Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Tổ chức thực hiện luật bảo hiểm y tế trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (864.8 KB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

………/……… .…../……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

HỒNG TRỌNG CHÍNH

TỔ CHỨC THỰC HIỆN LUẬT BẢO HIỂM Y TẾ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

………/……… .…../……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

HỒNG TRỌNG CHÍNH

TỔ CHỨC THỰC HIỆN LUẬT BẢO HIỂM Y TẾ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 8 34 04 03



LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN TIẾN HẢI

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2021


LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là đề tài nghiên cứu của cá nhân dưới sự
hướng dẫn của Tiến sĩ Trần Tiến Hải. Các số liệu được thể hiện trong
luận văn là trung thực và có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng.
Học viên

Hồng Trọng Chính


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Những từ viết tắt trong luận văn
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN LUẬT BẢO
HIỂM Y TẾ...................................................................................................... 8
1.1. Khái quát chung về bảo hiểm y tế và Luật Bảo hiểm y tế ..................... 8
1.1.1. Khái niệm và vai trò của bảo hiểm y tế .......................................... 8
1.1.2. Luật Bảo hiểm y tế ...................................................................... 188

1.1.3. Một số nội dung về pháp luật bảo hiểm y tế ở nước ta hiện nay. 200
1.2. Khái niệm, hình thức, chủ thể và nội dung tổ chức thực hiện Luật Bảo
hiểm y tế .................................................................................................... 244
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm tổ chức thực hiện Luật BHYT .................. 244
1.2.2. Các giai đoạn tổ chức thực hiện Luật Bảo hiểm y tế .................... 28
1.2.3. Chủ thể tổ chức thực hiện Luật Bảo hiểm y tế............................ 333
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện Luật Bảo hiểm y tế ..... 355
1.3.1. Mức độ hoàn thiện của pháp luật về bảo hiểm y tế nói riêng và của
cả hệ thống pháp luật nói chung ........................................................... 355
1.3.2. Tổ chức bộ máy và nguồn lực ..................................................... 377
1.3.3. Ý thức pháp luật của các bên tham gia ......................................... 39
1.3.4. Sự kiểm sốt q trình tổ chức thực hiện Luật ........................... 400
1.3.5. Điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội .......................................... 402
Tiểu kết Chương 1..................................................................................... 433
Chương 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN LUẬT BẢO HIỂM
Y TẾ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ ................................ 444


2.1. Khái quát đặc điểm về điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế xã hội
của tỉnh Thừa Thiên Huế........................................................................... 444
2.1.1 Đặc điểm về điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế xã hội ........ 444
2.1.2 Tác động của điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế xã hội đối với
việc triển khai Pháp luật về BHYT. ...................................................... 466
2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện Luật Bảo hiểm y tế trên địa bàn tỉnh
Thừa Thiên Huế hiện nay .......................................................................... 477
2.2.1. Kết quả đạt được ........................................................................... 49
2.2.2. Những tồn tại và hạn chế ............................................................ 577
2.2.3. Đánh giá kết quả, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân .................... 655
Tiểu kết Chương 2 ......................................................................................... 700
Chương 3: QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM TỔ

CHỨC THỰC HIỆN LUẬT BẢO HIỂM Y TẾ TRÊN ĐỊA BÀN TỉNH
THỪA THIÊN HUẾ TRONG THỜI GIAN TỚI .................................... 711
3.1. Quan điểm, mục tiêu .......................................................................... 711
3.1.1 Quan điểm .................................................................................... 711
3.1.2 Mục tiêu ....................................................................................... 733
3.2. Giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện Luật Bảo hiểm y tế trên địa bàn
Thừa Thiên Huế trong thời gian tới .......................................................... 744
3.2.1 Tăng cường công tác quán triệt, tuyên truyền, phổ biến Luật BHYT
................................................................................................................. 71
3.2.2 Nâng cao chất lượng dịch vụ và công tác tổ chức thực hiện Luật
BHYT đáp ứng sự hài lòng của mọi đối tượng ..................................... 739
3.2.3 Tăng cường quản lý nhà nước về BHYT có hiệu lực và hiệu quả 83
3.2.4 Hoàn thiện Luật BHYT và các văn bản hướng dẫn thi hành ......... 73
Tiểu kết Chương 3..................................................................................... 922
KẾT LUẬN .................................................................................................. 933
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 955


NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

BHTN

Bảo hiểm thất nghiệp

BHXH

Bảo hiểm xã hội

BHYT


Bảo hiểm y tế

HĐND

Hội đồng nhân dân

KCB

Khám chữa bệnh

NSNN

Ngân sách nhà nước

PBGDPL

Phổ biến giáo dục pháp luật

UBND

Uỷ ban nhân dân


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề an sinh xã hội ở nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới luôn
luôn được quan tâm hàng đầu, trong đó chính sách BHXH và BHYT là hai
chính sách xã hội quan trọng, là trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, góp

phần thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội
và phát triển kinh tế - xã hội. Trong việc thực hiện các chính sách an sinh xã
hội, Đảng và Nhà nước ta ln coi trọng chính sách BHYT và luôn xem đây
là một trong hai trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội ở nước ta. Chính
sách BHYT là chính sách có ảnh hưởng trực tiếp và tác động sâu rộng đến tất
cả các thành viên trong xã hội, mang ý nghĩa nhân đạo và có tính chia sẻ cộng
đồng sâu sắc, góp phần quan trọng để thực hiện mục tiêu công bằng xã hội
trong lĩnh vực chăm sóc y tế, là cơ chế tài chính y tế quan trọng và là cơ chế
chi trả trước áp dụng giúp người dân khi bị ốm đau khơng bị rơi vào cảnh
nghèo đói và là định hướng phát triển trong chăm sóc sức khỏe người dân.
Nhận thức được ý nghĩa, vai trò và tầm quan trọng đối với xã hội do
chính sách BHYT mang lại, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và lãnh đạo
và tổ chức thực hiện Chính sách BHYT trong tồn quốc. Nghị quyết Đại hội
X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định “Xây dựng hệ thống an sinh xã
hội đa dạng; phát triển mạnh hệ thống BHXH, BHYT, tiến tới BHYT tồn
dân”. Cụ thể hóa chủ trương của Đảng, ngày 14/11/2008 Quốc hội đã ban
hành Luật BHYT đánh dấu một bước quan trọng trong việc tạo cơ sở pháp lý
để nâng cao hiệu quả thực thi chính sách BHYT.
Đối với Tỉnh Thừa Thiên Huế, là tỉnh nằm trong khu vực Bắc Trung Bộ,
là tỉnh được xác định là một trong những vùng trung tâm y tế chuyên sâu của
cả nước, thời gian qua quá trình thi hành Luật BHYT đạt được nhiều kết quả
đáng kể. Quan trọng nhất là nhận thức của nhân dân và trách nhiệm của các


2

cấp, các ngành ngày càng được nâng cao về chính sách BHYT. Cơng tác tổ
chức thực hiện chính sách và pháp luật BHYT đã có những chuyển biến rõ
nét; đã có hơn 1,1 triệu người dân tham gia BHYT, chiếm tỷ lệ hơn 98% dân
số toàn tỉnh. Đặc biệt, nguồn kinh phí KCB được chi trả từ quỹ BHYT ngày

càng gia tăng, quyền lợi người tham gia đã được thực hiện khá tốt, chất lượng
KCB được nâng lên, nhiều dịch vụ y tế kỹ thuật cao với mức chi phí lớn đã
được quỹ BHYT chi trả, tấm thẻ BHYT thật sự vô cùng quý giá cho người
tham gia, nhất là trong tình hình khó khăn về kinh tế, giá viện phí liên tục gia
tăng như hiện nay, việc tham gia BHYT càng có ý nghĩa hết sức thiết thực.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện luật BHYT ở tỉnh Thừa Thiên Huế
thời gian qua cịn gặp nhiều khó khăn, hạn chế như trong công tác quản lý nhà
nước và tổ chức triển khai thực hiện Pháp luật BHYT vẫn chưa hiệu quả cao;
tỷ lệ tham gia BHYT trên địa bàn tỉnh mặc dầu đạt cao nhưng khơng có tính
bền vững; cơng tác quản lý quỹ BHYT cịn nhiều bất cập; tình trạng mất cân
đối quỹ BHYT ngày càng gia tăng; tình trạng vi phạm pháp luật về tham gia
đóng BHYT xảy ra ở nhiều đơn vị chủ sử dụng lao động, người tham gia và
đơn vị KCB BHYT… Bên cạnh nhiều yếu tố truyền thống tác động đến
Chính sách BHYT, hiện nay đã xuất hiện nhiều yếu tố mới như mặt trái của
kinh tế thị trường ngày càng phức tạp, vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế, tồn
cầu hóa ngày càng sâu rộng, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các cuộc
khủng hoảng kinh tế, hay dịch bệnh bùng phát bất kỳ xuất phát ở nước nào
cũng gây nên hậu quả khôn lường, phức tạp và tác động rất lớn đến tất cả các
lĩnh vực kinh tế xã hội trên tồn thế giới.
Từ thực trạng trên, nếu khơng có một nghiên cứu, đánh giá, phân tích, và
dự báo sớm để đưa ra các giải pháp phù hợp để khắc phục, sẽ dẫn đến việc
quản lý nhà nước về BHYT sẽ không đạt yêu cầu, không giải quyết được các
mâu thuẫn phát sinh trong quá trình thực hiện, tình trạng mất cân đối thu, chi


3

vẫn tiếp diễn, lạm dụng quỹ BHYT dự báo ngày càng gia tăng, khó kiểm
sốt… Và dự báo chắc chắn hiệu lực quản lý nhà nước không đạt được và làm
giảm niềm tin của người dân đối với chính sách và pháp luật BHYT trên địa

bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Để khắc phục, hạn chế những bất cập, tồn tại đã
nêu trên, đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong tổ
chức thực hiện Luật BHYT, tôi chọn nghiên cứu đề tài “Tổ chức thực hiện
Luật Bảo hiểm y tế trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế”. Đây là một vấn đề
nóng đang được nhiều dư luận quan tâm, và đề tài này rất cần thiết và có ý
nghĩa cấp thiết trong thực tế hiện nay, nhằm để chính sách và pháp luật
BHYT thực sự phát huy hiệu quả nguồn quỹ tài chính quan trọng của nhà
nước, đồng thời đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của người dân và đảm bảo
mục tiêu an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước trong thời gian đến.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan tới đề tài
Liên quan đến đề tài ở những phạm vi, mức độ khác nhau, có thể nêu ra
một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu như:
Luận văn thạc sĩ Luật học của Bùi Thị Phương Dung (2015) về “Thực
trạng thi hành pháp luật Bảo hiểm y tế bắt buộc ở Việt Nam”. Luận văn đã
phân tích thực trạng các quy định về pháp luật BHYT. Phân tích, đánh giá
thực trạng các quy định về pháp luật BHYT bắt buộc và thực tiễn thực hiện.
Trên cơ sở đó tìm ra những hạn chế của pháp luật BHYT hiện hành cần sửa
đổi, bổ sung, bãi bỏ. Đề xuất quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật
BHYT cho phù hợp với thực tiễn hiện nay.
Luận văn thạc sĩ Luật của Phan Diệu Linh (2016) về “Pháp luật Bảo
hiểm y tế bắt buộc từ thực tiễn thi hành tại tỉnh Phú Thọ”. Luận văn trên cơ
sở tiếp cận chuyên ngành Luật, Lý luận lịch sử nhà nước, mục đích của Luận
văn là phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về thực hiện pháp luật BHYT,
đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện pháp luật


4

BHYT bắt buộc tại Tỉnh Phú Thọ.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành (2016) của Nông Thị Phương

Thảo về “Về giải pháp nâng cao độ bao phủ Bảo hiểm y tế trên địa bàn Tỉnh
Lạng Sơn”. Đề tài nhằm cung cấp các thông tin tổng quát về thực trạng triển
khai chính sách BHYT, đánh giá kết quả và tồn tại trong tổ chức thực hiện
BHYT ở Tỉnh Lạng Sơn. Phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến việc mở
rộng đối tượng, phát triển BHYT ở trong tỉnh. Đề xuất các giải pháp chủ yếu
góp phần nâng cao độ bao phủ Bảo hiểm y tế tại Tỉnh Lạng Sơn.
Luận văn thạc sĩ của Hoàng Mạnh Trường (2016) về “Thực hiện pháp
luật về BHYT Việt Nam hiện nay”. Luận văn trên cơ sở tiếp cận chuyên ngành
Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật, mục đích của đề tài là phân tích những
vấn đề lý luận cơ bản về thực hiện pháp luật BHYT, đánh giá thực trạng và đề
xuất giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện pháp luật BHYT ở nước ta hiện nay.
Cơng trình nghiên cứu khoa học cấp ngành của Võ Khánh Bình và các
cộng sự (Hồng Trọng Chính, Nguyễn Thị Khánh Chi, Trương Cơng Khả,
Bùi Thị Thu Lý) (2017) về “Các giải pháp phát triển đối tượng tham gia
BHYT theo Hộ Gia đình trên địa bàn Thừa Thiên Huế”. Cơng trình này
nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện mục tiêu Nghị quyết số
21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012-2020.
Các cơng trình nghiên cứu trên đã tập trung vào phân tích vị trí, vai trị
của BHYT ở cả hai khía cạnh lý luận và thực tiễn, đồng thời đề xuất một số
kiến nghị, giải pháp nhằm hồn thiện chế độ, chính sách về BHYT vào các
thời điểm nghiên cứu. Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả lợi ích mang lại
của các cơng trình trên, vấn đề BHYT vẫn còn đang đứng trước nhiều thách thức
đan xem với nhiều cơ hội trong quá trình tổ chức thực hiện, do có nhiều thay đổi
rất lớn, kể cả thay đổi điều chỉnh chính sách, pháp luật BHYT và các văn bản


5

hướng dẫn thực hiện, đặc biệt trong gia đoạn hiện nay trước tình hình kinh tế khó

khăn, dự báo rất nhiều biến động các lĩnh vực trong xã hội theo cơ chế thị
trường, hội nhập kinh tế quốc tế, tác động những khủng hoảng của kinh tế, dịch
bệnh tác động tồn cầu thì những nghiên cứu này vẫn cịn thiếu tiếp cận dưới
một số góc độ tổ chức thực hiện Luật BHYT, hoặc mới chỉ đề cập tới từng lĩnh
vực, từng chế độ, chính sách BHYT, chưa cập nhật, phân tích đầy đủ những khó
khăn, vướng mắc, những thách thức, cơ hội mới trong quá trình tổ chức thực
hiện Luật BHYT ở nước ta cũng như tại Thừa Thiên Huế.
Vì vậy, việc nghiên cứu tổ chức thực hiện Luật BHYT trên địa bàn tỉnh
Thừa Thiên Huế trên cơ sở lý luận và thực tiễn, thực trạng, từ đó đề xuất
những giải pháp nhằm bảo đảm tính hiệu lực và hiệu quả của chính sách
BHYT là việc làm cần thiết, có ý nghĩa thiết thực về mặt lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn về tổ chức thực hiện Luật
BHYT trên địa bàn tỉnh Tỉnh Thừa Thiên Huế trên cơ sở phân tích thực trạng
tổ chức thực hiện Luật BHYT trên địa bàn tỉnh Tỉnh Thừa Thiên Huế, từ đó
đề xuất những giải pháp, kiến nghị căn bản nhằm ngày càng hoàn thiện việc
tổ chức thực hiện Luật BHYT trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trình bày cơ sở lý luận về tổ chức thực hiện Luật BHYT trên địa bàn
tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Đánh giá thực trạng, nguyên nhân, vấn đề đặt ra trong công tác tổ chức
thực hiện Luật BHYT của các chủ thể trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm bảo đảm tổ chức thực hiện
Luật BHYT trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.


6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những nội dung cơ bản của hoạt
động tổ chức thực hiện Luật BHYT trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Đề tài được nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.
Về thời gian: Số liệu nghiên cứu được thu thập 5 năm từ năm 2015-2019 và 9
tháng đầu năm 2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu trên quan điểm Chủ nghĩa duy vật biện chứng,
Chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lê nin; Tư tưởng Hồ Chí Minh,
các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của
Nhà nước về chính sách xã hội, trong đó có chính sách BHYT, bảo vệ phát
triển con người, chế độ an sinh xã hội, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân,
đảm bảo duy trì ổn định xã hội, phát triển đất nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể:
+ Phương pháp thống kê, tổng hợp.
+ Phương pháp phân tích, so sánh, đánh giá.
+ Phương pháp thu thập thông tin, quan sát, phỏng vấn chuyên gia.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1.Ý nghĩa về mặt lý luận
Thơng qua nghiên cứu tính tất yếu khách quan sự ra đời và khái niệm
BHYT, các quan điểm, nhận thức về BHYT, xác định vị trí, vai trị của
BHYT trong thực tiễn cuộc sống hiện nay, căn cứ trên lý luận và luận chứng
khoa học làm rõ bản chất BHYT dưới 2 góc độ xã hội và kinh tế, luận văn xác


7


định rõ tầm quan trọng của chính sách BHYT trong hệ thống an sinh xã hội
trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, nó ảnh hưởng trực tiếp sâu rộng đến đời
sống của mọi gia đình, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế xã hội của địa
phương. Từ đó, Luận văn đánh giá, phân tích đưa ra quan điểm, nhận thức
một cách đầy đủ và toàn diện về giá trị và ảnh hưởng tích cực của chính sách
BHYT hiện nay, đưa ra một số cơ sở, kiến nghị mới, bổ sung về quan điểm,
nhận thức về BHYT.
6.2.Ý nghĩa về mặt thực tiễn: Qua nghiên cứu, phân tích thực trạng
pháp luật và thực thi Luật BHYT trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, căn cứ
các số liệu, diễn biến cụ thể, luận văn sẽ phân tích kết quả đạt được, các tồn
tại, hạn chế, nguyên nhân, để từ đó đưa ra một số giải pháp để kiến nghị các
cấp có thẩm quyền nhằm hoàn thiện pháp luật về BHYT và tăng cường hiệu
lực và hiệu quả việc thực hiện Luật BHYT, đồng thời đề xuất các giải pháp bổ
sung nhằm ngày càng hoàn thiện trong thực thi pháp luật về BHYT và các
lĩnh vực có liên quan như Luật KCB, Luật Dược, Luật Đấu thầu, giá viện phí,
thanh tra kiểm tra, xử phát vi phạm hành chính…; giải pháp tăng cường
PBGDPL nói chung và BHYT nói riêng trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế nói
riêng, và cả nước nói chung, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội
của đất nước ta và xu thế chung của thời đại.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
phần nội dung chính của luận văn có 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về tổ chức thực hiện Luật Bảo hiểm y tế
Chương II: Thực trạng tổ chức thực hiện Luật Bảo hiểm y tế tại Tỉnh
Thừa Thiên Huế.
Chương III: Quan điểm, mục tiêu và giải pháp bảo đảm tổ chức thực
hiện Luật Bảo hiểm y tế tại tỉnh Thừa Thiên Huế trong thời gian tới.


8


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
LUẬT BẢO HIỂM Y TẾ
1.1. Khái quát chung về bảo hiểm y tế và Luật Bảo hiểm y tế
1.1.1. Khái niệm và vai trò của bảo hiểm y tế
1.1.1.1 Khái niệm Bảo hiểm y tế
BHYT ra đời như một tất yếu khách quan trong cuộc sống, từ nhu cầu
chính đáng của con người nhằm bảo vệ chăm lo sức khỏe khi không may bị
ốm đau, bệnh tật, tai nạn…Thực tế trong xã hội, ln ln tồn tại nhóm người
yếu thế, có nguy cơ bệnh tật cao và khơng có khả năng tài chính để trang trải
chi phí y tế. Nếu chỉ trông chờ vào sự cứu trợ tự phát, không mang tính bền
vững, đảm bảo thì nhóm đối tượng này sẽ ln có nguy cơ nằm ngồi sự bảo
vệ. Nhu cầu về cơ chế chia sẽ rủi ro, mang tính xã hội, được thực hiện trên
diện rộng với sự đảm bảo chắc chắn từ phía nhà nước trở thành nhu cầu tất
yếu trong đời sống xã hội.
Trợ cấp chăm sóc y tế là một trong những chế độ trợ cấp quan trọng,
mang tính đặc thù của hệ thống An sinh xã hội. Pháp luật về An sinh xã hội
của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều ưu tiên đảm bảo chế độ trợ cấp về y
tế, thể hiện dưới hình thức BHYT. Quỹ BHYT có nguồn gốc từ sự đóng góp
của người lao động, chủ sử dụng lao động và sự bảo trợ của Nhà nước. Hình
thức sơ đẳng nhất của BHYT là quỹ tương hỗ. Người tham gia đóng tiền vào
quỹ tương hỗ theo mức quy định nào đó (theo lương, thu nhập hoặc một mức
ấn định nào đó theo quy định của mỗi nước), khi đi KCB tại cơ sở y tế, được
quỹ tương hỗ thanh toán cho bệnh viện, bệnh nhân khơng phải trả trực tiếp
tồn bộ chi phí, hoặc chỉ trả một phần cho bệnh viện. Chính phủ hỗ trợ một
phần chi phí từ ngân sách.


9


Trong quan điểm hình thành chính sách BHYT của các quốc gia trên thế
giới, tùy theo thể chế, chế dộ chính trị, tình hình kinh tế, xã hội, vị trí địa lý…
của mỗi nước sẽ có sự khác nhau trong các quan niệm khác nhau về BHYT
chủ yếu thể hiện ở phạm vi bảo vệ, hình thức và cách tổ chức thực hiện
BHYT ở mỗi quốc gia. Mặc dù mục tiêu chung của tất cả các Chính phủ trên
thế giới đều muốn tìm ra những giải pháp chăm sóc sức khỏe tốt nhất cho
người dân. Tuy nhiên, do nguồn lực có hạn nên chính phủ mỗi nước sẽ có
những con đường đi riêng phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, truyền thống
lịch sử văn hóa của quốc gia mình. Điều này làm nên sự khác biệt về BHYT
của các quốc gia và được thấy rõ nhất qua các mơ hình BHYT. Tuy nhiên, đa
số đều có quan điểm căn bản về BHYT, đó là các mối quan hệ kinh tế gắn
liền với việc huy động các nguồn lực từ sự đóng góp của những người tham
gia để hình thành quỹ bảo hiểm và sử dụng để thanh toán các chi phí KCB
cho người được bảo hiểm khi bị ốm đau, bệnh tật. BHYT là một trong những
biện pháp nhằm huy động sự đóng góp của mọi thành viên trong cộng đồng
xã hội, giúp nâng cao chất lượng KCB, nâng cao tính nhân đạo và cơng bằng
xã hội, giúp cho mỗi người tham gia BHYT khắc phục được khó khăn về kinh
tế khi có rủi ro ốm đau. Mặc dù có sự đóng góp của người dân dưới nhiều
hình thức khac nhau nhưng vẫn phải có sự hỗ trợ của Nhà nước bởi kể cả
những nước có nền kinh tế phát triển cũng chưa có đủ nguồn tài chính đáp
ứng cho nhu cầu về chi phí trong KCB. Do đó, thực chất việc đóng góp
BHYT chính là tạo nguồn dự trữ tài chính cho bản thân người tham gia khi
chẳng may bị ốm đau, bệnh tật, nó là một trong bốn nguồn cấu thành ngân
sách của Ngành Y tế là: Ngân sách của Nhà nước bù đắp khi bội chi quỹ, viện
phí của người bệnh (Bệnh nhân cùng chi trả), quỹ BHYT thanh toán và tiền
ủng hộ của các tổ chức trong đó nguồn BHYT có ý nghĩa hết sức quan trọng
cho quá trình vận hành các cơ sở KCB.



10

Tại Việt Nam, trước khi pháp luật BHYT ra đời, nước ta áp dụng mơ
hình tài chính tài chính y tế thông qua NSNN, cho đến cuối những năm của
thấp kỷ 80, NSNN vẫn bao cấp cho toàn bộ y tế, hoạt động của các cơ sở y tế
đều do NSNN bao cấp, hầu như toàn bộ người dân đi KCB đều được miễn
phí. Chế độ bao cấp KCB miễn phí cho mọi người dân có ý nghĩa lịch sử tại
thời điểm đó do đất nước mới trải qua những cuộc chiến tranh tàn khốc, đời
sống nhân dân vô cùng khó khăn thiếu thốn, cần phải được nhà nước bao cấp
toàn bộ. Tuy nhiên, với ngân sách ngày càng eo hẹp, đất nước đang phải tập
trung toàn bộ nguồn lực để đẩy mạnh phát triển kinh tế, kinh phí khơng cấp
đủ cho các cơ sở KCB để phục vụ người dân, bên cạnh đó, sự phát triển như
vũ bảo các thành tựu khoa học trong lĩnh vực y tế trên thế giới và nhu cầu
chính đáng của người bệnh được tiếp cận những trang thiết bị y tế hiện đại,
thuốc, vật tư y tế ngày càng tạo sức ép đối với ngành y tế và nhà nước ta cần
có một chính sách mới trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe cho nhân dân.
Qua việc đề cập đến sự ra đời của BHYT, chúng ta đã hình dung được sự
phong phú, đa dạng và các hình thức của BHYT. Với những xuất phát điểm
khác nhau, cùng với sự khác biệt về điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, lịch
sử, phong tục tập quán của các quốc gia mà quan niệm về BHYT có thể được
giải thích ở những phạm vi rộng hẹp khác nhau. Sự khác nhau trong quan
niệm về BHYT dẫn đến sự khác nhau về nội dung, chế độ BHYT trong hệ
thống pháp luật. Theo trường phái kinh tế, BHYT được tiếp cận như là một
vấn đề kinh tế y tế. Tính kinh tế y tế của BHYT là nội dung quan trọng trong
nguyên lý hoạt động của BHYT. Nó được thể hiện ở những góc độ khá rộng
là hình thức huy động nguồn tài chính cho y tế, giám sát việc cung ứng dịch
vụ y tế ở các cơ sở KCB, sử dụng đồng tiền sao cho đúng mục đích, hiệu quả,
đảm bảo cân đối thu, chi quỹ BHYT. Mối quan hệ giữa mức đóng và mức
hưởng ln được cân nhắc, tính tốn cẩn thận để đảm bảo thu bù chi. Kinh tế



11

y tế trong BHYT còn được hiểu là sự tương trợ chia sẻ rủi ro, trợ giúp tài
chính của số đơng cho số ít khơng may ốm đau. BHYT được coi là một biện
pháp kinh tế liên kết nhiều người khỏe mạnh cùng chăm sóc sức khỏe cho
người bị ốm đau và BHYT có vai trị, nhiệm vụ phân phối lại thu nhập.
Từ tình hình thực tế đó, khái niệm BHYT được Tổ chức Lao động quốc
tế (ILO) đưa ra với đề cập đến với những đặc trưng cơ bản sau: Thiết lập trên
cơ sở đóng góp tài chính của người tham gia; Bao gồm các dịch vụ chăm sóc
sức khỏe, KCB mà không phải trợ cấp bằng tiền; Không mang mục đích kinh
doanh; Quyền lợi phụ thuộc vào nhu cầu bệnh lý và khả năng cung ứng dịch
vụ y tế. Những quan điểm này của Tổ chức Lao động quốc tế đã trở thành
chuẩn mực về BHYT cho các quốc gia thực hiện BHYT. Đây đồng thời là
những nguyên lý cơ bản của BHYT. Cũng như an sinh xã hội, BHYT là nội
dung bao hàm cả hai yếu tố kinh tế và xã hội khó có thể tách rời. Vấn đề chỉ
là ở chỗ các quốc gia chú trọng đến yếu tố nào hơn để xây dựng mơ hình
BHYT cho nước mình. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cũng xác định rõ BHYT
có vai trị quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội. Trong Tuyên bố Alma-Ata
(1978), WHO quan niệm “ BHYT là loại hình bảo khơng kinh doanh, khơng
vì mục đích lợi nhuận và được tiếp cận chủ yếu dưới góc độ quyền con
người”. Theo thơng lệ quốc tế tơn chỉ mục đích của loại hình bảo hiểm này là
đem lại sự chăm sóc y tế, với tư cách là một trong những nội dung chính của
an sinh xã hội theo công ước số 102 - Công ước về quy phạm tối thiểu an sinh
xã hội của Tổ chức Lao động quốc tế.
Nhìn chung, dù được tổ chức thực hiện dưới mơ hình nào, thì quan niệm
về BHYT đều thống nhất ở một vấn đề cơ bản đó là mục đích của BHYT
nhằm chăm sóc bảo vệ sức khỏe cho người dân khơng vì mục tiêu lợi nhuận.
Như vậy, trên thế giới quan niệm về tôn chỉ, mục đích của BHYT khá đồng
nhất giữa các quốc gia. Sự khác nhau chủ yếu chỉ ở mơ hình tổ chức thực



12

hiện, phạm vi và mức độ bảo vệ do điều kiện kinh tế, xã hội, lịch sử truyền
thống của từng quốc gia quyết định.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, thì “BHYT là loại bảo hiểm do nhà
nước tổ chức, quản lý nhằm huy động sự đóng góp của cá nhân, tập thể và
cộng đồng xã hội để chăm lo sức khỏe, khám sức khỏe và chữa bệnh cho
nhân dân”. Khái niệm này cơ bản đã khẳng định được bản chất BHYT ở Việt
Nam, đó là loại hình BHYT xã hội do nhà nước tổ chức thực hiện, theo mơ
hình tài chính đóng góp. Theo PGS, TS Đào Văn Dũng “BHYT là một chính
sách xã hội do nhà nước tổ chức thực hiện nhằm huy động nguồn lực tài chính
của nhà nước, người sử dụng lao động, người lao động và cộng đồng để hình
thành quỹ tài chính dùng chi trả chi phí KCB cho người tham gia BHYT theo
quy định của pháp luật”. Theo quan niệm này BHYT có các đặc trưng sau: do
nhà nước thực hiện; có sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao
động và sự hỗ trợ của nhà nước; quỹ dùng để chi trả chi phí KCB. Theo TS
Đàm Viết Cương, BHYT thực chất là loại hình bảo hiểm trong lĩnh vực chăm
sóc sức khỏe dựa trên những nguyên lý chung về tập hợp và chia sẻ nguy cơ,
rủi ro về sức khỏe; hình thức BHYT cịn gọi là hình thức chi trả trước chi phí
cho KCB. Khác với một số loại hình bảo hiểm về hàng hóa, tài sản thơng
thường, BHYT mang tính chất xã hội, chính trị và BHYT được coi là một
công cụ tăng cường an sinh xã hội, đảm bảo quyền được chăm sóc y tế của
mọi người. Như vậy BHYT được tiếp cận chủ yếu theo trường phái xã hội,
coi trọng yếu tố xã hội của BHYT trên nguyên tắc chia sẻ rủi ro về sức khỏe.
Tại Việt Nam, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2013, tại Điều 58 quy định; “Nhà nước, xã hội đầu tư phát triển sự
nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của Nhân dân, thực hiện bảo hiểm y tế tồn
dân, có chính sách ưu tiên chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số,

đồng bào ở miền núi, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt


13

khó khăn”. Đây là định hướng quan trọng để thực hiện mục tiêu BHYT toàn
dân, nhằm từng bước đạt tới cơng bằng trong chăm sóc sức khỏe, thực hiện sự
chia sẻ giữa người khỏe với người ốm, người giàu với người nghèo, người
trong độ tuổi lao động với trẻ em và người cao tuổi.
Khái niệm BHYT và một số khái niệm liên quan trong về BHYT ở nước
ta đã được chính thức luật hóa, ban hành cụ thể tại khoản 1, khoản 2 và khoản
3 Điều 2 Chương I Luật BHYT số 25/2008/QH12 do Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII ban hành năm 2008, quy định:
“BHYT là hình thức bảo hiểm bắt buộc được áp dụng đối với các đối
tượng theo quy định của Luật này để chăm sóc sức khỏe, khơng vì mục đích
lợi nhuận do Nhà nước tổ chức thực hiện”
“BHYT tồn dân là việc các đối tượng quy định trong Luật đều tham
gia BHYT”.
“Quỹ BHYT là Quỹ tài chính được hình thành từ nguồn đóng BHYT và
các nguồn thu hợp pháp khác, được sử dụng để chi trả chi phí khám bệnh,
chữa bệnh cho người tham gia BHYT, chi phí quản lý bộ máy của tổ chức
BHYT và những khoản chi phí hợp pháp khác liên quan đến BHYT”.
Luật BHYT số 46/2014/QH13 do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XIII sửa đổi, bổ sung Luật BHYT, tại Điều 1, sửa đổi
bổ sung khoản 1, Điều 2 Luật BHYT quy định: “BHYT là hình thức bảo hiểm
bắt buộc được áp dụng đối với các đối tượng theo quy định của Luật này để
chăm sóc sức khỏe, khơng vì mục đích lợi nhuận do Nhà nước tổ chức thực
hiện”.
Như vậy, cũng như hầu hết các quốc gia trên thế giới, Việt Nam thừa
nhận quan điểm của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Tổ chức Lao động Quốc

tế (ILO) với cách tiếp cận BHYT là một nội dung thuộc an sinh xã hội và là


14

loại hình bảo hiểm phi lợi nhuận, nhằm đảm bảo chi phí y tế cho người tham
gia khi gặp rủi ro, ốm đau, bệnh tật.
Khái niệm BHYT được khẳng định trong Luật BHYT cơ bản đã làm rõ
bản chất BHYT ở Việt Nam, đó là loại hình BHYT xã hội do nhà nước tổ
chức thực hiện, theo mơ hình tài chính đóng góp từ nguồn ngân sách, nguồn
quỹ BHXH và từ người theo quy định của Luật bắt buộc tham gia BHYT.
BHYT có các đặc trưng đó là, BHYT do Nhà nước tổ chức thực hiện;
BHYT là một bộ phận cấu thành của hệ thống an sinh xã hội của nước ta, vì mục
tiêu an sinh xã hội, khơng nhằm mục đích kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận. Đây là
đặc trưng cơ bản để phân biệt BHYT mang tính xã hội do nhà nước thực hiện với
BHYT thương mại do các công ty kinh doanh thực hiện. Ở BHYT thương mại,
vấn đề lợi nhuận luôn luôn phải đặt ra. Mức đóng và mức hưởng được tính tốn
cẩn thận để đảm bảo kinh doanh có lãi; có sự chia sẻ rủi ro giữa những người
tham gia BHYT. Quỹ BHYT được hình thành dựa trên sự đóng góp của NSNN,
người sử dụng lao động, người lao động và cộng đồng dưới sự bảo trợ của nhà
nước, không phân biệt người giàu, kẻ nghèo, mức hưởng khơng phụ thuộc đóng
nhiều hay đóng ít, mức hưởng chỉ ưu tiên cho một số đối tượng chính sách, đối
tượng yếu thế trong xã hội.
Từ những vấn đề trên, có thể hiểu một cách tổng quát nhất là: Bảo hiểm y tế
là một chính sách an sinh xã hội của Nhà nước mang tính cộng đồng, chia sẻ rủi
ro, trên cơ sở sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và cộng
đồng, có sự hỗ trợ của ngân sách nhà nước nhằm mục đích khám, chữa bệnh khi
thành viên ốm đau, bệnh tật và khơng vì mục tiêu lợi nhuận.
1.1.1.2. Vai trị của bảo hiểm y tế
Bảo hiểm y tế có vai trị đặc biệt, mang tính xã hội rộng rãi như sau:

Thứ nhất, BHYT đóng vai trị trụ cột trong hệ thống an sinh xã hội của
quốc gia. BHYT là giải pháp cơ bản và toàn diện để mọi người khi tham gia


15

BHYT, không may bị ốm đau, bệnh tật, tai nạn đều được quỹ KCB BHYT chi
trả chi phí điều trị. BHYT do Nhà nước triển khai thực hiện mang tính xã hội
và nhân đạo cao cả theo nguyên tắc số đơng bù số ít, người khỏe bù người
ốm, người đóng cao bù người đóng thấp, NSNN đóng cho một số nhóm đối
tượng như người nghèo, người dân tộc thiểu số, đối tượng chính sách, đối
tượng bảo trợ xã hội, trẻ em dưới 6 tuổi…. Tất cả sự đóng góp này hình thành
nên quỹ chung, thống nhất, và quỹ này được dùng để chi trả chi phí KCB cho
một số ít người không may gặp rủi ro bệnh tật, điều này đã chia sẻ rủi ro,
giảm bớt gánh nặng tài chính của mỗi người khi không may bị ốm đau, bệnh
tật, tai nạn.
Do vậy, sự đóng góp của cộng đồng xã hội để hình thành quỹ BHYT là
vơ cùng quan trọng, là nguồn tài chính vững chắc đóng vai trị đảm bảo được
cuộc sống của cá nhân và gia đình khi khơng may bị bệnh tật, tránh rơi vào
hồn cảnh đói nghèo, khó khăn do gia đình, bản thân cho dù họ có điều kiện
kinh tế nhưng phải chi trả những chi phí q lớn, đã có nhiều bệnh nhân chi
phí hàng trăm triệu đồng, thậm chí hàng tỷ đồng, đặc biệt các nhóm đối tượng
yếu thế trong xã hội khơng thể có tiền chi trả, được cấp thẻ BHYT từ NSNN
đóng sẽ được quỹ BHYT chi trả. Bệnh nhân và gia đình người bệnh sẽ sớm
ổn định trở lại cuộc sống, sớm trở lại lao động, học tập, sinh sống chính là
nhờ BHYT, có vai trị chính, tạo sự an tâm cho mọi người trong xã hội, góp
phần ổn định an sinh xã hội.
Vai trò này càng được minh chứng cụ thể qua các số liệu thống kê đã
được phân tích tại mục 2.2.1.3 về tình hình tham gia và chi phí KCB BHYT
tại Thừa Thiên Huế

Thứ hai, BHYT đã góp đảm đảm bảo cơng bằng trong xã hội về lĩnh vực
KCB. Tất cả mọi người tham gia BHYT đều được các cơ sở KCB BHYT tiếp
nhận khám bệnh, chữa bệnh một cách công tâm, tất cả hướng đến sự bình


16

phục, an tồn cho người bệnh. Ai ai cũng có quyền tiếp cận tất cả các dịch vụ
kỹ thuật y tế, thuốc vật tư y tế truyền thống và hiện đại, được điều trị bằng các
dịch vụ các khoa học tiên tiến theo đúng pháp đồ điều trị theo bệnh lý, khơng
phân biệt người có tiền, người giàu kẻ nghèo. Thực sự, chính sách Bảo hiểm y
tế đã đóng vai trị làm cho mọi người sẽ được bình đẳng hơn trong KCB khi
không may ốm đau bệnh tật, đặc biệt các nhóm bệnh nặng, mạn tính hoặc đối
với các bệnh nhân thuộc hộ nghèo, cận nghèo, bảo trợ xã hội…cũng đều được
tiếp cận tất cả các dịch vụ y tế công bằng như những người khác trong xã hội.
Như vậy, pháp luật BHYT đã cụ thể hóa quyền cơ bản của con người
trong xã hội, đó là quyền được chăm sóc y tế và quyền được bình đẳng trong
chăm sóc y tế, mọi người dân Việt Nam đều được quản lý, chăm sóc sức
khỏe. Thơng qua pháp luật BHYT với các quy định về nguyên tắc, phạm vi,
mức hưởng, mọi người dân khi tham gia BHYT đã được pháp luật Việt Nam
đảm bảo bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tham gia BHYT và thụ hưởng
các dịch vụ y tế.
Thứ ba, BHYT đã tạo một nguồn quỹ tài chính của Nhà nước vô cùng
lớn trong việc điều hành, cung cấp nguồn kinh phí cơ bản cho hệ thống mạng
lưới y tế nước ta. Nguồn quỹ BHYT gia tăng hàng năm, hiện nay hơn trăm
ngàn tỷ đồng, chính là nguồn kinh phí lớn nhất và chủ yếu trong lĩnh vực y tế,
nguồn quỹ này sẽ do tổ chức BHYT thay mặt người bệnh chi trả chi phí KCB
BHYT cho các đơn vị KCB BHYT theo phạm vị và mức hưởng đã được luật
định (từ 80% đến 100%). Đồng thời với tỷ lệ tham gia BHYT của người dân
ngày càng gia tăng, hiện nay tại Việt Nam, số người tham gia BHYT chiếm tỷ

lệ hơn 90% dân số Việt Nam, nên hầu như nguồn kinh phí hoạt động của các
đơn vị KCB BHYT trên khắp cả nước đều bắt nguồn từ nguồn quỹ BHYT.
Như vậy, BHYT chính là điều kiện nâng cao chất lượng KCB và quản lý tài
chính y tế thơng qua việc tạo được nguồn tài chính tập trung cho công tác


17

KCB BHYT. Qua đó, tạo nguồn lực để chi trả lương và các chế độ cho đội
ngũ nhân viên y tế, xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị y tế, đào
tạo trình độ chun mơn KCB, từng bước nâng cao chất lượng, vị trí và uy tín
của đơn vị đối với mọi người dân.
Vấn đề này này càng được minh chứng cụ thể qua các số liệu thống kê
đã được phân tích tại mục 2.2.1.3 về tình hình tham gia, nguồn thu BHYT và
chi phí
Thứ tư, BHYT có tác dụng góp phần giảm nhẹ gánh nặng cho NSNN.
Từng bước đổi mới cơ chế tài chính theo hướng đầu tư trực tiếp cho người thụ
hưởng dịch vụ y tế thơng qua hình thức hỗ trợ tham gia BHYT, đồng thời huy
động sự đóng góp của cá nhân, đơn vị theo quy định bằng pháp luật, tạo nguồn
quỹ KCB BHYT độc lập, tập trung, thống nhất dước sự quản lý của Nhà nước,
giảm dần nguồn ngân sách đầu tư cho các đơn vị KCB cơng lập, góp phần tạo
nguồn tài chính ổn định cho cơng tác chăm sóc sức khỏe nhân dân theo hướng
công bằng, hiệu quả, chất lượng và phát triển bền vững. Đồng thời, từng bước
tính đúng tính đủ giá viện phí, từng bước đẩy mạnh cơ chế tự chủ các cơ sở y tế
công lập, cắt giảm nguồn ngân sách chi trả hoạt động cho các đơn vị khám chữa
bệnh, để tập trung nguồn lực đầu tư các lĩnh vực khác có liên quan. Vấn đề này
này càng được minh chứng cụ thể qua các số liệu thống kê đã được phân tích tại
mục 2.2.1.3 về nguồn chi trả chi phí KCB BHYT.
Thứ năm, BHYT góp phần đề phịng và chống đói nghèo và bệnh tật.
Theo phương châm “phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Hiện nay, khoản cách giàu

nghèo vẫn còn lớn, còn rất nhiều người vơ cùng khó khăn về cuộc sống, nếu
khơng may bị ốm đau bệnh tật, và bệnh nhân và gia đình bệnh nhân này sẽ rơi
vào vịng xốy của đói nghèo nếu khơng có BHYT. Đồng thời, bên cạnh nhận
thức được quyền lợi của mình, người tham gia BHYT có quyền đi KCB để
thụ hưởng theo chế độ BHYT, nhờ vậy, việc quản lý, chăm sóc sức khỏe ngày


18

càng tốt hơn, từ đó phát hiện sớm, kịp thời bệnh lý và có phương pháp chữa
trị kịp thời, tránh được những hậu quả xấu.
Thứ sáu, BHYT ra đời còn góp phần giáo dục cho mọi người dân trong
xã hội về tính nhân văn cao cả, sống ln hướng thiện theo đạo lý của dân tộc
ta, với phương châm mỗi người vì mọi người và mọi người vì một người.
Cùng nhau chung sức, giúp đỡ lẫn nhau qua cơn hoạn nạn, thể hiện ở việc
từng mỗi cá nhân, tổ chức, cơ quan đơn vị tuân thủ pháp luật BHYT, tích cực
tham gia đóng góp quỹ BHYT, tạo nguồn quỹ BHYT chung để chi trả cho
những ngươi không may bị ốm đau, bệnh tật.
Như vậy, Bảo hiểm y tế đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong việc phát
triển bền vững xã hội, cho cộng đồng, cho gia đình và cho bản thân từng
người. với mục tiêu cuối cùng là đảm bảo sức khỏe cho người dân, đó chính
là tài sản đặc biệt của một quốc gia, là nhân tố cho phát triển kinh tế và ổn
định xã hội.
1.1.2. Luật Bảo hiểm y tế
Khi nghiên cứu về nội dung của BHYT chúng ta thấy rằng, BHYT
không chỉ là sự tương trợ, giúp đỡ của cá nhân hay tổ chức mà còn là trách
nhiệm của Nhà nước trước quyền được chăm sóc sức khỏe của các thành viên
trong xã hội. Sự tham gia của Nhà nước về BHYT ngoài việc thể hiện chức
năng xã hội với mục đích nhằm ổn định xã hội. Bảo vệ chăm sóc sức khỏe
của nhân dân là mục tiêu hàng đầu của bất kỳ quốc gia nào. Mỗi quốc gia đều

coi BHYT là một chính sách xã hội bắt buộc của mình. Để thực hiện mục tiêu
này tất cả các quốc gia đều ban hành pháp luật để điều chỉnh về BHYT, đây là
cơ sở pháp lý để Nhà nước và các tổ chức và cá nhân thực hiện quyền và
nghĩa vụ của mình về BHYT.
Từ đây chúng ta có thể hiểu Luật Bảo hiểm y tế là hệ thống các quy tắc
xử sự chung do Nhà nước ban hành hay thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan


19

hệ kinh tế - xã hội phát sinh trong quá trình tham gia, hưởng thụ bảo hiểm y
tế theo nguyên tắc tương trợ cộng đồng, chia sẽ rủi ro dưới sụ tương trợ của
Nhà nước vì mục đích an sinh xã hội.
Từ khái niệm trên, có thể hiểu bản chất của pháp luật BHYT được thể
hiện ở những nội dung chính như sau:
Thứ nhất, bản chất xã hội của BHYT: Đây là đặc trưng nổi bật của pháp
luật BHYT với vai trò đảm bảo an sinh xã hội. Bản chất xã hội của BHYT
được thể hiện đó là sự bảo trợ của Nhà nước về chăm sóc y tế dành cho các
thành viên của mình, bảo đảm một trong những quyền quan trọng của con
người, đó là quyền được chăm sóc y tế. Bảo vệ và chăm sóc sức khỏe không
phải thuần túy chỉ là trách nhiệm của từng cá nhân riêng lẻ, mà là trách nhiệm
chung của cả cộng đồng. Bởi lẻ, nguy cơ bệnh tật có thể đến với bất kỳ ai,
không kể quốc gia dân tộc nào, và hơn nữa khơng ai có thể một mình chống lại
bệnh tật. Lẽ đương nhiên, việc bảo vệ chăm sóc sức khỏe trước tiên là thuộc về
mỗi cá nhân, nhưng cũng cần sự giúp đỡ mang tính xã hội, có tính tổ chức cao
đó là sự giúp đỡ mang tính nhà nước. Ở đó Nhà nước giữ vai trị quan trọng, là
người tổ chức, quản lý và bảo trợ. Bản chất xã hội của pháp luật BHYT còn
được thể hiện ở sự liên kết, chi sẽ rủi ro mang tính cộng đồng của các thành
viên trong xã hội. Bên cạnh sự trợ giúp mang tính nhà nước thì sự chia sẽ, liên
kết của các thành viên trong xã hội thông qua đóng góp dự trên thu nhập là yếu

tố quan trọng. Thiếu liên kết này, việc thực hiện BHYT sẽ không thành công
do không đảm bảo được nguyên lý chia sẽ rủi ro. Thực tế cho thấy, bệnh tật và
những rủi ro về sức khỏe không phải lúc nào cũng xuất hiện cùng một lúc với
tất cả mọi người, chúng cũng khơng xuất hiện giống nhau ở mỗi người; có
người ốm lúc này, có người ốm lúc khác; có người bệnh nặng, có người bệnh
nhẹ… Nếu cứ để người người nào có bệnh thì người đó tự chống đỡ thì sẽ gây
khó khăn cho chính họ vì khơng đủ kinh phí để trang trải. Do đó sự liên kết


×