Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Cổ phần hóa các doanh nghiệp ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.82 KB, 27 trang )


Cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nớc ở vịêt nam
I) Mở đầu
Công cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nớc ở việt Nam hiện đang bớc sang một
giai đoạn mới. Tính hiệu quả kinh tế và tiến trình hội nhập quốc tế, gia nhập WTO
vào năm 2005 đã ép buộc Việt Nam phải có sự cải cách căn bản về lý luận, t tởng
và về tổ chức thực hiện đối với quá trình cải cách các doanh nghiệp nhà nớc ở Việt
Nam. Do đó việc ra đời và phát triển của các công ty cổ phần là một yêu cầu
khách quan đối với quá trình phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế ở Việt Nam.
Trong những năm gần đây cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trờng thì
tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc đã đợc đẩy mạnh. Trong những thời
gian đầu tiến trình cỏ phần hoá thực hiện ỳ ạch; lấy ví dụ trong khoảng thời gian từ
năm 1996 đến 1998 mới chỉ có khoảng 30 công ty đợc cổ phần hoá nhng đến
những năm sau này do có các chính sách của chính phủ tác động nên tiến trình cổ
phần hoá đợc đẩy mạnh. Bên cạnh những kết quả đạt đợc về chơng trình cổ phần
hoá trong những năm gần đây, tiến trình cổ phần hoá ở nớc ta vẫn còn gặp rất
nhiều vớng mắc cần phải tháo gỡ,khắc phục. Muốn phát triển kinh tế và hội nhập
kinh tế thành công Việt nam cần phải nỗ lực thực hiện cổ phần hoá các doanh
nghiệp nhà nớc. Trớc mắt vấn đề xây dựng về mặt lí luận và chơng trình thực hiện
cổ phần hoá doanh nghiệnp nhà nớc đợc coi là một trong những vấn đề trọng tâm
trong nội dung các cuộc hội nghị Trung ơng đảng của các khoá gần đây. Vấn đề
cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc hiện nay, đợc xem là một vấn đề trọng tâm cuả
chơng trình hoạt động của Đảng và nhà nớc trong thời kỳ đổi mới .

1
II) Những vấn đề lý luận liên quan đến cổ phần hoá
1) Tính tất yếu khách quan của việc xuất hiện hình thức công ty cổ phần và xí
nghiệp cổ phần trong chủ nghĩa t bản:
Nh chúng ta đã biết công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp trong đó các cổ
đông góp vốn kinh doanh và chiụ trách nhiệm trong phạm vi phần góp vốn của
mình trên cơ sở tự nguyện để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm


thu lợi nhuận.
Công ty cổ phần ra đời từ cuối thế kỷ XVI ở các nớc phát triển tính đến nay
lịch sử phát triển cũng mấy trăm năm. Công ty cổ phần là sự hình thành một kiểu
tổ chức doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trờng. Nó ra đời không nằm trong ý
muốn chủ quan của bất cứ lực lợng nào mà là một quá trình kinh tế khách quan mà
chủ yếu là do các nguyên nhân dới đây .
Quá trình xã hội hoá t bản, tăng cờng tích tụ và tập trung t bản ngày càng cao
là nguyên nhân hàng đầu thúc đẩy công ty cổ phần ra đời.
Trong nền sản xuất hàng hoá, quy luật giá trị tác động mạnh sự cạnh tranh
khốc liệt giữa các nhà t bản, buộc họ tìm cách cải tiến nâng cao trình độ kỹ thuật,
nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất nhằm sao cho giá trị hàng hoá
cá biệt của mình thấp hơn hoặc bằng mức giá trị hàng hoá xã hội thì mới có thể
tồn tại và phát triển. Điều này thờng chỉ những nhà t bản lớn quy mô sản xuất ở
mức độ nhất định thì mới có khả năng để trang bị kỹ thuật hiện đại, làm cho năng
suất lao động tăng lên, do đó mới có thể dành thắng lợi trong cạnh tranh. Còn nhà
t bản nào có giá trị hàng hoá cá biệt cao hơn mức giá trị hàng hoá xã hội thì sẽ bị
thua lỗ và điều này tất yếu sẽ dẫn tới phá sản. Để tránh những kết cục bi thảm có
thể xảy ra trong cạnh tranh, các nhà t bản nhỏ vừa tự tích tự vốn để mở rộng quy
mô sản xuất và hiện đại hoá các trang thiết bị, tạo điều kiện nâng cao năng suất
lao động, hạ giá thành sản phẩm. Song đây là biện pháp hết sức khó khăn và hơn
nữa việc tích tụ vốn phải trong thơì gian dài mới có thể thực hiện đợc. Một lối
thoát nhanh hơn, có hiệu quả hơn là các nhà t bản vừa và nhỏ có thể thoả hiệp và
liên minh với nhau tập trung các t bản cá biệt của họ lại thành một t bản lớn để đủ

2
sức cạnh tranh và dành u thế với các nhà t bản khác. Từ hình thức tập trung vốn
nh vậy các công ty cổ phần dần hình thành và phát triển ngày càng mạnh mẽ.
Một nguyên nhân nữa cũng đóng vai trò quan trọng trong sự xuất hiện của các
công ty cổ phần và xí nghiệp cổ phần đó là sự ra đời và phát triển của nền đại công
nghiệp-cơ khí, của tiến bộ kỹ thuật tạo động lực thúc đẩy công ty cổ phần ra đời

và phát triển.
Nh chúng ta đã biết mặc dù ra đời từ rất sớm song phải đợi đến cuối thế kỷ
XIX thì các công ty cổ phần mới phát triển một cách rộng rãi và trở nên phổ biến
trong các nớc t bản. Công ty cổ phần hình thành và phát triển mạnh mẽ, phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất và yêu cầu khắc nghiệt
của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trờng.
Sự phát triển lực lợng sản xuất và do trình độ kỹ thuật ngày càng phát triển
cao, đòi hỏi t bản cố định tăng lên, và vì thế quy mô tối thiểu mà một nhà t bản
phải có để có thể kinh doanh dù trong điều kiện bình thờng cũng ngày càng lớn
hơn. Ví dụ muốn xây dựng một nhà máy luyện thép, một hệ thống đờng sắt, một
nhà máy điện... thì phải có một số t bản tơng đối lớn. Một nhà t bản cá biệt không
thể đáp ứng đợc số vốn đó, phải có sự liên minh , tập trung nhiều t bản cá biệt còn
đang phân tán trong nền kinh tế bằng cách góp vốn để cùng kinh doanh. Với sự
tập trung vốn nh vậy đã hình thành các công ty cổ phần.
Mặt khác, do kỹ thuật ngày càng phát triển, làm xuất hiện ngày càng nhiều
ngành, lĩnh vực kinh doanh và những mặt hàng mới có hiệu quả hơn, đã thu hút
các nhà t bản đổ xô vào các ngành, lĩnh vực và ác mặt hàng mới này, bằng cách di
chuyển t bản từ các ngành, lĩnh vực và các mặt hàng kinh doanh kém hiệu quả.
Điều này càng gây ra nhiều khó khăn cho các t bản khi thực hiện di chuyển vốn,
bởi vì họ không thể bỗng chốc xoá bỏ ngay các xí nghiệp cũ để thu hồi vốn sang
xây dựng ngay một doanh nghiệp mới, mà chỉ có thể rút bớt và chuyển dần từng
bộ phận mà thôi.Quá trình đó có thể kéo dài do vậy họ có thể mất thời cơ. Mâu
thuẫn nh vậy chỉ đợc giải quyết bằng cách các nhà t bản cá biệt liên minh với
nhau, cùng nhau góp vốn để xây dựng các doanh nghiệp lớn. Cùng chung mục

3
đích đi tìm lợi nhuận siêu ngạch, họ đã gặp nhau và nhanh chóng thoả thuận, cùng
nhau góp vốn thành lập các công ty cổ phần để cùng kinh doanh.
Một lý do khác cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng đó là sự phân tán t
bản để ránh rủi ro trong cạnh tranh và tạo thế mạnh về quản lý.

Sản xuất càng phát triển, trình độ kỹ thuật càng cao, cạnh tranh càng khốc liệt
thì sự rủi ro trong kinh doanh, đe doạ phá sản đối với các nhà t bản càng lớn. Để
tránh gặp phá sản, các nhà t bản phải phân tán t bản của mình để tham gia vào
nhiều t bản khác biệt, nghĩa là tham gia đầu t kinh doanh ở nhiều ngành, nhiều
lĩnh vực, nhiều công ty khác nhau. Với cách làm này, một mặt các nhà t bản tìm
cách chia sẻ rủi ro. Nhng mặt khác do cùng đợc một số đông ngời cùng tham gia
quản lý, tập trung đợc nhiều trí tuệ của nhiều ngời, công ty cổ phần hạn chế sự rủi
ro trong kinh doanh. Cho đến nay, công ty cổ phần là hình thức tổ chức quản
lý sản xuất khinh doanh đợc các nhà t bản a chuộng nhất nên nó đợc hình thành và
ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Đồng thời sự phát triển rộng rãi của chế độ tín dụng tạo động lực thúc đẩy
công ty cổ phần ra đơì và phát triển.
Nh chúng ta đã biết tín dụng là quan hệ kinh tế dới hình thức quan hệ tiền tệ
cho ngời khác vay trong một thời gian nhất định để thu hồi một món lời gọi là lợi
tức.
Mặt khác sự phát triển của nền kinh tế hành hoá, dẫn đến sự ra đời và phát
triển các loại thị trờng, trong đó có thị trờng vốn. Nguyên nhân ra đời và phát triẻn
của thị trờng vốn là do đặc điểm của sự vận động vốn tiền tệ trong quá trình sản
xuất, và lu thông không ăn khớp nhau về không gian và thời gian, làm nảy sinh
tình hình có doanh nghiệp đã tiêu thụ đợc hàng hoá nhng cha đợc sử dụng- tức là
có khoản tiền tạm thời nhàn rỗi. Ngợc lại, có những doanh nghiệp cha tiêu thụ đợc
đợc hàng hoá nhng lại có nhu cầu về vốn cho sản xuất, kinh doanh...Trong các
tầng lớp dân c có một bộ phận không sử dụng hết ngay số tiền kiếm đợc mà để sử
dụng các mục đích khác nhau của đời sống- tức là có một khoản tiền nhàn rỗi; ng-
ợc lại một bộ phận dân c khác lại cần tiền cho nhu cầu chi tiêu... tức là thiếu vốn.
Đối với doanh nghiệp và dân c có tiền nhàn rỗi, với t cách là ngời chủ sở hữu tiền

4
tệ họ muốn tiền của mình sẽ sinh lời; ngợc lại đối với các doanh nghiệp và dân c
cần sử dụng số tiền trong một thời gian nhất định, họ cũng sẵn sàng chấp nhận trả

những món tiền lời nhất định. Mâu thuẫn này đợc giải quyết thông qua hình thức
tín dụng. Sự ra đời và phát triển của tín dụng là kết quả tất yếu của quá trình phát
triển kinh tế hàng hoá.
Trong nền kinh tế thị trờng, tín dụng có vai trò to lớn trong qúa trình cạnh
tranh, làm giảm chi phí lu thông và đẩy nhanh quá trình tái sản xuất. Tín dụng có
vai trò động lực thúc đẩy việc hình thành và phát triển các công ty cổ phần, bởi vì:
Việc phát hành cổ phiếu trong công ty cổ phần không thể nào thực hiện đợc
nếu không có thị trờng tiền tệ phát triển, nếu không có những doanh nghiệp và dân
c có nhu cầu sử dụng vốn tiền tệ trên thị trờng.
Thực tiễn ra đời và phát triển của các công ty cổ phần trên thế giới đều chứng
tỏ việc phát hành cổ phiếu chỉ đợc thực hiện thông qua các ngân hàng, đôi khi còn
do bản thân ngân hàng tiến hành. Chẳng hạn ở Đức năm 1986, trong ngành công
nghiệp điện lực có 39 công ty cổ phần. Hầu hết các công ty này đều nảy sinh từ sự
giúp đỡ của các ngân hàng.
Nh vậy về lịch sử cũng nh về logic, tín dụng có trớc khi thành lập công ty cổ
phàn, tín dụng là cơ sở trực tiếp, là động lực thúc đẩy công ty cổ phần ra đời và
phát triển.
Tuy nhiên công ty cổ phần không đồng nhất với hình thức tín dụng. Khi mua
cổ phiếu ngời mua không phải là ngời cho vay của công ty cổ phần mà là ngời chủ
chung của công ty đó. Nhng trên thực tế, việc bỏ tiền ra mua cổ phiếu chẳng qua
là chuyển hoá vốn đó thành vốn sinh lợi tức. Đứng về mặt kinh tế thuần tuý, thì
không hề coi chủ cổ phần với ngời chủ cho vay là một, ngời chủ cho vay đòi hỏi
phải có ngời vay và đối lập với ngời vay. Chủ cổ phần không đòi hỏi phải có ngời
vay. Trái lại, sự xuất hiện công ty cổ phần có nghĩa là thủ tiêu ngời vay và thay
vào đó bằng ngời quản lý, ngời giám đốc làm thuê... Lợi tức của vốn cho vay cũng
phải có lợi nhuận doanh nghiệp và đối lập với lợi nhuận doanh nghiệp với t cách là
thu nhập do quyền sở hữu mang lại; lợi tức cổ phiếu mà chủ cổ phiếu nhận đợc có
nghĩa là toàn bộ lợi nhuận chuyển hoá thành hình thái lợi tức. Nh vậy công ty cổ

5

phần là một loại hình doanh nghiệp mới: một loại hình doanh nghiệp phát triển
trên cơ sở tín dụng.
Công ty cổ phần là một kiểu tổ chức doanh nghiệp có nhiều u thế. Vì thế các
Nhà nớc t bản độc quyền ngay khi ra đời đã coi trọng loại hình này. Nhiều nhà t
bản độc quyền đã sử dụng các tổ chức tài chính, quan hệ tài chính, công cụ tài
chính đa dạng để tạo khả năng thực tế trong việc huy động vốn dới hình thức phát
hành cổ phiếu, trái phiếu, đồng thời sử dụng quyền lực trong việc tạo ra môi trờng
kinh tế, yếu tố tâm lý cũng nh cơ sở pháp luật thuận lợi thúc đẩy nhanh quá trình
cổ phần hoá, tạo điều kiện ra đời các công ty cổ phần. Với các tác động này, công
ty cổ phần đã phát triển mạnh và thịnh hành trong giai đoạn CNTB độc quyền Nhà
nớc và trở thành hiện tợng kinh tế phổ biến trong các nớc có nền kinh tế thị trờng
phát triển. Ví dụ ở Mỹ đến năm 1939 số công ty cổ phần chiếm 51,7% tổng số các
tổ chức kinh doanh công nghiệp và chiếm 92,6% giá trị tổng sản lợng công
nghiệp.
Nh vậy công ty cổ phần là quá trình kinh tế khách quan do đòi hỏi của sự hình
thành và phát triển kinh tế thị trờng, nó là kết quả tất yếu của quá trình tập trung t
bản. Nó diễn ra một cách mạnh mẽ cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp
cơ khí và sự tự do cạnh tranh dới CNTB. Mác khẳng định:"Ngày nay sự thu hút lẫn
nhau giữa các nhà t bản riêng lẻ và xu hớng tập trung tỏ ra mạnh hơn bao giờ hết".
Từ đây đánh dấu một thời kỳ phát triển rộng khắp của các công ty cổ phần, đồng
thời nó trở thành một mô hình tổ chức sản xuất phổ biến ở hầu hết các nớc trên thế
giới.
2) Lịch sử ra đời của các công ty cổ phần
Giai doạn 1: Giai đoạn mầm mống
Ban đầu chỉ là các xí nghiệp TBCN riêng lẻ, dần dần phát triển thành doanh
nghiệp góp vốn. Năm 1553 công ty cổ phần đầu tiên ở Anh với sổ vốn 600 bảng
Anh và đợc thành lập thông qua phát hành 240 cổ phiếu.
Đến những năm 70 của thế kỷ XVII nớc Pháp ban hành sắc lệnh về công ty. Năm
1773 tại Luân Đôn Anh hình thành sở giao dịch chứng khoán và năm 1801 chính


6
thức đợc thành lập, ở Mĩ là năm 1877. Hình thái đầu tiên của công ty cổ phần là
doanh nghiệp góp vốn hoặc doanh nghiệp nhóm bạn. Đặc điểm của công ty cổ
phần thời kỳ này là: vốn cổ phần thờng do thơng nhân đứng ra tổ chức đợc hình
thành ở lĩnh vực thu lợi nhuận lớn. Ngành công nghiệp là một trong những ngành
đầu tiên mà có công ty cổ phần ra đời.
Giai đoạn II: giai đoạn hình thành
Sau một thời gian dài phát triển, đến nửa đầu thế kỷ XIX các công ty cổ phần
chính thức ra đời với tổ chức và hình thức phân phối riêng. Giữa thế kỷ XVIII đến
đâù thế kỷ XIX công ty cổ phần xuất hiện trong nhng ngành quan trọng và cần có
sự huy động vốn khá lớn nh trong ngành giao thông vận tải đờng sông, đờng sắt.
Có thể nói trong giai đoạn này nớc Anh là nớc có nền công nghiệp phát triển nhất
thế giới do vậy đây cũng đợc coi là một trong những nớc đi đầu trong việc hình
thành các công ty cổ phần đặc biệt trong lĩnh vực thơng nghiệp. Do vậy nớc Anh
là nớc có nhiều công ty cổ phần nhất trong giai đoạn này.
Tuy nhiên, trớc những năm 70 của thế kỷ XIX công ty cổ phần còn ít, hình
thức cha đa dạng, quy mô nhỏ.
Giai đoạn III: Giai đoạn phát triển
Sau những năm 70 của thế kỷ XIX, công ty cổ phần phát triển rất nhanh ở tất
cả các ngành, các nớc mở rộng quy mô. Các tổ chức độc quyền ra đời nh
xanhdican, tơrơt, các ten . Đồng thời với đó là sự hình thành các trung tâm tài
chính quốc tế, giao dịch chứng khoán.
ở nớc Anh vào năm 1910 có 20 sở giao dịch chứng khoán, năm 1930 có 86000
công ty cổ phần.
ở Mĩ năm 1909 có 22000 công ty cổ phàn, năm 1939 số công ty cổ phần
chiếm 51% trong tổng số các xí nghiệp.
Giai đoạn IV: Giai đoạn trởng thành
Các công ty cổ phần không chỉ ở trong 1 lãnh thổ quốc gia nhất định mà nó đ-
ợc đặt ở nhiều nơi trên thế giới hay còn gọi là các công ty đa quốc gia hay xuyên
quốc gia.


7
Bên cạnh đó các công ty cổ phần không chỉ thu hút những thơng nhân giàu có
mua cổ phần mà nó còn thu hút ngời công nhân mua cổ phần. Ngoài việc quy mô
đợc mở rộng ngày càng lớn thì cơ cấu tổ chức của các công ty cổ phần ngày càng
hoàn thiện, pháp luật ngày càng kiện toàn.
3) Sự cần thiết của việc hình thành các công ty cổ phần ở Việt Nam
Cổ phần hoá là chuyển đổi doanh nghiệp nhà nớc từ một chủ sở hữu duy
nhất(toàn dân) thành doanh nghiệp đa sở hữu theo đó tuỳ vị trí và tính chất cụ thể
của doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân mà nhà nớc gĩ vai trò chi phối hoặc
không cần giữ vai trò chi phối nữa.
Kinh tế thị trờng và sự hình thành các công ty cổ phần ở Việt Nam
Trong nền kinh tế thị trờng thì sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng
gay gắt , muốn đứng vững trên thị trờng đòi hỏi cần có số vốn lớn cho sản xuất thì
mới có khả năng tồn tại, phát triển trên thị trờng. Các doanh nghiệp Nhà nớc cũng
không thể tránh khỏi tình trạng này.
Nh chúng ta đã thấy các doanh nghiệp nhà nớc do trớc đây tất cả đều do Nhà
nớc bao cấp nên khi chuyển sang nền kinh tế thị trờng thờng làm ăn thua lỗ, kém
hiệu quả nên nhà nớc lại phải tiếp tục bỏ vốn vào để tránh khỏi tình trạng các
doanh nghiệp đó bị phá sản.
Nh vậy khi cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc sẽ giúp cho nguồn vốn tăng lên.
Bởi vì dù bán một phần tài sản doanh nghiệp bằng hình thức bán cổ phần, hoặc
gọi thêm vốn bằng hình thức phát hành cổ phiếu , thì vốn doanh nghiệp tăng lên
trong khi vốn hữu hình của doanh nghiệp vẫn còn nguyên đấy. Vốn tăng lên sẽ
giúp cho doanh nghiệp phát triển tài sản cố định và giúp cho phát triển cả vốn lu
động, càng cần thiết đối với doanh nghiệp đang làm ăn có hiệu quả. Đặc biệt
trong nền kinh tế thị trờng vốn đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển
sản xuất của doanh nghiệp.
Trong thực tiễn cổ phần hoá , vốn nhà nớc vẫn có thể tăng lên do định giá lại
tài sản doanh nghiệp theo giá thị trờng và giá cả của những thơng hiệu nổi tiếng.

Chẳng hạn trong 12 đơn vị của tổng công ty thủy tinh và gốm xây dựng thì giá trị
tài sản đợc đánh giá lại tăng thêm 22 tỷ đồng, giá trị của thơng hiệu là 37 tỷ đồng,

8
làm cho tổng vốn của nhà nớc tăng thêm 59 tỷ đồng. Đó là cha kể, nay tính đúng
giá cả quyền sở dụng đất thì vốn của nhà nớc còn tăng lên nhiều nữa.
Nh vậy để có thể huy động đợc nguồn vốn lớn mà không cần đến nguồn vốn
trợ cấp của nhà nớc thì cần phải cổ phần hoá, nhất là trong giai đoạn hịên nay nớc
ta đang bớc vào thời kỳ kinh tế thị trờng, nhu cầu vốn rất bức xúc.
Xuất phát từ yêu cầu cũng cố và nâng cao vai trò kinh tế của nhà nớc
Củng cố vai trò của doanh nghiệp nhà nớc- bộ phận rờng cột, năng động của
kinh tế nhà nớc, nhờ hiệu quả ngày càng cao của nó và lực lợng vật chất, tài chính
to lớn do nhà nớc chi phối đợc. Đây là mục đích bao trùm và cũng là hệ quả tất
yếu của các mục đích trên. Nếu bán, khoán, cho thuê, giải thể hoặc chuyển đổi
thành doanh nghiệp t nhân t bản chủ nghĩa thì không thuộc phạm trù "cổ phần
hoá" doanh nghiệp nhà nớc của ta. Trong trờng hợp cụ thể nhất định mà chuyển
đổi thành hợp tác, thì vẫn thuộc phạm trù "cổ phần hoá " doanh nghiệp nhà nớc
của ta. Trong trờng hợp cụ thể nhất định mà chuyển đổi thành doanh nghiệp hợp
tác, thì vẫn còn thuộc phạm trù "cổ phần hoá" và vẫn có thể chấp nhận đợc. Để
chơng trình cải cách doanh nghiệp nhà nớc đạt hiệu quả tốt nhất thì vấn đề tối u
nhất là cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nớc, vì khi doanh nghiệp cổ phần hoá
vẫn thuộc loại doanh nghiệp nhà nớc, vẫn bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nớc. Tuy nhiên, chúng ta có bài học kinh nghiệm sâu sắc không thể xây dựng chủ
nghĩa xã hội với tốc độ quá nhanh, vợt quá khả năng hiện tại của nền kinh tế, mà
phải có bớc đi vững chắc. Cho nên phơng án tốt nhất của chơng trình cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nớc là Nhà nớc nên giữ cổ phần chi phối trong các lĩnh vực,
những ngành, những khâu then chốt của nền kinh tế quốc dân để giữ quyền điều
tiết vĩ mô của nhà nớc đối với nền kinh tế và bảo đảm định hớng xã hội chủ
nghĩa. Cũng cần tránh tình trạng ở những nơi vốn kinh doanh có hiệu quả, lúc đầu
nhà nớc có tỷ lệ cổ phần chi phối, nhng về sau cứ giảm dần, đến mức không chi

phối nữa.
Nh vậy đây chính là phơng án tốt giúp cho nhà nớc có thể chi phối đợc trong
rất nhiều ngành then chốt quan trọng của đất nớc nhằm phát triển nớc ta đi theo
con đờng chủ nghĩa xã hội. Chính điều này giúp cho nhà nớc vừa quản lý đợc nền

9
kinh tế một cách có hiệu quả lại vừa có thể huy động đợc nguồn vốn lớn trong
kinh doanh và kinh nghiệm quản lý của những nhà kinh doanh giỏi, nhà kinh
doanh doanh nớc ngoài đồng thời lại khuyến khích đợc ngời lao động sản xuất.
Bên cạnh đó việc cổ phần hoá còn tạo nên động lực trực tiếp cho các nhà đầu t,
những ngời bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh. ở đây chủ sở hữu rất cụ thể, đó là
các cổ đông, lợi ích rất cụ thể đó là lợi tức của các cổ phần. Lợi tức cổ phần là
động cơ trực tiếp thôi thúc các cổ đông mà đại diện là hội đồng quản trị quan tâm
quản lý sản xuất kinh doanh có hiệu quả ngày càng cao. Lợi tức cổ phần hiện nay
thờng đạt 12%-15%, nghĩa là cao hơn mức lãi suất ngân hàng. Chính điều này đã
giúp cho ngời kinh doanh tích cực lao động.
Chính những điều trên đã dẫn tới 1 điều tất yếu là đảm bảo và mở rộng việc
làm, tăng thu nhập của ngời lao động trong doanh nghiệp, đảm bảo mục tiêu của
đất nớc là làm cho "dân giàu, nớc mạnh".
Nền kinh tế nớc ta đang trên con đờng đổi mới theo hớng kinh tế thị trờng có
sự điều tiết vĩ mô cuả nhà nớc, nên đòi hỏi cần rất nhiều nguồn lực tham gia vào
quá trình xây dựng và phát triển. Do đó việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà n-
ớc một mặt giúp cho việc huy động tối đa nguồn lực vốn và nguồn lực con ngời,
nhng vẫn không làm mất đi vai trò của nhà nớc. Trong nền kinh tế này nhà nớc
vẫn đóng vai trò chủ đạo. Nh vậy cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nớc là một
việc làm cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
II)Thực trạng cổ phần hoá các doanh nghiệp ở Việt Nam:
1) Mô tả quá trình diễn ra:
Từ đầu thập niên 90, Đảng và Nhà nớc ta đã đề ra chủ trơng cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nớc. Song cho đến nay, tiến trình cổ phần hoá diễn ra rất chậm. Trong

suốt 6 năm (1992-1998) chỉ có 120 doanh nghiệp nhà nớc đợc cổ phần hoá.
Phải đến hội nghị lần thứ chín của Ban chấp hành Trung ơng khoá IX thì chủ
trơng xúc tiến nhanh tiến độ và đẩy mạnh hơn công việc đó. Thực tiễn cổ phần hoá
đang bắt đầu sôi động, và diễn ra khá nhanh .

10

×