Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về nguồn gốc và bản chất của nhận thức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.56 KB, 13 trang )

MỤC LỤC

1


A. MỞ ĐẦU
Trong lịch sử Triết học đã xuất hiện nhiều quan niệm khác
nhau về Nhận thức. Nhận thức là một quá trình biện chứng diễn
ra rất phức tạp, bao gồm nhiều giai đoạn, trình độ và hình thức
khác nhau. Song đây chính là con đường biện chứng của q
trình nhận thức: “đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”. Đối với chủ nghĩa
duy vật biện chứng sẽ dựa trên việc kế thừa những yếu tố hợp
lý, phát triển một cách sáng tạo và được minh chứng bởi những
thành tựu khoa học – kỹ thuật, của thực tiễn xã hội. Chủ nghĩa
duy vật biện chứng là hạt nhân lý luận triết học của thế giới
khoa học Mác –Lê Nin. Để tìm hiểu sâu sắc nhằm làm sáng tỏ
hơn vấn đề này, nhóm em xin lựa chọn tìm hiểu đề tài: “Quan
điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về nguồn gốc và
bản chất của nhận thức” để nghiên cứu và phân tích.
B. NỘI DUNG
I. Lý luận chung về nhận thức của chủ nghĩa duy vật
biện chứng
1. Khái niệm nhận thức
Nhận thức là q trình phản ánh biện chứng, tích cực, tự
giác và sáng tạo thế giới khách quan vào trong đầu óc con
người trên cơ sở thực tiễn.
2. Chủ thể, khách thể và đối tượng của nhận thức
2.1. Chủ thể của nhận thức



Chủ thể nhận thức là con người, bởi cá thể người có khả
năng phản ánh vào ý thức của mình những đối tượng hiện thực.
Nhận thức chỉ được thực hiện bởi những cá nhân cụ thể hiện
thực, ngoài họ ra khơng thể có tư duy nhận thức khoa học.
Nhưng, đó khơng là con người chỉ với những thuộc tính sinh học
xác định, mà trước hết là con người xã hội, con người trong
hoạt động thực tiễn sinh động. Con người chỉ nhận thức khi là
thành viên của xã hội, bởi các hình thái ý thức xã hội đã ảnh
hưởng rất căn bản đến nội dung nhận thức. Và do vậy, chủ thể
của tư duy, nhận thức cũng không thể là trí tuệ nhân tạo có khả
năng, giống như con người, lưu giữ và xử lý thơng tin. Bởi vì, tư
duy nhận thức là q trình phản ánh tích cực hiện thực bằng
các khái niệm, các phán đoán, các lý thuyết khoa học. Mà điều
đó có nghĩa là, nó ln địi hỏi sự hiện hữu của chủ thể đặt ra
các mục đích, xác định các phương tiện đạt tới chúng, tiến hành
việc chỉnh sửa nhận thức trên cơ sở thực tiễn. Cịn máy (trí tuệ
nhân tạo) thì khơng thể thực hiện các thao tác như con người
làm, và vì vậy khơng thể là chủ thể của nhận thức. Nếu có
chăng nữa thì cũng khơng phải là máy nhận thức, mà là con
người với sự trợ giúp của máy (cũng như suy nghĩ không phải là
bộ não sinh học với tư cách một dạng vật chất có tổ chức cao
nhất, mà con người suy nghĩ với sự trợ giúp của bộ não).
2.2. Khách thể và đối tượng của nhận thức
Khách thể nhận thức là những đối tượng vật chất hay tinh
thần mà hoạt động nhận thức của chủ thể hướng đến. Khách
thể nhận thức khơng đồng nhất với tồn bộ hiện thực vật chất
hay tinh thần. Chỉ có những lĩnh vực hiện thực đã được thu hút
vào hoạt động nhận thức của chủ thể mới trở thành khách thể.



Trình độ phát triển của khoa học và nhận thức của con người
càng cao bao nhiêu, sẽ càng rộng hơn các lĩnh vực được khoa
học nghiên cứu, và do vậy, càng nhiều hơn các khách thể nhận
thức.
II. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về
nguồn gốc và bản chất của nhận thức
1. Nguồn gốc của nhận thức.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhận
thức là quá trình phản ảnh thế giới khách quan vào đầu óc con
người nên không đồng nhất với ý thức nhưng nhận thức lại là
hình thức phát triển quan trọng hơn, cao hơn của ý thức. Do đó
nguồn gốc của nhận thức cũng bao gồm nguồn gốc tự nhiên và
nguồn gốc xã hội.

1.1. Nguồn gốc tự nhiên của nhận thức.
Nguồn gốc tự nhiên của nhận thức được thể hiện qua sự
hình thành của bộ óc con người và hoạt động của thế giới
khách quan cùng với mối quan hệ giữa con người với thế giới
khách quan. Trong đó, thế giới khách quan tác động đến bộ óc
con người tạo ra quá trình phản ánh sáng tạo, năng động.
Về bộ óc người: Nhận thức là thuộc tính của một dạng vật
chất có tổ chức cao là bộ óc người, là chức năng của bộ óc, là
kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc. Bộ óc càng hồn
thiện, hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc càng hiệu quả,
nhận thức của con người càng phong phú và sâu sắc. Điều này
lý giải tại sao q trình tiến hóa của lồi người cũng là q trình


phát triển năng lực của nhận thức, của tư duy và tại sao đời
sống tinh thần của con người bị rối loạn khi sinh lý thần kinh

của con người không bình thường do bị tổn thương bộ óc.
Về mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo
ra quá trình phản ánh năng động, sáng tạo: Quan hệ giữa con
người với thế giới khách quan là quan hệ tất yếu ngay từ khi
con người xuất hiện. Trong mối quan hệ này, thế giới khách
quan, thông qua hoạt động của các giác quan đã tác động đến
bộ óc người, hình thành nên quá trình phản ánh. Phản ánh là sự
tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất
khác trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng.
Những đặc điểm được tái tạo ở dạng vật chất chịu sự tác động
bao giờ cũng mang thông tin của dạng vật chất tác động.
Những đặc điểm mang thông tin ấy được gọi là cái phản ánh.
Cái phản ánh và cái được phản ánh không tách rời nhau nhưng
không đồng nhất với nhau. Cái được phản ánh là những dạng cụ
thể của vật chất, còn cái phản ánh chỉ là đặc điểm chứa đựng
thông tin của dạng vật chất đó (cái được phản ánh) ở một dạng
vật chất khác (dạng vật chất nhận sự tác động).
Phản ánh là thuộc tính của tất cả các dạng vật chất, song
phản ánh được thể hiện dưới nhiều hình thức. Những hình thức
này tương ứng với q trình tiến hóa của vật chất.
- Phản ánh vật lý, hóa học là hình thức thấp nhất, đặc trưng
cho vật chất vơ sinh. Phản ánh vật lý, hóa học thể hiện qua
những biến đổi về cơ, lý, hóa khi có sự tác động qua lại lẫn
nhau giữa các dạng vật chất vô sinh. Hình thức phản ánh này


mang tính thụ động, chưa có định hướng lựa chọn của vật nhận
tác động.
- Phản ánh sinh học là hình thức phản ánh cao hơn, đặc
trưng cho giới tự nhiên hữu sinh. Tương ứng với quá trình phát

triển của giới tự nhiên hữu sinh, phản ánh sinh học được thể
hiện qua tính kích thích, tính cảm ứng, phản xạ. Tính kích thích
là phản ứng của thực vật và động vật bậc thấp bằng cách thay
đổi chiều hướng sinh trưởng, phát triển, thay đổi màu sắc, thay
đổi cấu trúc…khi nhận sự tác động trong mơi trường sống. Tính
cảm ứng là phản ứng của động vật có hệ thần kinh tạo ra năng
lực cảm giác, được thực hiện trên cơ sở điều khiển của quá trình
thần kinh qua cơ chế phản xạ khơng điều kiện, khi có sự tác
động từ bên ngồi môi trường lên cơ thể sống.
- Phản ánh tâm lý là phản ứng của động vật có hệ thần kinh
trung ương được thực hiện trên cơ sở điều khiển của hệ thần
kinh qua cơ chế phản xạ có điều kiện.
- Phản ánh năng động sáng tạo là hình thức phản ánh cao
nhất trong các hình thức phản ánh, nó chỉ được thực hiện ở
dạng vật chất có tổ chức cao nhất, mà có tổ chức cao nhất
chính là bộ óc người. Phản ánh năng động, sáng tạo được thực
hiện qua quá trình hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người
khi thế giới khách quan tác động lên các giác quan của con
người. Đây là sự phản ánh có tính chủ động lựa chọn thơng tin,
xử lý thơng tin để tạo ra những thông tin mới, phát hiện ý nghĩa
của thơng tin. Q trình phản ánh sáng tạo năng động này
được gọi là nhận thức.
1.2. Nguồn gốc xã hội của nhận thức.


Nguồn gốc xã hội của nhận thức là lao động và ngôn ngữ.
Hai yếu tố này vừa là nguồn gốc, vừa là tiền đề của sự ra đời
nhận thức.
Lao động là q trình con người sử dụng cơng cụ tác động
vào giới tự nhiên nhằm thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với

nhu cầu của con người; là quá trình trong đó bản thân con
người đóng vai trị mơi giới, điều tiết sự trao đổi vật chất giữa
mình với giới tự nhiên. Đây cũng là quá trình làm thay đổi cấu
trúc cơ thể, đem lại dáng đi thẳng bằng hai chân, giải phóng
hai tay, phát triển khí quan, phát triển bộ não,… của con người.
Trong quá trình lao động, con người tác động vào thế giới khách
quan làm cho thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính,
những kết cấu, những quy luật vận động của nó, biểu hiện
thành những hiện tượng nhất định mà con người có thể quan
sát được. Những hiện tượng ấy, thông qua hoạt động của các
giác quan, tác động vào bộ óc người, thơng qua hoạt động của
bộ não con người, tạo ra khả năng hình thành nên những tri
thức nói riêng và ý thức nói chung.
Như vậy, sự ra đời của ý thức chủ yếu do hoạt động cải tạo
thế giới khách quan thơng qua q trình lao động.
Ngơn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thơng tin
mang nội dung nhận thức. Khơng có ngơn ngữ, nhận thức
khơng thể tồn tại và thể hiện.
Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Lao động
ngay từ đầu đã mang tính tập thể. Mối quan hệ giữa các thành
viên trong lao động nảy sinh ở họ nhu cầu phải có phương tiện
để biểu đạt. Nhu cầu này làm ngôn ngữ nảy sinh và phát triển


ngay trong q trình lao động. Nhờ ngơn ngữ con người đã
khơng chỉ giao tiếp, trao đổi mà cịn khái quát, tổng kết đúc kết
thực tiễn, truyền đạt kinh nghiệm, truyền đạt tư tưởng từ thế hệ
này sang thế hệ khác.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự
ra đời và phát triển của nhận thức là lao động. Sau lao động và

đồng thời với lao động là ngơn ngữ; đó là hai chất kích thích chủ
yếu làm cho bộ óc vượn dần dần chuyển hóa thành bộ óc người,
khiến cho tâm lý động vật dần dần chuyển hóa thành ý thức và
cao hơn là nhận thức.
2. Bản chất của nhận thức.
Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng đã tạo ra cuộc
cách mạng trong lý luận nhận thức. Bằng sự kế thừa những yếu
tố hợp lý, phát triển một cách sáng tạo và được minh chứng bởi
những thành tựu của khoa học, kỹ thuật, của thực tiễn xã hội,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên học thuyết biện chứng
duy vật về nhận thức.
Thứ nhất, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan,
độc lập đối với cảm giác, tư duy và ý thức của con người.
Thứ hai, thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của
con người. Khơng có cái gì là khơng thể nhận thức được, mà chỉ
có cái con người chưa nhận thức được nhưng sẽ nhận thức
được. Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan
bởi con người, là quá trình tạo thành tri thức trong bộ óc con
người về hiện thực khách quan. Nhờ có nhận thức, con người
mới có ý thức về thế giới, ý thức về cơ bản là kết quả của quá
trình nhận thức về thế giới. Thế giới vật chất tồn tại khách quan


ở ngoài và độc lập với ý thức của con người, tác động vào các
giác quan sinh ra cảm giác, từ đó đi tới hình thành ý thức. Con
người (cá nhân, nhóm người, giai cấp, dân tộc và cả nhân loại)
là chủ thể tích cực sáng tạo của nhận thức. Khi nhận thức, các
yếu tố của chủ thể như lợi ích, lí tưởng, tài năng, ý chí, phẩm
chất đạo đức,… đều tham gia vào quá trình nhận thức với
những mức độ khác nhau và ảnh hưởng đến kết quả nhận thức.

Còn khách thể nhận thức là một bộ phận nào đó của hiện thực
khách quan mà nhận thức hướng tới, nắm bắt, phản ánh, nó
nằm trong phạm vi tác động của hoạt động nhận thức. Do vậy,
khách thể nhận thức khơng đồng nhất hồn tồn với hiện thực
khách quan. Phạm vi của khách thể được mở rộng đến đâu là
tuỳ theo sự phát triển của nhận thức, của khoa học. Như vậy,
không chỉ chủ thể nhận thức mà cả khách thể nhận thức cũng
mang tính lịch sử - xã hội.
Thứ ba, nhận thức không phải là một hành động tức thời,
giản đơn, máy móc và thụ động, mà là một q trình biện
chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo. Quá trình phản ánh ấy diễn
ra theo con đường “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”. Đó cũng chính là
quá trình nhận thức đi từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết
nhiều, đi từ hiện tượng đến bản chất và từ bản chất kém sâu
sắc đến bản chất sâu sắc hơn. Tính sáng tạo của nhận thức
được thể hiện rất phong phú. Trên cơ sở những cái đã có, nhận
thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra
những cái khơng có trong thực tế. Tuy nhiên sáng tạo của nhận
thức là sáng tạo của sự phản ánh, bởi vì nhận thức bao giờ cũng
chỉ là sự phản ánh tồn tại. Vì vậy, trong lý luận nhận thức, cũng


như trong tất cả các lĩnh vực khác của khoa học, cần suy luận
một cách biện chứng. Nghĩa là đừng giả định nhận thức của
chúng ta là bất di bất dịch và có sẵn, mà phải phân tích xem sự
hiểu biết nảy sinh ra từ sự không hiểu biết như thế nào, sự hiểu
biết khơng đầy đủ và khơng chính xác trở thành đầy đủ hơn và
chính xác hơn như thế nào.
Thứ tư, coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của

nhận thức, là động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn
để kiểm tra chân lý.
Dựa trên những nguyên tắc cơ bản đó, chủ nghĩa duy vật
biện chứng khẳng định bản chất của nhận thức: nhận thức là sự
phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người, là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Tuy nhiên, không
phải cứ thế giới khách quan tác động vào bộ óc người là tự
nhiên sẽ trở thành nhận thức. Ngược lại, ý thức là sự phản ánh
năng động, sáng tạo về thế giới, do nhu cầu của việc con người
cải biến thế giới tự nhiên quyết định và được thực hiện thông
qua hoạt động lao động. Vì vậy, nhận thức là cái “vật chất được
đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi ở
trong đó”. Mức độ cải biến đến đâu hoàn toàn do chủ thể nhận
thức.
III. Các quan điểm khác về nguồn gốc, bản chất của
nhận thức
Bên cạnh những quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng về nguồn gốc, bản chất của nhận thức thì chủ nghĩa duy
tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình cũng có những quan điểm
khác về nhận thức.


Chủ nghĩa duy tâm không thừa nhận thế giới vật chất tồn
tại độc lập với ý thức, do đó khơng thừa nhận nhận thức là sự
phản ánh hiện thực khách quan. Theo chủ nghĩa duy tâm chủ
quan cho rằng tất cả mọi cái đang tồn tại đều là phức hợp
những cảm giác của con người. Do đó, nhận thức, theo họ,
chẳng qua là sự nhận thức cảm giác, biểu tượng của con người.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan coi nhận thức là sự "hồi tưởng
lại" của linh hồn bất tử về "thế giới các ý niệm" mà nó đã từng

chiêm ngưỡng được nhưng đã bị lãng quên, hoặc cho rằng nhận
thức là sự "tự ý thức về mình của ý niệm tuyệt đối". Chủ nghĩa
duy tâm khách quan mặc dù không phủ nhận khả năng nhận
thức thế giới, song coi nhận thức cũng không phải là sự phản
ánh hiện thực khách quan mà chỉ là sự tự nhận của ý niệm, tư
tưởng tồn tại ở đâu đó ngồi con người.
Khác với chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy
tâm khách quan, những người theo thuyết hoài nghi coi nhận
thức là trạng thái hoài nghi về sự vật và biến sự nghi ngờ về
tính xác thực của tri thức thành một nguyên tắc của nhận thức,
thậm chí chuyển thành nghi ngờ sự tồn tại của bản thân thế
giới bên ngoài. Đến thời kỳ cận đại, khuynh hướng này phủ
nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người hoặc hạn
chế ở cảm giác bề ngoài của sự vật.
Thuyết không thể biết lại phủ nhận khả năng nhận thức
thế giới. Đối với họ, thế giới không thể biết được, lý trí của con
người có tính chất hạn chế và ngồi giới hạn của cảm giác ra,
con người khơng thể biết được gì nữa. Quan điểm của thuyết
hồi nghi và thuyết không thể biết đã bị bác bỏ bởi thực tiễn và
sự phát triển của nhận thức loài ngườ


Đối lập với những quan niệm đó, chủ nghĩa duy vật siêu
hình thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người
và coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào
trong đầu óc của con người. Tuy nhiên, do sự hạn chế bởi tính
trực quan, siêu hình, máy móc mà chủ nghĩa duy vật trước Mác
đã coi nhận thức là sự phản ánh trực quan, đơn giản, là bản sao
chép nguyên xi trạng thái bất động của sự vật. Họ chưa thấy
được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Chính vì thế mà

C.Mác đã nhận xét rằng: "Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ
nghĩa duy vật từ trước tới nay kể cả chủ nghĩa duy vật của
Phoiơbắc là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận
thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ
khơng được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là
thực tiễn; không được nhận thức về mặt chủ quan".
Như vậy có thể nói, tất cả các trào lưu triết học trước
Mác đều quan niệm sai lầm hoặc phiến diện về nhận thức,
những vấn đề về lý luận nhận thức chưa được giải quyết một
cách khoa học, đặc biệt là chưa thấy được đầy đủ vai trò của
thực tiễn đối với nhận thức.
C. KẾT LUẬN
Qua tìm hiểu về Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng về nguồn gốc và bản chất của nhận thức, cho ta thấy rõ
hơn Nhận thức là một q trình phản ánh tích cực, tự giác và
sáng tạo thế giới khách quan và bộ óc con người trên cơ sở thực
tiễn nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới khách quan.
Bằng sự kế thừa những yếu tố hợp lý của các học thuyết đã có,
khái quát các thành tự khoa học, C.Mác và Ph. Ăngghen đã xây
dựng nên học thuyết biện chứng duy vật về nhận thức. Học


thuyết này ra đời đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lý luận
nhận thức vì đã xây dựng được những quan điểm đúng đắn về
bản chất của nhận thức.



×