quản lý
lớp : (PHỤ LỤC trang 39 – 40 – 41)
Từ các ý kiến của học sinh được khảo sát, tôi rút ra những kết luận sau:
a. Những điều các em cần: (PHỤ LỤC trang 42)
- Thái độ quan tâm nhiều hơn đến các em, nhất là hoàn cảnh sống của các em, giúp
đỡ các em gặp hoàn cảnh khó khăn trong học tập.
Trang 9
Một số chuyên đề về công tác Giáo viên chủ nhiệm các trường THPT
- Khi các em vi phạm nội quy, không la mắng vội mà tìm hiểu nguyên nhân vì sao
các em vi phạm. Tùy vào mỗi hoàn cảnh mà có hình thức xử lý khác nhau.
- Tôn trọng ý kiến của các em. Nếu các em hiểu sai vấn đề thì điều các em mong
muốn không phải những lời nặng nhẹ mà là sự hướng dẫn cho các em thấy trách nhiệm
việc mình làm và sửa đổi.
- Thông cảm, lắng nghe các em nhiều hơn
- Thái độ nghiêm khắc, công bằng, thưởng phạt phân minh.
b. Những điều các em chưa đồng ý: (PHỤ LỤC trang 43)
- Thiếu quan tâm, thờ ơ, nhất là đối với các bạn có hoàn cảnh khó khăn, khi lớp
tham gia phong trào của trường thì không ủng hộ, không theo dõi và khi các em đạt thành
tích cũng không thấy khen ngợi, động viên.
- Can thiệp quá sâu vào tình cảm riêng tư của các em.
- Tạo áp lực về thành tích
- Lời lẽ thái quá, xúc phạm các bạn vi phạm trước tập thể lớp
- Áp đặt theo ý muốn của giáo viên chủ nhiệm, không tôn trọng ý kiến của học sinh.
- Thiếu công bằng .
Từ đó cá nhân tôi nhận thấy ở các em hình thành một số nguyện vọng cơ bản sau:
- Được yêu thương
- Được tôn trọng
- Được hiểu, thông cảm
c. Biện pháp của giáo viên chủ nhiệm đáp ứng được nguyện vọng cơ bản của học
sinh
- Hiểu đặc điểm tâm lý của học sinh qua từng giai đoạn
- Lắng nghe học sinh một cách quan tâm, chăm chú
- Tạo ra môi trường thân thiện ở trường mà học sinh có thể biểu lộ, thể hiện chính
bản thân các em.
- Cử chỉ nhẹ nhàng, ân cần. Luôn giữ cho âm điệu, giọng nói hài hòa trong lớp học.
Tuỳ theo tình huống, có lúc giọng nói mang tính chất quan tâm, phấn khởi, khuyến khích,
có lúc rõ ràng, kiên quyết, nghiêm khắc
- Tôn trọng ý kiến của học sinh.
- Động viên, giúp đỡ, khích lệ, khoan dung, độ lượng, vị tha . . .
- Công bằng với tất cả học sinh, không phân biệt đối xử
- Tạo giới hạn và bình tĩnh khi học sinh vi phạm nội quy. Nếu học sinh có mắc lỗi,
hãy chú ý đến hành vi của học sinh. Không được đồng nhất lỗi lầm của học sinh với nhân
cách, con người của các em.
Tôi tin là nếu chúng ta căn cứ vào tâm tư, nguyện vọng của các em để có các
phương pháp kỷ luật thích hợp thì chắc chắn chúng ta sẽ tạo được mối quan hệ tốt với học
sinh, tạo cho các em sự tin tưởng và tôn trọng, từ đó chúng ta mới có thể thiết lập các hình
thức kỷ luật tích cực được, vì căn bản phương pháp này dựa trên sự tự ý thức của các em.
Nếu giáo viên chủ nhiệm thiết lập được mối quan hệ vững chắc giữa thầy và trò dựa trên
nền tảng tôn trọng thì tập thể lớp sẽ tự giác thực hiện nội quy nghiêm túc , vì kính trọng
giáo viên và nhận thức được điều đúng đắn. Dù biết rằng việc này sẽ rất khó khăn vì ngoài
công tác chủ nhiệm, giáo viên còn công tác giảng dạy và cuộc sống bận rộn của gia đình,
nhưng nếu chúng ta cố gắng một chút thì sẽ tạo nên rất nhiều thay đổi tích cực.
2.3. Xây dựng quá trình quản lý lớp học bằng các biện pháp giáo dục kỷ luật tích
cực
- Căn cứ vào quá trình khảo sát, tôi rút ra được những hình thức kỷ luật mà học sinh nhận
thấy là chưa tích cực, thiếu hiệu quả giáo dục: (PHỤ LỤC trang 44)
Trang 10
Một số chuyên đề về công tác Giáo viên chủ nhiệm các trường THPT
+ Dùng vũ lực đối với học sinh: dùng thước đánh, tát vào mặt, nhéo tai, gõ vào
đầu...
+ La mắng, dùng lời lẽ nặng nề xúc phạm đến các em
+ Bản kiểm điểm thường xuyên sẽ không tạo được hiệu quả kỷ luật.
+ Dù vi phạm nhẹ cũng gọi điện thoại cho phụ huynh
+ Đuổi ra khỏi lớp khi vi phạm nội quy lần đầu.
+ Đi lao động (theo các em vừa mất thời gian mà không có tác dụng răn đe vì khi
lao động do phạm vi lao động trong sân trường rộng nên có nhiều bạn lén ngồi chơi, nói
chuyện hoặc không làm gì cả ...)
* ỨNG DỤNG THỰC TIỄN
Căn cứ vào quá trình chủ nhiệm của bản thân và sự đồng ý của hơn 90 % trong
tổng số 249 học sinh được khảo sát thăm dò ý kiến tôi xin mạnh dạn đề ra phương pháp
quản lý lớp học bằng biện pháp kỷ luật tích cực như sau:
Đầu năm học giáo viên chủ nhiệm và học sinh cùng tiến hành bàn bạc với
nhau về nội quy của lớp, hình thức kỷ luật đối với học sinh (dựa trên Điều lệ trường
THPT, Quy định về khen thưởng và kỷ luật học sinh của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo Việt
Nam - trích Quyết định 1118/QĐ của Bộ trưởng Bộ Giáo Dục ký ngày 1.12.1987). Sau
khi học sinh tự bàn bạc, thống nhất mọi điều, giáo viên chủ nhiệm sẽ tổng hợp
thành một bản “quy ước lớp học” hoặc “hình thức kỷ luật của lớp” và phổ biến.
Bản quy ước này có thể bổ sung hoặc sửa đổi tùy theo tình hình học tập của học sinh
và tình hình cụ thể của từng lớp.
Mỗi giáo viên chủ nhiệm sẽ căn cứ vào kinh nghiệm thực tế và tình hình cụ thể của
lớp chủ nhiệm của mình mà đưa ra nội dung bản quy ước hoặc hình thức kỷ luật cho phù
hợp, riêng cá nhân tôi thì tôi xin trình bày :
THANG ĐIỂM HẠNH KIỂM
I. ĐỒNG PHỤC
- Nam sinh: mang giày, xăngđan có quai hậu, không mang dép lê, quai chẻ. Mặc
quần màu xanh, không mặc quần màu đen, không nhuộm tóc, xịt keo, không để móng tay
quá dài ...
- Nữ sinh: mang giày, xăngđan có quai hậu, không mang dép lê, quai chẻ. Không
mang giỏ xách đi học, không nhuộm, uốn tóc, không sơn móng tay, chân. Mặc áo dài kín
đáo, đúng quy định
Nếu vi phạm trừ 5 điểm/lần
Vi phạm 2 lần/ tháng: trừ 10 điểm
Vi phạm 3 lần/tháng: mời phụ huynh phối hợp cải thiện tình hình
Vi phạm 4 lần trở lên/ tháng: hạ 1 bậc hạnh kiểm
* Cấm tuyệt đối học sinh nam và nữ mặc quần đáy ngắn. Vi phạm:
Lần đầu: bản kiểm điểm + trừ 5 điểm
Lần 2: mời PHHS làm bản cam kết mới cho vào lớp
Lần 3: hạ hạnh kiểm xuống 1 bậc
Lần 4: trở lên/ học kỳ: hạ hạnh kiểm xuống trung bình
II. CHUYÊN CẦN
1 . Đi học trễ: trừ 1 điểm/1 lần.
Nếu đi học trễ trên 3 lần/tháng tăng lên trừ 2 điểm/1 lần
2 . Nghỉ học không phép: trừ 2 điểm/1 lần, có phép: trừ 1 điểm/1 lần (áp dụng
cho cả những buổi học trái buổi)
Trang 11
Một số chuyên đề về công tác Giáo viên chủ nhiệm các trường THPT
Nghỉ học không phép từ 3 buổi trở lên trong 1 tháng: khiển trách trước lớp và trừ 4
điểm/1 lần
3. Cúp tiết:
- Vi phạm lần đầu: cảnh cáo và trừ 10 điểm
- Tái phạm nhiều lần trong tháng: Mời phụ huynh học sinh, hạ hạnh kiểm
4 . Không thuộc bài, không làm bài tập (ở nhà và trên lớp): trừ 5 điểm/lần.
- Không thuộc bài, không làm bài tập từ 3 lần trở lên trong 1 tháng: khiển trách trước lớp
và trừ 10 điểm/lần.
- Tái phạm nhiều lần trong tháng: Mời phụ huynh học sinh, hạ hạnh kiểm
5 . Nói chuyện, ngủ gục trong giờ học, nói chuyện trong giờ chào cờ, ăn vụng trong
giờ học: trừ 3 ñeán 10 ñieåm/lần
- Tái phạm nhiều lần trong tháng: Mời phụ huynh học sinh, hạ hạnh kiểm
III. NỘI QUY KHÁC
1. Sử dụng điện thoại di động trong giờ học:
- Lần đầu vi phạm: nhà trường tịch thu điện thoại di động, cuối năm học trả
cho phụ huynh học sinh, đánh giá hạnh kiểm
- Tiếp tục vi phạm: hạ hạnh kiểm xuống trung bình, yếu
2. Xả rác, ném phấn bừa bãi, mang thức ăn, nước uống vào: trừ 5 điểm/lần .
- Tái phạm trên 3 lần trong tháng: trừ 10 điểm / lần
- Tiếp tục vi phạm nhiều lần trong tháng: hạ 1 bậc hạnh kiểm.
3. Ban cán sự lớp, Ban chấp hành chi đoàn lớp không hoàn thành nhiệm vụ:
trừ 5 ñieåm/ lần
4. Học sinh nhận được sự phân công hợp lý của nhà trường, giáo viên chủ nhiệm,
Ban cán sự lớp, Đoàn trường mà cố tình không thực hiện : trừ 5 ñieåm/ lần
5. Học sinh nào vi phạm nội quy bị Giáo viên bộ môn ghi tên vào Sổ đầu bài : trừ
điểm gấp đôi hoặc gấp ba tùy theo mức độ vi phạm năng hay nhẹ .
- Tiếp tục vi phạm nhiều lần trong tháng: Mời phụ huynh học sinh, hạ hạnh kiểm
6. Lười biếng, cố tình không tham gia phong trào chung của lớp, của nhà trường:
trừ 5 ñieåm/lần
7. Vi phạm an toàn giao thông có xử lý biên bản của công an giao thông: Mời phụ
huynh học sinh, hạ hạnh kiểm
IV. HẠNH KIỂM YẾU
Nếu học sinh vi phạm vào những hành vi bị cấm đối với học sinh theo quy định
tại Điều 39 Điều lệ trường trung học như sau:
- Vô lễ, xúc phạm nhân phẩm, danh dự, xâm phạm thân thể của giáo viên, nhân
viên nhà trường
- Gian lận trong học tập, kiểm tra, thi cử
- Xúc phạm danh dự, nhân phẩm của bạn: đánh nhau, gây rối trật tự, an ninh trong
nhà trường và ngoài xã hội
- Đánh bạc; vận chuyển, tàng trữ và sử dụng ma túy; vũ khí, chất nổ, chất gây cháy,
các loại chất độc hại, lưu hành văn hóa phẩm đồi trụy.
- Hút thuốc, uống rượu, bia.
V. ĐUỔI HỌC (Theo Quy định về khen thưởng và kỷ luật học sinh của Bộ Giáo Dục
và Đào Tạo Việt Nam - trích Quyết định 1118/QĐ của Bộ trưởng Bộ Giáo Dục ký ngày
1.12.1987)
- Đuổi học 1 tuần lễ
Trang 12
Một số chuyên đề về công tác Giáo viên chủ nhiệm các trường THPT
Khi vi phạm những nội dung sau (Dù vi phạm lần đầu):
+ Trộm cắp
+ Trấn lột
+ Gây gổ đánh nhau có tổ chức và gây thương tích
- Đuổi học 1 năm:
+ Mắc khuyết điểm tái phạm sau khi bị đuổi học 1 tuần
+ Vi phạm những nội dung sau (Dù vi phạm lần đầu):
• Chủ động tham gia các tổ chức trộm cắp, trấn lột, trụy lạc...
• Dùng vũ khí (dao găm, lưỡi lê, súng, lựu đạn...) đánh nhau có tổ chức gây thương
tích cho người khác
• Can án ngoài trường bị công an bắt giữ
VI. ĐIỂM CỘNG KHUYẾN KHÍCH
Do các em chỉ có 50 điểm hạnh kiểm trong 1 học kì nên các em sẽ tự giác không vi
phạm nhiều lần, các em sẽ phấn đấu hơn để kiếm thêm điểm thưởng cộng vào điểm hạnh
kiểm của các em. Ví dụ: cộng từ 5 đến 10 điểm hạnh kiểm khi các em:
+ Tham gia hăng hái trong các giờ học của lớp và được lớp bình chọn là học
sinh có thành tích tốt nhất trong tuần hoặc tháng
+ Học sinh không vi phạm bất cứ nội quy nào trong tháng, học kì
+ Tham gia tích cực các phong trào của nhà trường và Đoàn Thanh niên
+ Tham gia tích cực trong hoạt động ngoài giờ .....
CÁCH TÍNH ĐIỂM VÀ XẾP LOẠI HẠNH KIỂM
Tổng điểm / học kì Xếp loại Chú ý
35 – 50 ĐIỂM TỐT
- Không vi phạm nội quy tại nội dung I, II, III
của thang điểm hạnh kiểm trên 3 lần trong 1
tháng
- Không vi phạm nội quy tại nội dung IV, V
của thang điểm hạnh kiểm trên
20 – 34 ĐIỂM KHÁ
- Không vi phạm nội quy tại nội dung I, II, III
của thang điểm hạnh kiểm trên 4 lần trong 1
tháng
- Không vi phạm nội quy tại nội dung IV, V
của thang điểm hạnh kiểm trên
10 – 19 ĐIỂM
TRUNG
BÌNH
- Không vi phạm nội quy tại nội dung IV, V
của thang điểm hạnh kiểm trên
1 – 9 ĐIỂM YẾU
0 ĐIỂM KÉM
Nếu đây là bản quy ước do chính các em đặt ra (dưới sự hướng dẫn, phân tích của
giáo viên chủ nhiệm) thì các em sẽ thực hiện nghiêm túc. Vì các em chỉ có 50 điểm hạnh
kiểm trong 1 học kì nên các em sẽ tự giác không vi phạm nhiều lần. Các em cũng phấn đấu
hơn để kiếm thêm điểm thưởng cộng vào điểm hạnh kiểm của các em (theo quy định trong
thang điểm hạnh kiểm nêu trên)
* TÁC DỤNG:
Bản “Thang điểm hạnh kiểm” là kết quả hợp tác dựa trên cơ sở cùng tôn
trọng lẫn nhau giữa giáo viên chủ nhiệm và học sinh nên sẽ tạo không khí thân thiện giữa
Trang 13
Một số chuyên đề về công tác Giáo viên chủ nhiệm các trường THPT
thầy và trò, học sinh không cảm thấy có áp lực nặng nề, gò bó, mất dân chủ... Giáo viên
chủ nhiệm cũng đã thiết lập được mối quan hệ vững chắc với học sinh và nhận được nơi
học sinh sự kính trọng, thương yêu, nhờ đó mà các em cố gắng rèn luyện. Các em sẽ có
cảm giác các em đang cùng giáo viên chủ nhiệm và cùng nhau xây dựng tập thể lớp vững
mạnh, đoàn kết, như vậy các em đang tự hoàn thiện đạo đức của bản thân ngày càng tiến
bộ hơn.
IV. TÌNH HÌNH THỰC TẾ KHI TRIỂN KHAI PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ
LỚP HỌC BẰNG BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỶ LUẬT TÍCH CỰC
Quản lý lớp học bằng biện pháp “Thang điểm hạnh kiểm” là biện pháp dựa
trên sự tự ý thức của các em là chính, hay nói cách khác chúng ta sẽ tạo ra một tập thể lớp
tự quản, tự giác thực hiện nghiêm chỉnh nội quy nhà trường. Nhưng tập thể này sẽ thực
hiện có hiệu quả hơn khi có sự quản lý chặt chẽ của giáo viên chủ nhiệm, của Ban cán sự
lớp năng động, nhiệt tình, trung thực và tận tâm vì tập thể lớp. Tâm lý của học sinh là
muốn tự mình quản lý mình, làm theo ý thích, nhưng nếu chúng ta không quan tâm, để mặc
thì các em sẽ đi quá đà, vì tuổi các em còn thiếu kinh nghiệm sống và khả năng ức chế thần
kinh. Do đó vẫn cần quan tâm, cố vấn của của giáo viên chủ nhiệm nhiều hơn, nhưng đồng
thời giáo viên chủ nhiệm không nên tạo ra quá nhiều áp lực cho các em. Cụ thể giáo viên
chủ nhiệm sẽ tiến hành biện pháp sau:
1. Kết hợp “Thang điểm hạnh kiểm” và sự quản lý chặt chẽ của giáo viên chủ
nhiệm
Giáo viên chủ nhiệm không thể dành hết thời gian quản lý lớp học cho nên giáo
viên sẽ quản lý lớp thông qua Ban Cán sự lớp. Chính vì thông qua trung gian nên giáo viên
chủ nhiệm cần có các biện pháp thích hợp để sự quản lý tiến hành được chặt chẽ, chính
xác, thuận lợi và đạt hiệu quả. Muốn đạt được điều đó giáo viên chủ nhiệm cần:
a. Dựa vào kinh nghiệm của mình phải chọn Ban cán sự lớp năng động, tích cực,
trung thực, tự giác, có tinh thần trách nhiệm
b. Phân công công việc rõ ràng và chi tiết, càng cụ thể càng tốt, tránh quy định
chung chung, các em sẽ rất khó làm việc vì không biết đó có phải nhiệm vụ của mình
không, rồi nảy sinh tình trạng đùn đẩy nhau, khiến công việc bế tắc và thiếu hiệu quả.
c. Cách thức tiến hành:
- Theo dõi và quản lý lớp thông qua báo cáo hàng tuần của ban cán sự lớp bằng sổ
theo dõi. (PHỤ LỤC trang 45)
- Hàng tuần tổ trưởng sẽ theo dõi hoạt động học tập, rèn luyện đạo đức của tổ viên
và chịu trách nhiệm ghi chép báo cáo chi tiết cho Giáo viên chủ nhiệm
- Hàng tháng các tổ trưởng sẽ tổng kết thang điểm hạnh kiểm của các tổ viên và nộp
báo cáo cho Giáo viên chủ nhiệm (PHỤ LỤC trang 46)
- Giáo viên chủ nhiệm phải tổng kết các hoạt động của lớp và các vi phạm của học
sinh thông qua nhiều nguồn từ giáo viên bộ môn, Đoàn thanh niên, lớp trưởng đến tổ
trưởng phân tích, xem xét, điều tra lắng nghe các em giải thích tìm hình thức xử
lý phù hợp hơn.
d. Tác dụng:
Khi giáo viên chủ nhiệm tổng kết hạnh kiểm cho các em, tự bản thân các em sẽ thấy
mình tiến bộ hay tuột hậu. Đối với các em tiến bộ thì giáo viên chủ nhiệm hãy khen ngợi
hết lời để các em hãnh diện và phấn đấu giữ vững thành tích, đồng thời cũng giúp các bạn
chưa tiến bộ cố gắng hơn .
Trang 14
Một số chuyên đề về công tác Giáo viên chủ nhiệm các trường THPT
Đối với các em vi phạm nhiều có nghĩa là các em không tự ý thức được quyền lợi
của mình thì đến lúc này giáo viên chủ nhiệm mới áp dụng hình thức xử phạt nặng hơn để
thực hiện 2 mục tiêu giáo dục:
- Thứ nhất các em sẽ thấy mình đã đánh mất cơ hội sửa chữa lỗi lầm và bây giờ các
em sẽ ý thức được các em sẽ phải nhận những hình thức kỷ luật nghiêm khắc hơn, khi đó
các em mới tâm phục khẩu phục và chấp nhận sửa đổi.
- Thứ hai đây là hình thức nhắc nhở các em chưa vi phạm biết cố gắng trân trọng
những cơ hội của mình.
e. Kết quả thực hiện trên thực tế:
Trong quá trình nhận công tác chủ nhiệm theo sự phân công của Ban Giám hiệu, cá
nhân tôi đã áp dụng biện pháp kỷ luật bằng “Thang điểm hạnh kiểm” trên đối với các lớp
do tôi quản lý. Tôi nhận được những kết quả thực tế như sau:
Ví dụ 1:
- Tập thể lớp có học sinh có học lực giỏi và đa phần các em đều có ý thức
học tập chăm chỉ và rèn luyện đạo đức nghiêm túc thì bản “Thang điểm hạnh kiểm” đã
được lớp thực hiện nghiêm túc và kết quả các em đạt được rất tốt
Năm học 2004-2005: lớp 10A7 (Sĩ số 46)
Xếp loại hạnh kiểm Học kì I Xếp loại hạnh kiểm Học kì II
Tốt: 45 học sinh
TB: 01 học sinh (do vi phạm quy chế thi )
Tốt: 46 học sinh
Ví dụ 2:
- Tập thể lớp có nhiều đối tượng học sinh từ giỏi đến yếu thì bản “Thang
điểm hạnh kiểm” đã góp phần cải thiện được tình hình rèn luyện đạo đức của các em còn
lười học, chưa thực sự tự giác .
2. Thực trạng khó khăn: Lớp học có nhiều học sinh cá biệt
a. Thế nào là học sinh cá biệt?
Những học sinh có thái độ lười biếng trong học tập
Những học sinh thường xuyên gây mất trật tự, vô kỷ luật, tập hợp những học
sinh cùng ý chí để quấy phá, gây trở ngại cho việc tổ chức và tiến hành các hoạt động của
tập thể
b. Vì sao các em trở thành học sinh cá biệt?
Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã từng nói “…Hiền dữ phải đâu là tính sẵn.
Phần nhiều do giáo dục mà nên”, cho thấy việc hình thành nhân cách của học sinh phụ
thuộc rất nhiều vào yếu tố bên ngoài, như môi trường gia đình, học tập, giao tiếp xã hội...
trong đó giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong phát triển tâm lý của học sinh. Giáo dục phải đi
trước một bước, phải đón trước sự phát triển, tạo cho học sinh hình thành những phẩm chất
nhất định của cá nhân, đáp ứng được những yêu cầu của xã hội. Do đó, với đối tượng học
sinh cá biệt thì giáo viên chủ nhiệm càng phải tìm hiểu kỹ lưỡng hơn, đừng vội đồng nhất
hành vi với nhân cách của các em.
Trang 15
Năm học 2006-2007 : lớp 11A7 ( Sĩ số 43 )
Xếp loại hạnh kiểm Học kì I Xếp loại hạnh kiểm Học kì II
Tốt: 17 học sinh
Khá: 19 học sinh
TB: 7 học sinh
Tốt: 24 học sinh
Khá: 16 học sinh
TB: 3 học sinh
Một số chuyên đề về công tác Giáo viên chủ nhiệm các trường THPT
Tìm hiểu đối tượng là bước quan trọng đầu tiên đảm bảo cho quá trình giáo
dục được tiến hành có kết quả, công tác này đòi hỏi tinh thần trách nhiệm rất cao và sự tận
tụy, chịu khó của giáo viên chủ nhiệm. Nếu chịu khó tìm hiểu chúng ta sẽ thấy đa phần các
học sinh cá biệt là do chịu những ảnh hưởng chưa tích cực như:
- Các em là một nạn nhân của một gia đình có tiềm ẩn nhiều yếu tố tiêu cực như ba
mẹ ly thân, mạnh ai nấy sống, bạo hành, nghiện ngập, vướng vào hoạt động ma túy, cờ
bạc, đánh đề, mại dâm ...
- Các em không nhận được sự quan tâm đúng mức của người lớn: ba mẹ chỉ lo làm
ăn không có thời gian chú ý đến hoạt động ở nhà và học tập của con cái; ba mẹ ly dị, sống
với ông bà già yếu, mồ côi cha hoặc mẹ thiếu thốn tình thương; thái độ thường xuyên phẫn
nộ, đánh đập khi các em phạm lỗi của phụ huynh...
- Các em ngỗ ngược, chống đối hoặc ham chơi, nghiện net, do ba mẹ quá nuông
chìu, muốn gì được đó ( nhất là ngày nay mỗi gia đình chỉ có 1 đến 2 con mà đời sống vật
chất thì tương đối khá hơn )
- Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, phải phụ giúp gia đình không có nhiều thời gian
đầu tư vào việc học, khi bị giảm sút trong học tập thì nảy sinh cảm giác chán nản, buông
xuôi.
- Học tập sa sút do điều kiện sức khỏe không tốt....
Từ những tác động trên, dần dần các em hình thành tâm lý chán nản, mất phương hướng,
dễ có những quan niệm lệch lạc về suy nghĩ, dẫn đến hành vi sai trái.
c. Khắc phục khó khăn bằng cách phối hợp giữa “Thang điểm hạnh kiểm” và
các biện pháp kỷ luật giáo dục tích cực khác
Cũng có năm tôi chủ nhiệm lớp có học sinh cá biệt. Tôi xin cam đoan rằng
bản “Thang điểm hạnh kiểm” và cách quản lý chặt chẽ của Ban cán sự lớp, Giáo viên chủ
nhiệm đã ít nhiều kềm chế được các em. Nhưng tôi cũng gặp một số học sinh cá biệt không
tuân theo những thỏa thuận ban đầu giữa các em và giáo viên chủ nhiệm, đến giai đoạn này
thì giáo viên chủ nhiệm sẽ phải kết hợp thêm các phương pháp kỷ luật khác như:
c1. Kỷ luật bằng sức mạnh của tập thể lớp hay còn gọi là phương pháp “tác
động song song”:
- Thông qua các thành viên khác trong lớp (Ban Cán sự lớp, nhóm bạn bè
nhỏ) nhắc nhở , theo dõi các học sinh cá biệt, để các em cảm nhận được sự quan tâm đó mà
thay đổi suy nghĩ theo hướng tích cực hơn
- Dùng dư luận trong lớp điều chỉnh hành vi cá nhân, phát huy tính tích cực
hoạt động của học sinh, lôi kéo các em cá biệt vào những hoạt động chung của tập thể
bằng cách thay vì trách phạt, hãy giao cho các em những công việc của tập thể, quan tâm
giúp đỡ em hoàn thành tốt để nhận được sự khen thưởng từ tập thể, từ đó các em nhận thức
được lợi ích của những hành vi đạo đức đúng đắn.
c2. Kỷ luật bằng phương pháp “ bùng nổ sư phạm”:
- Sự tác động trực tiếp nhưng sử dụng với mức độ tác dộng mạnh, bất ngờ
vào quá trình hưng phấn và ức chế của hoạt động sinh lý thần kinh, dẫn tới sự thay đổi
trạng thái tâm lý của học sinh cá biệt, làm thay đổi các quá trình tâm lý như nhận thức, xúc
cảm, tình cảm, hành vi của đối tượng tác động
- Phương tiện thực hiện: ngôn ngữ, hành vi, quyết định của giáo viên chủ
nhiệm và tập thể lớp
- Chú ý:
Sử dụng phương pháp này rất khó, đòi hỏi kinh nghiệm chủ nhiệm lâu năm và khả
năng nắm bắt tâm lý, khéo léo trong ứng xử, khả năng thuyết phục cao của giáo viên chủ
nhiệm, vì phương pháp này giống như con dao hai lưỡi, nếu giáo viên chủ nhiệm để học
Trang 16
Một số chuyên đề về công tác Giáo viên chủ nhiệm các trường THPT
sinh biết ý đồ của mình thì chẳng những không còn tác dụng giáo dục mà sẽ mang lại
nhiều hậu quả đáng tiếc xảy ra ngoài ý muốn.
Do đó tác động bùng nổ sư phạm phải đúng thời cơ, khéo léo, gây được cảm xúc
mạnh, bất ngờ mà đối tượng tác động hoàn toàn không hiểu được ý đồ của nhà sư phạm.
d. Kết quả đạt được trên thực tế:
- Giáo viên chủ nhiệm áp dụng “Thang điểm hạnh kiểm” đối với các đối tượng trên
không đạt hiệu quả như mong muốn, các em vẫn tiếp tục vi phạm. Vì vậy giáo viên chủ
nhiệm đã bỏ ra nhiều thời gian hơn tìm hiểu về các em và nhận được những nguyên nhân
sau đây đã khiến các em chưa ý thức tốt:
- Căn cứ vào đặc điểm gia đình giáo viên lựa chọn các biện pháp kỷ luật khác nhau
cho phù hợp:
Trang 17
Năm học 2006-2007: lớp 11A7 ( Sĩ số 43 )
Học sinh cá biệt Vi Phạm
1. Tạ Quốc Duy
- Thường xuyên nói chuyện, cười giỡn gây mất trật tự trong
giờ học
- Thường xuyên không thuộc bài, không làm bài tập
2. Bùi Thị Thùy Duyên
3. Nguyễn Phú Hậu
4. Nguyễn Hoàng Khải
5. Phan Bình Trọng
Học sinh cá biệt Đặc điểm gia đình
1. Tạ Quốc Duy Cha mất, thiếu thốn sự chỉ bảo quan trọng từ người cha
2. Bùi Thị Thùy Duyên
Gia đình có 6 người con, cha làm mướn, mẹ vừa nội trợ vừa
đi phụ việc ở quán café. Bản thân em cũng phải đi làm phụ
mẹ ở quán.
3. Nguyễn Phú Hậu
Tính tình cố chấp, ngoan cố do sự nuông chìu của gia đình,
trong khi cả ba và mẹ đều là giáo viên. Có thái độ vô lễ, hay
nói leo trong khi giáo viên giảng bài
4. Nguyễn Hoàng Khải
Ba và mẹ đi làm, buôn bán, không có thời gian quan tâm đến
em. Nhà xa trường không liên lạc được bằng điện thoại, mà
em lại không đưa giấy mời họp phụ huynh của giáo viên chủ
nhiệm, khiến quá trình liên lạc của giáo viên chủ nhiệm với
gia đình gặp rất nhiều khó khăn
5. Phan Bình Trọng
Do gia đình có cơ sở làm ăn phát đạt nên không cần con cái
phải học nhiều, không đầu tư vào việc học mà chỉ cho con
tiêu xài hoang phí vào xe máy, điện thoại….
Một số chuyên đề về công tác Giáo viên chủ nhiệm các trường THPT
Ban đầu cũng gặp nhiều khó khăn nhưng dần dần từ ảnh hưởng của tập thể lớp, sự
khuyên bảo của giáo viên chủ nhiệm các em đã điều chỉnh hành vi theo hướng tích cực hơn
và tiến bộ rất nhiều trong học kì II.
e. Trường hợp những biện pháp giáo dục kỷ luật trên vẫn không hiệu quả
Đối với những học sinh cá biệt không hợp tác thì GVCN phải áp dụng hình
thức kỷ luật cao hơn theo đúng quy định kỷ luật của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo:
- Mời phụ huynh và hạ hạnh kiểm xuống mức trung bình, yếu ….
- Khiển trách trước Hội đồng kỷ luật nhà trường
- Cảnh cáo trước toàn trường
- Đuổi học 1 tuần
- Đuổi học 1 năm
Trang 18
Học sinh cá biệt Biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực
1. Tạ Quốc Duy
2. Bùi Thị Thùy Duyên
3. Nguyễn Phú Hậu
- Tìm gặp riêng gia đình các em để thông báo tình hình
và yêu cầu gia đình phối hợp chặt chẽ hơn với giáo viên chủ
nhiệm trong quá trình rèn luyện đạo đức của các em
- Kỷ luật bằng cách giao việc của tập thể lớp như giúp
lớp bôi bảng, đóng cửa sổ, tắt đèn quạt khi ra về , giúp lớp
làm vệ sinh phòng học, giúp lớp chuẩn bị phòng thí nghiệm,
sân bãi khi tập thể dục….để các em tham gia nhiều hơn vào
các hoạt động tập thể.
- Chịu sự kiểm tra của Ban cán sự lớp về vấn đề học
bài và làm bài tập trong giờ truy bài trước khi vào học, bên
cạnh đó có sự giám sát của giáo viên chủ nhiệm
4. Nguyễn Hoàng Khải
5. Phan Bình Trọng
Học sinh cá biệt Hạnh kiểm học kỳ I
Hạnh kiểm học kỳ II và cả
năm
1. Tạ Quốc Duy Trung bình Khá
2. Bùi Thị Thùy Duyên Trung bình Khá
3. Nguyễn Phú Hậu Trung bình Khá
4. Nguyễn Hoàng Khải Trung bình Khá
5. Phan Bình Trọng Trung bình Khá
Một số chuyên đề về công tác Giáo viên chủ nhiệm các trường THPT
Khi chấp nhận sử dụng phương pháp giáo dục kỷ luật tích cực thì giáo viên
chủ nhiệm chỉ có thể làm như vậy. Chúng ta không thể chửi bới, xúc phạm các em nặng nề,
hay phạt lao động liên tục được. Rõ ràng chúng ta biết những phương pháp đó không hề
tạo ra kết quả tích cực mà đôi khi còn tạo ra nhiều tình huống nguy hiểm như học sinh bỏ
nhà đi, tự tử ...
Dù đối tượng của chúng ta là học sinh giỏi, khá hay cá biệt thì các em đều
cần ở chúng ta sự tin tưởng, yêu thương, tôn trọng , cho các em thấy các em có giá trị,
trưởng thành. Chúng ta nên giúp các em tự nhận ra lỗi lầm và hướng dẫn các em khắc phục
để tiến bộ hơn. Tuy rằng giáo viên chủ nhiệm không thể thay đổi được suy nghĩ của tất cả
học sinh nhưng với sự cố gắng, nỗ lực hết khả năng của mình, giáo viên chủ nhiệm sẽ
giảm thiểu được tối đa số học sinh bị buộc phải thôi học vì vi phạm nội quy.
C. KẾT LUẬN
I. ƯU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ CỦA PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ LỚP HỌC
BẰNG CÁC BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỶ LUẬT TÍCH CỰC
1. Ưu điểm
Qua quá trình nghiên cứu và từ thực tế của bản thân tôi nhận thấy: Quản lý lớp học bằng
các biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực nếu được giáo viên chủ nhiệm và tập thể lớp hợp
tác thực hiện nghiêm túc thì sẽ:
- Giảm áp lực quản lý lớp học vì học sinh hiểu và tự giác chấp hành kỷ luật. Từ đó
giáo viên chủ nhiệm tạo ra sự tin tưởng nơi học sinh, được học sinh tôn trọng, quý mến,
xây dựng được mối quan hệ thân thiện giữa thầy và trò
- Nâng cao hiệu quả quản lý lớp học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
- Được sự đồng tình, ủng hộ từ phía gia đình, học sinh và xã hội.
- Học sinh có nhiều cơ hội chia sẻ, bày tỏ cảm xúc, được mọi người quan tâm, tôn
trọng và lắng nghe ý kiến .
- Các em sẽ tích cực , chủ động hơn trong học tập.
- Các em sẽ tự tin hơn trước đám đông và phát huy được khả năng cá nhân
- Chúng ta sẽ góp phần đào tạo được những công dân tốt, giàu khả năng phục vụ,
cống hiến, cho gia đình, xã hội trong tương lai.
- Giảm thiểu được tệ nạn xã hội, bạo hành, bạo lực. Từ đó góp phần xây dựng nhiều
gia đình hạnh phúc và xã hội phồn vinh.
2. Hạn chế
- Quản lý lớp học bằng các biện pháp giáo dục tích cực phụ thuộc rất nhiều vào sự
tự ý thức của học sinh cho nên giáo viên chủ nhiệm sẽ gặp nhiều khó khăn khi tiến hành.
Giáo viên chủ nhiệm phải bỏ ra nhiều thời gian tìm hiểu đặc điểm của học sinh trong tập
thể lớp, chuẩn bị hồ sơ, sổ theo dõi cho Ban cán sự lớp, tổng kết hạnh kiểm hàng tuần để
có biện pháp khắc phục nhanh chóng các trường hợp vi phạm
- Đòi hỏi ở giáo viên chủ nhiệm nhiều kinh nghiệm, năng lực và uy tín cao.
- Nếu giáo viên chủ nhiệm không chọn được Ban cán sự lớp vững mạnh, tích cực,
trung thực thì không thu nhận được các kết quả khách quan và chính xác và bản “Thang
điểm hạnh kiểm” sẽ không phát huy được tác dụng.
- Đối với một số học sinh nhút nhát, sống khép kín hoặc những học sinh lì lợm thì
giáo viên chủ nhiệm sẽ không nhận được ý kiến phản hồi hay thái độ hợp tác từ các em,
gây khó khăn trong quá trình quản lý lớp.
II. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ:
Trang 19
Một số chuyên đề về công tác Giáo viên chủ nhiệm các trường THPT
- Để đạt được mục đích giáo dục học sinh bằng biện pháp kỷ luật tích cực, ta
cần phải biết chọn điểm xuất phát thích hợp với đặc điểm riêng của từng trường, từng lớp,
từng học sinh để lựa chọn biện pháp thích hợp.
- Ngoài bản thân giáo viên chủ nhiệm nỗ lực phấn đấu quản lý lớp thì giáo viên
chủ nhiệm còn phải phối hợp chặt chẽ với Ban giám hiệu, chi hội CHMS trường, tổ chức
Đoàn Thanh niên, tổ chức địa phương … trong suốt quá trình triển khai biện pháp giáo dục
kỷ luật tích cực thì mới đạt được hiệu quả giáo dục học sinh toàn diện.
- Giáo viên chủ nhiệm phải là người có uy tín, có năng lực thực sự để tạo được
sự tin tưởng nơi học sinh, tạo được mối quan hệ thân thiết giữa thầy và trò, điều này góp
phần rất lớn tạo nên sự trưởng thành ở mỗi học sinh, sự vững mạnh và ngày càng tiến bộ
của mỗi lớp học. Cho nên bản thân giáo viên chủ nhiệm phải luôn luôn cố gắng học tập
hoàn thiện phẩm chất và năng lực của người giáo viên CNXH, rèn luyện đạo đức, tác
phong, mẫu mực trong giao tiếp xã hội, đồng nghiệp và thầy trò, xứng đáng là tấm gương
đạo đức cho học sinh noi theo.
Trên đây là một vài ý kiến của cá nhân tôi trong quá trình giáo dục đạo đức học
sinh trong vai trò giáo viên chủ nhiệm, vì thế sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất mong
nhận được sự góp ý quý báu của Hội đồng xét duyệt chuyên đề cùng quý thầy cô và các
đồng nghiệp rất nhiều. Xin gửi lời cảm ơn và lời chúc sức khỏe đến Hội đồng xét duyệt,
các quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp kính mến .
Trang 20
Một số chuyên đề về công tác Giáo viên chủ nhiệm các trường THPT
Chuyên đề 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NGĂN NGỪA “BẠO LỰC HỌC
ĐƯỜNG” CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM
Thực hiện: GV Phạm Thành Định
Đơn vị: THPT Sông Ray
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Hiện tượng học sinh gây sự, đánh nhau vốn đã tồn tại trong trường học từ rất lâu,
tuy nhiên nó mang tính chất bộc phát và hậu quả thường ít nghiêm trọng. Cùng với sự phát
triển của kinh tế thị trường, do sự du nhập của các trào lưu văn hóa khác nhau, “bạo lực
học đường” ngày càng tăng cả về tần suất và mức độ nghiêm trọng.
Là một giáo viên chủ nhiệm ở trường THPT, trước tình hình tệ nạn xã hội bủa vây,
diễn biến tâm lý lứa tuổi của học sinh rất phức tạp. Tôi nhận thấy, một trong các nhiệm vụ
cấp bách là tìm hiểu rõ nguyên nhân của hiện tượng bạo lực học đường. Từ đó đưa ra các
giải pháp hữu hiệu để ngăn ngừa và hạn chế học sinh tham gia vào vấn nạn trên.
Với mong muốn đặt vấn đề để quý thầy cô cùng bàn luận, cùng tìm ra các biện pháp
tối ưu nhằm ngăn ngừa và đẩy lùi tình trạng học sinh ứng xử với nhau bằng bạo lực và
tránh hậu quả đáng tiếc xảy ra, tôi mạnh dạn xây dựng chuyên đề: Một số kinh nghiệm
trong công tác chủ nhiệm lớp trước “vấn nạn bạo lực học đường”ở trường THPT Sông
Ray để trình bày trước hội nghị ngày hôm nay.
Bản thân dù đã cố gắng nhưng còn ít kinh nghiệm nên không khỏi có những thiếu
sót trong lý luận và thực tiễn, rất mong nhận được sự góp ý chân thành từ quý thầy cô để
chuyên đề được hoàn thiện hơn.
II. NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ:
1. Cơ sở lý luận:
1.1./ Bạo lực học đường: Tính chất và hậu quả.
Bạo lực học đường là hệ thống xâu chuỗi lời nói, hành vi mang tính bạo lực như:
miệt thị, đe dọa, khủng bố
(1)
,...giữa người với người trong nhà trường. Đó có thể là thầy cô
dùng các biện pháp “bạo lực” để trừng phạt học sinh; đó có thể là học sinh giải quyết mâu
thuẫn với nhau bằng cách sỉ vả, đánh đập, đâm chém nhau,...Chuyên đề này chủ yếu bàn
về khía cạnh thứ hai: học sinh ứng xử với nhau bằng các hành vi bạo lưc.
Bạo lực trong học sinh diễn ra ngày càng nhiều với tính chất ngày càng nghiêm
trọng. Các phương tiện thông tin đại chúng thường xuyên đưa tin về học sinh đánh nhau,
hình thức gây án mang tính chất côn đồ, có nhiều vụ các băng nhóm thanh toán nhau theo
kiểu xã hội đen.
Về hậu quả, thứ trưởng bộ GD&ĐT Trần Quang Quý nhận định: “học sinh đánh
nhau là hành vi tiêu cực, để lại nhiều hậu quả cả về mặt thể chất, tâm lý và tinh thần cho
các em, không chỉ làm cho các em lo lắng, đau khổ nhất thời, mà còn làm ảnh hưởng tới
sự phát triển tình cảm, xã hội và thể chất của học sinh, khiến thành tích học tập của các
em bị giảm sút”
(2)
.
1.2./ Nguyên nhân tình trạng “Bạo lực học đường” gia tăng:
Khi bàn về nguyên nhân dẫn đến tình trạng “bạo lực học đường trong học sinh” gia
tăng trong thời gian qua dư luận có nhiều ý kiến khác nhau. Ngoài nguyên nhân chủ quan
là sự bồng bột, thiếu chín chắn của lứa tuổi còn có nhiều nguyên nhân khác. Tựu chung lại
có hai nguyên nhân chính như GS Vũ Khiêu nhận định: “Một là giáo dục đạo đức trong
gia đình, nhà trường, xã hội; mặt khác là sự thiếu nghiêm minh của pháp luật”
(3)
.
Trang 21
Một số chuyên đề về công tác Giáo viên chủ nhiệm các trường THPT
Thứ nhất, việc giáo dục đạo đức trong gia đình, nhà trường và xã hội là nhân tố xuyên
suốt, quyết định sự hình thành nhân cách của trẻ.
Trước hết, sự tác động trực tiếp và thường xuyên đến nhân cách, đến lối hành xử của
học sinh qua các hành vi ứng xử từ gia đình và xã hội. Ở nhiều gia đình không có không
khí dân chủ, các thành viên thiếu sự quan tâm chia sẻ và quen ứng xử với nhau bằng bạo
lực,.... Trong khi ngoài xã hội bạo lực tràn lan, người ta giải quyết mâu thuẫn một cách
nhanh chóng bằng các hình thức bạo lực, mà ở đó chiến thắng luôn thuộc về kẻ mạnh.
Bên cạnh đó, là ảnh hưởng tiêu cực từ phim ảnh, iternet mà đặc biệt là game bạo lực.
Theo TS Huỳnh Văn Nam: “Đến với trò chơi điện tử, các em sẽ được làm theo những gì
mình thích để thỏa mãn sự tò mò mang tính tâm lý. ...Có rất nhiều trường hợp các game
thủ mang chính những “kỹ năng” của mình từ trò chơi điện tử áp dụng vào cuộc sống
ngoài đời thực”
(4)
.
Về phía nhà trường, hiện thiên về dạy kiến thức, mà ít giáo dục đạo đức, kỹ năng ứng
xử cho học sinh. Thực tế, “dạy học môn giáo dục đạo đức không hiệu quả, không thiết
thực, học chưa đi đôi với hành”
(5)
. Giáo viên, phần vì bị áp lực dạy kịp PPCT, dạy để học
sinh đi thi; phần vì quản lý quá nhiều học sinh,... nên ít có thời gian quan tâm, gần gũi, chia
sẻ với các em. Khi xảy ra sự va chạm trong học sinh, giáo viên chủ nhiệm ít khi giúp đỡ
các em giải quyết triệt để, hợp lý vướng mắc dẫn đến mâu thuẫn. Do đó các em thường “tự
xử” bằng các hành vi bạo lực.
Đến trường bị áp lực học tập đè năng, về nhà bị bỏ rơi, xã hội thì thờ ơ với các hành
vi xấu, từ đó các em trở nên quậy phá, “kiếm chuyện” như là cách để tìm kiếm sự quan
tâm và dần trở thành thói quen.
Thứ hai, sự quản lý lỏng lẻo của nhà trường và sự thiếu nghiêm minh của pháp luật
cũng là nhân tố làm tăng bạo lực học đường. Ở các trường, việc thực hiện nội quy trường
lớp không nghiêm, xử lý kỷ luật không hiệu quả, thiếu các chế tài mang tính răn đe. Phía
cơ quan thực thi pháp luật xử lý những kẻ gây rối, làm mất trật tự xã hội chưa nghiêm khắc
để làm giương. GS Nguyễn Lân Dũng từng nói:“Nhân đạo với một thiểu số(người giây
bạo lưc) tức là không nhân đạo với số đông học sinh”
(3)
. Tôi nghĩ đây là điểm hầu hết các
trường đang vướng mắc khi xử lý học sinh tham gia bạo lực.
Vậy, nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến bùng phát bạo lực học đường trong những
năm gần đây là do thiếu cơ chế phối hợp giáo dục hiệu quả từ ba phía: gia đình, nhà trường
và xã hội.
1.3./ Nhiệm vụ giáo dục đạo đức học sinh của giáo viên chủ nhiệm lớp:
Căn cứ điều lệ trường THPT, có thể tóm tắt các nhiệm vụ cơ bản của giáo viên chủ
nhiệm lớp trong việc giáo dục đạo đức học sinh như sau:
- Giáo viên chủ nhiệm là người trực tiếp quản lý học sinh trong lớp; phôi hợp đoàn
trường, ban quản sinh và PHHS để quản lí và giáo dục đạo đức học sinh. Tổ chức để lớp
thi đua học tập, xây dựng tập thể nề nếp, thân thiện; tạo môi trường để học sinh thực hành
các hành vi đạo đức, kỹ năng sống.
- Là người trước tiên nắm bắt những biến động tâm lý của học sinh; đóng vai trò là
“nhà tư vấn tâm lý” giúp học sinh tìm ra phương hướng giải quyết các vướng mắc gặp phải
trong cuộc sống.
Như vậy giáo viên chủ nhiệm đóng vai trò quan trọng và có nhiệm vụ ngăn ngừa,
hạn chế hành vi ứng xử có tính bạo lực của học sinh lớp mình.
2./ Cơ sở thực tiễn:
2.1./ Thực trạng “Bạo lực học đường” ở trường THPT Sông ray:
Trang 22
Một số chuyên đề về công tác Giáo viên chủ nhiệm các trường THPT
Tình hình học sinh vi phạm kỷ luật, trong đó có “bạo lực học đường” ở trường
THPT Sông Ray mấy năm qua có xu hướng tăng, cả về số vụ và mức độ. Theo thống kê từ
Ban quản sinh của nhà trường tôi có số liệu sau:
TT Năm học
Tổng số học
sinh vi phạm
Số lượt học sinh
tham gia BLHĐ
Mức độ Số học sinh bị kỷ
luật đuôi học
Nhẹ Nặng
1 2008 - 2009 35 20 16 4 03
2 2009 - 2010 40 28 19 9 05
3 02 tháng đầu
2010 - 2011
14 7 3 4 04
Vấn đề là, còn rất nhiều những mâu thuẫn đang manh nha và nhiều vụ “bạo lực” đã
xảy ra bên ngoài mà nhà trường không thể thống kê và xử lý hết được.
2.2./ Nhận thức của giáo viên làm công chủ nhiệm về “vấn nạn bạo lực học đường”:
Giáo viên làm công tác chủ nhiệm ở trường THPT Sông Ray nói riêng, nhiều nơi
khác nói chung cũng rất trăn trở và bức xúc trước tình trạng “bào lực học đường” gia tăng.
Tuy nhiên, các phương pháp mà giáo viên được trang bị và áp dụng hiện này ít có hiệu
quả. Vì vậy, trong thực tế không ít giáo viên khi có học sinh vi phạm thì đề nghị xử lý kỷ
luật nặng như đuổi học hoặc làm các em nản chí bỏ học,...cốt để loại bỏ học sinh cá biệt ra
khỏi lớp; mà ít khi tìm biện pháp giáo dục hiệu quả hơn cho từng học sinh.
Qua thực trạng trên tôi đặt ra câu hỏi: Những giải pháp nào hiệu quả để ngăn
ngừa và đẩy lùi “bạo lực” trong nhà trường hiện nay?
3. Các giải pháp nhằm ngăn ngừa và từng bước đây lùi bạo lực học đường:
3.1./ Các giải pháp vĩ mô do các chuyên gia giáo dục và nhà quản lý đề xuất nhằm ngăn
ngừa, từng bước đây lùi bạo lực học đường:
a) Xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ ba môi trường giáo dục: gia đình - nhà
trường - xã hội. Đồng thời, xã hội và ngành giáo dục cần xác định rõ lại vai trò, vị trí của
người thầy, quyền hạn và trách nhiệm trong nhiệm vụ giáo dục đạo đức học sinh. Người
thầy và nhà trường phải được bảo vệ danh dự và có đủ cơ chế để răn đe học sinh.
b) Thực thi nghiêm khắc pháp luật, trong đó xử lý triệt để các vi phạm pháp luật về
gây rối trật tự xã hội, bạo lực gia đình,..và thực hiện nghiêm các quy định về quản lý dịch
vụ internet, ngăn chặn game bạo lực. Qua đó ngăn ngừa thói quen ứng xử bạo lực trong lớp
trẻ. Nhà trường cần thực hiện các biện pháp kỷ luật nghiêm minh, hiệu quả để tạo cơ chế
răn đe. Kể cả phải áp dụng hình thức đuổi học, bởi như PGS Văn Như Cương từng
nói:“nếu không đuổi học thì hình như các hình thức kỷ luật khác không có hiệu quả gì
nhiều về mặt giáo dục”
(5)
.
c) Theo TS Đinh Phương Duy: “Cần nghiên cứu bài bản tâm sinh lý lứa tuổi của
học trò ngày nay, những nghiên cứu trước đây đã không còn phù hợp với các em trong
một điều kiện xã hội mới”
(6)
. Từ đó, trang bị cho các nhà quản lý, giáo viên và phụ huynh
phương pháp giáo dục đạo đức phù hợp, hiệu quả hơn.
d) Nhà trường cần quản lý chặt chẽ việc thực hiện nội quy trường - lớp của học
sinh. Phải nắm được sơ bộ danh sách các học sinh cá biệt, có dấu hiệu bạo lực để có biện
pháp quản lý phù hợp. Thực hiện nghiêm việc cấm học sinh mang “hung khí” tới trường,
kể cả việc học sinh mang dao gọt trái cây, kéo cắt giấy,...Phát huy trách nhiệm đội ngũ
giáo viên chủ nhiệm trong việc thường xuyên nhắc nhở học sinh tránh các hành vi ứng xử
bạo lực, đồng thời nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng của từng học sinh. Phát hiện sớm
các vướng mắc trong quan hệ bạn bè của các em, giúp các em tìm hướng giải quyết hợp lý.
Tình thương, trách nhiệm là phương thuốc hiệu nghiệm ngăn chặn bạo lực học đường.
Trang 23
Một số chuyên đề về công tác Giáo viên chủ nhiệm các trường THPT
e) Tổ chức hoạt động ngoại khóa, dạy hoạt động ngoài giờ, dạy nghề phổ thông với
hình thức hấp dẫn để thu hút sự quan tâm của học sinh. Qua đó, kết hợp trang bị kỹ
năng ứng xử, phương pháp phối hợp nhóm,...tạo điều kiện để các em giao tiếp, thực hành
các hành vi đạo đức; giúp các em hình thành các mối quan hệ bạn bè trong sáng. Đồng thời
cần lồng gép việc cập nhật và thông báo các vụ bạo lực học đường điểm hình, tổ chức để
các em thảo luận phân tích hậu quả để các em tự rút kinh nghiệm cho bản thân.
3.2./ Một số các giải pháp cụ thể của giáo viên nhằm ngăn ngừa học sinh lớp chủ nhiệm
tham gia bạo lực học đường:
Ở góc độ là một giáo viên chủ nhiệm lớp, để ngăn ngừa bạo lực xảy ra đối với học
sinh lớp mình, qua nghiên cứu tìm hiểu tôi đã áp dụng một số biện pháp cụ thể sau:
Một là, giáo viên cần nắm rõ hoàn cảnh gia đình của học sinh lớp mình, đặc biệt là
các học sinh hiếu động hoặc trầm lặng, học sinh cá biệt. Giáo viên nên gặp trực tiếp phụ
huynh để trao đổi tìm hiểu thêm về tính cách của học sinh. Từ đó có các biện pháp quan
tâm, quản lý, giáo dục phù hợp. Phối hợp chặt chẽ với gia đình để theo dõi, quản lý học
sinh về thời gian, bạn bè,...của các em. Hai trường hợp cụ thể tôi đã áp dụng biện pháp này
mang lại hiệu quả như sau: Trường hợp thứ nhất, đầu năm học 2009 -2010, em Nguyễn
Hồng Phúc – học sinh lớp 12B
8
(do tôi chủ nhiệm) thường xuyên vi phạm nề nếp. Khi đến
nhà, làm việc với phụ huynh tôi được biết: Phúc là con mẹ kế, do ba của em so bì em với
anh chị con mẹ cả (vốn rất thành đạt); nên em rất bất mãn, chán nản và hay nói dối người
lớn. Một trường hợp khác, đầu năm học 2010 -2011 qua trao đổi với phụ huynh tôi được
biết em Nguyễn Phú Điền(lớp 12B
5
do tôi chủ nhiệm) là một học sinh lớn tuổi do ở lại lớp
hai lần, rất tích cực tham gia công việc nhà nhưng hay tự ái, tự ty,...Từ thông tin có được,
tôi đã có sự tác động phù hợp để hai em nghiêm túc thực hiện nội quy, khi các em vi phạm
tôi có biện pháp trách phạt phù hợp tránh để các em bất mãn, chống đối nhưng vẫn
nghiêm, công bằng.
Hai là, giáo viên chủ nhiệm phải là địa chỉ tin cậy để học sinh tâm sự, chia sẻ từ đó
có được các thông tin rất cần thiết và kịp thời. Muốn vậy, giáo viên phải chủ động tìm hiểu
kiếm thông tin về bạn bè, sở thích, năng khiếu của các em. Rồi chủ động tiếp cận và sử
dụng những thông tin có được để tâm sự, chia sẻ với các em, qua đó bày tỏ quan điểm của
mình trong giáo dục. Điều này có tác dụng rất quan trọng, nừa thể hiện sự quan tâm của
mình tới các em khiến các em sẽ nể phục và tin tưởng vào giáo viên hơn. Sau nữa khi được
giáo viên thăm hỏi các em sẽ trung thực hơn. Khi tạo được uy tín và niềm tin từ học sinh,
giáo viên sẽ nhận được nhiều thông tin kịp thời để có biện pháp giải quyết sớm các sự việc,
nhất là các mâu thuẫn giữa học sinh với nhau. Các trường hợp điển hình tôi đã áp dụng có
hiệu quả như sau: Trường hợp thứ nhất, năm học 2004 – 2005, tôi chủ nhiệm lớp 10C
14
có
em Phạm Thị Nhã Phương là một học sinh cá biệt, qua bạn bè tôi biết được vài thông tin
về nhóm bạn của Phương, khi trò chuyện với em tôi nhắc tới họ, em rất ngạc nhiên, từ đó
em khá trung thực với thầy chủ nhiệm và thực hiện nội quy trường lớp nghiêm túc hơn.
Trường hợp thứ hai, hết học kỳ I năm học 2008 – 2009, tôi cho học sinh viết Bản tự kiểm
có mục “Nhân xét cán bộ lớp và bày tỏ ý kiến cá nhân”; qua đó phát hiện em Nguyễn Thị
Cẩm Nhung là thủ quỹ lớp 11C (do tôi chủ nhiệm) sử dụng tiền quỹ không rõ ràng. Sau sự
việc, em Nhung tuyên bố sẽ gọi người “xử” những bạn tố cáo mình. Nhờ thư góp ý, tôi biết
sớm và xử lý ổn thỏa, lớp trở lại vui vẻ, đoàn kết.
Ba là, thực hiện kỷ luật nghiêm minh, rõ ràng và công bằng; trên cơ sở tìm hiểu
nguyên nhân sâu xa của sự việc, giúp học sinh có phương hướng giải quyết triệt để những
vướng mắc. Một điều quan trọng là: vào đầu năm triển khai nội quy trường lớp giáo viên
Trang 24
Một số chuyên đề về công tác Giáo viên chủ nhiệm các trường THPT
chủ nhiệm phải giải thích thêm các mức độ kỉ luật cho từng vi phạm, giải thích rõ hậu quả
của từng mức độ kỷ luật. Tổ chức hệ thống cán bộ lớp – chi đoàn đủ mạnh vừa để tổ chức
các hoạt động của lớp, vừa theo dõi đầy đủ việc thực hiện nề nếp của các thành viên; hàng
tuần có báo cáo, cuối tháng có tổng hợp. Biện pháp này phải trở thành biện pháp nhắc nhở,
răn đe thường xuyên tới từng cá nhân qua đó điều chỉnh hành vi của các em. Tôi đã áp
dụng biện pháp này với em Nhung(nêu trên). Sau khi kiểm tra thông tin và xác định em vi
phạm ba lỗi: sử dụng tiền quỹ sai quy định; kéo bè, kéo phái làm mất đoàn kết lớp và có ý
đồ tổ chức đánh nhau. Tôi cho họp lớp kỷ luật, cắt nhiệm vụ thủ quỹ, bắt bồi thường tiền
của lớp, xếp hạnh kiểm trung bình học kỳ I. Đồng thời giao nhiệm vụ mới là trưởng ban
văn nghệ lớp và đặt ra mục tiêu lớp phải có tiết mục tham gia đêm chung kết hội thi văn
nghệ của trường. Qua theo dõi, nhắc nhở, động viên; Nhung tiến bộ rõ rệt, hoàn thành
nhiệm vụ được giao và hết lớp 12 thi đậu vào Trường Cao đẳng y tế Đồng Nai, ngành điều
dưỡng. Một trường hợp khác, năm học 2009 – 2010 em Lê Quang Trọng (lớp 12B
8
– do tôi
chủ nhiệm) do đánh bài nợ tiền không có trả dẫn đến ăn cắp xe đạp nhằm bán trả nợ nhưng
không thành. Sau khi bị nhà trường kỷ luật đuổi học 01 tuần em trở lại lớp học nhưng vẫn
tiếp tục xích mích với nhóm bạn mà em nợ tiền. Khi có thông tin từ lớp, tôi làm việc với
em để nắm rõ nguyên nhân sự việc. Tôi đã mời phụ huynh của em lên, yêu cầu gia đình
cho em mượn số tiền 800 ngàn đồng để trả cho bạn. Đồng thời, yêu cầu Trọng viết cam kết
phải nghiêm túc học tập, không vi phạm kỷ luật và trả lại tiền cho gia đình sau một năm ra
trường. Biện pháp này giúp em giải quyết triệt để nguyên nhân sự việc, tập trung cho học
tập và cuối năm mặc dù học yếu nhưng em đã thi đậu tốt nghiệp và đi học trung cấp nghề.
Bốn là, xây dựng phong trào văn nghệ, tổ chức đố vui để học trong lớp hàng tuần vào
20 phút cuối giờ sinh hoạt; tổ chức mừng ngày 8/3: các em nam tặng quà(tự làm) cho các
bạn nữ,... Qua đó giúp học sinh tự tin hơn trong hoạt động phong trào, có niềm vui khi tới
lớp và tăng sự gắn kết giữa các em trong tập thể. Nhờ vậy mà ở lớp 12B
8
năm học 2009 –
2010 có rất nhiều em học yếu, bế tắc,...nhưng vẫn đến lớp không bỏ học như em Nguyễn
Hồng Phúc, em Nguyễn Đình Ngọc, Lê Quang Trọng (nói trên)...
4. Kết quả:
Kết quả giáo dục học sinh qua các năm tôi đảm nhận công tác chủ nhiệm như sau:
TT Năm học
Lớp chủ
nhiệm
Số lượt HS vi
phạm nội quy
Số HS vi phạm
đánh nhau
Số HS bị
đuổi học
Số HS
nghỉ
học
1 2004 - 2005 10 C
14
35 03 03 04
2 2005 - 2006 11 C
14
32 01 01 02
3 2008 - 2009 11 C 26 00 00 00
4 2009 - 2010 12 B
8
26 01 01 00
Qua bảng thống kê trên tôi rút ra được những điểm tích cực và hạn chế việc áp dụng
những giải pháp nêu trên như sau:
4.1./ Tích cực:
- Khi thực hiện đồng bộ các giải pháp trên thì học sinh có thái độ học tập và thực
hiện nội quy nhà trường nghiêm túc hơn. Số học sinh vi phạm nội quy nhà trường giảm,
trong đó những vi phạm về hành vi gây gổ, đánh nhau giảm mạnh.
- Qua đó học sinh trong lớp đoàn kết, thân thiện hơn, tạo không khí thoải mái, vui
vẻ trong các giờ giải lao, tiết sinh hoạt và các buổi dã ngoại. Từ đó, tạo mối liên hệ găn kết
giữa các em với tập thể, học sinh sẽ vì tập thể để cố gắng học tập và rèn luyện, giảm thiểu
học sinh bỏ học.
Trang 25