Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Đề tài luận văn-Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Phú Thọ hiện nay.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (653.21 KB, 108 trang )

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Khi nói đến những thảm họa khốc liệt người ta thường nghĩ ngay
đến "thiên tai, địch họa". Nhưng có lẽ khơng có một cuộc chiến tranh tàn
khốc, một thảm họa thiên nhiên dữ dội nào lại gây ra cho con người một
nỗi đau dai dẳng, một sự tàn phá to lớn như nạn nghèo khổ đang diễn ra
một cách thầm lặng trên thế giới.
Ngày nay có khoảng 1/4 dân số thế giới (tương đương 1,5 tỷ người)
đang sống trong điều kiện cùng cực của nghèo khổ, không đủ khả năng đáp
ứng được những nhu cầu cơ bản. Hàng trăm triệu người đang sống quanh
giới tuyến nghèo khổ. Một nửa số dân trên thế giới đang bị phân biệt đối
xử, khước từ các cơ hội chỉ vì khác màu da. Thiệt thịi lớn nhất là trẻ em,
hàng triệu trẻ em không được đến trường, trong đó có 130 triệu trẻ em ở độ
tuổi tiểu học và 175 triệu trẻ em ở độ tuổi trung học cơ sở, hơn 1/3 số trẻ
em trên thế giới bị suy dinh dưỡng.
Có thể nói, nghèo đói đã diễn ra trên khắp các châu lục với những
mức độ khác nhau. Đặc biệt là ở các nước lạc hậu, chậm phát triển, nghèo
đói đang là một vấn đề nhức nhối, một thách thức đối với sự phát triển, hay
tụt hậu của một quốc gia.
Ở nước ta sau gần 15 năm đổi mới, nền kinh tế đang từng bước
khởi sắc và đã đạt được những thành tựu to lớn, đời sống của nhân dân đã
được cải thiện và nâng cao một bước (kể cả thành thị, nông thôn và miền
núi vùng sâu, vùng xa). Tuy nhiên cùng với xu thế phát triển đi lên của xã
hội, đã hình thành một bộ phận dân cư giàu lên và một bộ phận không nhỏ
rơi vào cảnh đói nghèo với khoảng cách ngày càng xa.
Đối với Việt Nam, mức độ nghèo khổ là khá cao, đặc biệt là các
vùng nông thôn, miền núi, hải đảo. Theo đánh giá của nhóm cơng tác các
1



chuyên gia Chính phủ cho thấy, 70% người nghèo của Việt Nam sống tập
trung tại 3 khu vực:
Miền núi phía Bắc: 28%; đồng bằng sông Cửu Long: 21% và miền
Bắc Trung Bộ là 18%.
Phú Thọ là một tỉnh thuộc miền núi phía Bắc mới được tái lập với
diện tích tự nhiên 3.506km2, dân số 1.290.000 người, mật độ dân số 370,6
người/km2. Hiện nay Phú Thọ vẫn là một tỉnh nghèo, có diện tích rộng,
người đơng, dân cư phân bố khơng đều, trình độ dân trí hạn chế, kết cấu hạ
tầng thấp kém, kinh tế phát triển chưa đồng đều giữa các vùng. Thu nhập
bình qn đầu người cịn thấp, tỷ lệ hộ đói nghèo của tỉnh cịn cao.
Vì vậy thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo (XĐGN) đang là vấn
đề cấp bách đặt ra cho tỉnh trong tiến trình hội nhập và phát triển. Chính
điều này đã làm cho việc nghiên cứu vấn đề XĐGN trở nên cấp thiết và tác
giả đã chọn "Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Phú Thọ hiện nay" làm
đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề XĐGN đã được nghiên cứu trên phạm vi cả nước, cũng như
ở một số tỉnh. Ở tỉnh Phú Thọ hiện cũng đã có hai đề tài:
Đề tài thứ nhất: "Những giải pháp về quản lý nhằm xóa đói giảm
nghèo ở nơng thôn Phú Thọ hiện nay" của tác giả Nguyễn Thị Hải.
Đề tài thứ hai: "Phát triển kinh tế với việc xóa đói giảm nghèo ở
huyện Thanh Sơn - Phú Thọ" của tác giả Sa Thị Quyết.
Ở đề tài thứ nhất, tác giả nghiên cứu vấn đề dưới giác độ quản lý
kinh tế để từ đó đưa ra những giải pháp về quản lý nhằm giải quyết vấn đề
đói nghèo ở khu vực nơng thơn của tỉnh.
Cịn ở đề tài thứ hai, chủ yếu tác giả đề cập vấn đề XĐGN kết hợp
với phát triển kinh tế trên phạm vi một huyện.
2



Việc đề cập vấn đề XĐGN dưới góc độ kinh tế chính trị, chỉ ra
được những đặc trưng nghèo đói của Phú Thọ, và từ đó nêu lên những giải
pháp kinh tế xã hội để giải quyết vấn đề đói nghèo thì chưa được đề cập
đến.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích: Luận văn làm rõ thực trạng và ngun nhân của tình
trạng đói nghèo của tỉnh Phú Thọ, đưa ra các giải pháp cơ bản nhằm thực
hiện mục tiêu XĐGN của tỉnh hiện nay.
Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có những
nhiệm vụ sau:
- Trình bày một số những quan niệm về nghèo đói một cách có hệ
thống và phân tích sự cần thiết khách quan phải thực hiện việc XĐGN,
đồng thời nêu ra một số kinh nghiệm của một số nước trong khu vực về
giải quyết vấn đề đói nghèo.
- Phân tích thực trạng tình hình đói nghèo của tỉnh Phú Thọ, chỉ ra
những nguyên nhân trực tiếp gây nên đói nghèo ở địa bàn tỉnh.
- Đưa ra những giải pháp cơ bản để giải quyết vấn đề XĐGN ở tỉnh
trong giai đoạn hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Luận văn chỉ nghiên cứu vấn đề XĐGN dưới góc độ kinh tế chính trị.
- Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng tình hình nghèo đói của
tỉnh Phú Thọ trong thời gian từ năm 1997 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng lý luận, phương
pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác -

3


Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống quan điểm đường lối phát triển

kinh tế - xã hội của Đảng.
- Trong q trình phân tích, luận văn vận dụng phương pháp phân
tích - so sánh, phương pháp hệ thống cấu trúc, kết hợp với phương pháp điều
tra và nghiên cứu báo cáo tổng kết cơng tác xóa đói, giảm nghèo của tỉnh Phú
Thọ.
6. Những đóng góp của luận văn
- Khái quát được những nhóm nguyên nhân cơ bản dẫn đến đói
nghèo của tỉnh Phú Thọ.
- Đưa ra được một số giải pháp có tính khả thi nhằm giải quyết từng
bước vấn đề đói nghèo của tỉnh Phú Thọ.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương, 6 tiết.

4


Chương 1
QUAN NIỆM VỀ ĐÓI NGHÈO
VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI XĨA ĐĨI GIẢM NGHÈO
TRONG Q TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

1.1. QUAN NIỆM VỀ ĐÓI NGHÈO VÀ XÓA ĐĨI GIẢM
NGHÈO
1.1.1. Quan niệm về đói nghèo
Xã hội lồi người đã phát triển trải qua nhiều nấc thang của lịch sử,
tương ứng với mỗi nấc thang đó là một trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất. Bằng hoạt động lao động sáng tạo, con người - chủ thể của lịch sử
xã hội - đã sử dụng lực lượng sản xuất hiện có để tác động vào giới tự
nhiên nhằm thỏa mãn các nhu cầu của mình. Trình độ lực lượng sản xuất

càng phát triển, năng suất lao động xã hội càng cao thì nhu cầu đáp ứng
ngày càng nhiều, càng phong phú. Ngược lại, năng suất lao động xã hội
thấp kém, trình độ lực lượng sản xuất lạc hậu, thì con người khơng thể đáp
ứng được những nhu cầu thiết yếu của mình như: ăn, mặc, ở, đi lại... và bị
rơi vào tình trạng đói nghèo.
1.1.1.1. Bản chất của đói nghèo
Trong các xã hội: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nơ lệ, phong
kiến, đói nghèo có ngun nhân chủ yếu và trước hết là do trình độ lực
lượng sản xuất còn thấp kém, sản phẩm thặng dư trong xã hội khơng nhiều.
Dưới xã hội phân chia giai cấp thì cịn thêm vào đó là tình trạng áp bức giai
cấp, nên quyền phân phối sản phẩm lao động làm ra thuộc về một số ít
người - về tay giai cấp thống trị. Xã hội phân chia thành hai cực đối lập,
trong đó "kẻ ăn chẳng hết, người lần khơng ra".
Bước sang xã hội tư bản chủ nghĩa gắn liền với nền sản xuất lớn và
nền đại công nghiệp hiện đại, đã tạo ra một năng suất lao động cao hơn hẳn
5


các xã hội trước và với một lực lượng sản xuất khổng lồ "bằng tất cả các
thế hệ trước cộng lại", đã mở ra khả năng to lớn để con người có thể đáp
ứng được các nhu cầu phát triển của mình. Tuy nhiên, do sự phân hóa và áp
bức giai cấp, do sự khác biệt về năng lực và cơ hội của các cá nhân, trong
xã hội này nghèo đói vẫn tồn tại song hành cùng với sự phát triển kinh tế xã hội.
Khi nghiên cứu, phân tích xã hội tư bản để chỉ ra những qui luật
vận động và phát triển của nó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đề cập một cách
khá tồn diện và sâu sắc tình cảnh nghèo đói và bị bóc lột đến cùng cực của
giai cấp vô sản và những người lao động làm thuê trong chủ nghĩa tư bản.
Tiêu biểu là các tác phẩm "Bản thảo kinh tế - triết học" (1844), "Tình cảnh
giai cấp công nhân Anh" và sau này là trong bộ "Tư bản".
Ở đây, hai ông đã mô tả cặn kẽ, tỷ mỷ tình cảnh của những người

nơng dân bị mất hết tư liệu sản xuất, bị xua ra thành phố, những người phụ
nữ và trẻ em bị vắt kiệt sức lao động trong các xưởng thợ... Họ góp phần
trở thành đội quân những người vô sản, là nạn nhân của sự bóc lột giá trị
thặng dư tương đối và tuyệt đối của các ông chủ tư bản.
"Những người công nhân đó bản thân khơng có chút tài sản gì đáng
kể và chỉ sống bằng tiền lương và hầu hết là luôn luôn chỉ vừa đủ ăn, cái xã
hội gồm những ngun tử rời rạc ấy hồn tồn khơng quan tâm đến họ, để
mặc cho họ tự lo lấy việc nuôi mình và ni gia đình nhưng lại khơng cấp
cho họ phương tiện để có thể thường xuyên và thật sự giải quyết những nhu
cầu ấy, cho nên mỗi người công nhân, thậm chí là cơng nhân giỏi nhất cũng
ln ln có thể bị mất việc, và do đó cũng sẽ khơng có ăn,..." [23, 418-419].
Sự bóc lột tàn bạo đó đã dẫn đến sự phân hóa xã hội thành hai cực
đối lập. Một cực tích lũy sự giàu có đến tột độ và một cực tích lũy sự bần
cùng nghèo khổ, bệnh tật, thất học...
"...Quy luật đó quyết định một sự tích lũy nghèo khổ tương ứng với
sự tích lũy tư bản. Như vậy tích lũy của cải ở một cực này đồng thời cũng
6


có nghĩa là tích lũy sự nghèo khổ, sự đau khổ của lao động, sự nô lệ, sự dốt
nát, sự cục cằn và sự truỵ lạc tinh thần ở cực đối lập, tức là ở phía giai cấp
sản xuất ra bản thân sản phẩm của mình với tư cách là tư bản" [24, 909]. Sự
phân hóa giàu nghèo ấy ngày càng sâu sắc và đã trở thành sự phân hóa giai
cấp khơng thể điều hịa được.
Để làm rõ ngun nhân của hiện tượng nghèo đói và sự bần cùng
của giai cấp vô sản, Mác và Ăngghen đã đi vào lý giải vấn đề tiền công
trong xã hội tư bản.
Theo Mác, tiền công là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa sức
lao động, tiền cơng gồm có tiền cơng danh nghĩa và tiền công thực tế. Tiền
công danh nghĩa là số tiền mà người công nhân nhận được do bán sức lao

động của mình cho nhà tư bản. Tiền công được sử dụng để sản xuất và tái
sản xuất sức lao động, do đó tiền cơng danh nghĩa phải được chuyển thành
tiền công thực tế.
Tiền công thực tế là tiền cơng được biểu hiện bằng số lượng hàng
hóa tư liệu tiêu dùng và dịch vụ mà người công nhân mua được bằng tiền
cơng danh nghĩa của mình. Tiền cơng danh nghĩa là giá cả hàng hóa sức lao
động, nó có thể tăng lên hay giảm xuống tùy theo sự biến động trong quan
hệ cung cầu về hàng hóa sức lao động trên thị trường. Trong một thời gian
nào đó, nếu tiền công danh nghĩa vẫn giữ nguyên, nhưng giá cả tư liệu tiêu
dùng dịch vụ tăng lên hay giảm xuống thì tiền cơng thực tế giảm xuống hay
tăng lên.
Mác cịn chỉ rõ: tính qui luật của sự vận động của tiền công trong
chủ nghĩa tư bản là: trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, tiền
cơng danh nghĩa có xu hướng tăng lên, nhưng mức tăng của nó nhiều khi
khơng theo kịp với mức tăng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ, khi đó tiền
cơng thực tế của giai cấp cơng nhân có xu hướng hạ thấp. Đây là nguyên
nhân trực tiếp dẫn đến sự bần cùng của giai cấp vô sản.

7


Như vậy, theo Mác và Ăngghen, nghèo đói của giai cấp vơ sản
trong xã hội tư bản có ngun nhân trực tiếp từ sự phân phối thu nhập của
sản xuất xã hội qua tiền công và phân phối giá trị thặng dư trên thị trường.
Trong các chế độ tư hữu và bóc lột thống trị, nghèo khổ, đối kháng
giai cấp và phân cực xã hội là những hiện tượng luôn đi liền nhau trong
một tất yếu nhân quả hữu cơ khơng thể tách rời. Nó thuộc về bản chất kinh
tế chính trị - xã hội của phương thức sản xuất đó. Chủ nghĩa tư bản hiện đại
ngày nay nhờ lợi dụng được những thành quả của cách mạng khoa học công nghệ, sớm áp dụng những biện pháp điều chỉnh và cải cách trong
quản lý nên đã đạt được những bước tiến lớn trong sản xuất, tăng trưởng

kinh tế, trở nên giàu có phồn vinh. Song một bộ phận nhỏ bé thuộc các thế
lực tư sản nắm quyền lực đã chiếm đoạt hầu hết mọi của cải xã hội, và một
bộ phận dân cư không nhỏ sống trong thất nghiệp và nghèo đói.
"... Trong sáu người trên thế giới thì có một người sống nghèo khổ,
tức là cả hành tinh có một tỷ người nghèo đói, 800 triệu trẻ em bị đói; riêng
EU có 18 triệu người thất nghiệp và 50 - 70 triệu người sống bấp bênh.
Những tình trạng được coi như đã bị loại trừ hay ít nhiều bị hạn chế cách
đây 20 năm ở châu Âu hiện nay lại trở nên phổ biến. Đầu tiên là mất việc
làm, rồi khơng có tiền để lo cho cuộc sống, bị mất chỗ ở hoặc phải sống
chung trong những nơi chật chội v.v..." [9].
Các chính sách mà nhà nước tư sản đưa ra chỉ có thể làm dịu bớt
mức độ gay gắt của những xung đột, đối kháng, nghèo khổ chứ khơng thể
xóa bỏ tận gốc của chúng được. Chủ nghĩa tư bản từ trong bản chất của nó
khơng thể tự giải quyết được nghèo đói. Phân cực xã hội ngày càng gay gắt
là nghịch lý của phát triển với hệ thống các quan hệ tư bản chủ nghĩa.
Trong các nước xã hội chủ nghĩa trước đây với quan niệm cho rằng,
nghèo khó là hậu quả của sự bóc lột trong tăng trưởng kinh tế. Để giải
quyết nghèo đói, chúng ta đã quá thiên về chủ nghĩa bình quân trong phân

8


phối, chia đều sự nghèo khổ cho tất cả mọi người mà khơng tính đến trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất và điều đó đã dẫn đến việc xem nhẹ lợi
ích kinh tế của cá nhân, hạn chế cá nhân làm giàu và triệt tiêu động lực phát
triển kinh tế - xã hội.
Bên cạnh quan điểm trên, lại có quan niệm cho rằng chỉ cần xác lập
quyền sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất, quyền làm chủ xã hội của nhân dân
lao động thì nghèo đói sẽ tự động biến mất, xã hội sẽ ngay lập tức đạt tới sự
phồn thịnh, mọi người ai cũng giàu có như nhau.

Song thực tế lại khơng phải như vậy, mặc dù trong chủ nghĩa xã
hội, đối kháng giai cấp mất đi, nhưng những sự khác biệt của những người
lao động vẫn luôn tồn tại. Sự khác biệt về phẩm chất, năng lực, trí tuệ, thể
lực, cơ hội của những người lao động đã dẫn đến sự khác nhau về kết quả
lao động có ích mà họ cống hiến cho xã hội, và do đó khác nhau về thu
nhập do kết quả lao động đó mang lại.
Trong chủ nghĩa xã hội, giàu, nghèo vẫn còn tồn tại, nhất là trong
cơ chế thị trường, bình đẳng và cơng bằng xã hội là tương đối chứ không
phải là tuyệt đối, là hướng tới ngày một thụ hưởng đầy đủ hơn những giá trị
ấy, chứ khơng phải đã có ngay những giá trị ấy ngay một lúc, nhất là khi
chủ nghĩa xã hội mới phát sinh chứ chưa ở trình độ thành thục, phát triển.
Như vậy, nghèo đói là một vấn đề kinh tế - xã hội chứ không đơn thuần chỉ
là vấn đề kinh tế. Tuy nhiên, các thước đo để đánh giá ai nghèo, ai giàu lại
chủ yếu và trước hết dựa trên thước đo về kinh tế.
1.1.1.2. Những chỉ tiêu được lượng hóa để xác định đói nghèo
của các tổ chức quốc tế
Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra chỉ tiêu đánh giá độ giàu, nghèo
bằng mức thu nhập quốc gia (GDP) tính theo đầu người, và chia thế giới
làm 6 loại nước giàu nghèo khác nhau (theo mức thu nhập 1990).
Trên 25.000 USD/năm là nước cực giàu;
Từ 20.000 USD đến dưới 25.000 USD/năm là nước giàu;

9


Từ 10.000 USD đến dưới 20.000 USD/năm là nước khá giàu;
Từ 2.500 USD đến dưới 10.000 USD/năm là nước trung bình;
Từ 500 USD đến dưới 2.500 USD/năm là nước nghèo;
Dưới 500 USD/năm là nước cực nghèo.
Tại Đại hội lần thứ hai của Ủy ban giảm nghèo khổ khu vực

ESCAP họp tại Băng Cốc (Thái Lan) tháng 9 năm 1995, Ngân hàng thế
giới đưa ra chuẩn mực nghèo khổ chung của tồn cầu là thu nhập bình qn
đầu người dưới 370 USD/người/năm.
Dựa vào phương pháp sử dụng rộng rãi tại các nước phát triển trong
khu vực, căn cứ vào mức thu nhập tối thiểu là 2100 calo/ngày/người trong
đó 70% chi cho ăn, còn lại 30% chi cho các nhu cầu khác ngoài lương thực
thực phẩm như mặc, ở, chữa bệnh, văn hóa, đi lại... Dựa vào chuẩn mực
này và căn cứ vào số liệu điều tra mức sống dân cư 1992 - 1993 của 4.800
hộ đại diện các vùng trong nước Ngân hàng thế giới đã đưa ra con số Việt
Nam có khoảng 51% dân số thuộc diện đói nghèo, trong đó 25% số hộ
thuộc diện đói về lương thực, thực phẩm. Nếu theo khu vực thì nơng thơn
có 57% và thành thị có 27% dân số thuộc diện đói nghèo.
Theo cách đánh giá trên của Ngân hàng thế giới, đối với Việt Nam,
ngưỡng nghèo được xác định tương đối cao so với thực tế. Trong khi nền
kinh tế còn chậm phát triển, nhu cầu ăn uống thường chiếm từ 80 - 90% thu
nhập của dân nghèo, các nhu cầu khác còn ở mức hạn chế, hơn nữa giá cả
sinh hoạt ở các vùng, miền cũng rất khác nhau, do đó nếu xác định như vậy
Việt Nam rất khó khăn trong việc tìm giải pháp để XĐGN hiện nay.
Hội nghị bàn về giảm nghèo đói trong khu vực châu Á - Thái Bình
Dương do ESCAP tổ chức ở Băng Cốc tháng 9-1993 đã đưa ra khái niệm
và định nghĩa nghèo đói như sau:
"Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và
thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận

10


tùy theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của các
địa phương".
Có thể xem đây là một quan niệm, một định nghĩa chung nhất về

nghèo đói, tuy nhiên, những tiêu chí về nghèo đói cịn để ngỏ về mặt lượng
vì ở đây cịn phải tính đến yếu tố lịch sử, đến trình độ phát triển kinh tế,
phong tục tập quán của mỗi địa phương. Song có thể nói, định nghĩa đã đề
cập được đến nội dung cơ bản của vấn đề nghèo đói đó là nhu cầu cơ bản
của con người.
Nhu cầu cơ bản ở đây chính là cái thiết yếu, cái tối thiểu để duy trì
sự tồn tại sinh học của con người. Theo ý đó, đói là tình trạng nghèo khổ
cùng cực, là trạng thái con người ăn không đủ no, khơng đủ năng lượng để
duy trì sự sống bình thường và không đủ sức để lao động, tái sản xuất sức
lao động.
Đói là sự nghèo nàn hiển nhiên và nghèo là một sự đói tiềm tàng và
ln đứng trước khả năng bị đói, trong thực tế nhất là khi lâm vào tình
trạng thiên tai, rủi ro, hoạn nạn thì trạng thái nghèo khổ sẽ trở thành đói.
Nghèo có hai dạng, là nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư thường trực khơng
có khả năng thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu để duy trì cuộc sống. Trên thực
tế một bộ phận lớn dân cư nghèo tuyệt đối rơi vào tình trạng đói và thiếu đói.
Nghèo tương đối là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống
dưới mức trung bình của cộng đồng tại địa phương.
Như thế, sự thiếu thốn "của cải" trong mối quan hệ với nhu cầu thiết
yếu của con người được xem là nghèo khổ tuyệt đối. Cịn khi xem xét thực
trạng mức sống và vị trí (về kinh tế và xã hội) các nhóm hoặc các các nhân
khác ở phương diện mức độ tiêu thụ và thu nhập của họ về cơ hội tiếp cận
các nguồn lực... sẽ cho ta quan niệm về nghèo tương đối.

11


Ngoài ra, Liên Hợp quốc cũng đưa ra chỉ tiêu để đánh giá mức sống
của con người bao gồm cả thu nhập quốc dân bình qn tính theo đầu

người, thành tựu y tế - xã hội và trình độ văn hóa giáo dục, tổng hợp lại là
chỉ số phát triển con người - Human Development Index (gọi tắt là HDI).
HDI bao gồm ba yếu tố cơ bản của sự phát triển con người: tuổi
thọ, trình độ và mức sống. Tuổi thọ được phản ánh bằng số năm sống trung
bình của người dân. Trình độ được đo bằng cách kết hợp tỷ lệ biết chữ của
người trưởng thành (với trọng số là 2/3 của chỉ số trình độ) với số năm đi
học trung bình của mỗi người (với trọng số tương ứng là 1/3). Mức sống
được đo lường theo mức GDP thực tế bình qn đầu người tính theo sức
mua tương đương (PPP) của mỗi quốc gia. Theo số liệu của UNDP, HDI
của nước ta năm 1998 là 0,671 đứng thứ 108; các nước có chỉ số phát triển
con người cao là từ 0,801 trở lên, cịn mức trung bình là từ 0,506 đến
0,797; dưới 0,506 là các nước có chỉ số phát triển con người thấp. Chỉ số
này cao nhất là 1. Năm 1989 nước có chỉ số cao nhất là Canađa đạt 0,935.
Sự kết hợp giữa chỉ tiêu HDI và chỉ tiêu GDP/ người như đã nêu ở
trên cho phép chúng ta đánh giá, nhận diện nghèo đói một cách khách quan
và chính xác hơn.
Đói nghèo cịn được nhận diện ở bốn khía cạnh là thời gian, khơng
gian, mơi trường và giới.
Về thời gian: Phần lớn người nghèo có mức sống dưới mức được
xác định như một chuẩn thấp nhất có thể chấp nhận được trong một thời
gian dài (tuy nhiên cũng cần phải bổ sung vào số người này những người
nghèo tình thế do thất nghiệp, do thiên tai, rủi ro hay do con người gây ra).
Về giới: Phần lớn người nghèo ở các nước đều là phụ nữ. Mặc dù
trong gia đình, nam giới là chủ gia đình, nhưng phụ nữ vẫn phải gánh chịu
nhiều hơn gánh nặng của nghèo đói.

12


Về khơng gian: Nghèo đói diễn ra chủ yếu ở nông thôn, miền núi

vùng sâu, vùng xa... dù nền kinh tế có phát triển đến thế nào chăng nữa dân
cư ở các vùng kể trên vẫn dễ bị rơi vào nghèo đói.
Về mơi trường: Hầu hết những người nghèo đói đều phải sống trong
môi trường khắc nghiệt và xuống cấp nghiêm trọng, bởi vì những người
nghèo đói khơng đủ khả năng và điều kiện để gìn giữ, đảm bảo và cải thiện
mơi trường sống.
Tóm lại: những quan niệm về nghèo đói do cách tiếp cận khác nhau
nên có những kiến giải khác nhau, sự nghèo khổ là một khái niệm tương
đối và có tính biến đổi. Các chỉ số xác định giới hạn nghèo khổ không phải
là cứng nhắc và bất biến. Nó biến đổi tùy theo sự chênh lệch, sự khác biệt
giữa các vùng, miền, quốc gia.
1.1.1.3. Những chỉ tiêu được lượng hóa để xác định đói nghèo
của Việt Nam
Đối với Việt Nam, dù là trong ký ức của người dân hay trong các tài
liệu của chính phủ trước đây, quan niệm về cái nghèo chưa bao giờ được
coi đơn thuần là vấn đề thu nhập vật chất. Cái nghèo ở đây luôn hàm chứa
cả sự nghèo nàn về đạo đức, học vấn, truyền thống.
Tuy nhiên, hiện nay khi nền kinh tế chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường với sự gia tăng các nguồn viện trợ từ các tổ chức nước ngồi (kể cả
chính phủ và phi chính phủ) thì những khái niệm về giàu nghèo dựa trên
thu nhập hiện đang được chính phủ và nhân dân sử dụng ngày càng nhiều,
để xác định ai "giàu" và ai "nghèo".
Căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế - xã hội của nước ta và hiện
trạng đời sống trung bình của phổ biến dân cự hiện nay, có thể xác lập chỉ
tiêu đánh giá đói nghèo theo những tiêu thức chính sau đây: Thu nhập; nhà
ở và tiện nghi sinh hoạt; tư liệu sản xuất; vốn để dành.

13



Trong bốn chỉ tiêu này, thì chỉ tiêu thu nhập và nhà ở phản ánh trực
tiếp mức sống hay mức độ thực hiện các nhu cầu cơ bản tối thiểu của đời
sống. Hai chỉ tiêu sau: tư liệu sản xuất và vốn để dành cho thấy rõ thêm
tình cảnh thật sự của người nghèo và các hộ đói nghèo. Ở đây chúng ta sẽ
đi vào nội dung cụ thể của các chỉ tiêu.
Chỉ tiêu về thu nhập:
Căn cứ vào chỉ tiêu thu nhập, coi đó là chỉ tiêu cơ bản để phản ánh
mức sống của người dân, có thể chia đói nghèo thành hai ngưỡng cụ thể là
đói và nghèo.
Đói: là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống tối thiểu và thu
nhập không đảm bảo về nhu cầu vật chất để duy trì cuộc sống. Đó là những
hộ dân cư hàng năm đứt bữa, thiếu ăn từ 1 đến 3 tháng, phải đi vay nợ và
thiếu khả năng trả nợ. Đói được chia làm hai loại, là thiếu đói và đói gay gắt.
Nghèo: là tình trạng một bộ phận dân cư khơng có điều kiện thỏa
mãn một phần các nhu cầu cơ bản của con người và có mức sống thấp hơn
mức sống trung bình của cộng đồng địa phương đang xét trên mọi phương
diện, nghèo được chia làm hai loại: nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
Nhu cầu cơ bản của con người bao gồm: ba nhu cầu thiết yếu là ăn,
mặc, ở; năm nhu cầu sinh hoạt hàng ngày là văn hóa, giáo dục, y tế, đi lại,
giao tiếp.
Nhu cầu tối thiểu: là những đảm bảo tối thiểu của cuộc sống con
người bao gồm ăn, mặc, ở và những nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.
Thu nhập của người dân trước hết sẽ được dành cho các nhu cầu cơ
bản tối thiểu. Và theo đời sống trung bình của dân cư trước năm 1995, cơ
cấu sử dụng các nguồn thu nhập cho các nhu cầu tối thiểu cho 1 người
1 tháng là từ 15,1 đến 16,2 kg gạo tẻ thường/người/tháng, bao gồm:
Ăn:

13 kg gạo tẻ/người/tháng


Mặc + ở:

2,1 kg

14


Văn hóa + y tế + giáo dục + đi lại: 1,1 kg
Theo bảng cơ cấu này thì:
Nghèo tuyệt đối là tình trạng dân cư chỉ có thu nhập đảm bảo mức
sống dưới mức tối thiểu, tức dưới 15 kg gạo/người/tháng. Người nghèo
tuyệt đối và hộ nghèo tuyệt đối đương nhiên là khơng có điều kiện để thực
hiện các nhu cầu về văn hóa, y tế, giáo dục và đời sống tinh thần nói chung.
Đói: là thu nhập ở dưới ngưỡng của nghèo, dưới ngưỡng càng xa thì
mức độ đói càng gay gắt. Có thể phân biệt được hai mức độ của đói là thiếu
đói và đói gay gắt.
Thiếu đói là tình trạng dân cư có mức thu nhập dưới 8 kg
gạo/người/tháng. Theo giới hạn trên, so với mức tiêu thụ calo của
người/ngày thì quá thấp, hơn nữa so sánh với giới hạn đói nghèo của ngân
hàng thế giới thì giới hạn nghèo đói ở nước ta cịn thấp hơn nhiều.
Chỉ tiêu về nhà ở và tiện nghi sinh hoạt:
Những người nghèo đói thường sống trong những căn hộ tồi tàn,
nhà tranh vách đất (miền Bắc), nhà lá dừa nước, lợp tơn (miền Nam).
Đồ dùng trong nhà khơng có gì ngoài giường gỗ, tre, phản chõng và
vài thứ khác, tất cả đều tồi tàn và cũ nát.
Chỉ tiêu về tư liệu sản xuất:
Những người nghèo đói ít có tư liệu sản xuất, phần lớn thô sơ, đất
đai vườn ao hầu như khơng có, một bộ phận là nơng dân thiếu hoặc mất
ruộng đất để sản xuất.
Chỉ tiêu về vốn:

Những người nghèo đói khơng có vốn để dành, họ thường phải vay
nợ. Những người đói gay gắt lại thường phải vay nợ để ăn. Khi ốm đau họ
phải vay nợ để chữa trị, chi trả, ở một số nơi do người nghèo phải vay nặng
lãi, nên nợ nần của họ ngày càng cao. Đã khơng ít trường hợp phải gán

15


ruộng vườn, bán sản phẩm chưa thu hoạch, đi làm thuê hoặc bỏ quê ra
thành phố kiếm kế sinh nhai.
Đó là bốn chỉ tiêu căn bản để xác định giới hạn nghèo đói ở Việt
Nam. Tuy nhiên, để phù hợp với mức sống, tập quán và thực trạng đói
nghèo ở nước ta hiện nay, đồng thời vẫn dựa trên cách tính về cơ cấu sử
dụng nêu trên, từ năm 1995 Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã đưa
ra chuẩn mực giới hạn nghèo đói ở Việt Nam như sau:
Hộ đói là hộ cơm khơng đủ ăn, áo khơng đủ mặc, con cái thất học,
ốm đau khơng có tiền chữa trị, nhà ở rách nát,... nếu theo thu nhập thì các
hộ này có thu nhập qui đổi ra gạo bình quân đầu người dưới 13 kg/tháng.
Hộ nghèo là hộ thiếu ăn nhưng không đứt bữa, mặc không lành
và khơng đủ ấm, khơng có khả năng phát triển sản xuất... thu nhập bình
quân dầu người của loại hộ này qui ra gạo dưới 25kg/tháng ở thành thị,
20kg/tháng ở nông thôn đồng bằng và trung du, và dưới 15 kg/tháng ở nơng
thơn miền núi.
Xã nghèo là xã có trên 40% tổng số hộ nghèo đói, khơng có hoặc rất
thiếu những cơ sở hạ tầng thiết yếu, trình độ dân trí thấp, tỷ lệ mù chữ cao.
Vùng (vệt) nghèo là chỉ những địa bàn tương đối rộng, nằm ở trong
những khu vực khó khăn, hiểm trở, giao thơng khơng thuận lợi, có tỷ trọng
xã nghèo, hộ nghèo cao.
Từ năm 1997, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã đưa ra
chuẩn mực đói nghèo được xác định theo mức thu nhập bình quân đầu

người trong hộ/ tháng được quy ra gạo và tiền tương ứng cụ thể là:
Hộ đói: có thu nhập dưới 13 kg gạo, tương ứng với 45.000 đ (cho
tất cả các vùng).
Hộ nghèo theo ba vùng, có mức thu nhập như sau:
- Dưới 15 kg gạo, tương ứng với 70.000 đồng ở vùng nông thôn,
đồng bằng, trung du.
16


- Dưới 25 kg gạo, tương ứng với 90.000 đồng ở vùng thành thị.
Trong thực tế, ở Việt Nam vẫn tồn tại một bộ phận dân cư ở tình
trạng thiếu ăn, đói về lương thực. Do đó khi đánh giá nghèo ở Việt Nam
nên phân thành hai cấp độ nghèo và đói, vì nó phản ánh đúng thực tế. Việc
phân chia cụ thể từng loại nghèo đói của Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội có tính chất xác định tỷ lệ nghèo, đói của từng tỉnh, từng vùng và cả
nước từ đó giúp cho việc trợ cấp, đầu tư, hỗ trợ giúp người nghèo thốt
nghèo, thốt đói.
Về hệ thống chỉ tiêu đánh giá mức nghèo của hộ gia đình có thể
tham khảo theo các tiêu thức ở bảng 1 sau:
Bảng 1: Chỉ tiêu đánh giá nghèo cấp hộ gia đình
Lĩnh vực
I. Nhu cầu ăn

Chỉ tiêu
1. Số lượng gạo tối thiểu (12 kg/người/tháng)
2. Giá trị khẩu phần ăn tối thiểu một ngày

II. Nhu cầu 3. Không đủ quần áo, chăn ấm trong mùa rét
mặc
4. Không đủ màn chống muỗi

III. Nhà ở

5. Hộ gia đình ở lều, lán và nhà tạm bợ

IV. Việc làm

6. Thiếu việc làm (thiếu trên 3 tháng /năm)

V. Sức khỏe

7. Trẻ em từ 1-5 tuổi suy dinh dương thể thiếu ăn
(dưới 80% trọng lượng cần có của độ tuổi)
8. Người lớn 15 - 60 tuổi ốm đau kinh niên (trên 30
ngày/năm).
9. Khơng có khả năng chữa bệnh khi ốm đau

VI. Giáo dục

10. Người lớn trong độ tuổi lao động (15 - 60) mù
chữ
11. Trẻ em 6-11 tuổi khơng đi học
12. Hộ gia đình khơng có đài hoặc ti vi để nghe.

17


Nguồn: Vũ Tuấn Anh, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 227, 4/1997, tr. 36.
Dựa vào 12 chỉ tiêu xác định ở từng mặt nói trên có thể phân loại
các hộ nghèo như sau:
Hộ nghèo: có 5 chỉ tiêu về ăn, mặc, ở dưới chuẩn mực

Hộ rất nghèo: có trên 5 chỉ tiêu dưới chuẩn mực.
Những chỉ tiêu này là sự lượng hóa cụ thể từ chỉ tiêu chung về hộ
nghèo đã được phân tích ở trên.
1.1.2. Nguyên nhân của đói nghèo
Nghèo đói là một hiện tượng kinh tế - xã hội, nó vừa là vấn đề lịch
sử để lại, vừa là vấn đề phát triển mà hầu hết các quốc gia đều vấp phải. Nó
đụng chạm trực tiếp đến cuộc sống của con người, từ cá nhân, gia đình đến
cộng đồng xã hội. Mỗi quốc gia, ở các mức độ phát triển khác nhau, đều
phải quan tâm giải quyết vấn đề đói nghèo để vượt qua những trở ngại của
sự phát triển nhằm tới sự phồn thịnh về kinh tế và từng bước đạt tới cơng
bằng xã hội.
Có nhiều ý kiến khác nhau về nguyên nhân gây ra đói nghèo, song
tựu trung lại, nghèo đói ở các nước đang phát triển chủ yếu là do các
nguyên nhân cơ bản sau đây:
Thứ nhất, do người nghèo khơng có khả năng và cơ hội để tiếp
cận và kiểm soát các nguồn lực sản xuất.
Các nguồn lực sản xuất chủ yếu hiện nay có thể kể đến như vốn, đất
đai, khoa học cơng nghệ... song tất cả những thứ đó người nghèo đều khơng
có hoặc rất hạn chế về khả năng tiếp cận. Một số người trong số họ có thể
có sức lao động, nhưng họ sẽ không thể biến sức lao động đó thành nguồn
lực, nếu khơng tiếp cận được với các nguồn lực khác như vốn, đất đai, khoa
học công nghệ, tức là họ khơng có việc làm.

18


Ở một phạm vi nào đó, theo quan sát thực tiễn của các nhóm
chuyên gia nghiên cứu về Việt Nam, đói nghèo do thiếu tiếp cận và kiểm
sốt các nguồn lực là khá phổ biến.
Theo Công ty ADUKI - "Vấn đề nghèo ở Việt Nam", thì người nghèo

ở Việt Nam là: "Những người khơng có khả năng tiếp cận hoặc kiểm sốt các
nguồn lực xã hội, kinh tế và chính trị, và do đó khơng có khả năng thỏa mãn
những nhu cầu cơ bản của con người một cách có phẩm giá" [10, 26-27].
Việt Nam với một nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và 90% dân số sống
ở những vùng nơng thơn, thì việc tiếp cận và kiểm soát đất đai là một trong
những nhân tố ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống. Trong mấy năm trở lại
đây, tuy các hộ nông dân đã được giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài nhờ
thực hiện Luật đất đai, nhưng trên thực tế các hộ được giao đất lại thiếu các
điều kiện sản xuất (vốn, lao động, khoa học công nghệ...), nên một số hộ đã
không giữ được đất, phải nhượng lại cho các hộ khác. Mặt khác, sản xuất
trên đất không mang lại hiệu quả kinh tế cao vì thiếu kiến thức và cơng
nghệ, nên có rất nhiều trường hợp, sau khi nhận được quyền sử dụng đất đã
bán đi để lấy tiền, trong đó chỉ có một số rất ít hộ dùng số tiền có được để
chuyển hướng sản xuất.
Một trong những nguồn lực nữa cần được chú ý hiện nay là vấn đề
tín dụng. Trong thực tế, xét về nhu cầu vốn, thì hầu hết số hộ đói nghèo ở
nơng thơn đều cần vốn. Do thiếu nguồn vốn đủ lớn nên không tiếp cận
được với công nghệ hiện đại, do đó khơng tăng được năng suất lao động,
đặc biệt là thiếu vốn để mở mang ngành nghề cũng như mở mang chăn
ni, vì vậy họ khó có thể thốt khỏi đói nghèo trong khi tư liệu sản xuất
chủ yếu là đất đai lại đang bị thu hẹp dần. Do tất cả những nguyên nhân đó
mà thu nhập của người lao động ở nông thôn trở nên q thấp, phần lớn
khơng có tích lũy. Tính đến năm 1997, mặc dù hầu hết các địa phương đã
thành lập quỹ XĐGN, nhưng trên thực tế cũng chỉ đáp ứng được một phần
số hộ nghèo vay vốn.

19


Thứ hai, do dân số tăng nhanh.

Hiện các nước đang phát triển đang đóng góp lớn nhất vào phần
tăng thêm của dân số thế giới. Trong suốt thập kỷ 90, phần đóng góp của
các nước đang phát triển vào số lượng người tăng thêm chiếm tới 93 - 95%.
Nói cách khác, dân số thế giới tăng lên nhanh là do các nước đang phát
triển quyết định. Hiện tại châu Á chiếm 60% số dân cả thế giới, châu Phi
là 12% [35, 55]. Sự tăng dân số rất khác nhau ở các khu vực trên thế giới
đã làm thay đổi cơ cấu tuổi của dân số. Một bộ phận dân số q trẻ, trong
đó một bộ phận tại các nước cơng nghiệp già đi nhanh chóng. Dân số tăng
nhanh ở các nước đang phát triển dẫn đến thu nhập bình quân đầu người
giảm, đồng thời tạo ra áp lực rất gay gắt về việc làm và làm nhức nhối
những vấn đề xã hội. Nghèo đói ở các nước cơng nghiệp phát triển chủ yếu
do thất nghiệp gây ra. Cịn nghèo đói ở các nước đang phát triển do rất
nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân trực tiếp là dân số tăng nhanh.
Trên thế giới khơng có nơi đâu có tỷ lệ tăng dân số cao mà vẫn giảm được
tỷ lệ nghèo đói. Do đó, các nước đang phát triển chỉ có thể giảm nghèo đói
bằng cách giảm tỷ lệ sinh.
Rơnê Đuy Mông trong "Một thế giới không thể chấp nhận được" đã
cảnh báo các nước đang phát triển về sự bùng nổ dân số, về sự luẩn quẩn
giữa đói nghèo - lạc hậu - dân số tăng nhanh. Theo ông thì: "...Chính nhà
nước phải có trách nhiệm đối với cộng đồng là đánh giá tài nguyên của
mình về đất, nước, rừng, về khống sản, về khoảng khơng gian cịn rỗi rãi,
những hy vọng tiến bộ thật sự và từ đó định ra những tỷ lệ hợp lý về tăng
số dân để bảo đảm cho mỗi người một cuộc sống kha khá hơn là để một
ngày nào đó lại phải dùng những biện pháp cưỡng bức" [25, 104].
Thứ ba, do trình độ giáo dục thấp.
Số dân đơng, lại nghèo đói, do đó ngân sách chi cho giáo dục và y tế
thấp đó là lơgíc vận động của hiện thực. Khi mức chi cho giáo dục và y tế thấp

20



cộng thêm thu nhập thấp tại các nước nghèo thì chỉ số phát triển nhân lực luôn
ở cuối bảng xếp hạng của UNDP. Cố nhiên, những tiêu thức về lượng không
thể phản ánh đầy đủ cả về chất của sự vật, song trên giác độ của vấn đề
nghèo, đói thì lượng lại phản ánh đúng bản chất của vấn đề. Vì ở các nước
này ln diễn ra tình trạng thiếu các chuyên gia đầu ngành, thiếu lao động
lành nghề có kỹ thuật, trình độ khoa học cơng nghệ lạc hậu, do đó sẽ dẫn đến
năng suất lao động thấp và cứ như vậy cái vịng luẩn quẩn của đói, nghèo sẽ
kìm hãm sự mở rộng phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo và do đó kìm hãm
sự phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội. Do đó, tạo ra được đội ngũ lao động có
trình độ chun mơn cao là mục tiêu quan trọng của các nước nghèo. Thế
nhưng tình trạng di chuyển lao động lành nghề, lao động có học vấn từ các
nước đang phát triển sang các nước cơng nghiệp phát triển lại là dịng chảy
khơng dứt. Vấn đề này đã gây thiệt hại rất lớn cho các nước đang phát
triển. Hiện nay Hoa Kỳ đang là nước hiện được hưởng lợi nhiều nhất, vì họ
khơng mất đi một khoản chi phí đào tạo mà họ lại đang thu hút được đội
ngũ công nhân lành nghề từ châu Á, châu Phi và Mỹ la tinh chuyển đến. Đó
là một nghịch lý của sự phát triển của thế giới hiện đại, song nó lại tuân thủ
đúng các quy luật của thị trường lao động.
Thứ tư, do viện trợ không đến tay người nghèo và sử dụng không
đúng mục đích.
Trong thực tế, ở các nước đang phát triển hiện nay có nhiều khoản
viện trợ cho phát triển mà chủ yếu là đầu tư phát triển nhân lực đã không
đến được tay người nghèo. Một phần bị rơi rụng dần và phần cịn lại rất lớn
lại được sử dụng khơng đúng mục đích, nên hiệu quả của những nguồn
viện trợ rất thấp.
Qua những nguyên nhân gây nên đói nghèo ở các nước đang phát
triển vừa nêu, ta thấy nguyên nhân chủ yếu là nguyên nhân kinh tế.

21



Do đó, việc xóa đói ở đây trước hết được hiểu như là sự hỗ trợ phát
triển của nhà nước và cộng đồng để nâng cao đời sống dân cư, xóa bỏ tình
trạng cịn tồn tại các hộ khơng có khả năng thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu
như cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, con cái thất học, ốm đau khơng có
tiền chữa trị, nhà ở bằng tranh tre vách đất, nhằm duy trì cuộc sống bình
thường. Từ đó giúp họ vượt qua tình trạng đói khổ triền miên để đi tới sự
phát triển.
Giảm nghèo tức là tạo điều kiện cho bộ phận dân cư nghèo tiếp cận
được với các nguồn lực cần thiết để họ tự nâng cao mức sống, từng bước
thốt khỏi tình trạng nghèo. Biểu hiện ở tỷ lệ phần trăm và số lượng người
nghèo giảm xuống làm cho mức sống chung của toàn bộ cộng đồng được
nâng lên.
Giảm nghèo còn được hiểu là quá trình chuyển một bộ phận dân cư
nghèo lên một mức sống cao hơn nhờ sự hỗ trợ của Nhà nước, cộng đồng
và sự nỗ lực vươn lên của bản thân các hộ nghèo. Ở khía cạnh khác, giảm
nghèo là chuyển từ tình trạng người nghèo có ít sự lựa chọn sang tình trạng
có nhiều sự lựa chọn hơn để cải thiện đời sống mọi mặt của mỗi người.
Như vậy, có thể nói một cách khái quát, xóa đói, giảm nghèo là quá
trình tạo điều kiện giúp đỡ các hộ đói nghèo có khả năng và cơ hội để tiếp
cận với các nguồn lực của sự phát triển một cách nhanh chóng, trên cơ sở đó
họ có nhiều sự lựa chọn hơn, giúp họ từng bước thoát ra khỏi cảnh nghèo đói.
XĐGN cịn gắn với trung lưu hóa một bộ phận dân cư, khuyến
khích và tạo điều kiện cho một bộ phận dân cư biết vươn lên làm giàu
chính đáng trong khuôn khổ pháp luật cho phép.
Trước đây, ở thời kỳ chưa đổi mới, trong nền kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp, nghèo đói đã dường như khơng được nhìn nhận như một thực
tế xã hội, bởi quan niệm cho rằng: Trong chủ nghĩa xã hội khơng thể có
nghèo đói. Nó chỉ có trong chủ nghĩa tư bản, do sự phân phối bất hợp lý thu


22


nhập của xã hội tạo ra. Do đó, cách nhìn nhận, đánh giá nghèo đói ở đây có
phần méo mó thiếu khách quan và không khoa học.
Với một nền kinh tế còn kém phát triển, chưa ra khỏi ngưỡng của
sinh tồn thì nghèo đói là một vấn đề đương nhiên, tuy nhiên trước đây
chúng ta đã khơng nhìn nhận đúng như nó vốn có, do đó đã để lại hậu quả
xã hội khơng nhỏ mà khơng được cảnh báo. Vì ở nền kinh tế hiện vật, bao
cấp bình qn khơng có cạnh tranh kinh tế; khơng mở rộng thị trường;
khơng làm nảy nở nhu cầu kinh tế; không hối thúc sự cần thiết phải tháo
vát, năng động, đổi mới cách nghĩ, cách làm, không thúc đẩy phát huy tài
năng cá nhân. Nó chỉ thúc đẩy con người tìm cách làm sao cho mình ở vào
một vị trí xã hội thuận lợi, có điều kiện thụ hưởng được nhiều sự bao cấp,
sự ưu đãi của nhà nước. Giàu có trong xã hội này không phải là kết quả của
sự nỗ lực sản xuất kinh doanh, của năng lực sáng tạo, của sự kịp thời nắm
bắt yêu cầu của thị trường. Nghèo đói cũng khơng phải do lười biếng hoặc
bị thua lỗ phá sản trong sản xuất kinh doanh, mà chủ yếu là do khơng có
"đất dụng võ", khơng có điều kiện và môi trường để thể hiện năng lực, tài
năng.
Bước sang nền kinh tế thị trường, con người buộc phải tính tốn bằng
giá trị và tính đủ giá trị cho mọi kết quả lao động, do đó lợi ích được chú
trọng trước hết là lợi ích cá nhân. Nó khách quan hóa và nâng cao một cách
đáng kể vai trị của năng lực cá nhân, thúc đẩy tính tự giác và ý thức trách
nhiệm đối với công việc và sản phẩm lao động. Giá trị lợi ích đã thúc đẩy
cạnh tranh, làm nẩy nở tài năng, kích thích con người về tính chủ động, óc
sáng kiến, tính linh hoạt trong các phản ứng và các hành vi đáp ứng cạnh
tranh.
Kinh tế thị trường mở ra nhiều khả năng và cơ hội cho con người

phát triển đồng thời cũng phơi bày những yếu kém bất cập của con người
trong sản xuất - kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường xóa đói, giảm
nghèo ln gắn liền với khuyến khích một bộ phận dân cư có điều kiện,

23


khả năng vươn lên làm giàu chính đáng. Đó cũng là một trong những biện
pháp hữu hiệu ngăn cản hiện tượng nghèo tái sinh. Những người vừa thốt
nghèo rất có khả năng bị rơi vào nghèo đói trở lại khi những giải pháp giảm
nghèo khơng bền vững hoặc chỉ có tác dụng trong ngắn hạn.
Giảm nghèo còn là vấn đề mang tính lịch sử. Bởi nghèo vẫn tồn tại
khi nền kinh tế thị trường vẫn còn chi phối và vẫn còn tồn tại sự khác biệt
về năng lực thể chất, địa vị xã hội... giữa các cá nhân. Do đó, để giải quyết
vấn đề giảm nghèo chỉ có thể từng bước giảm nghèo chứ chưa thể tiến tới
xóa được nghèo. Chỉ đến khi xã hội lồi người đạt tới trình độ xã hội cộng
sản chủ nghĩa như Mác và Ăngghen dự báo, khi đó cơ sở kinh tế xã hội của
đói nghèo mới khơng cịn tồn tại.
1.2. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN PHẢI XĨA ĐĨI GIẢM
NGHÈO TRONG TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở
NƯỚC TA
1.2.1. Xóa đói, giảm nghèo khơng chỉ là mục tiêu mà cịn là tiền
đề giúp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Hiện nay, chúng ta đang phấn đấu xây dựng nền kinh tế nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước và định
hướng XHCN.
Nhiều nhà nghiên cứu trong nước cũng như trên thế giới đã khẳng
định, sự phân hóa giàu nghèo là tất yếu, gắn liền với sự phát triển của kinh
tế thị trường. Điều đó do chính những qui luật của thị trường chi phối. Nếu
xem xét trên một giác độ khác, thì sự phân hóa giàu nghèo là một hệ quả

của q trình tăng trưởng kinh tế, nó có tác dụng như một động lực thúc
đẩy các thành viên trong xã hội khai thác, sử dụng tốt hơn mọi nguồn lực,
phát huy mọi tài năng sáng tạo cho tăng trưởng kinh tế. Do đó, với một nền
kinh tế có điểm xuất phát thấp, phân hóa giàu nghèo có xu hướng tăng
nhanh trong quá trình đẩy mạnh tăng trưởng là một khách quan kinh tế.
Trong khi đó, ngân sách chính phủ của các nước nghèo thường khó khăn,
24


thâm hụt, chưa thể hỗ trợ mạnh cho đối tượng đói nghèo. Đến một trình độ
phát triển nhất định, sự phân hóa giàu nghèo sẽ giảm dần do ngân sách của
chính phủ đã đủ mạnh và có thể can thiệp có hiệu quả nhằm hạn chế tình
trạng đói, nghèo. Sự phân tích về lý thuyết cũng như thực tế đều cho thấy
vai trị quyết định của chính phủ trong việc hạn chế phân hóa giàu nghèo và
khắc phục đói nghèo. Tuy nhiên, sự trợ giúp của chính phủ cho sự đói,
nghèo của một bộ phận cộng đồng có mang tính triệt để hay khơng cịn tùy
thuộc vào bản chất xã hội mà nhà nước đó đại diện và theo đuổi. Trong chế
độ TBCN, tất cả mọi người đều hoạt động theo mục đích tối đa hóa lợi ích,
đặc biệt là các nhà tư bản bằng mọi cách tối đa hóa lợi nhuận thì khơng thể
thiếu một đội qn thường xun sống trong trình trạng nghèo đói như một
"đội hậu bị cơng nghiệp" cho dù đó là nhà nước phúc lợi.
Nước ta có điểm xuất phát thấp, lại đang trong quá trình chuyển từ
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những năm qua, quá trình này
đã mang lại những kết quả rất quan trọng, khẳng định sự đúng đắn của
đường lối đổi mới của Đảng ta, nhưng cũng cho thấy tình trạng phân hóa
giàu nghèo đang gia tăng như một hệ quả tất yếu của quá trình phát triển.
Đi liền với quá trình tăng trưởng kinh tế, Đảng và Nhà nước đã thực hiện
những biện pháp nhằm hạn chế sự phân hóa giàu nghèo và XĐGN. Tuy
nhiên do quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường mới chỉ ở giai đoạn

đầu, kinh tế thị trường còn rất sơ khai, non yếu, cùng với quá trình phát
triển kinh tế thị trường là quá trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
nên tình trạng phân hóa giàu nghèo ở Việt Nam tiếp tục gia tăng trái với
bản chất của nhà nước và mục tiêu của nhà nước theo đuổi. Điều đó đặt ra
cho chúng ta những thách thức rất lớn, tuy nhiên sự thách thức có nguyên
nhân chủ yếu từ những nhân tố và giải pháp cho sự phát triển.
Một mặt, nếu không tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới phát triển
nền kinh tế thị trường, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa thì khơng
25


×