Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Vấn đề tiếp biến văn hóa trong lịch sử hình thành của nghệ thuật ca trù

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.36 KB, 21 trang )

ĐỀ BÀI:
Anh (chị) hãy trình bày về tiếp biến văn hóa trong chun ngành của mình
đang cơng tác ?
BÀI LÀM

Trong nền âm nhạc truyền thống của dân tộc, chúng ta đã từng biết
tới những làn điệu quan họ mượt mà, những tích trị hấp dẫn của múa rối,
chèo trống… Nhưng bên cạnh đó cịn một loại hình nghệ thuật ngày nay
dường như đã bị lãng quên - dó là Ca trù. Nhắc đến Ca trù - người ta chỉ
lờ mờ hiểu về nó như một thể loại âm nhạc rất khó nắm bắt, rất khó để
thẩm thấu. Khác với quan hệ, múa rối… là những loại hình nghệ thuật dân
dã gần gũi với cuộc sống - Ca trù là một loại hình nghệ thuật bác học.
Một loại hình âm nhạc đã đạt đến trình độ hồn thiện cao, địi hỏi người
thưởng thức phải am hiểu và tìm tịi về những giá trị tinh hoa của nó. Tại
sao lại có sự khác biệt đó? Tại sao ca trù lại rất khó để cảm thụ được vẻ
đẹp tinh anh của nó? Và hơn nữa trước thực trạng ca trù đang đứng trước
bờ vực thẳm của sự mai một đã là động lực để tơi tiến hành tìm hiểu về
loại hình nghệ thuật này. Hy vọng đó có thể là một đóng góp nhỏ cho việc
gìn giữ vẻ đẹp ca trù.
Ca trù đã trở thành đề tài nghiên cứu hấp dẫn của nhiều nhà nghiên
cứu âm nhạc, nhà văn hố lớn. Cái nhìn về ca trù tồn diện, sâu sắc có lẽ
đã được nhắc tới rất nhiều trong các cơng trình nghiên cứu của các nhà
khoa học. Và chúng ta cũng sẽ bàn tới vấn đề tiếp biến văn hóa trong lịch
sử hình thành của nghệ thuật ca trù.

1


CHƯƠNG I
MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN, NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH
NGHỆ THUẬT CA TRÙ


I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN TRONG HÁT CA TRÙ
1. Ả đào: (nữ giới)
Ả đào - là nhân vật gần như quan trọng nhất của tiệc ca trù. Nhiệm
vụ của ả đào là làm ca sĩ cho tiệc hát nhưng khác với ca sĩ ở chỗ ả đào
vừa hát vừa gõ phách. Ả đào là nữ giới, kép là nam giới. Ả đào như linh
hồn của một bài ca trù bởi nhờ giọng hát của ả đào thì những giá trị thẩm
mỹ của những áng thơ ca trù mới được cất lên và chuyển tải đến các tao
nhân, mặc khách thưởng hát. Về nửa cuối thế kỷ XIX đầu XX, ả đào cịn
được gọi là cơ đầu.
2. Kép (nam giới)
Cùng với ả đào, kép là thành viên quan trọng của tổ chức hát ca trù.
Thông thường, trong tiệc hát, gọi chung họ là “đào kép”. Vai trò của kép
là gẩy đàn. Một số tài liệu còn gọi kép bằng tên khác là “quản giáp”. Là
người gảy đàn cho ả đào hát song một số sách nói rằng ngày xưa kép cũng
có tham gia hát. Điệu hát mà kép hát gọi là điệu “hà nam”, ả đào hát gọi
là “hát hát” - hát gái hay nữ xướng. Kép hát trước rồi đào hát lại đúng bài
đó, đúng điệu đó gọi là “hà liễu”.
3. Ca trù
Đây là một khái niệm chỉ một lối hát mà trong đó có rất nhiều điệu
hát (theo 2 nhà nghiên cứu Đỗ Bằng Đồn và Đỗ trọng Huề thì ca trù có
46 điệu chính) như thét nhạc, non mai, hồng hạnh, hát nói…
Ca trù cịn có các cách gọi khác như: hát ả đào, hát nhà trị, hát cơ
đầu, hát nhà tơ… ở Thanh hố ca trù cịn được gọi là hát ca công, hát gõ.
Nhưng tên gọi ca trù là phổ biến nhất.

2


Giải thích tên gọi ca trù theo nghĩa chữ thì hát ca trù là hát thẻ. Thẻ
gọi là “trù”. Thẻ làm bằng tre và dùng để thưởng cho đào hát thay cho trả

bằng tiền mặt trực tiếp. Khi ả đào hát, các quan iên thị lễ - một bên đánh
trống, bên kia đánh chiêng. Trống đánh chát và chiêng đánh lên khi đào
hát hay và đào được thưởng một thẻ trù, xong tiệc hát thì đào - kép ứng
theo số thẻ đã được thưởng mà nhận tiền theo quy định.
Khái niệm ca trù sớm nhất hiện được biết đến là ở thế kỷ XVI trong
bài “Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải răn” của Lê Đức Mao.
4. Cầm chầu
Người đánh trống cho ả đào hát gọi là cầm chầu. Dìu trống (còn gọi
là roi chầu) làm bằng gỗ quý. Cầm chầu cũng có khổ, có tiếng trống
khoan, trống mau như đàn, phách.
Người cầm chầu phải là người am hiểu về ca trù bởi ngoài nhiệm vụ
đánh trống cho đào hát cịn có nhiệm vụ là chấm thưởng mỗi khi đào
nương hát hay, hay đến câu văn hay. Ngoài ra người cầm chầu cịn chấm
cả đàn hay, phách hay. Chính từ vai trò này mới sinh ra các khái niệm như
“thưởng hơi, thưởng ý, thưởng đàn, thưởng phách”. Cầm chầu đánh “cắc”
là chấm thưởng. Điểm thưởng thể hện tính cách, khả năng âm nhạc, văn
học của người cầm chầu. Cầm chầu giỏi là phải tinh không thưởng sai,
thưởng liều.
5. Đầu thưởng, vai thưởng, nách thưởng
Ba khái niệm này ít được giải nghĩa một cách rõ ràng. Có thể đưa ra
đây một ví dụ để minh hoạ trong bài “Nơi về phép đi hát và đánh trống”
của Xuân Lan in trong “Ca trù thể cách” xuất bản năm 1922 viết câu
“Minh quân lương để tao phùng di”. Những câu ấy, chữ nào chữ nấy phải
hát rõ ràng, vng trịn, khơng khoan, khơng gấp, không cách nhỡ.
Thưởng những câu ấy gọi là “đầu thưởng”.
Hay như trong câu “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cánh phù du
trông thấy cũng buồn cười, thôi công đâu chuốc ấy sự đời”. “Cánh phù
du” - Ba chữ này gọi là “chốn tiếp” - thưởng vào “chốn tiếp” gọi là “vai
3



thửơng”. “Thôi công cầu” - ba chữ này gọi là “chốn tục”- thưởng vào
“chốn tục” gọi là nách thưởng.
6. Đủ khổ, dôi khổ, thiêu khổ
Một bài hát ca trù (hát nói) gồm ba khổ: khổ đầu, khổ giữa và khổ
xếp. Khổ đầu và khổ giữa có 4 câu ở mỗi khổi, khổ xếp có 3 câu. Một bài
hát nói đầy đủ có 11 câu - gọi là bài hát đủ khổ. Bài nào có trên 11 câu
gọi là dơi khổi, chưa đủ 11 câu gọi là thiếu khổ. Hai khổ đầu và khổ xếp
luôn giữ nguyên dôi hay thiếu khổ chỉ xảy ra ở khổ giữa.
Ngồi ra cịn có “hát nói gối hạc” - trong bài hát có một vài cầu thơ
kéo dài ra, số chữ trong câu thơ có thể lên đến 12, 18 thậm chí 24 chữ.
7. Hát mưỡu
Hát mưỡu ít khi được hát riêng rẽ với tư cách một bài trọn vẹn mà
thường được hát mở đầu hoặc kết thúc cho một bài hát nói. Do vậy khi kết
hợp hát mưỡu và hát nói lại cho ta các dạng như:
-Hát nói mưỡu tiền (hát mưỡu mở đầu rồi vào hát nói).
-Hát mưỡu hậu (hát mưỡu kết thúc sau khi hát nói).
-Hát nói mưỡu đơn (hát mưỡu bằng một câu thơ lục bát).
-Hát nơi mưỡu kép (hát mưỡu bằng 2 câu thơ lục bát.
8. Giáo phường
Đây là tổ chức của hát ca trù gồm nhiều họ. Người đứng đầu giáo
phường gọi là “ơng chùm”. Giá phường có hệ thống qui ước mà các thành
viên phải tuân thủ. Hằng năm, giáo phường đều tổ chức lễ tế tổ vào ngày
11 tháng Chạp. Sau ngày tế tổ thì ơng chùm giải quyết các công việc nảy
sinh trong giáo phường. Nơi lễ tế tổ có thể làm ở nhà thờ hay muựơn đình
của xã để làm lễ. Trong lễ tế tổ, đào nương kép hát của các họ ở các vùng
khác nhau tề tựu, đông đủ hát đủ các điệu và đặt tiệc mời khách quý - gọi
là đám “thánh sư”. Giáo phường còn được hiểu là nơi dạy những người đi
hát.


4


9. Hãm
Hãm là một điệu hát của ca trù hát ngâm hãm để chuốc rượu chúc
mừng trong tiệc vui khúc hát hãm có từ một mừng đến 10 mừng.
10. Lạc nhạn, xuyên tâm, thuỳ châu
Các khái niệm này chỉ khổ nhạc của trống, đàn và phách. Nó được
chia thành 5 khổ theo thứ tự như sau:
-Chính diện (dùng vào những câu hát bằng phẳng).
-Xuyên tâm có xuyên thưa, xuyên mau.
-Lạc nhạn (dùg vào câu hát trầm ngâm)
-Quán châu ( dùng vào các khổ thơ).
-Thương mã (dùng vào các khổ xếp, khổ dồn).
-Thuỳ thâu: chỉ 3 tiếng trống vào giữa câu thứ 11 hoặc câu thứ 10.
Xuyên thưa chỉ ba tiếng trống đánh vào đầu câu thứ 4.
Xuyên mau là ba tiếng trống đánh bào đầu câu thứ 8.
11. Hát ả đào
Đây là tên gọi chug cho hát cô đầu, hát ca trù… Theo các thư tịch
hiện nay thì khái niệm hát ả đào xuất hiện sớm nhất so với các khái niệm
ca trù, nhà trị…
-Hát cửa đình.
Là cuộc hát được tổ chức tại đình làng hàng năm. Vào các dịp tế
thần, thành hồng làng. Luật lệ của hát cửa đình rất chặt chẽ, nghi lễ hát
linh thiêng khi hát ả đào phải nhịp theo các tiết mục hành lễ và động tác
của người tế.
Như vậy, để tìm hiểu về nghệ thuật ca trù, trước tiên ta phải hiểu
được một số khái niệm chính thường sử dụng khi nói về ca trù. Nắm bắt
được các khái niệm đó sẽ giúp cho quá trình nghiên cứu được thuận lợi
hơn rất nhiều. Các khái niệm đưa ra ở mức cô đọng nhất sẽ phần nào giúp

người đọc luận giải các cụm từ chuyên biệt mà nếu không am hiểu ca trù
sẽ không thể cắt nghĩa được.

5


II. NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT
CA TRÙ
Có thể khẳng định không ai biết rõ hát ả đào có từ bao giờ cho đến
thời điểm hiện nay. Nguyên nhân của việc đó là do nguồn sách vở tư liệu
cũ của ta về âm nhạc khơng cịn lại nhiều. Các nhà nghiên cứu chỉ có thể
căn cứ vào một số ít nguồn tư liệu nhưng chủ yếu lại là những truyền
thuyết được ghi chép lại qua truyền khẩu trong nhân dân. Chính vì lí do
đó, nguồn gốc hình thành ca trù không thống nhất, tương truyền mỗi nơi
một khác. Đây là một vấn đề đặt ra với các nhà nghiên cứu trong hành
trình tìm về cái nơi của hát ca trù.
Tuy vây, tôi cũng xin đưa ra đây dẫn chứng về ba tư liệu cổ nói tới
nguồn gốc ca trù được dân gian cũng như các nhà nghiên cứu nhắc tới
nhiều nhất.
Theo “Việt sử tiêu án” của Ngô Thời Sĩ thì vào đầu Vua Lý Thái tổ
(1010 - 1028) có người ca nhi tên là Đào Thị hát hay đàn giỏi từng được
vua ban thưởng. Về sau vì ái mộ danh tiếng Đào Thị nên con hát gọi là
Đào nương. Sách “Khâm đinh viết sử” cũng ghi : “năm Thuận Thiên thứ
16 (1925) vua Lý Thái Tổ đặt chức Quản giáp cho giới con hát. Như vậy,
từ các cứ liệu trên, ca trù ít nhất cũng có từ đời Lý. Tuy nhiên đây cũng
chỉ là tương truyền mà chưa có các căn cứ chính xác.
Đến đời nhà Hồ (1400 - 1407) lại có sách (Cơng dư tiệp ký” chép
lại chuyện một đào nương ở tại thôn Đài Xá, huyện Tiên Lữ - Hưng Yên
múa giỏi hát hay. Thời điểm đó, quân Minh sang xâm chiếm nước ta gây
bao cảnh tang thương. Nàng đã cùng dân làng lập mưu hạ được nhiều tên

giặc Minh giúp làng Đài Xá được yên ổn. Về sau người làng nhớ ơn nên
đã lập đến thờ và thôn nàng ở trước đây gọ là thôn “Ả đào”.
Lại có truyền thuyết khác về Tổ cơ đầu mà hiện nay được nhiều
người ghi nhớ nhất. Đời nhà Lê có người tên là Đinh Lễ tự là Nguyễn
Sinh, quê ở làng Cổ Đạm - Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Là con nhà gia thế song
tính tình phóng khống, thích ca hát gảy đàn. Một lần Đinh Lễ được một
6


cụ già đưa cho một khúc gỗ ngô đồng và tờ giây vẽ hình một cây đàn bảo
rằng về làm cây đàn sẽ giúp trừ hoạ và mang lại an lành cho nhân dân.
Quả nhiên cây đàn đã giúp cho cuộc sống của bà con hạnh phúc vui tươi
hơn. Một hôm, Đinh Lễ đi qua châu Thường Xuân - tỉnh Thanh Hố ngồi
gảy đàn vơ tình tiếng đàn đã giúp cho Bạch Hoa - con gái quan châu Bạch
Đình Sa bị câm từ nhỏ bỗng cất tiếng nói sau khi nghe đàn. Cảm tạ ơn đó
Bạch Hoa được gả cho Đinh Lễ. Từ đấy hai vợ chồng sống hạnh phúc, ca
hát và còn dạy cả dân làng cách đàn, cách múa. Khi hai vợ chống mất đi,
dân làng Cổ Đạm và đệ từ nhớ ơn lập đền thờ gọi là đền tổ cô đầu, hay
đền bà Bạch Hoa công chúa. Hàng năm đến ngày 11 tháng Chạp có giỗ tổ
cơ đầu và các đào kép khắp nơi lại tề tựu về ở Hưng Yên, Nam Định, Hà
Nội ngày nay đều có đền thờ hai vị tổ sư này.
Khơng phải ngẫu nhiêm mà cùng với truyền thuyết trên, làng Cổ
Đạm ngày nay được nhân dân cả nước biết tới như cái nơi của ca trù, là
vùng đất tổ của loại hình nghệ thuật này . Xem xết nhều khía cạnh, ta sẽ
thấy Cổ Đạm xứng đáng là nơi khởi thuỷ của ca trù.
Thứ nhất, có phải vơ tình khơng khi truyền thuyết về tổ ca trù gắn
liền với các chế tác ra cây đàn đáy và việc truyền bá nghệ thuật chơi đàn
đáy? Như thế có nghĩa là, tính đến thời điểm có cây đàn đáy do Đinh Lễ
(làng Cổ Đam) sáng chế ra thì ca trù đã có bước tiến đáng kể về chất và
dần dần định hình thành một thể loại âm nhạc có diện mạo, lễ luật rõ ràng,

chặt chẽ. Hơn thế, nhắc đến ca trù không thể không nhắc tới cây đàn đáy.
Đàn đáy ra đời là minh chứng cho sự ra đời của ca trù. Về tư liệu mĩ thuật
cịn lại thì có các bức chạm trên xà của đình Lễ Hạnh (thế kỷ XVI) đình
Tây Đằng (thế kỷ XVI) hình cây đàn đáy - cây đàn đặc trưng của ca trù.
Thứ hai: trong các bản thần phả về ca trù đều thống nhất một quan
điểm: tổ của ca trù là ông Đinh Lễ và bà Bạch Hoa. Chính vì vậy khi hát
đến chữ Lễ, cơ đầu phải hát chệch thành lỡi, Hoa đọc thành Huê, Bạch
đọc thành B.

7


Thứ ba, phải là cái nối ca trù mới sản sinh ra được con người “có sở
trường về nghề ca trù” (Nguyễn Văn Ngọc) nổ tiếng là Nguyễn Công Trứ.
Nhờ có ơng ca trù mới có được sức sống lâu bền tới ngày nay. Tuy không
phải là tổ nghề nhưng Nguyễn Cơng Trứ đã có cơng lớn trong việc hồn
chỉnh và đưa hát nói thành hể thơ dân tộc, thành linh hồn của những bài
ca trù.
Như vậy, tuy được thêu dệt từ một truyền thuyết song với những dẫn
chứng sống như trên ta có thể khẳng định làng Cổ Đam chính là nguồn
gốc sản sinh ra Ca trù, là trung tâm đỉnh cao của nghệ thuật ca trù. Từ
đây, ca trù phát triển rộng khắp hai miền Bắc - Trung. Ngày nay, sinh hoạt
ca trù cũng đang dần được khôi phục ở Cổ Đam với việc hình thành các
câu lạc bộ ca trù ở Nghi Xuan.
* Nghệ thuật biểu diễn Việt Nam trải qua 3 giai đoạn tiếp biến
văn hóa với nước ngoài.
Thời kỳ Bắc thuộc là giai đoạn tiếp biến văn hóa lần thứ nhất, tiếp biến một
cách hồn nhiên, khách quan, tự giác, do vậy nghệ thuật biểu diễn thời kỳ này
ngoài nhạc cụ như: nhị, nguyệt, tam, tứ, thanh la, kèn; truyện truyền miệng thì
giai đoạn này cịn có ca, múa, nhạc được tiếp thu một cách có chọn lọc từ Trung

Quốc. Nghệ thuật biểu diễn giai đoạn này đã có ca múa nhạc, trị diễn, hề, có
nghệ thuật diễn xướng dân gian. Trị diễn với các vai: hề, lão, mụ, kép, đào, trị
diễn mang tính sinh tồn, mang tính văn hóa, thẩm mỹ, với những vai mẫu là tiền
đề cho nghệ thuật sân khấu Việt Nam trong tương lai.
Thời Lý, xuất hiện ca trù trở thành một loại hình độc đáo mang tính
bác học cao, ta cịn có các dân ca quan họ, xoan, ghẹo, cị lả, trống quân.
Lần tiếp biến văn hóa thứ 2, giai đoạn thuộc Pháp, đây là thời kỳ Việt Nam
thoát khỏi văn hóa Trung Hoa, văn hóa phương Đơng mà tiếp biến văn hóa
phương Tây. Nếu văn hóa phương Đơng là văn hóa lúa nước, trọng tĩnh, trọng
âm, trọng nữ, trọng kinh nghiệm, mang tính chủ quan, văn học nghệ thuật là:
biểu hiện, tả ý, tả thần. Cịn văn hóa phương Tây là văn hóa du mục, trọng động,
8


trọng lý, trọng nam, trọng dương, trọng khoa học, mang tính khách quan, văn
học nghệ thuật là: thể hiện và tả thực. Trong lần tiếp biến này giống như một
cuộc cách mạng giữa nội sinh và ngoại sinh xảy ra rất quyết liệt, văn học nghệ
thuật của Việt Nam đang mang danh thời kỳ cận đại, văn học nghệ thuật thay đổi
từ văn cổ sang văn mới (tiểu thuyết, ký …), thơ cổ sang thơ mới … chính vì vậy
nghệ thuật sân khấu của Việt Nam tiếp biến nghệ thuật sân khấu phương Tây là
kịch đã ồ ạt chuyển vào Việt Nam, thời kỳ này, nghệ thuật sân khấu có những
thay đổi.
Từ thời kỳ Pháp thuộc có nhiều người đọc trại chữ Đào thành chữ Đầu nên
Hát Ả đào thường được gọi là Hát Cơ Đầu và có rất nhiều "quán ca" được lập ra
ở Miền Bắc tại các vùng Khâm Thiên, Vạn Thái, Ngã tư Sở, và trong Nam vùng
Phú Nhuận, trong những quán ca hay nhà hát đó có hai loại Cơ đầu : "cơ đầu
hát" là Ả đào chính cống đem tiếng hát, tài năng nghệ thuật để khách mộ điệu
đến nghe và thưởng thức câu thơ, tiếng nhạc, lời ca. Nhưng cạnh bên có những
"cơ đầu rượu" thường khơng biết hát mà chỉ có chuốc rượu mời khách uống đến
say. Lúc canh hát đã tàn "cô đầu hát" đã rời qn thì các "cơ đầu rượu" bắt đầu

đối với khách với một thái độ thân mật hơn, giả vờ âu yếm nhưng "trong âu yếm
có chiều lả lơi" và tuần tự với khách bày chuyện trăng hoa. Quần chúng vì
khơng phân biệt được "cơ đầu hát" và "cô đầu rượu", nên tất cả những ai mang
tiếng "cô đầu" đều bị xem là phường bán phấn buôn hương mà người đi nghe
"cô đầu" cũng không được coi là một người biết thưởng thức nghệ thuật Ca Trù
mà chỉ là những người đi tìm hoa và những thú vui trần tục.
Có nhiều thức giả lại cịn cho rằng chữ "cô đầu" thường được dùng để chỉ
những người ca nương có nghề nghiệp cao, đã dạy được nhiều học trị thành
nghề khi mơn sinh hành nghề được tiền thưởng của các "quan viên" (những
người sành điệu biết nghe, thưởng thức nghệ thuật Ả Đào) thường lấy một số
"tiền đầu" để dâng cho thầy tỏ lòng biết ơn. Người đào nương nào nhận nhiều
tiền đầu, được gọi là "cô đầu". Từ nghĩa "cô đầu" là người đã được môn sinh
biết ơn, biết nghĩa, tôn sư trọng đạo thành ra nghĩa một người bán phấn buôn
9


hương thì rất tội cho những người nghệ nhân có công truyền bá một nghệ thuật
độc đáo và cao siêu của Dân tộc Việt Nam.
Giai đoạn tiếp biến văn hóa lần thứ 3, tiếp thu hệ tư tưởng Mác – Lênin.
Trong giai đoạn này, từ nhân sinh quan, thế giới quan, thẩm mý quan, nghệ thuật
quan của nghệ sỹ là chủ nghĩa Mác – Lênin; nghệ sỹ là chiến sỹ, nghệ thuật biểu
diễn là phương tiện phục vụ tuyên truyền, phị chính trừ tà, soi đường cho quốc
dân đi. Nghệ thuật biểu diễn được bao cấp nhà nước, phương pháp sáng tác là:
hiện thực xã hội chủ nghĩa. Tất cả những điều trên đều nằm trong đường lối văn
hóa văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam.

10


CHƯƠNG II

NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN CA TRÙ
Ca trù là một loại nhạc truyền thống bác học có đầy đủ quy tắc về
điệu, về nhịp, về nét hoa mĩ, cách biến tấu, ứng tấu. Để hiểu được cả một
hệ thống quy tắc chặt chẽ ấy khi hát là cả một quá trình tìm tịi, thẩm thấu
ở trình độ cao.
Trước khi đi vào nghệ thuật trình diễn, ta cần tìm hiểu các đặc điểm
của một bài ca trù - như một yếu tố nền khi nghe hát ca trù.
I. ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC BÀI HÁT CA TRÙ
1. Phân loại
Ngày xưa, ca trù có ba loại chính.
-Hát chơi, biểu diễn tại các nhà của những người hâm mộ ca trù hay
tại nhà ca sĩ.
-Hát cửa đình, biểu diễn tại đình làng.
-Hát thi biểu diễn để tranh giải thưởng.
Phổ biến nhất là hát chơi trong một vùng thân mật với số ít khán giả
những lúc giải trí.
2. Chất liệu
Trong nghệ thuật ca trù, thơ là một thành tố quan trọng. Ca trù có
nhiều làn điệu, nhiều thể ca trù sử dụng các thể thơ quen thuộc và thuần
Việt như lục bát, song thất lục bát. Trong số 34 thể ca trù mà thư tịch Hán
Nơm có ghi nhậ về lời thơ thì các thể thơ được dùng trong ca trù là :
+ Thể lục bát dung trong 17 thể ca trù.
+ Thể song thất lục bát: dùng ở một thể ca trù.
+ Thể thơ 7 chữ và một câu lục cuối bài: dùng trong 3 thể ca trù.
+ Thể thơ Đường luật (thất ngôn, tứ tuyệt) dùng trong 8 thể ca trù.
+ Thể phú: dùng trong một thể ca trù
+ Thơ Đường luật trường thiện: dùng trong 2 thể ca trrù
+ Thể hát nói là thể riêng của ca trù.
11



Thơ lục bát là thể thơ được sử dụng phổ biến trong ca trù, nhất là
trong các điệu rù có như: Bắc phản Hồng Hạnh, Non mai, Đại Thạch…
Đặc biệt, trong các thể thơ dùng trong ca trù thì thể hát nói để lại số
lượng nhiều nhất, và được ưa chuộng nhất. Hát nói đã gắn với các tên tuổi
lớn trong lịch sử văn học Việt Nam như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát,
Nguyễn Khuyến, Tản Đà…
3. Nội dung chính của bài ca trù
Ca trù lấy chất liệu chính từ thể hát nói. Do vậy, nội dung của các
bài hát ca trù cũng được chuyển tải qua nội dung tư tưởng của những bài
hát nói.
Ta có thể bắt gặp trong ca trù tư tưởng chính thống của nho gia biểu
hiện qua hình ảnh người qn tử gánh vác non sơng, đau niềm đau nhân
thế. Ta lại có thể thấy tinh thần của Thiền trong những bài hát nói thốt
tục của Nguyễn Thượng Hiền, chu Mạnh Trinh.
Đặc biệt trong các bài hát ca trù ta còn bắt gặp ảnh hưởng của tư
tưởng Lão Trang. Điều này được đề cập tới rất sớm trong sách “Đào
nương ca” của Nguyễn Văn Ngọc. Tư tưởng Lão Trạng tập trung ở những
khía cạnh sau.
-Tinh thần tự do, tự tại, thoát khỏi quy phạm của Nho giáo.
-Thiên nhiên trong ca trù là thiên nhiên tiên giới và mộng ảo.
-Hưởng lạc đã trở thành triết lý để thực hện “võ” hay ra giảng nội
dung nghiêm túc của học thuyết Khổng Mạnh mà chỉ nhằm mục đích
chính đáng là giải trí.
4. Bố cụ một bài ca trù
Theo sách “Ca trù thể cách” thì ta có thể sắp xếp bố cục một bài hát
ca trù gồm 11 câu như sau:
Câu 1 và 2 gọi là tống mạo
Câu 3 và 4 gọi là thừa đề
Câu 5, 6 dùng lối thất ngơn, cổ thi hoặc quốc âm, nói tới đại ý của

toàn bài.
12


Câu 7, 8, 9, 10 nói theo ý của câu 5, 6 để mở rộng thêm.
Câu 11: tổng kết ý nghĩa tồn bài.
Đơi khi, kết thúc câu thứ 11 lại có thêm 2 hoặc 4 câu nữa liền sau
đó để mở rộng thêm ý tứ của bài hát.
5. Âm luật
Ca trù có 5 cung chính là (theo Nguyễn Đơn Phục).
-Cung nam: điệu nhanh, hơi trong nhưng bằng phẳng và xuống thấp.
-Cung bắc: điệu hát khan, hơi đục nhưng rắn rỏi và lên cao.
-Cung huỳnh: điệu xúc, ngặt, hát dính vào nhau.
-Cung pha: trong và đục pha lẫn, hơi ai oán, hát chệch.
-Cung nao: điệu chênh chênh, đục ở dưới, trong ở trên.
6. Đổi âm thể
Hiểu một cách đơn giản nhất thì “đổi âm thể” (cịn gọi là “chuyển
ẩm” dùng để chỉ khi nói tới việc đổi giọng của ả đào. Trong lối hát ả đào,
hầu như bài nào cũng có đổi giọng ở từng đoạn trong bài hát.
7. Các điệu hát thơng dụng
Theo các thư tịch ghi lại thì có khoảng 50 điệu hát ca trù. Trong đó
có các điệu phổ biến như:
-Thét nhạc: là khúc hát đầu tiên của lối hát cửa đình. Sau phần giáo
trống, giáo hương, cơ đầu và kép chia nhau đứng hai bên hương án hát bài
thét nhạc. Thét nhạc chú trọng về nhạc, về giai điệu tạo nhạc cảm cho tiệc
hát mà ít chú trọng về lời.
-Hát giai: Sau khi hát bài thét nhạc, đào kép ngồi xuống chiếu, hát
bài theo thể hát nói cửa đình gọi là hát giải.
-Hát mùa đai thạch: là điệu hát kèm theo múa rối vui
-Cung Bắc: là điệu hát của cung nữ nương vua, một trong nhưng

điệu cổ nhất của ca trù.
-Bắc phản: (hát mở) khi bắt đầu vào chầu hát ở ca quán, ả đào
thường hát bài này sau khi dạo đàn, phát hết khổ “lá đầu”

13


II. NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN CA TRÙ
1. Nhạc cụ
Để biểu diễn một bài ca trù, đào kép phải cần tới ba dụng cụ chính
là đàn đáy, phách, trống.
Đàn đáy là nhạc cụ đặc trưng cho lối hát ca trù, còn gọi là vô để
cầm nghĩa là đàn không đáy. Đàn có ba dây, 11 phím, thùng vng, thân
dài. Tiếng đàn phải theo tiêng hát, hát ao thì đàn cao, hát thấp thì đàn
thấp. Đàn có hai cách là đàn khn và đàn hàng hoa. Trong tiệc hát thì
kép là người đàn cho ả đào hát.
Phách: là bộ phận nhạc cụ của ả đào dùng cho ả đào gõ nhịp khi hát.
Phách và sênh là hai nhạc cụ của ả đào. Phách làm từ gỗ, khi hát, ả đào
gõ phách vào sênh. Sênh làm từ tre (gỗ). Phách có 4 khổ là: khổ sịng, khổ
đơn, khổ rải, khổ lá đầu.
Trống: có 2 loại trống cửa đình là trống lớn. Dìu lớn bằng gỗ, trống
có chiêng kèm theo. Trống thính phịng là loại nhỏ, cao 22cm, mặt trống
rộng 20cm. Roi bằng gỗ Nguyệt rát quý, dài khoảng 36cm gọi là “roi
chầu”. Trống cũng có 5 khổ như đàn và phách là: chính diện, xuyên tâm,
lạc nhạn, quán châu, thượng mã.
2. Dàn nhạc của ca trù
Dàn nhạc khá đơn giản tuỳ vào hoàn cảnh cụ thể để bố trí cho phù
hợp.
Ở cung đình trong tế lễ lớn thì dùng bát âm.
Ở đền miếu, tuỳ hoàn cảnh mà dùng lục âm, tứ âm

Ở tiệc chúc tụng thì dùg đàn đáy, phách, trống.
Ở lễ rước, hát múa, hát chầu thì tuỳ từng lễ mà bố trí.
3. Tiếng hát và cách hát ca trù
Trong phạm vi một bài nghiên cứu tổng quát về lối hát ả đào, người
viết khơng thể trình bày, phân tích một cách rõ ràng về trình tự và sự kết
hợp lẫn nhau giữa tiếng hát - tiếng đàn, tiếng phách và trống trong một
bài hát ca trù. Điều này chỉ có thể hiểu thơng qua việc phân tích từng yếu
14


tố đàn, phách, trống sử dụng như thế nào trong một bài hát ca trù. Thật ra
thf ta đã thấy trong một bài hát ca trù, cách đánh phách, đánh trống, gảy
đàn, tiếng hát của mỗi bài gần như đều theo một truyền thống nhất định.
Trong một khúc hát có 3 làn đổi điệu.
Theo truyền thống thì cuộc hát ả đào bắt đầu có “dâng hương, giáo
trống”. Người kép rung mấy hồi trống, đọc mấy câu chúc mừng, đào
nương đốt hương dâng lên trước mặt thánh.
Tiếp sau đó, đào nương hát bài thét nhạc.
Rồi đến ngâm vọng, hát mưỡu và hát nói. Ngâm vọng là bắt đầu
ngâm nga mấy câu rồi mới vào phách. Hát mưỡu là hát hai câu lục bát
trước khi vào bài hát nói, một bài hát nói có 11 cầu. Đào Nương vừa hát
phải vừa nhịp phách theo tiếng hát.
Tiếng hát trong ca trù có đặc điểm là ngân dài không mấy khi đều
đặn, thường láy lên, láy xuống. Khi bắt giọng vào hát, ả đào ít khi bắt vào
tiếng chính ngay mà bắt ở tiếng dưới lên hay ở trên xuống. Khi chuyển từ
tiếng nọ sang tiếng kia thì ngân dần dần lên hay dần dần xuống khi ngân
thì dùng âm “y” hay “ư” thay cho ầm chính cua tiếng hát. Giọng hát khi
lên cao thì lấy xương cuống mũi làm chỗ cho tiếng hát vang lên. Do vậy,
khi đào nương ngâm miệng nhưng vẫn ngân được. Đây là điểm rất độc
đáo và cũng rất khó khi hát ca trù.

Hát ca trù là hát một loại âm nhạc bác học, rất khó. Để học được các
cung chính và các biến cung của ca trù, đào nương khơng có bộ ký âm
pháp (giống như các nốt nhạc bây giờ) để học mà phải học “ca đàn” tức là
đàn bằng miệng cho đúng làn điệu của các cung.
Hát ca trù đòi hỏi người đào nương phải sử dụng tồn bộ hơi trong,
hơi hật ngồi. Hát khơng bao giờ há to miệng để giữ hơi được lâu. Miệng
lúc nào cũng như mím chặt, tiếng hát nào cũng từ trong cổ họng phát ra
mà vẫn to, vẫn rõ để người ở xã cũng nghe thấy.
Có hai lối hát: hát khuôn và hát hàng hoa. Hát khuôn là hát theo
khuôn bậc, nắn nót từng chữ, luyến láy một cách cơng phu, tròn vành rõ
15


chữ. Hát hàng hoa là hát theo tính cách tài tử, ít chú trọng về khn bậc
nhưng vẫn hay nhờ vào tính phóng khống, sáng tạo.
Đào nương dù hát khn hay hát hàng hoa cũng phải đảm bảo các
tiêu chuẩn nh sau đây:
-Hát hay là phải đảm bảo 8 yếu tố
Quan: tiếng hát ăn nhịp với đàn, phách.
Xuyến: hát tròn trĩnh, mượt mà, vững vàng.
Dằn: tiếng hát tròn và đều
Thét: tiếng vút cao như suố vút lên cao
Khn: tiếng trịn phẳng, đúng khn bậc.
Rấy: tiếng hát rền, trịn
Diệu: tiếng hát tự nhiên, linh hoạt
Vỡi: tiếng hát cao vút, trong sáng.
-Hát kém là măc các lỗi như:
Lơi: hát chệch, sau nhịp đàn- phách.
Ngang: hát không đúng cung bậc.
Cản: sai bằng trắc trong chữ của (bài) câu hát.

Chăn: hát thấp, không lên cao được
Hụt: hát trước nhịp
Sa: hát sau nhịp.
4. Gõ phách
Phách được ví như tiếng hát thứ hai của đào nương. Đào nương vừa
hát phải vửa gõ phách giữ nhịp cho tiếng hát.
Cổ phách cấu tạo đơn giản gồ bàn phach bằng tre, hai lá phách dẹt
cầm ở tay phải tạo nên âm thanh dẹt và một lá phách tròn cầm ở tay trái
tạo nên âm thanh tròn. Phách tròn và dẹt đều làm từ gỗ. Phách ca trù khác
tất cả các loại phách khác ở chỗ, nó khơng chỉ có nhiệm vụ gõ nhịp mà đã
đạt tới mức “luyến láy” như tiếng hát để diễn tả cảm xúc trong bài hát.
Phách được chia ra các loại: phách rung (đánh lúc đầu khi đào
nương còn ngâm nga chưa vào phách) Phách dóc (đánh theo từng khổ hát)
16


phách hơi (đánh làm mự cho hơi hát) pháh lá đầu (đánh làm mực cho hơi
hát). Hát khoan thì đánh phach khoan, hát mau thì đánh phách mau. Tiếng
phach vf tiếng hát phải hoà quyện kết hợp với nhau một cách hài hoà, linh
hoạt. Chỉ cần nghe tiếng phách cũng có thể biết trình độ người hát.
5. Gẩy đàn
Đàn đáy là nhạc cụ chính dùng cho kép hát gẩy đàn khi ả đào hát.
Đàn đáy có cần dài 1m20 và có 3 dây to nhỏ khác nhau: dây đàn (to) dây
trung (vừa) dây tiểu (nhỏ). Nói về mối quan hệ hoà tấu giữa cây đàn đáy,
tiếng phách và tiếng hát, nhạc sĩ Nguyễn Xn Khốt đã viết “khi hồ tấu
thì đàn ghìm với giọng hát, nhưng tiết tấu lại đan chặt chẽ với phách”.
Nhận xét đó quả đã nói hết cái tinh tế, tài tình trong tinh hoa hát ca trù.
Trước hết đàn và phách phải quyện chặt với nhau Tuy khác mạch
khi đánh phách, gảy đàn nhưng điệu đàn và điệu phách ln đồng một ý
nghĩa.

Đàn cũng có 5 khổ: sòng đàn, khổ giữa, khổ rải lá đầu, sòng đàn
cùng với tiếng hát luyến láy của đào nương, tiếng đàn cũng phải hoà
quyện theo để làm “ban tấu” cho bài hát. Một nguyên tắc phải đảm bảo
khi đàn - hát là tiếng đàn và tiếng hát là một, khi hát dứt lời thì đàn cũng
vừa im tiếng.
Khi đàn, người kép phải vừa kết hợp bấm vào phím đàn vừa phải
nhấn sâu xuống ở những phím cao cho dây đàn căng ra, tiếng đàn nhờ thế
mới cao vút lên thành tiếng. Cái tài hoa của người nghệ sĩ chính là biết
kết hợp một cách nhuần nhuỵ giữa nhấn và gẩy đàn làm sao để đưa lời hát
bay lên quyến rũ, huyền ảo. Gẩy đàn ở mức tinh vi khiến người nghe thấy
nó như tiếng hát mềm dẻo, mà hết sức tỉ mỉ.
Cũng như hát, đàn có hai lối, đàn khn và đàn hàng hoa. Đàn
khuôn gẩy nhân nha (chữ dùng của Ngô Linh Ngọc) từng tiếng một đảm
bảo các quy tắc chặt chẽ về âm luật, nhịp điệu. Đàn hàng hoa thf gảy một
cách phóng túng đầy sáng tạo theo cảm hứng của người đàn. Dù vậy, đàn

17


và phách vẫn phải đảm bảo kết hợp chặt chẽ với nhau phục vụ tốt nhất
cho tiếng hát.
6. Điệu múa khi hát ca trù
Các điệu múa của ca trù có nhiều loại nhưng nhìn chung đều mang
đặc điểm là nhịp múa có tốc độ chậm. Các động tác khoan thai, mềm mại
mang dáng vẻ các thục nữ chốn khuê các.
Hiện nay có rất nhiều tư liệu nói tới nguồn gốc của các điệu múa
trong ca trù. Tuy nhiên hầu hết đều hướng vào giả thiết múa ca trù có
nguồn gốc từ điệu múa “bài bông” ở miền Nam. Múa “bài bông” tức là
múa tận hoa” - “bài” là từng trận, “bơng” là hoa. Theo đó, mỗi bài múa
phải từ 8 người trở lên vừa hát vừa múa sắp xếp thành từng hàng. Y phục

của ả đào nghiêm chỉnh và khá sặc sỡ, đầu đội hoa - họ bước tới trong lúc
chân này chạm chân kia rất khoan thai, nhịp nhàng. Đây là cách phổ biến
nhất tỏng hát ca trù và chỉ dùng trong đại lễ ở cung đình, tế lễ lớn.
Ngồi điệu bài bơng, trong ca trù cịn các loại múa khác như: múa
giả bợm gái say, bợm gái tỉnh - ả đào vừa hát vừa là bộ ông sư cụ người đi
săn.
7. Đánh trống chầu trong hát ca trù
Trống chầu có nhiệm vụ quan trọng trong một bài hát trù. Cụ thể,
ngoài đánh trống phải đảm nhiệm việc ngắt mạch câu văn, khổ phách,
khen câu thơ hay.
Người đánh trống cũng chính là người cầm chầu. Đây là điểm độc
đáo nhất trong nghệ thuật ca trù. Bời vì người đánh trống, hồ tấu cùng
đàn, phách và tiếng hát khơng phải là nhạc cơng mà chính là người khách
mắt tiền th đàn hát. Do đó, người cầm chầu vừa phải là người am hiểu
nghệ thuật ca trù , vừa phải là người có trình độ văn hố, hiểu văn
chương. Trong lối hát cửa đình, người cầm chầu đánh trống lớn là tiên chỉ
hay những người có chức sắc trong làng. Ở ca qn hay thính phịng nhỏ,
người cầm chầu đa dạng hơn gồm quan lại, công chức, nhà nho… Hầu hết

18


họ phải là người có hiểu biết về âm nhạc, sành nghe hát và phải biết phép
tắc đánh trống để đảm bảo tiệc hát thành cơng.
Có 5 phép đánh trống (ký hiệu: tam (o) chát (+)).
-Chính diện: + 0 + : dùng vào những câu bằng phẳng
-Xuyên tâm: 0+0 : dùng đầu câu thứ 4 và thws 8
- Lạc nhạn: 00+: dùng vào những câu trầm ngâm
-Quán châu: ++0: dùng vào các khổ hơ
-Thượng mã: +00: dùng vào các khổ dịn, xếp.

Trình tự đánh trống được phân khá rõ. Trước khi đào kép đến đánh
sơ cổ - tòng cổ - trung cổ. Tịng cổ có 3 tiếng khoan 2 tiếng nhặt. Trung
cổ thì một tiếng khoan 2 tiếng nhặt. Khi đào kép đến thì đánh thói cổ thói
cổ có 2 tiếng đều, không khoan không nhặt. Tiếng đánh vào tang trống gọi
là “cắc”, tiếng trên mặt trống là “tùng”. Quan viên đánh 12 tiếng cắc để
gọi kép, 9 tiếng “tùng” để bảo kép, lên dây đàn rì dùng 2 tiếng tùng liên
tiếp để giục đào kép bắt đầu khi hết bài hýat, đánh 5, 6 hay 7 tiêng cắc để
kết thúc bài.
Qui tắc đánh trống chầu cũng được định ra rất chặt chẽ. Từ cách
thức cầm ra, đánh trống đến thưởng đàn, thưởng hát đều có quy định rõ
ràng. Người cầm chầu khơng bao giờ để trống trước mặt mình mà đặt
chếch sang trái, cách đầu gối rái khoảng 20cm. Roi trống phải cầm một
cách nhẹ nhàng, ngửa bàn tay giỏ roi lên rồi đảo úp bàn tay đập roi xuống
mặt trống. Trước khi đánh trống phải đè một phần bàn tay trái xuóng mặt
trống để thử độ căng - chùng của trống. Nếu mặt trống tốt thì đánh lối
“phóng diện” (tức là không bịt mặt trống”. Nếu mặt trống trùng hay quá
căng thì đè bàn tay trái lên mặt trống để đánh. Tuyệt đối không dùng roi
trống đánh thử lên mặt trống Trống đánh không được phát ra các âm thanh
lập cập do dự hay hấp tấp.
Cách thưởng đàn, thưởng hát trong ca trù qua tiếng trống khá độc
đáo. Khi đào nương hát trong câu hát mà có chữ gì hay, người cầm cầu sẽ
gõ “cắc” để thưởng chữ. Gặp chữ hay mà đánh “cắc” trúng vào chữ ấy thì
19


gọi là “đánh kịp”, đánh sau chữ hay thì gọi là chậm, vừa sắp đến chữ hay
mà người cầm chầu đoán trước mà gõ “cắc” trước thế là đánh gấp. Người
cầm chầu phải tránh đánh ngay vào tiếng hát, đánh lấp tiếng hát của ả
đào, sẽ làm khán giả không nghe được. Lối đánh đó gọi là trống lấp khẩu.
Trong bài hát, nếu có chữ hay nhưng mà câu hát đang đi liền nhau, khơng

có chỗ cách nhau mà điểm trống vào được thì sẽ chỉ gõ “cắc” vào chữ ấy
hai ba tiếng (gọi là cắc lèo).
Như vậy, nghệ thuật ca trù là một loại hình nghệ thuật bác học. Để
thẩm thấu hết giá trị cũng như nghệ thuật trình diễn của nó cần phải có
một trình độ hiểu biết âm nhạc nhất định. Học được nghệ thuật hát ca trù
là có một q trình khổ luyện, dày cơng tìm tịi, sáng tạo của người nghệ
sĩ. Chính bởi tính bác học đó mà loại hình này ngày xưa chỉ phục vụ cho
các bậc văn nhân tài tử, những người sành nghe hát. Ngày nay, các điệu
hát ca trù còn lưu lại khoảng 50 điệu song hát được các điệu đó đúng âm
luật, nhịp điệu lại có rất ít nghệ nhân. Đây là một vấn đề cần quan tâm để
lưu giữ những giá trị đặc sắc của nghệ thuật ca trù.

20


KẾT LUẬN
Trải qua thời gian, theo dòng truyền thuyết, chúng ta thấy rằng ca
trù ln gắn bó số phận mình với lịch sử dân tộc. Hơn hết thảy, ca trù là
tếng nói đích thực của đời sống tinh thần của người dân. Là một sinh hoạt
âm nhạc gắn với nghi lễ long trọng ở đền miếu, ca trù là niềm thành kính
thiêng liêng của quần chúng. Là một thú chơi tao nhã, ca trù là tiêng nói
cao sang khống đạt của đời sống tâm hồn con người trước chiều sâu thăm
thẳm khôn cùng của đời sống.
Bởi vậy, phục hồi và phát huy ca trù là một việc làm rất cần thiết và
có ý nghĩa trong các sinh hoạt lễ hội truyền thống, trong việc giữ gìn bản
sắc văn hố dân tộc, trong việc làm phong phú đời sống tinh thần của con
người trong xã hội công nghiệp ngày nay. Bằng nhiều con đường, các nhà
chức trách đã cố gắng bảo tồn và phát huy giá trị của ca trù thông qua các
liên hoan ca trù toàn quốc, bồi dưỡng thế hệ kế cận. Hoạt động hát ca trù
ở các làng quê vốn là cái nôi của ca trù vẫn đang được giữ gìn và nhân

rộng. Việc tuyên truyền cho lớp trẻ về giá trị của ca trù là một việc làm
cần thiết để bảo tồn nghệ thuật ca trù giữa dòng chảy hối hả và sự du
nhập của các dòng âm nhạc ngoại lai.
Chúng ta đều biết ca trù hiện nay đang đứng bên bờ vực thẳm. Nếu
so với quan họ thì ca trù quá mai một. Số nghệ nhân hát ca trù chỉ đếm
trên dầu ngón tay. Có hơn 40 làn điều thì nghệ nhân giỏi lắm cũng chỉ
thuộc 10 điệu. Ca trù mới chỉ bắt đầu hồi sinh qua một số dự án gần đây.
Cả một nền âm nhạc bác học truyền thống đang mai một. Đó là câu hỏi
đặt ra cho tất cả chúng ta về trách nhiệm với cả ông cha và thế hệ mai
sau?

21



×