Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

TX6430-Nguyen Quang Thuan-Dan nhap Triet hoc phuong Tay-DTTX K6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.16 KB, 22 trang )

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN QUANG THUẬN

SO SÁNH NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHÍNH CỦA
TRIẾT HỌC HY LẠP – LA MÃ CỔ ĐẠI
VÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC

TP. Hồ Chí Minh, 04/12/2020


1

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN QUANG THUẬN

SO SÁNH NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHÍNH CỦA
TRIẾT HỌC HY LẠP – LA MÃ CỔ ĐẠI
VÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC

TIỂU LUẬN GIỮA HỌC KỲ III – KHĨA VI
MƠN HỌC: DẪN NHẬP TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY
MSSV: TX6430

Giáo Sư Hướng Dẫn:
NS. TS. THÍCH NỮ HƯƠNG NHŨ

TP. Hồ Chí Minh, 04/12/2020




2

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Tiểu luận giữa Học kỳ III “So sánh những đặc điểm chính của Triết
học Hy Lạp – La Mã Cổ đại và Triết học Cổ điển Đức” là kết quả của quá trình nghiên
cứu tự thân. Các tài liệu được trích dẫn trong tiểu luận có tính kế thừa và phát triển từ các
ấn phẩm sách, báo, cơng trình nghiên cứu, internet… có nguồn trích dẫn rõ ràng theo
danh mục tài liệu tham khảo.
Tơi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan danh dự của tơi.

Hồ Chí Minh, 04/12/2020
Nguyễn Quang Thuận


3

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
________________________________________________________________________
________________________________________________________________________
________________________________________________________________________
________________________________________________________________________
________________________________________________________________________
________________________________________________________________________
________________________________________________________________________
________________________________________________________________________
________________________________________________________________________
________________________________________________________________________
________________________________________________________________________

________________________________________________________________________
________________________________________________________________________
________________________________________________________________________
________________________________________________________________________
________________________________________________________________________
________________________________________________________________________
________________________________________________________________________
________________________________________________________________________
________________________________________________________________________
________________________________________________________________________
________________________________________________________________________
________________________________________________________________________
________________________________________________________________________
________________________________________________________________________
________________________________________________________________________
________________________________________________________________________
________________________________________________________________________


4

MỤC LỤC
PHẦN DẪN NHẬP
1.
2.
3.
4.

Lý do chọn đề tài ..................................................................................................
Phạm vi đề tài .......................................................................................................

Cơ sở tài liệu ........................................................................................................
Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................

5
5
5
5

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Lược sử Triết học phương Tây ...........................................................
1.1 Triết học Hy Lạp – La Mã Cổ đại ........................................................................
1.2 Triết học thời kỳ Trung cổ ....................................................................................
1.3 Triết học thời đại Phục hưng ................................................................................
1.4 Triết học thời đại Khai sáng ................................................................................
1.5 Triết học Cổ điển Đức .........................................................................................
1.6 Triết học Phi Cổ điển và Triết học Hiện đại ........................................................

6
6
6
7
7
7
8

Chương 2: Những đặc điểm chính của Triết học Hy Lạp – La Mã Cổ đại ........
2.1 Hoàn cảnh ra đời ..................................................................................................
2.2 Các đặc điểm chính ..............................................................................................
2.2.1 Tính sơ khai và mộc mạc ..................................................................................
2.2.2 Tính khái quát về mặt lý luận ...........................................................................

2.2.3 Tính đa dạng và phân cực .................................................................................
2.2.4 Tính biện chứng sơ khai và tự phát ..................................................................
2.2.5 Tính nhân bản ...................................................................................................

9
9
10
10
10
11
11
11

Chương 3: Những đặc điểm chính của Triết học Cổ điển Đức ...........................
3.1 Hoàn cảnh ra đời ..................................................................................................
3.2 Các đặc điểm chính ..............................................................................................
3.2.1 Tính khái quát ...................................................................................................
3.2.2 Tính mâu thuẫn .................................................................................................
3.2.3 Tính biện chứng ................................................................................................
3.2.2 Tính nhân bản ...................................................................................................

14
14
15
15
15
15
16

Chương 4: So sánh các đặc điểm chính của Triết học Hy Lạp – La Mã Cổ đại và

Triết học Cổ điển Đức ............................................................................................. 18
4.1 Tính khái quát ...................................................................................................... 18
4.2 Tính phân cực và tính mâu thuẫn ......................................................................... 18
4.3 Tính biện chứng ................................................................................................... 19
4.4 Tính nhân bản ...................................................................................................... 19

PHẦN KẾT LUẬN
Thay lời kết ................................................................................................................20


5

PHẦN DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
Triết học là bộ môn nghiên cứu về những vấn đề chung và cơ bản của con người, thế giới
quan và vị trí của con người trong thế giới quan, những vấn đề có kết nối với chân lý, sự
tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức, và ngôn ngữ. Các tư duy triết học phương Tây
đầu tiên xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên tại Hy Lạp dưới hình thái ý
thức xã hội thời kỳ chế độ công xã nguyên thuỷ chuyển sang chế độ chiếm hữu nơ lệ.
Song hành cùng biết bao thăng trầm của dịng chảy lịch sử (thời kỳ Đêm trường Trung
cổ, Phục hưng và Khai sáng), các tư tưởng triết học luôn là ngọn đuốc soi đường, là ánh
sáng tri thức xóa tan bóng tối vơ minh. Đến thế kỷ XIX, Triết học Cổ điển Đức xuất hiện
và đưa Triết học phương Tây lên một tầm cao mới.
Sự ra đời của Triết học Hy Lạp – La Mã Cổ đại và Triết học Cổ điển Đức là một một
điểm son của nền triết học phương Tây. Vì vậy, việc nghiên cứu các đặc điểm nổi bật và
tư tưởng chủ đạo của triết học phương Tây nói chung và Triết học Hy Lạp – La Mã Cổ
đại và Triết học Cổ điển Đức nói riêng là việc mà những người học Phật cần tìm hiểu
tổng quan nhằm sách tấn bản thân trên tinh thần “Duy tuệ thị nghiệp”. Đồng thời, quá
trình tìm hiểu hai giai đoạn triết học này cũng là nguồn động lực thôi thúc tư duy, phát
triển nhận thức về thế giới sự vật hiện tượng và con người; khai mở nguồn Thiền hướng

đến liễu ngộ chân tâm.
2. Phạm vi đề tài
Trình bày và so sánh các đặc điểm chính của Triết học Hy Lạp – La Mã Cổ đại và Triết
học Cổ điển Đức.
3. Cơ sở tài liệu
Triết học phương Tây qua nghiên cứu của các học giả: Đoàn Văn Thọ, Nguyễn Tiến
Dũng; giáo trình Đại cương Triết học phương Tây của Ni sư Tiến sĩ Thích Nữ Hương
Nhũ và một số nguồn tư liệu từ internet.
4. Phương pháp nghiên cứu
Với tầm hiểu biết nông cạn, trải nghiệm nghiên cứu chưa cao; người viết xin được sử
dụng phương pháp tổng hợp và so sánh từ các nguồn tư liệu về Triết học Hy Lạp – La Mã
Cổ đại và Triết học Cổ điển Đức để hoàn thành tập tiểu luận này.

Nam Mô A Di Đà Phật!


6

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LƯỢC SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY
Vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên, tư duy triết học bắt đầu xuất hiện ở cả phương
Tây và Phương Đơng khi con người tìm cách giải thích các hiện tượng tự nhiên và nguồn
gốc vũ trụ bằng lý luận và quan sát thay cho thơ ca thần thoại của lối tư duy huyền thoại
và tôn giáo nguyên thủy.
Trong tiếng Hy Lạp, triết học (philosophia) có nghĩa là tình u trí tuệ hay tình u sự
thơng thái. Theo nghĩa chung nhất, triết học là môn khoa học nghiên cứu về thế giới và
con người trên cơ sở thực tại để hướng đến chân lý, nhằm giải thích khởi nguyên vũ trụ
cũng như mối tương quan giữa con người và các sự vật hiện tượng tự nhiên. Triết học
được cấu thành bởi các thành tố: siêu hình học, lý luận học (logic học), luân lý học (đạo
đức học), thẩm mỹ học, nhận thức, toán học, vật lý, thiên văn, địa chất, sinh học…

Triết học phương Tây trải qua sáu giai đoạn lịch sử với các đặc điểm và nét đặc trưng
thời đại riêng biệt.
1.1 Triết học Hy Lạp – La Mã Cổ đại
Triết học Hy Lạp – La Mã cổ đại (từ thế kỷ VI trước công nguyên – thế kỷ IV sau cơng
ngun) hình thành và phát triển gắn liền với ba thời kỳ ra đời – lớn mạnh – sụp đổ của
chế độ chiếm hữu nô lệ.
 Thời kỳ tiền Socrates (từ thế kỷ thứ VI – thế kỷ V trước công nguyên) với các triết
gia tiêu biểu: Thales (?-?) – cha đẻ của triết học, Pythagore (?-?) – cha đẻ của toán
học với luận thuyết bản nguyên vũ trụ là con số, Heraclit (535–475 TCN) – ông tổ
của tư tưởng biện chứng...
 Thời kỳ Socrates (từ thế kỷ V – thế kỷ IV trước công nguyên) với các nhà triết học
đại diện: Democritus (460-? TCN) – nhà nguyên tử luận, Socrates (469-399 TCN)
– nhà triết học đầu tiên đề cập đến vấn đề con người và đạo đức nhân sinh, Platon
(423-347 TCN) – nhà triết học duy tâm khách quan với học thuyết ý niệm,
Aristotes (384-322 TCN) – bộ óc bách khoa của nền triết học Hy Lạp cổ đại.
 Thời kỳ hậu Socrates (từ thế kỷ III trước công nguyên – thế kỷ IV sau công
nguyên) với các nhà triết học: Zenon (490-429 TCN) – người sáng lập chủ nghĩa
khắc kỷ, Pirone (365-275 TCN) – người khởi xướng chủ nghĩa hoài nghi, Epicurus
(341-270 TCN) – người khởi xướng chủ nghĩa khoái lạc…
1.2 Triết học thời Trung cổ
Triết học thời Trung cổ (từ thế kỷ IV – thế kỷ XIV) hình thành sau khi đế chế Tây La Mã
sụp đổ, giáo hội Cơ Đốc giáo trở thành thế lực thống trị ở Tây Âu trong suốt 1000 năm
sau đó. Thời kỳ này cịn được gọi là “Đêm trường Trung cổ” vì giáo hội giữ vị trí độc


7

tôn về học thuật, triết học trở thành nô lệ của thần học. Đáp án cho các câu hỏi về bản
chất vũ trụ hay đời sống đức hạnh của một con người khơng cịn là chủ đề cho những
tranh biện triết học vì các câu trả lời cho các vấn đề ấy sẽ được tìm thấy trong Kinh

Thánh.
Các nhà tư tưởng thời trung cổ hồn tồn khơng xem mình là triết gia vì đối với họ, triết
học là ngoại giáo. Các nhà tư tưởng tiêu biểu của giai đoạn này: Augustine (354-430) và
tư tưởng đối nghịch giữa thiện và ác, Thomas Aquinas (1225-1274) và lập luận “Năm
con đường” khẳng định sự tồn tại của Chúa, Avicenna (980-1037) – triết gia Hồi giáo
với quan điểm “Nhị nguyên luận”.
1.3 Triết học thời đại Phục hưng
Triết học thời đại Phục hưng (từ thế kỷ XV – thế kỷ XVI) bắt nguồn từ Florence rồi sau
đó lan tỏa và ảnh hưởng khắp châu Âu. Sự phát triển của khoa học đã làm đảo lộn hệ
thống giáo lý của giáo hội Cơ Đốc giáo. Đây là giai đoạn lấy con người làm trung tâm
“khôi phục lại sự hưng thịnh”, là đỉnh cao về văn hóa và sáng tạo trên nhiều lĩnh vực, là
cầu nối giữa triết học thời kỳ Trung Cổ và triết học hiện đại.
Các triết gia tiêu biểu: Alighieri Dante (1265-1321), Francesco Petrarca (1304-1374) …
Một số triết gia nổi tiếng của giai đoạn này đồng thời cũng là những chính trị gia, nhà
khoa học lỗi lạc: Leonardo da Vinci (1452-1519), Niccolo Machiavelli (1469-1527),
Nicolas Copernicus (1473-1543), Thomas More (1478-1535), Giordano Bruno (15481600), Galileo Galilei (1564-1642)…
1.4 Triết học thời đại Khai sáng
Tiếp nối cuộc cách mạng khoa học, Triết học thời đại Khai sáng (từ thế kỷ XVII – thế kỷ
XVIII) ra đời từ phong trào trí thức và học thuật Chủ nghĩa Nhân văn Phục Hưng. Tri
thức triết học đã phản ánh sâu sắc và định hình các ngành khoa học chuyên biệt như: toán
học, thiên văn, địa lý, y học… Từ giai đoạn này, triết học trở thành bộ môn nghiên cứu
các vấn đề luận lý trí tuệ và tri thức.
Một số triết gia tiêu biểu của giai đoạn này: Francis Bacon (1561-1626) – cha đẻ của triết
học thực nghiệm, Thomas Hobbes (1588-1679) – triết gia tiến bộ của chủ nghĩa tư bản,
Rene Decartes (1596-1650) – cha đẻ của triết học hiện đại, Baruch Spinoza (1632-1667)
và quan điểm “Nhất nguyên luận”, John Locke (1632-1704) – cha đẻ của chủ nghĩa duy
nghiệm...
1.5 Triết học Cổ điển Đức
Triết học Cổ điển Đức (thế kỷ XIX) được hình thành trong bối cảnh Châu Âu đang sơi
sục trong thời kỳ Khai sáng (cách mạng công nghiệp Anh quốc, cách mạng tư sản Pháp

quốc báo hiệu hồi chuông khai tử của giai cấp phong kiến). Vào thời gian này,
nước Đức vẫn cịn duy trì chế độ phong kiến và bị chia rẽ thành nhiều tiểu quốc khác
nhau (360 tiểu quốc). Trước sự nhiễu nhương của thời cuộc, nhiều nhân tài đã xuất hiện
và phê phán thối nát của nhà nước phong kiến.


8

Triết học Cổ điển Đức nghiên cứu con người và thế giới theo quan điểm thời kỳ Phục
Hưng theo hệ quy chiếu của tư tưởng triết học Hy Lạp Cổ đại đã đưa Triết học phương
Tây lên một tầm cao mới.
Các triết gia tiêu biểu của giai đoạn này: Immanuel Kant (1724-1804) – triết gia phê phán
vĩ đại đã chỉ ra con đường cho những nhà tư tưởng theo chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa
kinh nghiệm thoát khỏi bế tắc, Wilhelm Friedrich Hegel (1770-1831) – nhà sáng lập chủ
nghĩa duy tâm Đức, Athur Schopenhauer (1788-1860) – nhà giáo dục vĩ đại nhất của nền
triết học và tư tưởng Tây Âu, Ludwig Andreas Feuerbach (1804-1872) – nhà chủ nghĩa
duy vật nhân bản, Friedrich Nietzsche (1844-1900) – ông tổ của chủ nghĩa sinh mở
đường cho ngành Phân tâm học sau này…
1.6 Triết học Phi cổ điển và Triết học Hiện đại
Vào thế kỷ XX, triết học phương Tây hiện đại không ngừng phân hóa thành nhiều trường
phái xoay quanh hai trào lưu chủ yếu là chủ nghĩa duy khoa học và chủ nghĩa nhân bản
phi duy lý. Hai trào lưu này dường như đối lập nhau, nhưng trên thực tế lại bổ sung nhau,
vì chúng đều cần thiết cho sự ổn định và phát triển của xã hội tư bản và cùng phản ánh
mâu thuẫn trong lòng chủ nghĩa tư bản hiện đại. Đồng hành cùng sự phát triển của các
trào lưu tư tưởng hiện đại, Triết học Phi cổ điển và Triết học Hiện đại giải thích một cách
khách quan và khoa học các nội dung của triết học, làm sáng tỏ các đặc điểm thời đại và
dự báo xu hướng vận động của lịch sử.
Một số triết gia tiêu biểu của giai đoạn này: Sigmund Freud (1856-1939) – cha đẻ ngành
Phân tâm học, John Dewey (1859-1952) – nhà cải cách giáo dục phát triển chủ nghĩa
thực dụng, Vladimir Lenin (1870-1924) – nhà tư tưởng phát triển chủ nghĩa Marx–

Lenin, Martin Heidegger (1889-1976) và chủ nghĩa hiện sinh …


9

CHƯƠNG 2: CÁC ĐẶC ĐIỂM CHÍNH
CỦA TRIẾT HỌC HY LẠP – LA MÃ CỔ ĐẠI

2.1 Hoàn cảnh ra đời
Hy Lạp cổ đại trước đây là một vùng lãnh thổ rộng lớn bao gồm đất liền và vơ số hịn đảo
trên biển Egie, thuộc vùng Balkan và Tiểu Á. Với khí hậu ơn hịa, trồng trọt nơng nghiệp
phát triển mạnh tạo nên các đồng bằng trù phú ở miền Nam và miền Trung. Phía Đơng có
nhiều vịnh và hải cảng, thuận lợi phát triển hàng hải giao thương với các nước ở vùng
Tiểu Á, Bắc Phi. Phần lớn các nhà tư tưởng nổi tiếng của Hy Lạp cổ đại đã đến Ai Cập và
Babylon để nghiên cứu và học tập. Nhờ có điều kiện tự nhiên thuận lợi, Hy Lạp dễ dàng
phát triển nông nghiệp, mở rộng bang giao, tiếp thu tinh hoa văn hóa bên ngồi tạo tiền
đề cho sự phát triển vũ bão trên mọi lĩnh vực.
Thế kỷ VIII – VI trước Công nguyên, công cụ sản xuất bằng sắt dần dần trở nên phổ
biến, năng xuất lao động gia tăng đáng kể với sản lượng dồi dào. Sự phát triển sản xuất
kéo theo sự phân công lao động bị thay đổi, dẫn đến các quan hệ xã hội và tổ chức xã hội
cũ bị đảo lộn, các tư tưởng tư hữu và chế độ chiếm hữu nô lệ ra đời (vào thế kỷ VI trước
Công nguyên). Xã hội phân hoá thành hai giai cấp chủ yếu là chủ nô và nô lệ. Với số
lượng đông đảo, nô lệ trở thành lực lượng sản xuất chủ yếu trong xã hội. Mâu thuẫn giữa
chủ nô và nô lệ ngày càng gay gắt đã làm cho mức độ ác liệt của cuộc đấu tranh giữa nô
lệ với chủ nô ngày càng tăng. Giai cấp chủ nơ cũng phân hố thành chủ nô quý tộc (gắn
liền với sản xuất nông nghiệp, bảo thủ, chuyên chế) và chủ nô dân chủ (gắn liền với công
thương nghiệp, thường đề xuất những chủ trương dân chủ tiến bộ).
Do có sự phân cơng lao động, tầng lớp lao động trí thức xuất hiện trong xã hội, tạo điều
kiện hình thành các tri thức khoa học sơ khai: phát minh tốn học của Thales và
Pythagor, hình học của Euclid, vật lý của Archimedes…

Sự xuất hiện của các tri thức khoa học sơ khai là tiền đề thúc đẩy Triết học ra đời. Chúng
cho thấy các quan niệm của thần thoại truyền thống và các tôn giáo nguyên thuỷ không
thể đáp ứng được yêu cầu của con người trong việc lý giải các vấn đề về thế giới quan.
Các khám phá khoa học đã phơi bày sự giả dối của bức tranh về vũ trụ quan – nhân sinh
quan của các tôn giáo nguyên thủy và thần thoại truyền thống. Chúng địi hỏi con người
phải có cách lý giải mới về thế giới xung quanh và cuộc sống con người. Chính vì thế, Hy
Lạp cổ đại là vùng đất hội tụ đầy đủ các điều kiện để tư duy con người được bay bổng và
thoả sức sáng tạo ra những giá trị triết học có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong lịch sử tư
tưởng của nhân loại. Sự hình thành triết học Hy Lạp khơng diễn ra một cách ngẫu nhiên
mà là kết quả tất yếu của việc kế thừa di sản thần thoại dân gian truyền thống và phát
triển các tri thức sơ khai về khoa học tự nhiên.
Thế kỉ II sau Công nguyên, Hy Lạp bị Đế quốc La Mã (Roma) chinh phục. Sau khi Hy
Lạp sát nhập vào Đế quốc La Mã, ảnh hưởng của văn minh Hy Lạp đối với La Mã càng


10

mạnh mẽ hơn. Nền triết học thời kỳ La Mã khơng có nhiều sáng tạo mà chủ yếu kế thừa
từ các tư tưởng triết học Hy Lạp (thời kỳ này cịn được gọi là thời kỳ Hy Lạp hóa). Các
triết gia ở thời kỳ này bàng quang, lảng tránh những vấn đề trung tâm của triết học, đắm
chìm trong đời sống tình cảm và ham muốn cá nhân.
2.2 Các đặc điểm chính của Triết học Hy Lạp – La Mã Cổ đại
Dựa vào các tiền đề từ bối cảnh kinh tế – xã hội – văn hóa, Triết học Hy Lạp – La Mã Cổ
đại ra đời mang các đặc tính sau:
2.2.1 Tính sơ khai và mộc mạc
Tư duy triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó mật thiết tri thức sơ khai về khoa học tự nhiên trên
mọi lĩnh vực, nhằm xây dựng bức tranh tổng thể về thế giới sự vật hiện tượng. Do trình
độ tư duy lý luận còn thấp, tri thức khoa học sơ khai chưa đạt tới trình độ mổ xẻ, phân
tích tự nhiên để đi sâu vào bản chất sự vật, mà chỉ mới nghiên cứu tổng thể để có cái nhìn
tổng qt về thế giới. Vì vậy, các nhà triết học cịn đồng thời còn là các nhà khoa học tự

nhiên, họ quan sát trực tiếp các hiện tượng tự nhiên, để rút ra những kết luận triết học.
 Thales (624-547 trước Công nguyên) khẳng định: “Bản nguyên của thế giới là
nước” để giải thích bản chất của thế giới tự nhiên, phủ nhận tư tưởng thần thoại
truyền thống và tôn giáo nguyên thuỷ.
 Anaximander (610-546 trước Công nguyên) cho rằng: “Bản nguyên sâu xa nhất
của vũ trụ là cái không xác định”, thể hiện quan điểm vũ trụ là vô cùng vô tận, tồn
tại vĩnh viễn, không chịu sự chi phối của không gian và thời gian.
 Anaximenes (588-525 trước Công nguyên) cho rằng: “Khí là bản nguyên của mọi
sự vật hiện tượng” với yếu tố vật lý là khơng khí và yếu tố tâm linh là sinh khí.
 Pythagore (570-496 trước Cơng ngun) phát biểu: “Cái gì đo được thì tồn tại,
cái gì tồn tại thì đo được” thể hiện quan điểm con số là bản nguyên của vũ trụ.
2.2.2 Tính khái quát về mặt lý luận
Triết học Hy Lạp Cổ đại được xem là khoa học của các ngành khoa học và triết gia chính
là những nhà thơng thái đại diện cho trí tuệ xã hội.
 Solon (638-588 trước Cơng nguyên) nhà lập pháp tiến hành cải cách dân chủ, xóa
bỏ nợ nần và giải phóng nơng dân. Quyền lực tối cao thuộc về Hội nghị Công dân,
nền dân chủ chủ nơ tại Athens trở thành hình thái cai trị ưu việt nhất của thế giới
cổ đại.
 Empedocles (490-430 trước Cơng ngun) trình bày chu kỳ vận động và chuyển
hóa của bốn nguyên tố đất – nước – lửa – khí. Bốn hành chất này được xem là cội
nguồn của vạn vật. Sự kết hợp các hành chất theo tỷ lệ khác nhau sẽ tạo nên các sự
vật khác nhau.
 Democritos (460-? trước Công nguyên) của trường phái Nguyên tử luận duy vật
cho rằng: “Sự khác nhau của các nguyên tử về hình dáng, kích thước, trật tự, vị
trí… là sự giải thích đầy đủ và xác đáng nhất tính đa dạng của thế giới vật chất”.
Ông xem sự vận động là thuộc tính của ngun tử, nó tồn tại vĩnh cửu và khơng có
nguồn gốc khởi sinh.


11


2.2.3 Tính đa dạng và phân cực
Triết học Hy Lạp cổ đại có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu của trường
phái duy vật – duy tâm, biện chứng siêu hình, vơ thần – hũu thần. Tính đa dạng và phân
cực quyết liệt giữa các trường phái hình thành nét đặc trưng riêng biệt của Triết học Hy
Lạp cổ đại. Điển hình là các cuộc tranh luận giữa các triết gia:
 Heraclite (544-483 trước Công nguyên) và Parmenides (540-470 trước Công
nguyên) của trường phái Elee về sự vận động của vũ trụ, sự tồn tại của các sự vật
hiện tượng và quy luật chuyển hóa thành – trụ – hoại – không.
 Democritos (460-? trước Công nguyên) của trường phái duy vật “Nguyên tử luận”
và Plato (427-347 trước Công nguyên) của trường phái duy tâm về Học thuyết ý
niệm, thể hiện sự mâu thuẫn giữa thế giới ý niệm và thế giới sự vật hiện tượng
cảm tính biến chuyển đầy sinh động.
2.2.4 Tính biện chứng sơ khai và tự phát
Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã sử dụng phép biện chứng sơ khai và duy vật tự phát
để giải thích tự nhiên, khám phá quy luật nhận thức. Họ đã vận dụng phép biện chứng để
nâng cao khả năng hùng biện nhằm bảo vệ quan điểm triết học nhưng chưa trình bày
thành hệ thống lý luận chặt chẽ.
 Heraclite (544-483 trước Công nguyên) với câu nói thời danh: “Khơng ai tắm hai
lần trên một dịng sơng” đã khẳng định sự vận động là quy luật tất yếu của vũ trụ.
Tất cả mọi sự vật hiện tượng đều bị chi phối bởi quy luật thành – trụ – hoại –
không. Các cuộc tranh biện giữa Heraclite với các triết gia thuộc trường phái Elee
không chỉ kích thích tư duy trong việc tìm ra chân lý mà còn cho thấy sự linh hoạt
trong việc vận dụng và trình bày ngơn ngữ, đánh bóng khái niệm (quỷ biện).
 Zenon (490-430 trước Công nguyên) là triết gia thuộc trường phái Elee, được biết
đến qua các lập luận về: nghịch lý “Mũi tên bay” kỳ thực là không bay vì tại một
thời điểm xác định nó ln đứng yên tại một vị trí cụ thể; nghịch lý “Achilles và
con rùa” nói về lực sĩ Achilles dù chạy nhanh và tỉnh táo cũng không thể nào đuổi
kịp con rùa vì đã chấp nó một qng đường.
2.2.5 Tính nhân bản

Triết học Hy Lạp cổ đại đặc biệt quan tâm đến vấn đề con người ở phương diện cá thể,
khẳng định con người là kỳ cơng của tạo hóa, là trung tâm của tất cả mọi hoạt động. Giá
trị của một con người được xem xét ở các khía cạnh đạo đức, giao tiếp và nhận thức. Q
trình nhân bản hóa các đối tượng nghiên cứu đã để lại các tư tưởng nhân văn sâu sắc về
vấn đề nhân sinh xã hội.
 Protigoras (480-410 trước Công nguyên) sáng lập phái Biện thuyết đã phát biểu
rằng: “Con người là thước đo của vạn vật” đã đề cao tự do và năng lực con người
trong sự vận hành của vũ trụ.
 Socrates (469-399 trước Cơng ngun) với câu nói thời danh: “Hãy tự biết chính
mình” đã khẳng định con người có thể nhận biết được vị trí của mình trong thế
giới thơng qua nhận thức của bản thân.
Khi bàn về Socrates, Triết học phương Tây xem ơng là bước ngoặc trong hành
trình triết học, từ triết học tự nhiên sang triết học đạo đức, từ nguyên lý vũ trụ sang


12

nguyên lý nhân sinh. Ciceron đã nhận xét: “Socrates người là người đầu tiên đã
gọi được triết học từ trên trời xuống và đưa triết học đi sâu vào các gia đình của
những người dân, bắt triết học phải nêu lên những câu hỏi về đời sống và cái chết,
những điều tốt và những điều xấu”.
Socrates là đại diện của sự kiên nhẫn, mộc mạc và khả năng tự kiểm soát bản thân.
Tức giận, bạo lực và thù địch là những “kẻ xa lạ” đối với ơng. Nếu ai đó xỉ vả,
mắng nhiếc, thậm chí là đánh ơng; ơng chỉ im lặng. Điều này khiến những người
xung quanh vô cùng ngạc nhiên. Và Socrates đã giải thích: “Nếu một con lừa đã
cho ra một cú đá, có cần phải thưa kiện nó khơng?”
Socrates từng được một nhà tiên tri ở Delphi đánh giá là người khơn ngoan nhất.
Ơng cảm thấy bối rối vì lời nhận xét này. Vì vậy, trong nhiều năm rịng, ơng đi
khắp nơi để gặp gỡ và đặt vấn đề với những người nổi tiếng là khôn ngoan và tự
nhận mình là người khơn ngoan. Sau đó, ông kết luận rằng: “Tôi biết một điều là

tôi không biết gì hết” để khẳng định ơng có thể nhận thức được sự thiếu hiểu biết
của bản thân mình, trong khi người khác thì khơng.
Thơng qua phương pháp tư duy biện chứng với bốn đặc điểm: “châm biến – trợ
sản – quy nạp – định nghĩa” trên tinh thần đối thoại, Socrates đã dễ dàng đưa con
người nhập cuộc để khám phá chân lý và nhận thức bản thân.
Cuối đời, ông bị kết án tử vì tội vô thần và làm hư giới trẻ. Đứng trước cái chết,
Socrates vẫn thanh thản, nhẹ nhàng và nhắn nhủ với một người bạn của ơng
rằng: “Tơi cịn mắc nợ Asclepius một con gà trống, anh làm ơn trả giùm tơi được
khơng?”. Chính vì thế mà Socrates đã trở thành biểu tượng của sự thơng thái, lịng
dũng cảm, tấm gương đạo đức của một nhân cách cao thượng.
 Plato (427-347 trước Công nguyên) với câu nói thời danh: “Tự chinh phục mình
là chiến cơng vĩ đại nhất” đã đề cao tầm quan trọng của việc hoàn thiện bản thân,
đập tan những điều xấu xa, thấp kém trong mỗi con người.
Plato là học trò xuất sắc của Socrates, nhà triết học duy tâm khách quan, cha đẻ
của “Học thuyết ý niệm”. Hệ thống triết học của ông được đánh giá là đỉnh cao
của chủ nghĩa duy tâm cổ đại, được xây dựng từ nền tảng học thuyết về cái chung
của Socrates, quan niệm vạn vật đồng nhất thể của trường phái Elee và học thuyết
về con số của trường phái Pythagore.
Cuộc tranh luận quyết liệt của Plato (chủ nghĩa duy tâm) với Democritos (chủ
nghĩa duy vật) thể hiện sự phân cực đối lập giữa thế giới ý niệm và thế giới sự vật
cảm tính đã để lại dấu ấn đặc biệt trên hành trình phát triển của triết học cổ đại.
Plato mất trong bữa tiệc mừng sinh nhật lần thứ 81. Ông đã để rất nhiều tác phẩm
và đa số vẫn được bảo tồn cho đến ngày nay. “Cộng hòa” là một trong các tác
phẩm kinh điển của ơng có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của tư duy triết học và
chính trị suốt hai ngàn năm qua; Hiện nay nó vẫn là cuốn sách gối đầu của các
chính trị gia thời hiện đại.
Plato được xem là “linh hồn của nền văn hóa Hy Lạp cổ đại”. Nhà thơ triết gia
Ralph Waldo Emerson nhận xét: “Plato chính là triết học, triết học chính là Plato.
Ơng khơng vợ, khơng con nhưng tất cả các nhà tư tưởng của tất cả các dân tộc
văn minh đều là hậu duệ của ông. Biết bao nhiêu con người vĩ đại đang không

ngừng sản sinh ra đều là môn đệ của ông – những người theo chủ nghĩa Plato.”


13

 Aristote (384-322 trước Cơng ngun) với câu nói thời danh: “Giá trị đích thực
của đời người là ở sự thức tỉnh và năng lực suy nghĩ chứ không phải ở sự tồn
tại.”đã đề cao giá trị của năng lực tư duy, ý chí và khẳng định chân lý về mục đích
cuộc sống của một con người.
Aristote là học trị của Plato, nhưng ông phản đối “Học thuyết ý niệm” của Plato.
Qua phương pháp quy nạp và diễn dịch, ông đưa ra quan điểm “Ý niệm trung
dung” để khẳng định thế giới vật chất tồn tại khách quan và không có ý niệm nào
tồn tại bên ngồi sự vật hiện tượng.
Ông đã để lại rất nhiều tác phẩm trên mọi lĩnh vực khoa học. Trong đó, “Chính trị”
cũng là một tác phẩm có ảnh hưởng rất lớn đến các chính trị gia hiện đại.
Aistote được đánh giá là “nhà tư tưởng vĩ đại nhất thời cổ đại” (Karl Max) và “bộ
óc bách khoa của nền triết học Hy Lạp cổ đại” (Angel)
Qua các đặc điểm trên, chúng ta có thể thấy nền triết học Hy Lạp – La Mã Cổ đại đã có
được rất nhiều thành tựu rực rỡ. Các triết gia Hy Lạp cổ đại đã có những quan điểm khoa
học tự nhiên tiên tiến, đề ra hàng loạt các ý niệm khoa học, trong đó có thuyết cấu tạo
nguyên tử của vật chất, phê phán mê tín, thần học. Các quan điểm triết học cịn mang tính
chất phác, ngây thơ nhưng đã tạo tiền đề và định hướng cho các giai đoạn triết học của
thời kì sau. Vai trò của tự nhiên và con người được đề cập một cách khách quan, hướng
đến chân lý. Các quan điểm đạo đức đã được đề cập đến nhằm hoàn thiện nhận thức của
con người. Phép biện chứng sơ khai ra đời mang ý nghĩa vơ cùng quan trọng vì đó là cơ
sở nền tảng để các triết gia ở thời kỳ Triết học Cổ điển Đức nghiên cứu và phát triển hoàn
thiện.


14


CHƯƠNG 3: CÁC ĐẶC ĐIỂM CHÍNH
CỦA TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC

3.1 Hoàn cảnh ra đời
Sự ra đời của Cơ Đốc giáo (Khristos) đã đặt dấu chấm hết cho nền Triết học Hy Lạp – La
Mã cổ đại. Châu Âu bước vào thời kỳ “Đêm trường Trung cổ” kéo dài từ thế kỷ IV đến
thế kỷ XIV, triết học đã trở thành nô lệ của thần học qua các tri thức nhuốm màu tôn giáo
và tư tưởng kinh viện.
Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVI, Châu Âu bước vào giai đoạn Triết học thời đại Phục hưng
lấy con người làm trung tâm vũ trụ thay thế “Thần quyền” nhằm khôi phục lại các giá trị
nhân bản và nhân văn. Sự phát triển của khoa học đã làm đảo lộn hệ thống giáo lý của
giáo hội Cơ Đốc giáo.
Từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII, tiếp nối cách mạng khoa học, phong trào Khai sáng ra
đời từ các phong trào trí thức và học thuật được gọi là Chủ nghĩa Nhân văn Phục hưng.
Tri thức triết học giai đoạn này đã phản ánh sâu sắc và định hình các ngành khoa học
chuyên biệt như: toán học, thiên văn, địa lý, y học…
Từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản lần lượt ra đời ở Anh, Pháp,
Ý… Hình thái sản xuất tư bản chủ nghĩa nhanh chóng phát triển và tỏ ra ưu việt hơn hẳn
các hình thái sản xuất của các chế độ xã hội trước đây. Đỉnh cao là Cách mạng công
nghiệp Anh (1760-1840) và Cách mạng Tư sản Pháp (1789-1799) đã làm rung chuyển cả
trời Âu, khẳng định sức mạnh của con người trên phương diện nhận thức và cải tạo thế
giới, mở đầu cho nền văn minh công nghiệp trong lịch sử nhân loại.
Trong khi các nước Tây Âu đang có những bước tiến nhảy vọt, nước Đức vào đầu thế kỷ
XIX vẫn là một quốc gia phong kiến lạc hậu, nơng nghiệp bị đình đốn. Liên bang Đức
vẫn cịn bị chia cắt thành nhiều tiểu quốc tách biệt nhau. Tình trạng đó gây nhiều trở ngại
đối với sự phát triển của đất nước. Triều đình vua Friedrich Wilhelm (1770-1840) vẫn
ngoan cố duy trì chế độ quân chủ phong kiến thối nát, cản trở sự phát triển theo con
đường tư bản chủ nghĩa của đất nước. Nước Đức bao trùm bầu khơng khí bất bình của
đơng đảo quần chúng. Triết gia Friedrich Hegel nhận xét đây là một thời kỳ yếu hèn

trong lịch sử nước Đức.
Thêm vào đó, sự phát triển của các ngành khoa học tự nhiên (Lomonosov chứng minh
định luật Bảo tồn năng lượng, La Marcel trình bày học thuyết biến hình của sinh vật,
Lavoisier phát hiện ra Oxi và bản chất sự cháy…) và tư duy duy lý luận hệ thống hóa tri
thức của các triết gia Tây Âu thời cận đại (Decartes, Spinoza, Rousseau, Montesquieu…)
đã đặt ra nhiều vấn đề học thuật cần được xem xét lại để đánh giá lại các di sản tinh thần
cũng như nhận thức về con người và thế giới. Từ nhu cầu thực tiễn đó, Triết học Cổ điển
Đức đã ra đời.


15

3.2 Các đặc điểm chính
3.2.1 Tính khái quát
Tiếp thu những tinh hoa của nền Triết học Khai sáng của thế kỷ XVIII trong việc phát
triển tư duy lý luận và hệ thống hố tồn bộ tri thức con người. Các triết gia Cổ điển Đức
(từ Kant tới Hegen) đều mong muốn xây dựng một hệ thống triết học vạn năng làm nền
tảng cho toàn bộ thế giới quan con người, khôi phục lại quan niệm coi triết học là khoa
học của các khoa học. Các triết gia Cổ điển Đức thể hiện sự uyên bác không chỉ về triết
học mà còn về các lĩnh vực khoa học tự nhiên, pháp quyển, lịch sử… Dù quan niệm đó
hiện nay khơng phù hợp, nhưng trên phương diện lịch sử, nó đã đáp ứng nhu cầu khoa
học về việc hệ thống hóa tồn bộ tri thức con người mà mà các triết gia thời kỳ Khai sáng
khởi xướng.
3.2.2 Tính mâu thuẫn
Trước tình hình trì trệ và lạc hậu của xã hội phong kiến, các nhà tư tưởng Đức quốc đã
thể hiện tư duy cấp tiến của giai cấp tư sản (qua Cách mạng Tư sản Pháp và Cách mạng
Công nghiệp Anh) nhằm mang lại sự thịnh vượng, phồn vinh và thống nhất đất nước.
Tuy nhiên, phần lớn các nhà triết học Cổ điển Đức đều xuất thân từ tầng lớp thượng lưu,
cũng cảm thấy lo sợ trước sức mạnh quần chúng lao động. Vì vậy, ngay từ những ngày
đầu, giai cấp tư sản đã muốn thỏa hiệp với tầng lớp quý tộc phong kiến. Việc này khiến

thế giới quan các triết gia Cổ điển Đức nảy sinh mâu thuẫn trong ý thức hệ tư sản –
phong kiến, giữa tư tưởng bảo thủ – tư tưởng khoa học.
 Imanuel Kant (1724-1804) và quan niệm “Vật tự nó” cho rằng bản chất của thế
giới vật chất là “Vật tự nó” và con người chỉ có thể nhận thức được các hiện tượng
bên ngoài, mà hoàn tồn khơng nhận thức được bản chất thế giới. Vì vậy, ơng cho
rằng tri thức con người chỉ có thể phản ánh các hiện tượng của thế giới khách quan
mà thơi. Khi Kant quan niệm “Vật tự nó” tồn tại khách quan bên ngồi chúng ta
thì ơng là nhà duy vật; cịn khi ơng tun bố “Vật tự nó” là không thể nhận thức
được, là siêu nghiệm, là ở thế giới bên kia thì ơng là nhà duy tâm. Chính vì vậy,
Lenin đã nhận định: “Đặc điểm cơ bản của triết học Kant là sự dung hòa giữa chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, làm cho hai chủ nghĩa ấy thỏa hiệp với nhau,
là kết hợp những trào lưu triết học đối lập với nhau thành một thể thống nhất.”
 Friedrich Hegel (1770-1831) và quan niệm “Ý niệm tuyệt đối” đã khiến các sự
vật của thế giới khách quan mất đi bản chất thực tại, chỉ còn lại những hiện tượng
bên ngoài, phản ánh sự phát triển thần bí. Q trình diễn biến tư tưởng tinh thần
được xem là sự vận động độc lập, tự túc và tách rời thực tế khách quan. Hegel
đánh giá cao quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên nhưng lại không cho
rằng con người là một phần của thế giới tự nhiên mà theo chiều ngược lại, thế giới
tự nhiên và con người là một phần của thứ gì đó cao hơn, sâu xa hơn.
3.2.3 Tính biện chứng
Sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật ở Châu Âu đã cho thấy hạn chế của bức
tranh nhận thức về thế giới tại Đức quốc. Chính vì thế, các triết gia cổ điển Đức đã tiếp
thu những tư tưởng biện chứng trong các di sản triết học truyền thống, xây dựng phép


16

biện chứng trở thành một phương pháp lý luận triết học trong việc nghiên cứu con người
và thế giới tự nhiên.
 Imanuel Kant (1724-1804) cho rằng quá trình nhận thức con người trải qua ba

giai đoạn: trực quan cảm tính – tư duy lý tính – nhận thức lý tính. Những hình ảnh
về sự vật hiện tượng do trực quan cảm tính mang về cịn lộn xộn và chưa có hệ
thống nên phải cần đến tư duy lý tính. Nhận ra sự thống nhất biện chứng giữa trực
quan cảm tính và tư duy lý tính là quan điểm tiến bộ của Kant. Hegel nhận xét:
“Đây là một thành tựu rất quan trọng của nhận thức triết học bởi vì qua việc đó,
sự vận động của tư duy được đề cao.”
 Friedrich Hegel (1770-1831) cho rằng sự tồn tại của ý niệm là đơn thuần, tồn tại
cho bản thân và tồn tại vì bản thân. Từ đó, ý niệm liên tục tự phủ định mình để
phát triển, hướng tới “Ý niệm tuyệt đối”. Ông nhận xét: “Kết quả cuối cùng của
sự phát triển là sự khởi đầu cho một lĩnh vực khác và cho một khoa học khác”.
Tuy nhiên, ý niệm khơng chỉ mang tính chủ quan đơn thuần, mà nó còn tồn tại
trong cái khác, tức là trong thế giới tự nhiên. Như vậy, ý niệm thực chất chỉ là một
nhưng tồn tại ở hai nơi, không thể phân biệt rạch rịi. Hegel trình bày quan điểm:
“Q trình tự nhiên là quá trình tự đốt cháy mình, rồi từ đống tro tàn lại nổi lên
một cái khác, không hẳn là cái khác với nó, mà là sự quay trở lại chính mình của
tinh thần đang tồn tại ở bên ngồi trong tự nhiên”. Điều này cho thấy tư tưởng
Hegel mang đậm tính biện chứng – logic, nhìn nhận sự việc như một quá trình hơn
là một trạng thái, song lại mang nặng yếu tố duy tâm huyền bí.
3.2.4 Tính nhân bản
Triết học Cổ điển Đức đặc biệt đề cao về vai trị và vị trí tích cực của con người. Kế thừa
và phát huy các tư tưởng nhân bản của triết học phương Tây ở các thời kỳ trước, các nhà
triết học Cổ điển Đức đã khẳng định con người là chủ thể, là kết quả của quá trình hoạt
động tự thân thông qua động cơ cá nhân; cho rằng hoạt động thực tiễn quan trọng hơn lý
luận; thừa nhận con người hoàn toàn đủ khả năng làm chủ vận mệnh và lịch sử chỉ đơn
thuần là phương thức tồn tại của con người; nhấn mạnh tư tưởng con người mang bản
chất xã hội.
 Ludwig Feuerbach (1804-1872) với câu nói thời danh: “Người trong cung điện
thì suy nghĩ khác người trong túp lều” đã khẳng định vị thế của con người trong
mối quan hệ giữa ý thức xã hội và tồn tại xã hội, vì chỉ có con người mới biết tư
duy, và cũng chính nhờ con người mà những điều kỳ vĩ thuộc về thế giới tự nhiên

dần dần được sáng tỏ.
 Arthur Schopenhauer (1788-1860) qua câu nói thời danh: “Vạn vật chỉ là biểu
tượng và các biểu tượng chỉ có ở con người.” đã thể hiện quan điểm về mặt biểu
tượng của thế giới xuất phát từ trực giác của chủ thể, là sản phẩm của chủ thể, do
chủ thể cải tạo và đẽo gọt nên. Do đó, thế giới vạn vật chỉ là những biểu tưởng hay
nói cách khác là sự tưởng tượng của con người.
Trong khi con người tự trói buộc mình bởi các xiềng xích và giáo lý khơ cứng
thì Schopenhauer đã chỉ dạy và rao giảng về một lối sống phóng khống, tự do, tự
tại, nhắc nhở con người về quyền tự do mà sự lười biếng đã khiến họ lãng qn.
Có lẽ vì vậy, ông được tuyên xưng là “nhà giáo dục vĩ đại nhất cho nền giáo dục
và tư tưởng Tây Âu”.


17

 Friedrich Wilhelm Nietzsche (1844-1900) và quan niệm “Ý chí quyền lực” đã
thể hiện ước mơ về việc đưa con người đến nấc thang thượng đẳng hay trở thành
siêu nhân là điều mà Nietzsche khắc khoải nhất. Ở phương diện tích cực, “Ý chí
quyền lực” hùng cường là bản tính giúp con người dám sống hết mình, dám ưỡn
ngực đương đầu với mọi khó khăn, thử thách, đau khổ để vươn lên mãnh liệt, sống
ý nghĩa hơn và sáng tạo hơn.
Các tác phẩm của Nietzsche có lẽ đã tạo ra nhiều bất đồng quan điểm cho những
người giải nghĩa; tuy các khái niệm có thể được xác định dễ dàng, nhưng người ta
phải tranh cãi quyết liệt về ý nghĩa mỗi khái niệm, chưa bàn đến tầm quan trọng
tương đối của chúng.
Qua các đặc điểm trên, chúng ta có thể thấy Triết học cổ điển Đức bước ngoặt trong lịch
sử tư tưởng triết học phương Tây khi đặc biệt đề cao vai trị hoạt động tích cực của con
người, xem con người như một chủ thể hoạt động, là nền tảng và là điểm xuất phát của
mọi vấn đề triết học. Bên cạnh đó, Triết học cổ điển Đức đã từng bước khắc phục những
hạn chế siêu hình của triết học duy vật thế kỉ XVII – XVIII. Thành quả lớn nhất của Triết

học Cổ điển Đức là những tư tưởng biện chứng đạt tới trình độ của một hệ thống lí luận –
điều mà phép biện chứng ở thời kỳ Hy Lạp cổ đại chưa thể đạt tới và thời khai sáng ở
Tây Âu cũng chưa thể có được.


18

CHƯƠNG 3: SO SÁNH CÁC ĐẶC ĐIỂM CHÍNH CỦA
TRIẾT HỌC HY LẠP – LA MÃ CỔ ĐẠI
VÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC
Xét trên phương diện bối cảnh lịch sử và hoàn cảnh ra đời, cả hai nền triết học đều thể
hiện thế giới quan và ý thức hệ của giai cấp thống trị. Triết học Hy Lạp – La Mã cổ đại
thể hiện ý thức hệ của giai cấp chủ nô trong xã hội chiếm hữu nô lệ. Triết học Cổ Điển
Đức thể hiện ý thức hệ tư sản – phong kiến đầy mâu thuẫn trong xã hội phong kiến ngày
một suy tàn. Sau đây, người viết xin phép đi sâu vào phân tích các đặc điểm nổi bật để so
sánh và trình bày nhận định chủ quan về hai giai đoạn triết học này.
3.1 Tính khái qt
Với trình độ tư duy lý luận chưa cao và tri thức khoa học còn hạn chế; Triết học Hy Lạp
– La Mã cổ đại chưa đạt tới trình độ mổ xẻ, phân tích tự nhiên để đi sâu vào bản chất sự
vật, mà chỉ mới nghiên cứu tổng thể để có cái nhìn bao quát về thế giới.
Ngược lại, được sự hỗ trợ của nền khoa học kỹ thuật tiên tiến và trình độ lý luận cao (qua
Cách mạng Tư sản Pháp và Cách mạng Công nghiệp Anh); Triết học Cổ điển Đức (từ
Kant tới Hegen) mong muốn xây dựng một hệ thống triết học vạn năng làm nền tảng cho
toàn bộ thế giới quan con người, khôi phục lại quan niệm xem triết học là khoa học của
các khoa học.
Theo nhận định chủ quan của người viết, nền Triết học Cổ điển Đức tiến bộ và có tham
vọng hơn Triết học Hy Lạp – La Mã ở phương diện này.
3.2 Tính phân cực của Triết học Hy Lạp – La Mã Cổ đại và tính mâu thuẫn của
Triết học Cổ điển Đức
Triết học Hy Lạp cổ đại có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu của trường

phái duy vật – duy tâm, biện chứng siêu hình, vô thần – hữu thần.
Ngược lại, Triết học Cổ điển Đức lại nảy sinh mâu thuẫn ngay từ bên trong ý thức hệ tư
sản – phong kiến, tư tưởng bảo thủ song hành cùng tư tưởng khoa học.
So với Triết học Hy Lạp – La Mã cổ đại, Triết học Cổ điển Đức còn tồn tại nhiều hạn chế
ở phương diện này vì nó là sự thỏa hiệp, là sự kết hợp các trào lưu triết học đối lập với
nhau thành một thể thống nhất. Trong khi Triết học Hy Lạp – La Mã cổ đại là sự đấu
tranh giữa các trường phái, tiền đề của sự phát triển. Dù vậy, ở góc độ chủ quan, chúng ta
cũng nên ghi nhận thành tựu của các Triết gia Cổ điển Đức trong việc dung hòa các tư
tưởng, trào lưu triết học bằng phương pháp luận tiên tiến trong bối cảnh đương thời.


19

3.3 Tính biện chứng
Do đặc trưng thời kỳ cổ đại còn tồn tại nhiều hạn chế, phương pháp biện chứng của Triết
học Hy Lạp – La Mã cổ đại còn sơ khai và chưa được hoàn chỉnh thành hệ thống lý luận.
Trong khi Triết học Cổ điển Đức đã tiếp thu tư tưởng biện chứng của di sản triết học
truyền thống, để xây dựng phép biện chứng trở thành một phương pháp lý luận triết học
cấp tiến trong việc nghiên cứu con người và thế giới tự nhiên.
Vì vậy, Triết học Cổ điển Đức tiến bộ hơn Triết học Hy Lạp – La Mã ở phương diện này.
Hay nói cách khác, phương pháp biện chứng của Triết học Hy Lạp – La Mã là nền tảng,
là tiền đề cho phương pháp biện chứng của Triết học Cổ điển Đức.
3.4 Tính nhân bản
Triết học Hy Lạp – La Mã cổ đại khẳng định con người là kỳ cơng của tạo hóa, là trung
tâm của tất cả mọi hoạt động. Giá trị của một con người được xem xét ở các khía cạnh
đạo đức, giao tiếp và nhận thức.
Triết học Cổ điển Đức đặc biệt đề cao về vai trò và vị trí tích cực của con người trong thế
giới tự nhiên; khẳng định con người là chủ thể, là kết quả của q trình hoạt động tự thân
thơng qua động cơ cá nhân; thừa nhận con người hoàn toàn đủ khả năng làm chủ vận
mệnh và lịch sử chỉ đơn thuần là phương thức tồn tại của con người.

Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy Triết học Hy Lạp – La Mã cổ đại và Triết học Cổ điển
Đức đều đánh giá cao vai trò của con người, khẳng định các giá trị của đạo đức và nhận
thức. Tuy nhiên, Triết học Cổ điển Đức có phần đề cao vị thế và quyền lực của con người
hơn là Triết học Hy Lạp – La Mã Cổ đại.


20

PHẦN KẾT LUẬN
Sự quay trở lại với Triết học Hy Lạp – La Mã cổ đại giữ vai trò rất quan trọng trong
phong trào giải phóng, chống phong kiến của giai cấp tư sản Đức. Hy Lạp cổ đại với tổ
chức thành bang có tính chất dân chủ được các triết gia, các nhà tư sản tiến bộ ở Đức
quốc thế kỷ thế kỷ XIX xem là hình mẫu lý tưởng cho những tư tưởng và yêu sách của
họ. Do đó, có thể xem Triết học Hy Lạp – La Mã cổ đại là cơ sở, là nền tảng của Triết
học Cổ điển Đức.
Hegel – một trong các triết gia nổi tiếng của Triết học Cổ điển Đức luôn đề cao vị trí, vai
trị của triết học Hy Lạp cổ đại trong lịch sử triết học thế giới. Ông vinh danh phép biện
chứng của Heraclitus, xem Platon và Aristote là những người thầy của nhân loại. Đó
chính là tiền đề, là những điểm tựa lý luận để chống lại hệ tư tưởng tôn giáo thống trị
đương thời.
Trong tác phẩm “Những bài giảng về lịch sử triết học”, triết gia Cổ điển Đức Bruno
Bauer thường trích dẫn các quan điểm của Hegel về Triết học Hy Lạp – La Mã cổ đại và
nhận xét: “Khi nhắc đến đất nước Hy Lạp, thì đó là q hương của những người có giáo
dục ở Châu Âu và đặc biệt là của những người Đức chúng ta.”
Karl Max nhận định rằng: “Triết học hiện đại chỉ tiếp tục cái công việc do Heraclitus và
Aristote đã mở đầu mà thôi.”
Friedrich Engels cũng đánh giá rất cao vai trò của triết học Hy Lạp cổ đại: “Từ các hình
thức mn hình mn vẻ của triết học Hy Lạp, đã có mầm mống và đang nảy nở hầu hết
tất cả các loại thế giới quan sau này. Đó là một trong những lý do tại sao trong triết học
cũng như các lĩnh vực khác, chúng ta phải luôn luôn trở lại với thành tựu của cái dân tộc

nhỏ bé đó, cái dân tộc mà năng lực và hoạt động tồn diện của nó đã tạo ra cho nó một
địa vị mà khơng một dân tộc nào khác có thể mong ước được trong lịch sử phát triển của
nhân loại.”
Chính vì vậy mà, các nhà nghiên cứu đi đến kết luận rằng: “Khơng có cơ sở văn minh Hy
Lạp và đế quốc La Mã thì khơng thể có Châu Âu hiện đại được.”


21

TÀI LIỆU THAM KHẢO

SÁCH
1. Đoàn Văn Thọ chủ biên (2007), Giáo trình triết học, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Nguyễn Tiến Dũng (2006), Lịch sử triết học phương Tây, Nxb tổng hợp tphcm, Hồ
Chí Minh.
3. Sophie Boizard (2016), Nhập môn triết học – tư duy như một triết gia, Nxb kim đồng,
Hà Nội.
INTERNET
1. Bài giảng của Ni sư Tiến sĩ Thích Nữ Hương Nhũ: />2. Lịch sử triết học phương Tây: />3. Triết học Cổ điển Đức: />


×