Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: " TỪ TÂM TÂM XÃ (1923) ĐẾN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (1930) QUÁ TRÌNH KHẲNG ĐỊNH CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VÔ SẢN"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (391.86 KB, 13 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

TỪ TÂM TÂM XÃ (1923) ĐẾN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (1930) QUÁ TRÌNH KHẲNG ĐỊNH CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VÔ SẢN
FROM ‘TAM TAM XA’ (1923) TO VIETNAMESE COMMUNIST PARTY (1930) THE ASSERTIVE PROCESS OF PROLETARIAN REVOLUTION PATH
Nguyễn Văn Hoàn
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
TÓM TẮT
Từ Tâm Tâm xã (1923) đến Đảng Cộng sản Việt Nam (1930) là giai đoạn chuyển hoá
quan trọng của phong trào yêu nước Việt Nam để từ đó xác lập con đường cứu nước mới - con
đường cách mạng vô sản. Bài viết điểm lại những dấu mốc biến đổi quan trọng của những tổ
chức đó dưới tác động của phong trào dân tộc Việt Nam và những hoạt động chuẩn bị tích cực
về chính trị, tư tưởng, tổ chức của lãnh tụ Hồ Chí Minh trong thời kỳ xây dựng Đảng 1921 1929 như đào tạo cán bộ, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, lãnh đạo phong trào
công nhân và phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản cũng như kịp thời thống nhất 3
tổ chức cộng sản (1929) thành Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930.
ABSTRACT
From ‘Tam Tam xa’ (1923) to Vietnamese Communist Party (1930) is an important
stage for Vietnamese national patriotic movement. Since that time a new way of national
salvation-- the Proletarian revolution path has been asserted. This article reviews many
important events about the organizations under the influence of the Vietnam national movement
and active preparations in politics, ideology and organization led by President Ho Chi Minh
during the making of the Party from 1921 to 1929 such as training cadres, propagating Marxism
and Leninism into Viet Nam, leading the working class and national salvation movements in the
line of the proletarian orientation and timely uniting the 3 communist organizations (1929) into
the Vietnamese Communist Party in early 1930.

1. Đặt vấn đề
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời mùa xuân năm 1930 là một sự kiện vĩ đại có
tính chất bước ngoặt, chấm dứt khủng hoảng đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc.
Đảng ra đời cùng với cương lĩnh chính trị đúng đắn sáng tạo đã rọi sáng con đường cách
mạng Việt Nam đi đến độc lập tự do.
Lịch sử Việt Nam từ năm 1923-1930 là giai đoạn định hình hướng phát triển cực


kỳ quan trọng của cách mạng nước ta. Q trình đó gắn liền với tên tuổi của lãnh tụ Hồ
Chí Minh (1890-1969) trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng giải phóng,
chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, tổ chức cho sự ra đời của Đảng mácxít - lêninnít. Song
song với q trình đó là sự phân hố giữa các luồng tư tưởng giải phóng dân tộc ở Việt
Nam. Q trình đó gắn liền với sự chuyển hố Tâm Tâm xã đến Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên (Hội Thanh niên) và cuối cùng là sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây
là điểm nổi bật, một hiện tượng độc đáo trong 30 năm đầu thế kỷ XX ở Việt Nam.
127


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

2. Từ tâm tâm xã (1923) đến Đảng cộng sản Việt Nam (1930) - Quá trình khẳng
định con đường cách mạng vô sản
2.1. Sự bế tắc của con đường cứu nước phong kiến và tư sản
Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược và thống trị nước ta. Việt Nam trở
thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến với đặc trưng cơ bản là sự cấu kết giữa đế quốc
và tay sai để thống trị và bóc lột nhân dân ta. Về cơ bản, chính sách của thực dân Pháp
(1858-1945) ở Việt Nam là chuyên chế về chính trị, kìm hãm bóc lột nặng nề về kinh tế,
nơ dịch về văn hóa.
Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam đã vấp phải một sự thật lịch sử đanh thép:
Đất nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Lịch sử Việt Nam trong suốt mấy
ngàn năm qua là lịch sử đấu tranh chống lại các thế lực ngoại xâm và các thế lực chia
cắt.
Các phong trào cứu nước, giải phóng dân tộc liên tục nổ ra khắp mọi miền đất
nước. Tư tưởng Nho giáo “Trung quân, ái quốc” là hệ tư tưởng chi phối trong giai đoạn
đầu tiêu biểu là phong trào Cần vương (1885-1896). Nhưng sự thất bại của các cuộc đấu
tranh đó đã phản ánh sự bế tắc của một đường lối cứu nước đã lỗi thời và sự hạn chế
khơng cịn khả năng lãnh đạo quần chúng nhân dân của giai cấp địa chủ phong kiến.
Đầu thế kỷ XX, các sự kiện và luồng tư tưởng dân chủ tư sản từ Pháp, Trung

Quốc, Nhật Bản, Nga dồn dập xuất hiện ở Việt Nam. Một bộ phận “các sĩ phu Việt Nam
như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh …đã đưa dân tộc ta vượt lên trên những hạn chế
của nho giáo để hướng tới các cuộc cách mạng dân chủ tư sản thế giới”. Đường lối cứu
nước đó tuy có khơi dậy được phong trào cứu nước và có những nhà lãnh đạo rất tâm
huyết nhưng kết cục vẫn là “trăm thất bại mà không một thành công”. Như vậy, cho
đến đầu những năm 20 thế kỷ XX, cách mạng Việt Nam vẫn trong tình trạng khủng
hoảng sâu sắc về đường lối, thực chất là khủng hoảng về giai cấp lãnh đạo cách mạng.
Bảng 1. 3 Phong trào yêu nước (Ptyn) ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX – XX

Vấn đề

Ptyn phong kiến

Ptyn tư sản

Ptyn vô sản

Hệ tư tưởng

Phong kiến

Dân chủ tư sản

Cộng sản

Lãnh đạo

Địa chủ phong kiến

Tư sản


Vơ sản

Tổ chức

Đảng Bảo hồng

Đảng Tư sản

Đảng Cộng sản
(Cần Vương 1885-1896) (QDĐVN 1927-1930) (ĐCSVN 1930)

Nhiệm vụ

Phản đế

Phản đế, phản phong

P/đế, P/phong

Lực lượng

Địa chủ, nông dân

Tư sản, tiểu tư sản

Toàn dân tộc

Mục tiêu


1. Độc lập dân tộc

1. ĐLDT

1. ĐLDT

2. Phong kiếnVN

2. CNTB

2. CNXH

128


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

Nhận định về tình hình Đơng Dương đấu tranh chống thực dân Pháp và thất bại
dưới chế độ thuộc địa tàn bạo, lãnh tụ Hồ Chí Minh viết: “Bị đầu độc cả về vật chất và
tinh thần lẫn thể xác, bị bịt mồm và bị giam hãm, người ta có thể tưởng rằng cái bầy
người ấy cứ mãi bị dùng làm đồ để tế cái ông thần tư bản, rằng cái bầy người đó khơng
sống nữa, khơng suy nghĩ nữa và là vô dụng trong việc cải tạo xã hội. Không: người
Đông Dương không chết, người Đông Dương vẫn sống, sống mãi mãi. Sự đầu độc có hệ
thống của tư bản thực dân không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt tư
tưởng cách mạng của người Đông Dương…Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người
Đơng Dương giấu một cái gì đang sơi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê
gớm khi thời cơ đến. Bộ phận ưu tú (người cách mạng-T/g) có nhiệm vụ phải thúc đẩy
cho thời cơ đó mau đến”(1).
2.2. Hồ Chí Minh lựa chọn con đường giải phóng dân tộc đi theo cách mạng vơ sản
Trước bối cảnh nước mất, nhà tan, ngày 5/6/1911, Hồ Chí Minh ra đi tìm đường

cứu nước. Mục đích ra đi của Người là tìm lý luận và phương pháp cách mạng cứu nước
giải phóng dân tộc. Hướng đi đến phương Tây trọng tâm là nước Pháp, phương pháp ra
đi là “vơ sản hóa”, hịa mình vào cuộc sống lao động của giai cấp cần lao. Người đi
nhiều nơi, làm nhiều việc vừa lao động để kiếm sống, vừa nghiên cứu học hỏi. Từ năm
1911-1920, Hồ Chí Minh lao động chân tay (bồi bàn, quét tuyết, phụ bếp..); từ năm
1921-1930, Người lao động trí óc (viết báo, dự các cuộc thảo luận, viết sách, đào tạo
con người..). So với các vị lãnh tụ chính trị đương thời như Phan Bội Châu (18671940), Phan Châu Trinh (1872-1926), Phan Văn Trường (1876-1933), Nguyễn An Ninh
(1900-1943), hành trình tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh có sự khác biệt về chất.
Tháng 7/1920, Người đọc Bản sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề
dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin trên tạp chí Nhân đạo - cơ quan ngơn luận của
Đảng Xã hội Pháp và tìm thấy ở đây con đường giải phóng cho dân tộc. Từ đó Người
hồn toàn tin theo Lênin và Quốc tế III. Tháng 12/1920, tại Đại hội XVIII Đảng Xã hội
Pháp ở Tua (Tour), Người đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế III và tham gia sáng lập
Đảng Cộng sản Pháp. Đây là sự kiện bước ngoặt làm thay đổi về chất lập trường chính trị
của Người: Từ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa cộng sản; từ một người Việt Nam yêu
nước trở thành một chiến sĩ trong phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế.
Từ đó Người hướng cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đi theo con
đường cách mạng vô sản của V.I.Lênin. Người xác định: Muốn cứu nước giải phóng
dân tộc thì khơng cịn con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.
Bảng 2. Con đường cách mạng Hồ Chí Minh và các lãnh tụ khác

Vấn đề

4 lãnh tụ chính trị

Hồ Chí Minh

Mục đích

Cầu học, cầu viện


Lý luận&phương pháp GPDT

Hướng đi

Phương Tây

Phương Tây
129


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

P/pháp

Học bổng, tài trợ

“Vơ sản hóa”

Hệ quả

Bế tắc

Tìm thấy CN Mác-Lênin

Chiến lược CMGPDT->CMTS

CMGPDT->CMVS

Lãnh đạo


G/c tư sản, tiểu tư sản

G/c vô sản

Tổ chức

Đảng Tư sản

Đảng Cộng sản

Lực lượng

Tư sản, tiểu tư sản

Toàn thể dân chúng

Mục tiêu

ĐLDT&CNTB

ĐLDT&CNXH

2.3. Sự chuyển hố tư tưởng chính trị từ Tâm Tâm xã đến Hội Thanh niên
Cùng với q trình Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước, những thanh niên
Việt Nam một thời đi theo con đường cứu nước của Phan Bội Châu và Phan Châu
Trinh, nay trước sự bế tắc của các cụ đã tự tìm cho mình con đường hoạt động mới.
Năm 1923, một nhóm 7 thành niên xuất dương ở Trung Quốc đã lập ra Tâm Tâm xã hay
Tân Việt thanh niên đồn, “đây là nhóm đầu tiên do đó mà tương lai có nhóm cộng sản
Phương Đơng sẽ xuất hiện”(2).

Tôn chỉ của Tâm Tâm xã ghi: “liên hiệp những người có trí lực trong tồn dân
Việt Nam khơng phân biệt ranh giới đảng phái, miễn là có quyết tâm hi sinh tất cả tư ý
và quyền lợi cá nhân, đem tất cả sức mình tiến hành mọi việc để khôi phục quyền làm
người của người Việt Nam”(3).
Qua tôn chỉ cho thấy Tâm Tâm xã đã cố gắng định hướng cho con đường hoạt
động cách mạng của mình. Những người sáng lập Tâm Tâm xã đã có sự chuyển biến ít
nhiều trong tư tưởng. Bản thân họ khi trước hoặc chịu ảnh hưởng tư tưởng dân chủ tư
sản (tư tưởng quân chủ lập hiến đến dân chủ cộng hòa tư sản) của Phan Bội Châu
(1867-1940), hoặc chịu ảnh hưởng tư tưởng cải lương, bất bạo động của Phan Châu
Trinh (1872-1926). Nhưng trước con đường đi không lối ra của các bậc tiền bối cách
mạng, những thanh niên yêu nước này đã tự đứng ra lập riêng tổ chức. Tâm Tâm xã có
gốc từ Việt Nam Quang phục hội (1912) và có điểm tương đồng là chủ trương đấu tranh
giành độc lập nhưng Tâm Tâm xã đi xa hơn, họ hướng tới giải phóng con người, giải
phóng giai cấp: “liên hợp những người có thể đích thực hoạt động để khơi phục quyền
độc lập cho dân Đơng Dương”(4).
Có thể coi Tâm Tâm xã là một tổ chức quá độ để dẫn tới sự thành lập các tổ
chức cao hơn. Đến Tâm Tâm xã, tư tưởng Nho giáo đã bị quét sạch, hệ tư tưởng bao
trùm là tư tưởng dân chủ tư sản. Nhưng trong nhận thức của những người sáng lập tổ
chức, hệ tư tưởng dân chủ tư sản đã phân hố, tức là nó khơng thuần t lập trường
“qn chủ lập hiến” của Duy Tân hội (1904), hoặc “cộng hịa dân quốc tư sản” của
Quang Phục Hội (1912). Đó là bởi những người tổ chức Tâm Tâm xã đã nhìn thấy
những bài học kinh nghiệm từ sự thất bại của hai nhà cách mạng họ Phan. Đó là nếu chỉ
130


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

dựa vào tinh thần yêu nước, vào đường lối chung chung sẽ không thể đưa cách mạng đi
xa. Phải có đường lối mới, có tổ chức, có lãnh đạo phù hợp với dân tộc và thời đại thì
tiền đồ cách mạng mới tươi sáng được.

Xét nguồn gốc xuất thân của Tâm Tâm xã, từ người sáng lập đến các hội viên về
sau đều là trí thức tiểu tư sản u nước. Mục đích, tơn chỉ và lập trường tư tưởng của
Tâm Tâm xã có bước phát triển hơn, rõ ràng hơn nhưng nhìn chung vẫn cịn sự mơ hồ
về giai cấp. Tiếng bom Sa Diện (1924) và sự hi sinh của Phạm Hồng Thái (1895-1924)
là một biểu hiện cụ thể nhất của tổ chức này. Qua sự kiện trên đã thể hiện tính chất
manh động trong nhận thức và hành động, sự phiêu liêu mạo hiểm, hăng hái nhất thời
của tầng lớp trí thức tiểu tư sản. Nhưng hành động hi sinh dũng cảm của liệt sĩ Phạm
Hồng Thái thật đáng trân trọng, bởi nó xuất phát từ một trái tim yêu nước nồng cháy,
thiết tha với ước muốn độc lập tự do: “Nó báo hiệu bắt đầu thời đại đấu tranh dân tộc,
như cánh én nhỏ báo hiệu mùa xuân”(5).
Tâm Tâm xã tồn tại không lâu 1923-1924 (gần hai năm), nhưng trong suốt thời
gian đó là sự tìm tịi hướng đi cho tổ chức. Tâm Tâm xã đóng vai trị tích cực trong sự
chuyển tiếp từ lập trường yêu nước dân tộc chân chính sang lập trường u nước vơ
sản. Khi Hồ Chí Minh về Quảng Châu cuối năm 1924, Người đã tiếp xúc ngay với
nhóm Tâm Tâm xã và hướng họ đi vào con đường cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin. Tháng 3/1925 Người tổ chức lại Tâm Tâm xã thành nhóm Cộng sản đồn, trên
cơ sở đó lập ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (Hội Thanh niên) tháng 6/1925 và
ra tuần báo Thanh niên vào trung tuần tháng 6/1925.
Báo Thanh niên là cơ quan ngôn luận của Hội Thanh niên, là tờ báo bí mật đầu
tiên của người cách mạng Việt Nam, bằng chữ quốc ngữ, viết bằng giấy sáp, in bằng
bàn in tay, mỗi lần in độ vài trăm tờ, phát hành bí mật từ ngồi nước đến trong nước.
Báo Thanh niên có vai trị rất quan trọng như V.I.Lênin đã chỉ dẫn trong tác phẩm “Làm
gì” (1902) về chức năng quan trọng của báo chí cách mạng: 1- Là người tuyên truyền tư
tưởng; 2- Là người cổ động phong trào; 3- Là người tổ chức đấu tranh. Báo chí là cơng
cụ rất đắc lực của cách mạng, vì nó là cơ quan ngơn luận mang tính Đảng, tính chân
thật, tính quần chúng và tính chiến đấu cao, “ai lãnh đạo cách mạng cũng phải nắm lấy
tờ báo vì nó thay cho cán bộ của đảng đến với quần chúng. Tờ báo của đảng, mọi người
chuyền nhau đọc. Quần chúng đến với cách mạng, với đảng, phần quan trọng nhờ thơng
qua báo chí. Lúc đó tờ báo thực sự trở thành người cán bộ của đảng vận động quần
chúng làm cách mạng. Tờ báo là công cụ của đảng tuyên truyền giáo dục quần chúng,
chỉ cho quần chúng thấy rõ nỗi khổ của họ là do đâu? Ai bóc lột, áp bức? Tờ báo giáo

dục người ta đoàn kết lại, tiến hành đấu tranh để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình
từ đó hiểu đảng và gia nhập đảng, gia nhập các đoàn thể cách mạng”(6).
Trong thời gian tồn tại từ 6/1925-5/1930, Báo Thanh niên ra được 208 số có tác
dụng giải thích những mục tiêu đấu tranh, truyền bá những tư tưởng cách mạng và huấn
luyện, đào tạo những hội viên của mình(7). Đến đây, những thanh niên trước kia với
nhiệt huyết yêu nước thiết tha nay có một bước chuyển mình mang tính chất đột phá, tự
131


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

lập trường dân chủ tư sản sang lập trường cách mạng vô sản. Và Hội Thanh niên chính
là một tổ chức quá độ, là sự chuẩn bị tất yếu cho sự ra đời của một chính đảng vơ sản
trong tương lai (Tổ -> Đội -> Đồn (Cộng sản Đoàn 3/1925) -> Hội (Hội Thanh niên
1925-1929) -> Đảng (ĐCSVN 1930-Nay).
Trong thời gian tồn tại 1925-1929, Hội Thanh niên được tổ chức theo nguyên
tắc tập trung, dân chủ, theo quy luật tự phê bình và phê bình gần giống với Đảng Cộng
sản, và đóng 3 vai trị rất quan trọng đối với cách mạng Việt Nam: 1- Truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam; 2- Đào tạo cán bộ cách mạng; 3- Lãnh đạo phong
trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Năm 1925, Hồ Chí Minh lập Hội (lỏng lẻo) chứ chưa lập Đảng (tổ chức chặt
chẽ, kỷ luật nghiêm minh) được giải thích ở những điểm sau: 1. Từ kinh nghiệm của
chính bản thân Người (1911-1920). Trong bài “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa
Lênin” (1960), Người đã viết: “Lúc đầu chính chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ
nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong
cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần
tơi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được
các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”(8); 2. Từ
thực tiễn Việt Nam dưới chế độ thuộc địa trên 95% dân số mù chữ (chữ quốc ngữ) do
“làm cho dân ngu để dễ cai trị”, đó là chính sách mà các nhà cầm quyền ở các thuộc địa

của chúng ta ưa dùng nhất”(9); 3. Do chính sách chống phá dữ dội, ngăn chặn quyết liệt
chủ nghĩa cộng sản và sự xâm nhập của chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam của thực dân
Pháp, vì theo Albert Sarraut (1872-1962) tồn quyền Pháp ở Đông Dương (1911-1914
và 1917-1919) đã viết: Chủ nghĩa cộng sản, ấy là kẻ thù mà chúng ta phải tiêu diệt. V.I.
Lênin (1870-1924) đã nhận xét: “Cơng lao vĩ đại có ý nghĩa lịch sử toàn thế giới của
Mác và Ăng-ghen, là ở chỗ hai ông đã vạch rõ cho những người vơ sản ở tất cả các
nước thấy vai trị của họ, sứ mệnh của họ là: làm những người đầu tiên vùng lên đấu
tranh cách mạng chống tư bản, tập hợp xung quanh mình, trong cuộc đấu tranh này, tất
cả những người lao động và tất cả những người bị áp bức”(10).
2.4. Đào tạo cán bộ cho phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản
Từ năm 1925-1927, Hồ Chí Minh mở trường huấn luyện chính trị ở Quảng Châu
để đào tạo cán bộ cách mạng. Quảng Châu thời điểm 1924-1929 được ví là "Mecca" mà
thanh niên yêu nước Việt Nam mong ước được đến học tập. Louis Roubaur, nhà báo
Pháp đi thực địa viết bài tại Đông Dương trong những năm 1930-1931 đã viết thiên
phóng sự “Vietnam la Tragédie Indochinoise” (Việt Nam thảm kịch Đông Dương) đã
viết về Quảng Châu lúc đó như sau: “Đó là thành phố hằng mơ ước: La Mã, Jérusalem,
La Meque của những người trai An Nam, trụ sở của những đại hội, trường học của
những sinh viên võ bị (Saint Cyr, Normale, Bách khoa của Cách mạng) và nấm mồ
Phạm Hồng Thái, trên những con đường mây ám…trên những con đường dày đặc mây
bay”(11). Những hội viên Thanh niên được trang bị lí luận, tổ chức và phương pháp cách
mạng để về nước hoạt động. Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã viết sách “Đường cách mệnh”
132


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

làm tài liệu giảng dạy. “Đường cách mệnh” là “sách phúc âm đối với tất cả mọi đảng
viên; họ đã học gần như thuộc lòng”(12). Lý luận Mác - Lênin, tư tưởng giải phóng,
những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng đã được hội viên tiếp
thu từ trường chính trị này.

Từ Quảng Châu, phần lớn hội viên thanh niên về nước hoạt động cách mạng,
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin để xác lập vị trí chủ đạo của nó trong đời sống chính
trị tinh thần ở Việt Nam. Chủ trương “vơ sản hố” của Hội Thanh niên (9/1928) đề ra
đưa hội viên đi vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền để vận động đã thúc đẩy phong trào
của công nhân và những người lao động đấu tranh theo con đường vơ sản. Báo Thanh
niên viết: “Để chấm dứt tình trạng thiếu kỷ luật của bọn thất bại và bọn giả danh, Đảng
phải áp dụng một phương pháp giáo dục thật sự cách mạng. Thật vậy, thật là cần thiết
tất cả các đồng chí phải “tự” vơ sản hóa, tự vơ sản hóa để có cùng một ý nghĩa, một lối
sống, một ngơn ngữ…”(13). Chủ trương này có ý nghĩa chính trị sâu sắc, làm phân hố tư
tưởng của hội viên có gốc gác trí thức tiểu tư sản, đoạn tuyệt với q khứ để tự “vơ sản
hố” biến mình trở thành công nhân, tuyệt đối trung thành với lý tưởng của chủ nghĩa
Mác - Lênin. Các nhà kinh điển mác-xít đã từng chỉ rõ chủ nghĩa Mác - Lênin là do
những người trí thức cách mạng đưa vào phong trào cơng nhân. Như V.I.Lênin đã chỉ
dẫn: “Ý thức chính trị giai cấp chỉ có thể được đem từ bên ngồi vào cho người cơng
nhân, nghĩa là từ bên ngồi cuộc đấu tranh kinh tế, từ bên ngoài phạm vi quan hệ giữa
thợ và chủ. Người ta chỉ có thể tìm được nhận thức ấy trong một lĩnh vực duy nhất, đó
là lĩnh vực những mối quan hệ giữa tất cả các giai cấp, các tầng lớp với nhà nước và
chính phủ, lĩnh vực những mối quan hệ giữa tất cả các giai cấp với nhau. Muốn đem lại
cho công nhân những tri thức chính trị, những người dân chủ-xã hội phải đi vào tất cả
các giai cấp trong dân cư, họ phải phái các đội ngũ trong đạo quân của họ đi về tất cả
các ngả”(14).
2.5. Phong trào dân tộc và phong trào công nhân thúc đẩy sự khẳng định con đường
cứu nước mới
Cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp phát triển mạnh mẽ cuối năm 1925
đầu 1926 ở Việt Nam, tiêu biểu như đưa “dân nguyện” khi Va-ren sang làm tồn quyền
(1925-1928), địi ân xá cụ Phan Bội Châu (1925), tổ chức rầm rộ lễ tang cụ Phan Châu
Trinh (1926), địi thả tù chí sĩ Nguyễn An Ninh (1926)… đều có sự góp mặt tích cực
của hội viên thanh niên. Bà vợ Nguyễn An Ninh nhớ lại: “Ngày anh Ninh bị bắt lần ấy
(1926) cũng là ngày cụ Phan Châu Trinh từ trần. Cụ Phan về Sài Gịn hoạt động được
non một năm, vì tuổi già sức yếu, nên lâm bệnh nặng rồi qua đời. Hằng trăm ngàn người

từ các nơi đổ về Sài Gòn nhân dịp đưa đám tang cụ Phan Châu Trinh để biểu dương lực
lượng và đòi thả Nguyễn An Ninh”(15).
Đồng thời chưa bao giờ ở Việt Nam lại xuất hiện nhiều tổ chức đảng phái và các
tư tưởng chính trị đến như vậy. Đó là Đảng Lập hiến do Bùi Quang Chiêu (1873-1945)
lập ra năm 1923, Hội Phục Việt (1925) sau cải tổ thành Tân Việt Cách mạng Đảng
(1928), Quốc dân Đảng Việt Nam (1927) và Nguyễn Thái Học (1904-1930).
133


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

Bảng 3. 4 Đảng, hội cơ bản ở Việt Nam 1919-1929

Vấn đề

Đảng Lập hiến

QDĐVN

Thanh Niên

Hội Phục Việt

Ý thức hệ

Dân chủ tư sản

Dân chủ tư sản

Vô sản


Vô sản

Lãnh đạo

Tư sản địa chủ

TTS trí thức

TTS trí thức

TTS trí thức

Lực lượng

Tư sản địa chủ

TTS, địa chủ

TTS, công nhân

TTS, nông dân

Hoạt động

Nghị trường

Ám sát, bắt cóc
khủng bố


Vận động, thuyết Vận động, thuyết
phục
phục

Địa bàn

Nam kỳ

Bắc kỳ

Việt Nam

Ngôn luận

Diễn đàn Đông
Dương (1926)

Hồn Việt Nam
(1929)

Thanh niên
(1925-1930)

Hình thức

Cơng khai

Bí mật bất hợp
pháp


Bí mật bất hợp
pháp

Bí mật bất hợp
pháp

Mục tiêu

Lập Hiến

ĐLDT, CNTB

ĐLDT, CNXH

ĐLDT, DCND

4 cấp

5 cấp

Tổ chức

Trung kỳ

Như vậy, từ năm 1925 “phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên lập trường
vơ sản đã song song phát triển với phong trào giải phóng dân tộc trên lập trường tư
sản”(16). Hai phong trào hoàn toàn khác nhau về mục đích cuối cùng và về mặt giai cấp
lãnh đạo, tuy có gặp nhau ở tinh thần yêu nước, muốn cứu nước, nhưng lịch sử đã
chứng minh rằng chỉ có giai cấp vơ sản “là giai cấp cách mạng triệt để duy nhất trong xã
hội hiện đại”(17).

Nhận xét về hiện tượng này, giáo sư Trần Văn Giầu viết: “vào cuối những năm
20, sự hỗn độn ban đầu bớt dần tan đi, cải lương với cách mạng sẽ phân hoá rõ rệt
chẳng những giữa hướng tư sản và hướng vơ sản, mà cả trong tư tưởng dân tộc nói
chung. Việt Nam Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản sẽ ra đời, phân hố xã hội, phân
hố chính trị, phân hố tư tưởng tạo thành một tình thế sơi nổi mà sáng sủa trong đó
các lực lượng tinh thần và vật chất tuy thi đua ra sức với nhau, đua ý chí và chính kiến
với nhau. Khơng lúc nào mà tư tưởng và đấu tranh tư tưởng ở Việt Nam phong phú
bằng lúc này”(18).
Trong khi Đảng Lập hiến theo khuynh hướng quốc gia cải lương chủ trương
“Pháp-Việt đề huề”; Quốc dân Đảng Việt Nam theo chủ nghĩa dân tộc tư sản chủ trương
dùng bạo động để giành độc lập dân tộc, Đảng Thanh niên cao vọng của Nguyễn An
Ninh (1900-1943) theo chủ nghĩa u nước “ơn hồ” … đây là nhưng tổ chức đảng phái
hoạt động trên lập trường dân tộc tư sản dưới những hình thức khác nhau. Đó là biểu
hiện cụ thể nhất sự phân hoá về mặt tư tưởng của cả một ý thức hệ đối với vấn đề cứu
nước giải phóng dân tộc.
134


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

Bảng 4. Hội Thanh niên (1925-1929) và QDĐVN (1927-1930)

Vấn đề

QDĐVN 1927-1930

Hội Thanh niên 1925-1929

Ý thức hệ


Dân chủ tư sản

Cộng sản chủ nghĩa

Lãnh đạo

Trí thức tiểu tư sản (TTS)

Trí thức tiểu tư sản

Thành phần

TTS, địa chủ, phú nơng

TTS, cơng nhân, nơng dân

Địa bàn

Tonkin (Bắc kỳ)

Việt Nam

Hoạt động

Bí mật bất hợp pháp

Bí mật bất hợp pháp

Mục đích


Chủ nghĩa tư bản

Chủ nghĩa xã hội

Song song với quá trình trên, các tổ chức theo khuynh hướng mác-xít ở Việt
Nam cũng đã diễn ra sự phân hoá sâu sắc. Tân Việt cách mạng Đảng là một Đảng của
trí thức tiểu tư sản ở Trung Kỳ cũng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của quá trình trên. Trong
nội bộ đảng này đã diễn ra cuộc đấu tranh giữa tư tưởng cách mạng và tư tưởng cải
lương để cuối cùng xu hướng cách mạng theo quan điểm vô sản chiếm ưu thế. Một số
hội viên chuyển sang Hội Thanh niên, số còn lại xúc tiến tích cực thành lập một đảng
mới theo chủ nghĩa Mác - Lênin.
Tâm Tâm xã (1923-1924) là tổ chức của trí thức tiểu tư sản yêu nước tiến bộ
nhưng còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản. Đến Hội Thanh niên (19251929) là sự chuyển biển có tính đột phá sang một hướng mới đang dần hình thành và
khẳng định. Trong suốt thời gian tồn tại, trong nội bộ Thanh niên diễn ra sự phân hoá tư
tưởng sâu sắc nhất. Hội Thanh niên chưa phải là một Đảng Cộng sản mà chỉ là một tổ
chức theo khuynh hướng yêu nước vô sản, là một tổ chức quá độ như lời người sáng lập
xác định là "quả trứng sẽ nở ra con chim non-tức Đảng Cộng sản". Nhưng vì có mục
tiêu đấu tranh đúng đắn và xác định chỗ dựa chủ yếu là công nông nên Hội Thanh niên
ngày càng lớn mạnh. Trên nền hiện thực “địa ngục trần gian” của chế độ thuộc địa “sự
tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái
việc là gieo hạt giống của cơng cuộc giải phóng nữa thơi”(19), Hội Thanh niên xuất hiện
đáp ứng yêu cầu lịch sử đó.
Phong trào cơng nhân Việt Nam từ 1919-1925 có khoảng 25 cuộc bãi công, tự
phát, mục tiêu đấu tranh chủ yếu là kinh tế (tăng lương, giảm giờ làm, chống cúp phạt
đánh đập). Từ năm 1925 phong trào cơng nhân có sự chuyển biến dần dần về chất với
sự xuất hiện của Hội Thanh niên, Hội Phục Việt. Trong 2 năm 1926-1927 đã nổ ra 17
cuộc đấu tranh (20). Sự phát triển của phong trào công nhân và phong trào yêu nước
những năm 1928-1929, đã thúc đẩy nhanh q trình phân hố về mặt tư tưởng chính trị
của hội viên Thanh niên.


135


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

Bảng 5. Bãi công của công nhân 1928-1930

Năm

Số cuộc

Lượng người tham gia

1928

10 cuộc

600 người

1929

24 cuộc

6.000 người

1930

82 cuộc

27.000 người


Nguồn: Hà Huy Tập: Một số tác phẩm, Nxb. CTQG, HN, 2006, tr.153.
Bảng 6. Đấu tranh tự phát và đấu tranh tự giác của cơng nhân

Vấn đề
Mục tiêu
Tổ chức
Hình thức
Hàng ngũ

GĐ đấu tranh tự phát

GĐ đấu tranh tự giác

Mục tiêu kinh tế

1. Trước mắt: Kinh tế

(Tăng lương, giảm giờ làm)

2. Lâu dài: Chính trị

1. Khơng có tổ chức

1. Cơ sở: Cơng đồn

2. Cơng đồn

2. Xã hội: Đảng Cộng sản


Bỏ việc, đánh cai, phá máy,

Lãn cơng, đình cơng, bãi cơng,

lãn cơng, đình cơng, bãi cơng

biểu tình, đấu tranh vũ trang

lỏng lẻo, dễ thoả hiệp

vững chắc, cách mạng

Trong Hội Thanh niên đã có sự tranh luận về sự cần thiết hoặc chưa cần thiết
thành lập một Đảng Cộng sản ở Việt Nam. Lúc này như V.I.Lênin chỉ dẫn: “Giai cấp vô
sản phải ra sức lập ra các chính đảng cơng nhân độc lập, mà mục đích chủ yếu của các
chính đảng đó là phải làm cho giai cấp vô sản giành lấy chính quyền để tổ chức xã hội
xã hội chủ nghĩa”(21). Đỉnh cao của sự phân hoá tư tưởng là sự phân liệt của Hội Thanh
niên tại Đại hội I của Hội (5/1929) ở Hương Cảng (Trung Quốc) dẫn đến sự xuất hiện
của Đông Dương Cộng sản Đảng (6/1929), An Nam Cộng sản Đảng (9/1929). Sự phân
hoá về mặt tư tưởng quyết liệt đến mức vượt quá nguyên tắc xây dựng Đảng của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Trong bức thư “Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương gửi cho
những người Cộng sản An Nam ở Tàu” đã viết: “Đối với Tân Việt, Đảng Cộng sản
Đông Dương cùng chủ trương phá như phá Thanh niên vì nó cùng giả như Thanh niên.
Đảng chủ trương các phân tử Tân Việt cùng như với các phần tử Thanh niên”(22), "đồng
chí Vương (Hồ Chí Minh-t/g) có về thì đối với đồng chí cũng như đối với anh em”(23).
Trước sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng,
Đảng Tân Việt đã cải tổ lại để dẫn đến sự ra đời của Đơng Dương Cộng sản liên đồn
(1/1930).
Trong một thời gian ngắn 3 tổ chức cộng sản lần lượt ra đời đã góp phần tích
cực thúc đẩy phong trào đấu tranh của công nhân và quần chúng nhân dân phát triển lên

một bước mới. Điều đó đã diễn ra như Lênin dự kiến: "Như vậy là đồng thời vừa có sự
136


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

thức tỉnh tự phát của quần chúng công nhân, thức tỉnh về sinh hoạt tự giác và về đấu
tranh tự giác, lại vừa có một lớp thanh niên cách mạng được vũ trang bằng lý luận dân
chủ-xã hội nóng lịng gần gũi cơng nhân"(24). Điều đó chứng tỏ hệ tư tưởng vơ sản đang
khẳng định vai trị lãnh đạo cách mạng đồng thời chỉ ra sự chín muồi cho sự thành lập
một chính đảng vơ sản duy nhất ở Việt Nam.
Quốc tế Cộng sản (1919-1943) theo dõi sự phát triển của phong trào cách mạng
Việt Nam, trước tình hình trên đã ra chỉ thị đề ngày 27/10/1929 yêu cầu: “Nhiệm vụ
quan trọng nhất và cấp bách nhất của tất cả những người cộng sản Đông Dương là
thành lập một đảng cách mạng có tính chất quần chúng ở Đơng Dương. Đảng đó phải
chỉ có một và là tổ chức cộng sản duy nhất ở Đơng Dương”(25).
Trước tình hình đó, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã tích cực chủ động trong việc tổ chức
Hội nghị hợp nhất 3 tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam mùa xuân 1930.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngoài các nhân tố cấu thành còn là kết quả cao nhất của
cuộc đấu tranh phân hoá tư tưởng và khẳng định con đường cách mạng vô sản trong
những năm 20 của thế kỷ XX. Từ sự phân tích tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam,
Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng (2/1930) khẳng định: “Làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi đến xã hội cộng sản”. Chủ trương đó thực chất là
tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc đi theo con đường cách mạng vơ sản, giải
phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, ĐLDT và CNXH. Đó là sự lựa chọn
khách quan của lịch sử dân tộc trong những năm 20 của thế kỷ XX qua hoạt động tích
cực của lãnh tụ Hồ Chí Minh và phong trào yêu nước Việt Nam.
3. Kết luận
Thời kỳ 1921 - 1929 trong lịch sử cách mạng Việt Nam được coi là thời kỳ tìm
tịi và định hướng. Trong gần một thập kỷ đó, luồng tư tưởng dân chủ tư sản mà đại

diện là một số tổ chức đảng phái ra sức lôi kéo quần chúng nhân dân nhưng tỏ ra lỗi
thời và đều thất bại trong vai trò lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ lịch sử. Trong khi đó,
khuynh hướng mácxít - lêninnít mà tiêu biểu là lãnh tụ Hồ Chí Minh và các tổ chức
cách mạng (Tâm Tâm xã 1923-1924, Hội Thanh niên 1925-1929, Hội Phục Việt
1925…) tỏ ra sức hấp dẫn quần chúng và dần khẳng định vai trị lãnh đạo cách mạng.
Hệ tư tưởng vơ sản tỏ ra ưu việt và chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống chính trị tư
tưởng giải phóng dân tộc. Từ Tâm Tâm xã đến sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời mùa xuân năm 1930 là hiện thực của một thời kỳ vận động thành lập Đảng sôi nổi.
Đây là giai đoạn hệ tư tưởng vô sản khẳng định vị thế, đồng thời đấu tranh thắng lợi
đập tan chủ nghĩa cải lương ru ngủ quần chúng và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi của tư
sản và tiểu tư sản, vạch trần những thủ đoạn xảo trá của đế quốc và tay sai. Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời chính là hiện thân của sự nghiệp chính nghĩa, là đội tiền
phong đại diện cho quyền lợi của giai cấp công dân, nhân dân lao động, và toàn thể
dân tộc Việt Nam.

137


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

Phụ lục: 7 người tham gia sáng lập Tâm Tâm xã năm 1923 ở Quảng Châu
(Trung Quốc)
Theo tác giả Trung Chính (1970), 7 người sáng lập Tâm Tâm xã vào mùa xuân
năm 1923 là 1. Lê Văn Phan tức Lê Hồng Sơn (1899 - 1933); 2. Hồ Bá Cự tức Hồ Tùng
Mậu (1896 - 1951); 3. Nguyễn Công Viễn tức Lâm Đức Thụ; 4. Đặng Xuân Hồng; 5.
Trương Quốc Huy; 6. Lê Cầu tức Tông Giáo Cầu; Nguyễn Giản Khanh. Đầu năm 1924
Phạm Hồng Thái và Lê Hồng Phong đến Quảng Châu và được Lê Hồng Sơn kết nạp
vào Tâm Tâm xã tại nhà của Nguyễn Giản Khanh.
Chú thích:
1. Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.1, Nxb. CTQG, HN 2000, tr.27-28.

2. Trung Chính: Tâm tâm xã là gì? Nghiên cứu lịch sử số 134 (9-10) 1970, tr.6.
3. Trung Chính: Tâm tâm xã là gì? Nghiên cứu lịch sử số 134 (9-10) 1970, tr.6.
4. BNCLSĐTƯ (1976): Những sự kiện Lịch sử Đảng, Nxb. ST, HN, tr.79.
5. Trần Dân Tiên (1975): Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch,
Nxb. ST, HN.
6. Nguyễn Văn Linh (1987): Đổi mới để tiến lên, Nxb.ST, HN, tr.108.
7. Ngơ Văn Hịa-Dương Kinh Quốc (1978): Giai cấp công nhân Việt Nam những
năm trước khi thành lập Đảng, Nxb. KHXH, tr.317.
8. Hồ Chí Minh (1987): Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin, Nxb. ST, HN,
tr.78-79.
9. Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.2, Nxb. CTQG, HN, tr.99.
10. V.I.Lênin: Toàn tập, t.37, Nxb Tiến bộ, M, tr.201-202.
11. Louis Roubaur: Việt Nam thảm kịch Đông Dương (bản dịch), Nxb. CAND,
HN 2003, tr.62.
12. Hà Huy Tập: Một số tác phẩm, Nxb. CTQG, HN 2006 tr.125.
13. Ngơ Văn Hịa-Dương Kinh Quốc (1978): Giai cấp công nhân Việt Nam những
năm trước khi thành lập Đảng, Nxb. KHXH, HN, tr.322.
14. V.I.Lênin: Toàn tập, t.6, Nxb. Tiến bộ, M, 1976, tr.101.
15. Con đường giải phóng (Hồi ký) tập 2, Nxb. Phụ nữ, HN 1977, tr.153}.
16. Lê Duẩn (1960): Một vài đặc điểm của cách mạng Việt Nam, Nxb. ST, HN,
tr.30.
17. V.I.Lênin: Toàn tập, t.20, Nxb. Tiến bộ, M, 1974, tr.359.
18. Trần Văn Giàu (1975): Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX
đến Cách mạng Tháng Tám, tập II, Nxb. KHXH, HN, tr.442.
138


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

19. Hồ Chí Minh: Tồn tập t.1, Nxb. CTQG, HN 2000, tr.28.

20. Ngơ Văn Hịa-Dương Kinh Quốc: Giai cấp công nhân Việt Nam những năm
trước khi thành lập Đảng, Nxb. KHXH, HN 1978, tr.322.
21. V.I.Lênin: Toàn tập, t.4, Nxb. Tiến bộ, M, 1976, tr.218.
22. ĐCSVN (1998): Văn kiện Đảng toàn tập I, Nxb. CTQG, HN, tr.230.
23. ĐCSVN (1998): Văn kiện Đảng toàn tập I, Nxb. CTQG, HN, tr.231.
24. V.I.Lênin: Toàn tập, t.6, Nxb. Tiến bộ, M 1976, tr.48.
25. ĐCSVN (1998): Văn kiện Đảng toàn tập tập I, Nxb. CTQG, HN, tr.614.

139



×