Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Su phan hoa cac mien tu nhien Viet Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.24 KB, 5 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>SỰ PHÂN HOÁ CÁC MIỀN TỰ NHIÊN VIỆT NAM</b>



Sự phân hoá tự nhiên lãnh thổ Việt Nam thành các thể tổng hợp tự nhiên các cấp là một đặc điểm cơ
bản của tự nhiên Việt Nam.


Sự phân hố này được biểu hiện rõ nét trong khơng gian và theo thời gian giữa các mùa trong năm. Sự
phân hoá của tự nhiên Việt Nam chịu sự chi phối đồng thời của các quy luật địa đới và phi địa đới được biểu
hiện rất rõ nét thông qua sự phân hố theo vĩ độ (cịn gọi là sự phân hố Bắc – Nam), sự phân hố theo kinh
độ (cịn gọi là sự phân hố Đơng - Tây) và sự phân hố theo độ cao (cịn gọi là sự phân hố theo đai cao).


<b>I. SỰ PHÂN HỐ THEO VĨ ĐỘ</b>


Nước ta nằm hồn tồn ở vùng nội chí tuyến thuộc bán cầu Bắc, trải dài gần 150<sub> vĩ tuyến và nhích về phía</sub>
chí tuyến Bắc hơn là về phía xích đạo.


Tuy vậy, sự phân hoá theo vĩ độ chỉ trở nên rất rõ ràng vào thời kì mùa đơng khi mà gió mùa đơng bắc
hoạt động mạnh ở miền Bắc làm giảm sút nhanh chóng tính chất nhiệt đới. Có thể nói gió mùa Đơng Bắc đã
làm cường điệu thêm sự phân hoá bắc nam và được biểu hiện rõ rệt nhất trong chế độ nhịêt.


Có thể nhận biết sự phân hoá theo vĩ độ của tự nhiên nước ta theo 2 đới tự nhiên với ranh giới là đèo
Hải Vân vắt ngang qua dãy núi Bạch Mã ở khoảng vĩ độ 160<sub>B.</sub>


<b>1. Đới rừng nhiệt đới gió mùa (cịn gọi là đới rừng chí tuyến gió mùa)</b>


<i>Vị trí, giới hạn</i>: Bao gồm Bắc Bộ cho đến miền Trung Trung Bộ từ các tỉnh biên giới phía bắc đến đèo
Hải Vân.


<i>Đặc điểm</i>: Tổng nhiệt độ trung bình năm từ 75000<sub>C đến 9300</sub>0<sub>C. Nhiệt độ trung bình năm dưới 25</sub>0<sub>C,</sub>
nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất có thể xuống dưới 200<sub>C, nhiệt độ thấp nhất có thể xuống dưới 10</sub>0<sub>C.</sub>
Mùa đơng (nhiệt độ trung bình tháng dưới 200<sub>C) kéo dài 3 đến 5 tháng. Thảm thực vật với rừng tự nhiên có</sub>
nhiều lồi có nguồn gốc phương bắc, có độ cao trung bình khoảng 30m.



Đới rừng nhiệt đới gió mùa có thể phân chia thành hai á đới:


<i><b>1.1. Á đới rừng nhiệt đới gió mùa có mùa đơng lạnh, khơ</b></i>


- <i>Vị trí, giới hạn:</i> Trải dài từ Bắc Bộ cho đến Bắc Trung Bộ từ các tỉnh biên giới phía Bắc đến đèo
Ngang ở vĩ độ 180<sub>B.</sub>


- <i>Đặc điểm:</i> Có đến ba tháng nhiệt độ trung bình xuống dưới 180<sub>C, có lượng mưa nhỏ hơn lượng bốc</sub>


hơi (hoặc P < 2T, trong đó P là lượng mưa trung bình tháng, T là nhiệt độ trung bình tháng). Ở miền núi cao
và các tỉnh biên giới phía Bắc cịn có tháng nhiệt độ xuống dưới 150<sub>C. Ở những nơi có địa hình khuất gió và</sub>
ở sâu trong nội địa thường có tới trên ba tháng khô.


<i><b>1.2. Á đới rừng nhiệt đới gió mùa khơng có mùa đơng lạnh và khơ rõ rệt</b></i>


+ Vị trí, giới hạn: Nằm ở miền Trung Trung Bộ từ đèo Ngang ở vĩ độ 180<sub>B đến đèo Hải Vân ở vĩ độ</sub>
160<sub>B.</sub>


+ Đặc điểm: Khơng cịn tháng lạnh dưới 180<sub>C nhưng vẫn chưa vượt quá 20</sub>0<sub>C và khơng cịn tháng khơ.</sub>
Lượng mưa trung bình năm lớn hơn độ bốc hơi. Khi bị ảnh hưởng mạnh của gió mùa Đơng Bắc vẫn có thể
có những ngày rét, nhiệt độ có thể xuống thấp trên dưới 100<sub>C và khi có gió Tây khơ nóng hoạt động cũng</sub>
thường xuất hiện thời tiết khơ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i>Vị trí, giới hạn</i>: Bao gồm tồn bộ phần cịn lại của lãnh thổ từ phía nam đèo Hải Vân trở vào cho đến
mũi Cà Mau.


<i>Đặc điểm</i>: Tổng nhiệt độ trung bình năm từ 93000<sub>C đến trên 10.000</sub>0<sub>C. Nhiệt độ trung bình năm trên</sub>
250<sub>C, khơng có tháng nào nhiệt độ xuống dưới 20</sub>0<sub>C. Vì vậy, khí hậu của đới này nóng quanh năm, khơng</sub>
có mùa đông lạnh và nhiệt độ thấp nhất ở các vùng núi cao cũng đạt trên 100<sub>C. Thảm thực vật rừng tự nhiên</sub>


chủ yếu thuộc họ Dầu có nguồn gốc từ Malaixia – Inđônêxia, các cây thân gỗ cao to tới 40 – 50m.


Đới rừng á xích đạo gió mùa có thể phân chia thành hai á đới:


<i><b>- </b>Á đới rừng á xích đạo gió mùa khơng có mùa khơ rõ rệt:</i>Á đới này nằm ở phía Bắc của Nam Trung


Bộ từ đèo Hải Vân cho tới bãi biển Sa Huỳnh ở khoảng vĩ độ 140<sub>30</sub>/<sub>B. Đặc điểm của á đới này là có nền</sub>
nhiệt độ cao, quanh năm nóng. Trong năm chỉ có khoảng từ 2 - 3 tháng khơ ở vùng thấp cịn ở vùng núi hầu
như khơng có tháng khơ.


- <i>Á đới rừng á xích đạo gió mùa có mùa khơ rõ rệt, kéo dài</i>: á đới này nằm ở bộ phận còn lại của lãnh
thổ từ vĩ độ 140<sub>30</sub>/<sub>B trở vào cho đến mũi Cà Mau. Đặc điểm của á đới này là có nền nhiệt độ cao, quanh</sub>
năm nóng, có mùa khơ kéo dài từ 4 – 6 tháng, trong đó có những tháng hạn (P < T). Ngoài thảm thực vật
rừng thường xanh, ở miền núi và ở các nơi có độ ẩm lớn, đã xuất hiện rừng rụng lá, rừng thưa, xa van cây
bụi và trng gai. Tình trạng khơ hạn thường xun xảy ra vì có lượng mưa thấp hơn lượng bốc hơi rất
nhiều.


<b>II. SỰ PHÂN HỐ THEO KINH ĐỘ</b>


Sự phân hố theo kinh độ ở nước ta do hai yếu tố phi địa đới đồng thời kết hợp và tác động, đó là điều
kiện kiến tạo - địa mạo và hoạt động của chế độ gió mùa.


Trên lãnh thổ Việt Nam có hai đơn vị cấu trúc kiến tạo lớn là nền Hoa Nam, Bắc Việt Nam và địa máng
Đông Dương với ranh giới phân chia là đứt gãy sông Hồng.


Từ hai đơn vị cấu trúc kiến tạo này, trải qua lịch sử phát triển lâu dài của lãnh thổ đã hình thành nên các
dãy núi chính, khá cao và có hai hướng chính là hướng Tây Bắc - Đơng Nam ở Tây Bắc Bộ, Bắc và Trung
Trung Bộ và hướng vòng cung ở Đông Bắc Bộ và Nam Trung Bộ.


Nước ta hàng năm lại chịu sự chi phối chặt chẽ của chế độ gió mùa: Mùa hạ là gió mùa tây nam và mùa


đơng là gió mùa Đơng Bắc. Sự kết hợp của chế độ gió mùa với các hướng cấu trúc sơn văn chủ yếu trên đã
dẫn đến hệ quả là trên lãnh thổ nước ta có sự phân hố theo hướng Đông – Tây khá rõ rệt:


- <i>Về mùa đơng </i>trong khi ở khu vực phía đơng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ chịu ảnh hưởng mạnh của gió


mùa Đơng Bắc nên rất lạnh và khơ thì ở Tây Bắc do có địa hình chắn nên bớt lạnh hơn. Ngay ở miền Đơng
Bắc Bộ, khu vực phía tây của dãy núi cánh cung sông Gâm cũng bớt lạnh hơn và ẩm hơn so với khu vực
phía đơng.


<i>- Về mùa hạ,</i> gió mùa Tây Nam hoạt động mạnh làm cho ở Tây Bắc mùa hạ đến sớm hơn và gây hiệu


ứng phơn với khu vực phía đơng dãy núi Trường Sơn.


Chính dãy núi Trường Sơn đã tạo nên một ranh giới khí hậu tự nhiên khác hẳn giữa hai sườn đông và
sườn tây. Trong khi mùa hạ mưa tầm tã ở sườn tây Trường Sơn thì ở sườn đơng cịn nắng hạn và ngược lại
vào thời kì cuối năm mưa rất lớn ở sườn đơng Trường Sơn thì ở phía tây Trường Sơn lại bước vào thời kì
khơ hạn.


Sự phân hố Đơng – Tây đã làm cho thiên nhiên Việt Nam phân hoá thêm đa dạng và phức tạp và biểu
hiện rất rõ trong một phạm vi hẹp, giữa hai bên sườn của cùng một dãy núi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Nước ta là một nước có nhiều đồi núi, song chủ yếu là đồi núi thấp, đại bộ phận lãnh thổ nước ta có độ
cao dưới 1000m. Tính chất đai cao chỉ thể hiện rõ ở những vùng núi có độ cao tương đối lớn và mang tính
địa phương vì cịn lệ thuộc vào vị trí, hướng núi, hướng sườn.


Ngun nhân chính gây nên sự phân hố theo độ cao là có sự giảm nhiệt độ theo độ cao với độ giảm
nhiệt độ khoảng 0,60<sub>C mỗi khi lên cao 100m. Theo độ cao, ở Việt Nam có thể phân biệt được ba đai cao là</sub>
đai nhiệt đới gió mùa chân núi, đai á nhiệt đới gió mùa trên núi và đai ơn đới trên núi.


<b>1. Đai nhiệt đới gió mùa chân núi ở độ cao từ 0m đến 600m</b>



Đặc điểm của Á đai này có tổng nhiệt độ trung bình năm trên 75000<sub>C và mùa hạ nóng (nhiệt độ trung</sub>
bình tháng trên 250<sub>C). Có hệ số tương quan nhiệt ẩm K = R/0,1t (R là lượng mưa trung bình năm, t là tổng</sub>
nhiệt độ trung bình năm) biến thiên từ khô (K < 1), hơi khô (K = 1 – 1,5) đến hơi ẩm (K = 1,5 – 2) và ẩm (K
> 2).


Trong đai này, căn cứ vào chế độ nhiệt lại có thể phân chia thành 3 á đai:


- <i>Á đai nhiệt đới gió mùa chân núi có độ cao dưới 100m</i>: Thuộc Á đai này, trong khi ở miền nam quanh
năm nóng, có nhiệt độ trung bình tháng trên 250<sub>C thì ở miền Bắc vẫn có mùa đơng lạnh với một số tháng có</sub>
nhiệt độ trung bình dưới 180<sub>C.</sub>


- <i>Á đai nhiệt đới gió mùa chân núi có độ cao từ 100 - 300m</i>: Thuộc á đai này, ở miền Nam số tháng


nóng đã giảm đi, trong khi đó ở miền Bắc có một số nơi có mùa đơng rét (nhiệt độ trung bình tháng dưới
150<sub>C).</sub>


- <i>Á đới nhiệt đới gió mùa chân núi có độ cao từ 300 - 600m</i>: Thuộc á đai này, ở miền Nam số tháng


nóng chỉ cịn từ 2 – 5 tháng, đa số có nhiệt độ trung bình tháng từ 20 – 250<sub>C, trong khi đó ở miền Bắc đã có</sub>
mùa đơng rét ở nhiều nơi.


<b>2. Đai á nhiệt đới gió mùa trên núi ở độ cao từ 600 – 2600m</b>


Á đai nà<i>y </i>có tổng nhiệt độ trung bình năm trên 45000<sub>C, có mùa hè mát (nhiệt độ từ 20 – 25</sub>0<sub>C) và có độ</sub>
ẩm cao với tương quan nhiệt ẩm (từ hơi ẩm đến ẩm). Trong đai này, căn cứ vào đặc điểm sinh thái của thảm
thực vật tự nhiên có thể phân chia thành 3 á đai:


- <i>Á đai á nhiệt đới gió mùa trên núi có độ cao từ 600 đến 1000m</i>: Á đai này mang tính chất chuyển tiếp
từ đai nhiệt đới gió mùa chân núi sang đai á nhiệt đới gió màu trên núi. Ở miền Bắc có thể quan sát thấy ở


độ cao 900m đất Feralít đỏ vàng, một số lồi thực vật nhiệt đới có biên độ sinh thái rộng như táu, sến. Ở
miền Nam, á đai này khơng cịn tháng nào nhiệt độ trên 250<sub>C, có nhiều lồi nhiệt đới song cũng đã bắt đầu</sub>
xuất hiện một số lồi á nhiệt đới và ơn đới như dẻ, re.


- <i>Á đai á nhiệt đới gió mùa trene núi có độ cao từ 100 đến 1600m</i>: Đây là Á đai mang tính chất á nhiệt
đới gió mùa trên núi điển hình với khí hậu mát, ẩm, loại đất mùn alít đỏ vàng là chủ yếu, các loài thực vật á
nhiệt đới chiếm ưu thế như dẻ, re, thơng.


- <i>Á đai á nhiệt đới gió mùa trên núi có độ cao từ 1600 đến 2600m</i>: á đai này mang tính chất chuyển


tiếp từ đai á nhiệt đới trên núi sang đai ôn đới trên núi. Ở đây, mùa hạ tương đối mát mẻ, mùa đơng lạnh
nhưng ít khi có băng tuyết. Thảm thực vật vẫn mang tính chất á nhiệt đới rõ rệt.


<b>3. Đai ơn đới gió mùa trên núi ở độ cao trên 2600m</b>


Đai này có phạm vi nhỏ, chủ yếu tập trung ở dãy núi cao Hoàng Liên Sơn với các đỉnh núi cao trên dưới
3000m. Ở đây tổng nhiệt độ trung bình năm đã xuống dưới 45000<sub>C, quanh năm rét, mùa đông nhiệt độ</sub>
xuống dưới 50<sub>C, thường hay xảy ra tuyết rơi, lượng mưa đã giảm đi rõ rệt. Chiếm ưu thế là các lồi thực vật</sub>
ơn đới như đỗ qun, lãnh sam, thiết sam và các rừng tre trúc lùn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Trong sự phân hố của tự nhiên Việt Nam cịn có một biểu hiện nữa rất rõ nét, đó là có sự diễn biến
theo thời gian của các cảnh quan tự nhiên cũng như của các thành phần tự nhiên. Các loại hình thời tiết, diễn
biến của dịng chảy trong năm, các trạng thái vật hậu của thảm thực vật tự nhiên và cây trồng... cho thấy
thiên nhiên nước ta có nhịp điệu mùa rất đặc sắc.


Có thể xác định tính mùa của một số yếu tố khí hậu quan trọng nhất và qua đó chi phối tính mùa của các
thành phần khác của tự nhiên cũng như cảnh sắc diện mạo của các cảnh quan tự nhiên ở nước ta.


<b>1. Mùa nóng và mùa lạnh</b>



Mùa nhiệt ở nước ta chịu tác động sâu sắc của chế độ cán cân bức xạ và chế độ gió mùa. Mùa nóng được
xác định là mùa có các tháng có nhiệt độ trung bình tháng trên 250<sub>C. Mùa nóng ở miền Bắc kéo dài tới 4 – 5</sub>
tháng, ở Nam Trung Bộ (Ninh Thuận, Bình Thuận) và Nam Bộ quanh năm là mùa nóng. Ở các miền đồi núi
thấp dưới 1000m, mùa nóng rút ngắn lại và lên đến độ cao trên 1000m không cịn mùa nóng nữa. Nếu tính
theo trị số trung bình tháng của tháng lạnh nhất không xuống dưới 200<sub>C làm chỉ tiêu cho khí hậu nhiệt đới thì</sub>
ở mức từ vĩ độ 160<sub>B trở xuống hồn tồn là khí hậu nhiệt đới, quanh năm nóng, khơng có mùa đơng lạnh.</sub>


Mùa lạnh được xác định là các tháng có nhiệt độ trung bình tháng xuống dưới 200<sub>C (theo dự báo thời</sub>
tiết khi có nhiệt độ dưới 150<sub>C là rét đậm, dưới 13</sub>0<sub>C là rét hại). Mùa lạnh ở Bắc Bộ kéo dài 4 – 5 tháng, ở</sub>
Bắc Trung Bộ từ 1 – 3 tháng, ở miền Nam hồn tồn khơng có tháng lạnh. Ở các vùng núi trung bình và núi
cao, mùa lạnh kéo dài hơn do bắt đầu sớm hơn và kết thúc muộn hơn.


<b>2. Mùa mưa và mùa khô</b>


Mùa mưa ở nước ta thông thường diễn ra trong bối cảnh có sự thích ứng của chế độ hồn lưu với điều
kiện địa hình. Mùa mưa được xác định bởi các tháng có lượng mưa trung bình  100mm. Trên phần lớn
lãnh thổ nước ta, mùa mưa diễn ra vào thời kì gió mùa Tây Nam (hoặc Đơng Nam) hoạt động mạnh, thường
từ tháng 5 đến tháng 10.


Mùa mưa ở Bắc Bộ diễn ra từ thượng - hạ tuần tháng 4 đến trung tuần tháng 9 và hạ tuần tháng 10.
Lượng mưa lớn nhất thường xảy ra vào tháng 7, tháng 8. Ở Tây Nguyên, cực Nam Trung Bộ và Nam Bộ
kéo dài từ cuối tháng 4, đầu tháng 5 cho đến thượng tuần hoặc trung tuần tháng 11, ba tháng có lượng mưa
cao nhất là các tháng 8, 9 và 10. Riêng ở duyên hải Trung Bộ có lượng mưa khá lớn vào 3 – 4 tuần trước và
sau tiết Tiểu mãn (còn gọi là mưa Tiểu mãn và gây nên tình trạng lũ Tiểu mãn) sau đó là thời kì khơ nóng
do hiệu ứng phơn kéo dài từ đầu hoặc giữa tháng 6 cho đến tháng 8. Sau tháng 8, mùa mưa bắt đầu và kéo
dài tới tháng 11, 12 thậm chí tới tháng 1. Đối với khu vực duyên hải Bắc Trung Bộ, lượng mưa lớn nhất vào
tháng 9, tháng 10, còn đối với khu vực duyên hải Nam Trung Bộ lượng mưa lớn nhất vào tháng 10, tháng 11.


Mùa khơ là thời kì ít mưa, cả về lượng mưa và số ngày mưa. Tuy vậy, mùa khô ở Bắc Bộ bớt khắc
nghiệt và gay gắt hơn ở Tây Nguyên và Nam Bộ do lượng mưa trong những tháng khơ tuy ít nhưng vẫn lớn


hơn ở Nam Bộ và đặc biệt có nhiều ngày có mưa phùn và sương mù đã làm lượng bốc hơi giảm đi rõ rệt.


Mùa khô ở Tây Nguyên và Nam Bộ thường rất sâu sắc và điển hình do rất thiếu nước và điều kiện nắng
nóng càng làm cho lượng bốc hơi tăng nhanh. Đối với miền nam nước ta với khí hậu nóng nắng quanh năm
khá đồng nhất trên tồn lãnh thổ thì mùa mưa và mùa khơ tại các khu vực và thời điểm diễn ra khác nhau
chính là sự phân hoá tự nhiên rõ rệt nhất.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Căn cứ vào sự phân tích tác động đồng thời của các quy luật địa đới, phi địa đới và quy luật diễn biến
theo thời gian diễn ra trên đất nước ta, căn cứ vào các chỉ tiêu của các cấp trong hệ thông phân vị, Vũ Tự
Lập đã phân chia lãnh thổ tự nhiên Việt Nam thành ba miền địa lí tự nhiên là:


- Miền Bắc và Đơng Bắc Bắc Bộ;
- Miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ;
- Miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ.


Trong mỗi miền do những đặc điểm chi tiết về địa chất và địa hình như độ cao, hướng núi, hình dáng
sườn, nham cấu tạo mà có thể chia ra thành một số khu địa lí tự nhiên. Cụ thể là miền Bắc và Đông Bắc Bắc
Bộ có 3 khu là các khu Việt Bắc, khu Đông Bắc và khu Đồng bằng Bắc Bộ. Miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ
có 5 khu là các khu Hồng Liên Sơn, Tây Bắc, Hồ Bình - Thanh Hố, Nghệ-Tĩnh và Bình - Trị - Thiên. Miền
Nam Trung Bộ và Nam Bộ có 5 khu là các khu Kon Tum - Nam Ngãi, Tây Nguyên - Bình Phú, Cực Nam
Trung Bộ, Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ.


Gần đây cũng có một số ý kiến thống nhất với 3 miền địa lí tự nhiên nói trên, song có điều chỉnh lại một
số khu địa lí tự nhiên cho phù hợp hơn với đặc điểm phân hoá của tự nhiên và cách khai thác, sử dụng hợp
lý lãnh thổ:


- <i>Miền Đơng Bắc Bộ gồm có ba khu</i>: Việt Bắc, Đơng Bắc và Đồng bằng Bắc Bộ.


- <i>Miền Tây Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ gồm bốn khu</i>: Tây Bắc, Bắc Trường Sơn, đồng bằng Thanh – Nghệ



– Tĩnh và đồng bằng Bình – Trị – Thiên.


- <i>Miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ gồm bốn khu</i>: Nam Trường Sơn (bao gồm cả Tây Nguyên), duyên hải


</div>

<!--links-->

×