Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

BÀI học KINH NGHIỆM về “ xây DỰNG đội NGŨ cán bộ đáp ỨNG yêu cầu của CHIẾN TRANH ” TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG mỹ cứu nước (1954 – 1975) CÔNG tác xây DỰNG đội NGŨ cán bộ QUÂ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.89 KB, 28 trang )

BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ “ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ ĐÁP
ỨNG YÊU CẦU CỦA CHIẾN TRANH ” TRONG CUỘC KHÁNG
CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954 – 1975) .CÔNG TÁC XÂY
DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUÂN ĐỘI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY.

Quân đội nhân dân Việt nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng cộng sản
Việt nam và nhân dân chăm lo tổ chức và lãnh đạo, cùng với sự trưởng thành và
chiến thắng của quân đội, công tác đảng, cơng tác chính trị cũng được hình thành
và ngày càng phát triển cả về lý luận, tổ chức và hoạt động thực tiễn. Nó đã góp
phần to lớn vào việc giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân
đội, giữ vững và phát huy bản chất giai cấp công nhân và truyền thống cách
mạng vẻ vang của quân đội, xây dựng quân đội vững mạnh về mọi mặt, đồn kết
nội bộ, gắn bó mật thiết với nhân dân…làm cho quân đội không ngừng trưởng
thành và chiến thắng. Những hoạt động cơng tác đảng, cơng tác chính trị của
quân đội ta và những bài học kinh nghiệm cơng tác đảng, cơng tác chính trị trong
thời kỳ kháng chiến chống Pháp cũng như trong kháng chiến chống Mỹ cứu
nước có ý nghĩa sâu sắc, có giá trị to lớn trong sự nghiệp xây dựng, chiến đấu và
chiến thắng của quân đội ta qua các giai đoạn lịch sử trước đây cũng như trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Những bài học kinh nghiệm công tác đảng, cơng tác chính trị của qn đội ta
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 – 1975) đã rút ra những bài
học kinh nghiệm sau:
- Quán triệt đường lối chính trị của Đảng, xây dựng quyết tâm đánh thắng
giặc Mỹ xâm lược.
- Phân tích rõ kẻ thù, đánh giá đúng so sánh lực lượng địch, ta.


-2-

- Quán triệt đường lối quân sự của Đảng, phát động quần chúng sáng tạo


cách đánh, vừa chiến đấu, vừa xây dựng và phát triển lực lượng.
- Xây dựng hệ thống tổ chức Đảng trong quân đội vững mạnh trong sạch có
sức chiến đấu cao và trình độ lãnh đạo mọi mặt làm cơ sở để xây dựng quân đội
vững mạnh về chính trị.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của chiến tranh.
- Thực hiện quân dân một ý chí ra sức xây dựng và phát huy sức mạnh của
hậu phương để đánh thắng giặc Mỹ.
- Nâng cao tinh thần quốc tế cơ sản chân chính, đoàn kết liên minh chiến đấu
với quân, dân Lào và Cămpuchia anh em.
Tổng kết cơng tác đảng, cơng tác chính trị trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước từ năm 1954 - 1975 của quân đội ta đã rút ra được nhiều bài học kinh
nghiệm quý báu có giá trị thực tiễn sâu sắc. Trong đó bài học xây dựng đội ngũ
cán bộ đáp ứng yêu cầu của chiến tranh là bài học thành công của công tác cán
bộ của Đảng trong quân đội đã xây dựng được đội ngũ cán bộ phù hợp, chất
lượng cao, cơ cấu hợp lý đáp ứng yêu cầu xây dựng chiến đấu trong suốt cuộc
kháng chiến. Xây dựng đội ngũ cán bộ là khâu then chốt trong xây dựng Đảng,
xây dựng quân đội. Đồng thời còn là một trong những bài học rất quan trọng cho
quân đội ta trong giai đoạn hiện nay, để xây dựng một đội ngũ cán bộ vững mạnh
làm nòng cốt cho sự nghiệp xây dựng và chiến đấu của quân đội, đặc biệt trong
xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Nắm vững tầm quan trọng của công tác cán bộ, trong suốt cuộc kháng
chiến, các tổ chức đảng trong quân đội đã thường xuyên lãnh đạo chặt chẽ và
phát huy trách nhiệm của các cấp, các ngành thực hiện theo chức trách. Đã xây
dựng được đội ngũ cán bộ có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu của cách
mạng trong từng giai đoạn lịch sử bao giờ cũng là khâu then chốt trong xây


-3-

dựng Đảng, xây dựng quân đội. Cán bộ là người tổ chức, thực hiện biến mọi

đường lối, chủ trương chính sách của Đảng thành hiện thực và góp phần xây
dựng, cụ thể hoá đường lối, chủ trương của Đảng.
Vấn đề này được xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trị
của đội ngũ cán bộ và cơng tác cán bộ. Theo quan điểm của V.I.Lênin đội ngũ cán
bộ có vai trị rất to lớn, đặc biệt khi đội ngũ đó được lãnh đạo, được tổ chức sẽ
tạo nên một sức mạnh to lớn. V.I.Lênin đã chỉ rõ “Trong lịch sử, chưa hề có
một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó khơng đào tạo ra được
trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong
có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” 1. Thực tế bằng cách mạng
tháng Mười Nga năm 1917, V.I.Lênin tiến hành đánh giá sắp xếp lại cán bộ,
đào tạo bồi dưỡng cán bộ theo yêu cầu và đòi hỏi một nhiệm vụ mới.
V.I.Lênin khẳng định: “Nghiên cứu con người tìm những cán bộ có bản lĩnh.
Hiện nay đó là then chốt; nếu khơng thế thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết
định sẽ chỉ là mớ giấy lộn”2. Vì vậy, kinh nghiệm thực tiễn đã chỉ rõ “sự chính
xác của đường lối, chính sách và sự thành cơng của đường lối chính sách ấy
đều tuỳ thuộc cuối cùng ở chất lượng của công tác cán bộ”. Khi người ta nói
cơng tác cán bộ quyết định hết thảy là ở trên ý nghĩa đó.
Kế thừa những tư tưởng của V.I.Lênin về vai trò của những người cách
mạng. Hồ Chí Minh đã thấy rõ vai trò của đội ngũ cán bộ và tầm quan trọng
của cơng tác cán bộ. Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi
việc”, “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém” 3.
Thông qua đội ngũ cán bộ do Đảng xây dựng và rèn luyện, các quan điểm,
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, lý tưởng cách mạng của Đảng
được mọi quân nhân quán triệt và thực hiện nghiêm túc. Vì vậy, chăm lo xây
1
2
3

V.I.Lênin, tồn tập, Nxb TB, M 1974, tập 4, tr 473
V.I.Lênin, toàn tập, Nxb TB, M 1974, tập 44, tr 449

Hồ Chí Minh, tồn tập, Nxb CTQG, H2002, t5, tr240.


-4-

dựng đội ngũ cán bộ là công việc gốc của Đảng, có ý nghĩa quyết định đế sự
lãnh đạo của Đảng và sự trưởng thành, chiến thắng của quân đội.
Trong quân đội, đội ngũ cán bộ là lực lượng nòng cốt, quyết định hiệu quả
của mọi cuộc chiến tranh, quyết định sức mạnh của quân đội. Sự vững mạnh của
đội ngũ cán bộ qn đội khơng chỉ góp phần tạo ra chất lượng cơ bản, năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, bảo đảm định hướng chính trị, sự kiên định
vững vàng của Đảng mà còn là lực lượng đi tiên phong phong trào bảo vệ nền độc
lập dân tộc, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc. Nắm vững vai trị
quan trọng đó của đội ngũ cán bộ và kế thừa những kinh nghiệm quý báu trong
cuộc kháng chiến chống Pháp, cho nên trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, các tổ chức đảng trong quân đội đã thường xuyên lãnh đạo chặt chẽ và
phát huy trách nhiệm của các cấp, các ngành thực hiện theo chức trách. Đã xây
dựng được đội ngũ cán bộ đảm bảo được số lượng, chất lượng, cơ cấu hợp lý đáp
ứng được yêu cầu xây dựng và chiến đấu của quân đội ta.
Từ sau kháng chiến chống Pháp, đội ngũ cán bộ quân đội chủ yếu là binh
chủng bộ binh. Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, do thực tế yêu cầu nhiệm
vụ xây dựng và chiến đấu của quân đội đòi hỏi. Quân đội ta vừa chiến đấu vừa
xây dựng, đào tạo qua nhiều hình thức tại trường, tại chiến trường, ta đã xây dựng
được một đội ngũ cán bộ của quân đội tương đối chính quy và hiện đại, có nhiều
quân, binh chủng, có đủ các ngành nghề kỹ thuật gồm cán bộ chính trị, quân sự,
chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ và cán bộ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy,
đáp ứng được yêu cầu của quân đội, bảo đảm cho quân đội hoàn thành xuất sắc
mọi nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho.
Công tác cán bộ vừa tập trung bồi dưỡng phẩm chất năng lực cho cán bộ
hiện có, vừa tích cực đào tạo đội ngũ kế tiếp, tiến hành điều chỉnh cán bộ cho các

đơn vị chủ lực đủ biên chế, bổ sung thêm cán bộ kỹ thuật binh chủng cho các


-5-

chiến trường. Qua kinh nghiệm thực tiễn, để bảo đảm xây dựng được một đội ngũ
cán bộ vừa đáp ứng nhu cầu xây dựng và chiến đấu của quân đội trong giai đoạn
hiện nay, cần nắm vững những bài học cơ bản sau đây:
- Xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, quân sự
của Đảng trong từng giai đoạn cách mạng, thời bình phải chuẩn bị cho thời chiến,
đảm bảo đánh thắng kẻ thù đó là u cầu cao nhất của cơng tác tổ chức cán bộ.
Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước công tác xây dựng đội ngũ
cán bộ luôn xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ chính trị, quân sự của Đảng, yêu cầu
nhiệm vụ chiến đấu và phát triển lực lượng của quân đội đồng thời có dự kiến kế
hoạch cho sự phát triển lâu dài của quân đội, quán triệt yêu cầu thời bình chuẩn bị
cho thời chiến, giai đoạn trước chuẩn bị cho giai đoạn sau.
Trước sự thay đổi về nhiệm vụ chính trị, quân sự của Đảng, khi bước vào
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nghị quyết 12 của Trung ương Đảng
(3/1957) đã xác định: "Nhiệm vụ trước mắt và trong thời gian nhất định của chúng
ta là tích cực phấn đấu để tiếp tục thực hiện và hoàn thành thắng lợi kế hoạch xây
dựng quân đội nhân dân, làm cho quân đội ta trở thành một quân đội cách mạng,
chính quy, tương đối hiện đại, đồng thời đặt cơ sở đầu tiên cho việc xây dựng các
quân chủng, binh chủng khác". Căn cứ vào Nghị quyết Trung ương 12, Quân uỷ
Trung ương đã có nghị quyết và kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị, quân sự của Đảng trong giai đoạn lịch sử mới của
cách mạng. Nghị quyết chỉ rõ: "Xác định xây dựng đội ngũ cán bộ và nhân viên
kỹ thuật có số lượng đủ, chất lượng cao, cơ cấu thích hợp đáp ứng yêu cầu trước
mắt, có dự trữ cho phát triển là khâu then chốt nhất của công cuộc xây dựng quân
đội". Đội ngũ cán bộ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp đã được lần lượt
cử về đào tạo cơ bản tại các học viện, nhà trường quân đội. Nhờ đó, trình độ mọi

mặt của cán bộ được nâng lên một bước, cơ bản đáp ứng yêu cầu xây dựng quân


-6-

đội chính quy hiện đại và nhiệm vụ xây dựng, chiến đấu bảo vệ Miền Bắc XHCN,
giải phóng Miền Nam. Với phương châm “ Bồi dưỡng tương đối hệ thống, cơ bản
và tồn diện” nhằm đối tượng chính là cán bộ trung cao cấp. Ta đã tiến hành bồi
dưỡng bằng nhiều biện pháp: mở các trường đã có để tăng cường lưu lượng học
viên; mở trường bổ túc cho cán bộ trung cao cấp và mở thêm trường của các binh
chủng, trường văn hoá…Đồng thời đã động viên và tổ chức một phong trào sơi
nổi và có nền nếp việc học tập tại chức về chính trị quân sự, chuyên mơn và văn
hố. Mặt khác, ta cũng đã cử một số khá đơng cán bộ đi học các trường ngồi
nước. Do đó trình độ cán bộ được nâng lên rõ rệt cả về chính trị, quân sự và kiến
thức văn hố. Nhờ có chủ trương đúng đắn và sự chấp hành tích cực nghiêm chỉnh
của các cấp, nên cơng tác cán bộ cơ bản đáp ứng được yêu cầu nhiều mặt của việc
xây dựng quân đội, củng cố lực lượng; xây dựng các đơn vị mới, nhất là các binh
chủng kỷ thuật và có dự trữ cho dài hạn, góp phần vào cơng cuộc xây dựng kinh
tế và văn hố trên miền Bắc. Tuy nhiên công tác cán bộ cũng cịn bọc lộ những
thiếu sót như: chưa dự kiến sát với yêu cầu phát triển của Miền nam; một thời gian
sau cải cách ruộng đất còn những biểu hiện thành kiến hẹp hòi nhấn mạnh một
chiều thành phần xuất thân của cán bộ…
Sau khi có Nghị quyết TW 15 (1-1959) về cách mạng Miền Nam, nhiệm vụ
của quân đội đặt ra những yêu cầu ngày càng cao, trước hết là yêu cầu về cán bộ:
Năm 1959 ta bắt đầu đưa từng bộ phận nhỏ cán bộ tăng cường vào Miền Nam, từ
1960 trở đi nhiệm vụ phát triển đã đưa cả Bộ tư lệnh một số quân khu, các khung
cán bộ trung đoàn, sư đoàn; đến năm 1963- 1964 đưa cả cấp trung đoàn, sư đoàn
đủ quân tăng cường cho Miền Nam. Ở Miền Bắc nhiều sư đoàn bộ binh và các
quân binh chủng được xây dựng mới và mở rộng, càng về cuối cuộc kháng chiến
nhu cầu đảm bảo cán bộ càng lớn, đòi hỏi số lượng, chất lượng cán bộ rất cao.

Đáp ứng địi hỏi đó cơng tác cán bộ trong quân đội đã quán triệt và thực hiện tốt


-7-

các chủ trương chiến lược của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu
kháng chiến, triển khai nhiều biện pháp tích cực nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ
lực lượng vũ trang. Kết quả, đội ngũ cán bộ tăng gấp 5 lần; cán bộ các quân chủng
binh chủng tăng gấp 10 lần và đã xây dựng được đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất
năng lực, rất mực trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc,
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao cho.
Với kết quả đó là do ta đã có dự kiến, có kế hoạch cho sự phát triển, thực
hiện được yêu cầu thời bình chuẩn bị cho thời chiến, giai đoạn trước chuẩn bị cho
giai đoạn sau. Trong các kế hoạch phát triển cán bộ có yêu cầu chỉ tiêu chất lượng
ngày càng cao, có tỷ lệ thích hợp với tổng qn số, có cơ cấu cân đối giữa các cấp,
các ngành và các loại cán bộ. Công tác huấn luyện đào tạo bồi dưỡng cán bộ trong
10 năm hồ bình ở miền Bắc đã đạt kết quả tốt, chẳng những tạo được lực lượng
nòng cốt để phát triển lực lượng trong chiến tranh mà còn tạo ra chất lượng mới
của sức mạnh chiến đấu của qn đội tương đối chính quy hiện đại. Cơng tác cán
bộ đã kết hợp chặt chẽ với công tác xây dựng Đảng với việc kiện toàn tổ chức
lãnh đạo và rèn luyện đảng viên nên đã nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ.
Nhất là từ năm 1958 ta đã thực hiện luật phục vụ sĩ quan trong tồn qn.
Việc đề bạt, bổ nhiệm, các chế độ, chính sách và việc khen thưởng kỷ luật cán
bộ… được đưa vào nề nếp. Công tác cán bộ đã từng bước được xây dựng theo nề
nếp chính quy. Từ năm 1965 đến năm 1975 cả nước có chiến tranh, cơng tác cán
bộ đã chuyển hướng sang thời chiến. Nhìn chung, ta đã bảo đảm có đủ cán bộ đáp
ứng được các giai đoạn chiến tranh, bảo đảm quân đội ta lần lượt đánh bại các
chiến lược chiến tranh như chiến tranh đơn phương, chiến tranh đặc biệt, chiến
tranh cục bộ và Việt Nam hóa chiến tranh của đế quốc Mỹ trên chiến trường miền
Nam và hai lần đánh bại chiến tranh phá hoại của chúng trên miền Bắc.



-8-

Từ những kết quả đã đạt được đó, ta có thể khẳng định công tác cán bộ trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã đạt kết quả rất lớn. Ta đã xây dựng được
một đội ngũ cán bộ rất mực trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của
nhân dân, chấp hành nghiêm đường lối chính trị, quân sự, quốc tế của Đảng, đánh
thắng quân Mỹ, nguỵ và tích luỹ nhiều kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ huy, hồn thành
xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho.
- Nắm vững và chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, phương hướng giai cấp,
tiêu chuẩn chính sách cán bộ của Đảng, vận dụng đúng đắn phù hợp với từng giai
đoạn cách mạng.
Đáp ứng yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ trong kháng chiến chống Mỹ,
công tác cán bộ trong quân đội luôn chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, phương
hướng giai cấp, tiêu chuẩn chính sách cán bộ của Đảng, đồng thời vận dụng sát
hợp với từng giai đoạn cách mạng. Quân uỷ trung ương đã xác định "Lấy công
nông làm cốt cán, hết sức mạnh dạn đề bạt cán bộ cơng nơng, đồng thời cất nhắc
thích đáng cán bộ các thành phần khác đã qua thử thách, luôn luôn tiến bộ, trung
thành với cách mạng". Nghị quyết Đại hội III của Đảng (9/1960) đã chỉ rõ: "Chú
trọng lựa chọn, bồi dưỡng và đề bạt cán bộ trong những người ưu tú xuất thân từ
công nhân và nông dân, đồng thời lựa chọn bồi dưỡng và đề bạt cán bộ trong
những người ưu tú, xuất thân từ trí thức có liên hệ chặt chẽ với cơng nơng, một
lịng một dạ phục vụ công nông". Các nghị quyết tiếp theo của quân uỷ trung
ương và Nghị quyết về công tác cán bộ năm 1973 đều khẳng định lại quan điểm
trên và nhấn mạnh: "Đường lối giai cấp trong công tác cán bộ là đường lối của
giai cấp công nhân… Phải chú trọng lựa chọn, đào tạo những người ưu tú xuất
thân từ những thành phần cơ bản trong xã hội, từ các tầng lớp nhân dân lao động
ln ln gắn bó với Đảng với cách mạng. Các cấp uỷ đảng phải tích cực đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ xuất thân là công nhân, chủ yếu là công nhân đại công



-9-

nghiệp, công nhân kỹ thuật, công nhân nhiều đời, để đưa vào cơ quan lãnh đạo
của Đảng và Nhà nước. Ở nông thôn, phải chú trọng đào tạo, bồi dưỡng các xã
viên ưu tú xuất thân từ nông dân lao động bổ sung vào đội ngũ cán bộ". Cho nên
trong kháng chiến chống Mỹ, quân đội ta đã chấp hành nghiêm chỉnh đường lối
phương hướng giai cấp, tiêu chuẩn chính sách trong công tác cán bộ của Đảng
để vận dụng vào công tác cán bộ trong quân đội luôn đúng đắn phù hợp với từng
giai đoạn cách mạng. Tháng 3 năm 1959 Tổng Quân uỷ đã xác định đường lối
công tác cán bộ của Đảng trong quân đội là "lấy công nông làm cốt cán". Hướng
vào giai cấp công nhân và nông dân để lựa chọn, bồi dưỡng, đề bạt cán bộ. Hội
nghị Quân uỷ Trung ương (11/1964) đã cụ thể hoá thêm: "Phải ra sức đào tạo số
cán bộ mới bản thân là công nhân, nông dân ưu tú và con cán bộ cách mạng có
phẩm chất chính trị tốt, trẻ, khoẻ, có văn hố, đã qua thử thách, rèn luyện trong
chiến đấu… Mặt khác, phải hết sức bồi dưỡng và giữ gìn cán bộ có kinh nghiệm
chiến đấu… làm nòng cốt cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ".
Từ việc quán triệt đường lối công tác cán bộ trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước, quân đội ta đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu
của đường lối nhiệm vụ chính trị và quân sự của Đảng, một đội ngũ cán bộ tin cậy
luôn luôn trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân, vượt qua
được mọi thử thách, làm nòng cốt trong sự nghiệp chiến đấu, xây dựng của quân
đội, bảo đảm cho quân đội ta đánh thắng giặc Mỹ xâm lược và hoàn thành thắng
lợi nhiệm vụ dân tộc và nghĩa vụ quốc tế mà Đảng và Nhà nước giao cho.
Trong quá trình chấp hành đường lối giai cấp trong công tác cán bộ, ta đã
đấu tranh với những biểu hiện coi thường cơng nơng, xố nhồ giai cấp lỏng lẻo
về chính trị. Phê phán hiện tượng chỉ chú trọng thành phần, coi nhẹ tiêu chuẩn,
phê phán khuynh hướng hẹp hịi, thành kiến khơng đánh giá đúng tính tích cực
cách mạng của trí thức, tiểu tư sản ở nước ta.



- 10 -

Cùng với việc chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, phương hướng giai cấp,
công tác cán bộ trong quân đội cịn xác định rõ tiêu chuẩn chính sách để lựa chọn
bồi dưỡng, đề bạt và sử dụng cán bộ. Tiêu chuẩn người cán bộ bao gồm cả hai
mặt: phẩm chất và năng lực. Phẩm chất và năng lực phải tương xứng với yêu cầu,
nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn, thể hiện tập trung ở hoàn thành nhiệm
vụ được giao. Vận dụng và chấp hành những tiêu chuẩn cán bộ của Đảng vào
quân đội, từng thời kỳ Quân uỷ Trung ương đã xác định cụ thể tiêu chuẩn của cán
bộ quân đội. Bao gồm cả tiêu chuẩn phẩm chất và năng lực, đồng thời nắm vững
yêu cầu có tính nguyên tắc của tiêu chuẩn để tiếp tục bổ sung, cụ thể hoá cho phù
hợp với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ quân đội trong từng giai đoạn để
lựa chọn, bồi dưỡng, đề bạt, sắp xếp sử dụng cán bộ.
Tiêu chuẩn không phải là cố định mà phẩm chất và năng lực của cán bộ luôn
phát triển theo yêu cầu nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng, đồng thời phải cụ
thể hoá theo yêu cầu nhiệm vụ của từng cấp, từng ngành và từng lĩnh vực. Nếu đề
ra q cao sẽ thốt ly thực tế, khơng tìm ra cán bộ, đặt thấp hoặc châm chước tiêu
chuẩn cán bộ sẽ ảnh hưởng đến chất lượng, có trường hợp sẽ phạm sai lầm. Tiêu
chuẩn vừa là căn cứ để bồi dưỡng, lựa chọn, đào tạo cán bộ, vừa là căn cứ để cán
bộ rèn luyện, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ theo chức trách.
Từ quan điểm đúng đắn đó mà qua các thời kỳ của cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước tiêu chuẩn cán bộ luôn được bổ sung và cụ thể hoá cho phù hợp với
yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ quân đội ngày càng phát triển. Song phải
tuân theo những yêu cầu cơ bản có tính ngun tắc của tiêu chuẩn là: Lịng trung
thành tuyệt đối với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, với sự nghiệp cách mạng của
nhân dân, hồn tồn nhất trí về đường lối chính trị, qn sự của Đảng. Có khả
năng tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng, chỉ thị mệnh



- 11 -

lệnh của cấp trên. Có ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần đồn kết. Có tinh thần
quốc tế vơ sản. Có lối sống cách mạng lành mạnh.
Đối với cơng tác chính sách cán bộ bao gồm nhiều mặt: tuyển lựa, đào tạo
bồi dưỡng, sắp xếp, sử dụng, chăm sóc, giữ gìn cán bộ. Nhưng chủ yếu nhất là
đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ, chăm sóc cán bộ về tinh thần, vật chất,
nhằm tạo điều kiện cho cán bộ hoàn thành nhiệm vụ. Quân đội ta đã chấp hành
tốt chính sách cán bộ của Đảng trong chiến tranh. Đã chú trọng và không
ngừng bồi dưỡng cán bộ cả về phẩm chất và năng lực, phát huy cán bộ cũ làm
nòng cốt, đồng thời mạnh dạn đề bạt, sử dụng cán bộ mới, cán bộ trẻ trưởng
thành qua chiến đấu được rèn luyện thử thách tốt, tích cực bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ kế tiếp, làm trẻ hoá đội ngũ cán bộ nhất là cán bộ cơ sở. Chú trọng chăm
lo sức khoẻ cán bộ, gia đình hậu phương cán bộ được quan tâm thực hiện để
động viên cán bộ thực hiện nhiệm vụ chức trách của mình.
- Nắm vững khâu trung tâm là đào tạo, bồi dưỡng khơng ngừng nâng cao
trình độ về mọi mặt của đội ngũ cán bộ và phải thường xuyên củng cố các
trường quân sự.
Quán triệt nghị quyết của Đảng về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ. Trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ công tác cán bộ rất coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, không ngừng nâng cao chất lượng mọi mặt của đội ngũ cán bộ. Bằng
nhiều hình thức, biện pháp phong phú như: vừa đào tạo tại trường, tại chức vừa
rèn luyện trong thực tế chiến đấu công tác; thông qua các cuộc vận động xây dựng
đơn vị, giáo dục, rèn luyện đảng viên, cán bộ và các hình thức sơ kết, tổng kết, rút
kinh nghiệm công tác, chiến đấu, hoặc tổ chức kèm cặp giúp đỡ lẫn nhau, trưởng
giúp phó, trên giúp dưới…Do đó đã xây dựng được đội ngũ cán bộ có bản lĩnh
vững vàng, có kiến thức tồn diện, có năng lực tổ chức thực hành giỏi đáp ứng
yêu cầu xây dựng và chiến đấu của quân đội trong suốt cuộc kháng chiến.



- 12 -

Từ tháng 8 năm 1954 đến 1960 chúng ta đã tập trung đào tạo bồi dưỡng
nâng cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ cán bộ theo hướng lấy đào tạo bổ túc tại
trường là chính và cử một số cán bộ đi học ở nước ngoài. Kết quả đã đào tạo được
41.375 cán bộ, trong đó có 3.900 cán bộ đi học ở nước ngoài ( đào tạo 58%; bổ
túc 42%; cán bộ văn hoá cấp I năm 2954 là 76,9%, năm 1964 chỉ còn 1,8%, cấp II
từ 20,9% tăng lên 58,9%, cấp III từ 2,9% tăng lên 34,4%, trình độ đại học từ 0,2%
tăng lên 4,8%).Từ tháng 3 năm 1965 đến 1973, thời gian này cả nước có chiến
tranh, ta chủ trương lấy bồi dưỡng ngắn hạn là chính. Từ 1973 trở đi, thời gian này
địch ngừng ném bom miền Bắc, ta chủ trương một mặt tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng
ngắn hạn đề đáp ứng yêu cầu chiến trường, một mặt mở các lớp dài hạn theo
hướng cơ bản, tồn diện với tỷ lệ thích hợp. Từ năm 1973 đến 1975 tiếp tục đào
tạo, bổ túc ngắn hạn, kết hợp với đào tạo cơ bản dài hạn.
Từ thực tế kinh nghiệm chỉ rõ: Muốn đào tạo, bồi dưỡng không ngừng
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, phải biết vận dụng nhiều hình thức biện
pháp. Vừa đào tạo tại trường, tại chức, vừa rèn luyện trong thực tế chiến đấu,
công tác, vừa thông qua các cuộc vận động xây dựng đơn vị, các hình thức sơ,
tổng kết kinh nghiệm công tác, kinh nghiệm chiến đấu hoặc tổ chức việc kèm
cặp, giúp đỡ nhau, trưởng giúp phó, trên giúp dưới. Đồng thời qua kinh
nghiệm thực tiễn nhiều năm, quá trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ cần nắm
vững những u cầu có tính ngun tắc như:
Đào tạo bồi dưỡng cán bộ trước hết phải nắm vững yêu cầu nhiệm vụ chiến
đấu và xây dựng của quân đội đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về kiện toàn, củng
cố tổ chức lãnh đạo và tổ chức chỉ huy các cấp.
Tích cực bồi dưỡng đội ngũ cán bộ hiện có, đồng thời phải đẩy mạnh đào tạo
cán bộ mới, nhất là cán bộ lãnh đạo, cán bộ chỉ huy, làm cho đội ngũ cán bộ được
tôi luyện trong chiến đấu, có lực lượng kế tiếp hùng hậu.



- 13 -

Lấy việc đào tạo trong nước là chính, đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của
các nước anh em chủ yếu là cán bộ khoa học kỹ thuật, nhất là về các ngành ta
chưa có điều kiện.
Xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ thường trực mạnh, đồng thời kết hợp
với các ngành của Đảng và Nhà nước, xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ dự
bị mạnh. Trong chiến tranh, chiến trường là nơi đào tạo, rèn luyện thử thách toàn
diện người cán bộ. Trong hoà bình thì thực tế các đơn vị là nơi kiểm nghiệm đánh
giá kết quả công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ của các cấp, các nhà trường. Trong
mọi tình huống vẫn phải nắm vững đối tượng chủ yếu là đào tạo cán bộ chủ trì các
cấp, cán bộ chuyên mơn kỹ thuật có trình độ đầu ngành và đơng đảo đội ngũ cán
bộ cơ sở. Phải quản lý chặt chẽ khâu đầu vào và đầu ra của đội ngũ cán bộ. Công
tác cán bộ gắn chặt với công tác nhà trường. Phải thường xuyên củng cố nâng cao
chất lượng các học viện nhà trường quân sự.
- Tăng cường sự lãnh đạo của đảng uỷ và trách nhiệm của thủ trưởng các
cấp trong công tác cán bộ, chấp hành nguyên tắc chặt chẽ, xây dựng nề nếp,
chế độ thống nhất.
Tiến hành công tác cán bộ là trách nhiệm của cơ quan lãnh đạo các cấp, do
tập thể cấp uỷ quyết định. Những vấn đề cụ thể, đảng uỷ giao cho thường vụ
quyết định và chịu trách nhiệm trước đảng uỷ. Nguyên tắc này nhằm tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng về mặt tổ chức, bảo đảm xây dựng đội ngũ cán bộ đúng
đường lối, chính sách của Đảng, bảo đảm đoàn kết, thống nhất nội bộ, ngăn ngừa
và loại trừ những biểu hiện cá nhân cục bộ, bản vị, làm sai đường lối, quan điểm
của Đảng. Thủ trưởng các cấp phải chịu trách nhiệm trực tiếp về công tác cán bộ
trước đảng uỷ. Người chỉ huy và chính uỷ (chính trị viên) có trách nhiệm nắm
tình hình, nắm u cầu nhiệm vụ, đề xuất các phương án về công tác cán bộ để
đảng uỷ thảo luận và quyết định, sau đó tổ chức thực hiện.



- 14 -

Trong suốt cuộc kháng chiến, mọi vấn đề về công tác cán bộ trong quân đội
đều do Trung ương, trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư quyết định. Từ Quân uỷ
Trung ương đến cấp uỷ cơ sở thực hiện tốt chức năng trực tiếp đảm trách công tác
cán bộ theo phạm vi , quyền hạn được phân cơng phân cấp. Đã đề cao vai trị trách
nhiệm của thủ trưởng các cấp về công tác cán bộ. Tăng cường sự lãnh đạo của
đảng uỷ và trách nhiệm của thủ trưởng các cấp đối với công tác cán bộ được xuất
phát từ yêu cầu không ngừng nâng cao bản chất cách mạng và sức mạnh chiến
đấu toàn diện của quân đội cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Kinh nghiệm quản lý, xây dựng đội ngũ phải nhất quán theo một quy hoạch
thống nhất, thì mới phát huy được sức mạnh đồng bộ, tạo điều kiện cho đội ngũ
cán bộ và từng cán bộ trưởng thành phát triển hài hoà cả phẩm chất và năng lực.
Đánh giá cán bộ phải xem xét cả quá trình chiến đấu và tích luỹ nhưng chủ
yếu phải nhìn vào hiện tại, hướng vào tương lai và căn cứ chủ yếu vào hồn thành
nhiệm vụ được giao. Nếu chỉ nhìn vào q khứ không thấy đầy đủ hiện tại và khả
năng phát triển của người cán bộ, thì dễ bảo thủ, thành kiến xa rời thực tế, cách
xem xét như vậy là không khoa học.
Đề bạt, cất nhắc cán bộ phải xuất phát từ đường lối quan điểm của Đảng
về công tác cán bộ, phải trung thực khách quan công tâm, kiên quyết tránh
cảm tính cá nhân, thành kiến hẹp hịi, khơng để một cá nhân nào chi phối,
quyết định đi chệch ý định của tập thể.
Quản lý con người phải gắn với quản lý kiểm tra công việc và qua công việc
mà quản lý con người. Quản lý từng người, từng loại và toàn diện đội ngũ cán bộ,
để biết đúng và biết rõ lập trường quan điểm, khả năng hoàn thành nhiệm vụ, khả
năng phát triển của từng cán bộ, cũng như cả đội ngũ cán bộ để có chủ trương, kế
hoạch bồi dưỡng sử dụng cho đúng.



- 15 -

Thường xuyên tổ chức phê bình và tự phê bình trong đội ngũ cán bộ. Cấp uỷ
và thủ trưởng cấp trên trực tiếp nhận xét cán bộ cấp dưới về hoàn thành nhiệm vụ
được giao. Chi bộ đảng nhận xét ý thức Đảng, mối liên hệ với quần chúng và lối
sống của cán bộ. Bất kỳ cán bộ đảng viên nào dù ở cương vị nào đều phải sinh
hoạt trong một tổ chức cơ sở đảng. Chi bộ trực tiếp quản lý đảng viên cán bộ đó.
Coi trọng và làm tốt công tác nhận xét cán bộ hàng năm, qua các nhiệm vụ lớn,
qua các đợt hoạt động và các chiến dịch.
Quản lý cán bộ phải toàn diện, theo kế hoạch, cả đề bạt, đào tạo, sử dụng,
khen thưởng, phải có những biện pháp để thực hiện và kiểm tra việc thực hiện kế
hoạch. Kế hoạch phải thống nhất toàn quân, kế hoạch cấp dưới phải được cấp trên
phê chuẩn, phải khắc phục tình trạng mất cân đối, tuỳ tiện trong thực hiện, nhất là
về tiêu chuẩn và chỉ tiêu gây trở ngại cho việc quản lý và sử dụng cán bộ.
Đối với cơ quan làm công tác cán bộ phải chăm lo xây dựng cơ quan có đủ
trình độ, năng lực nghiệp vụ để giúp cấp uỷ và thủ trưởng tiến hành công tác cán
bộ. Phải làm tốt cơng tác kiện tồn cơ quan cán bộ lựa chọn đào tạo bồi dưỡng có
đủ phẩm chất và năng lực và phương pháp tác phong cơng tác, có đủ số lượng và
chất lượng, có người chuyên sâu, có nguồn kế tiếp và phải có tín nhiệm biết lắng
nghe ý kiến phê bình của các cấp và đơng đảo cán bộ ở đơn vị.
Tóm lại, quân đội nhân dân Việt Nam là công cụ bạo lực chủ yếu của Đảng,
của Nhà nước, của chế độ. Cán bộ trong lực lượng vũ trang là những người được
Đảng giáo dục, rèn luyện và giao cho trách nhiệm tập hợp, đoàn kết cán bộ,
chiến sĩ; tổ chức lãnh đạo và chỉ huy họ thực hiện thắng lợi mọi đường lối chủ
trương, chính sách của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng lực lượng
vũ trang nhân dân. Thông qua đội ngũ cán bộ mà Đảng thực hiện việc lãnh đạo
trực tiếp, tồn diện về mọi mặt đối với qn đội. Vì vậy, xây dựng đội ngũ cán
bộ quân đội trung thành, có phẩm chất, năng lực để lãnh đạo, tổ chức chỉ huy lực



- 16 -

lượng vũ trang là vấn đề hết sức căn bản của cách mạng, là một mặt quan trọng
trong quá trình xây dựng lực lượng vũ trang.
Bài học kinh nghiệm về “xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của chiến
tranh” trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nó có ý nghĩa thực tiễn hết
sức to lớn, đã góp phần đáp ứng được nhiệm vụ chiến đấu, xây dựng và yêu cầu
phát triển của chiến tranh. Đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ cốt cán cho cách
mạng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với cách mạng và nhân dân, ln nhất trí với
đường lối và kiên quyết thực hiện mọi nhiệm vụ của Đảng giao cho, dũng cảm
trong chiến đấu, tận tuỵ trong cơng tác, tích luỹ được nhiều kinh nghiệm về cơng
tác lãnh đạo, chỉ huy, chuyên môn nghiệp vụ. Đặc biệt thành công của công tác cán
bộ thời kỳ này là đã mở rộng đội ngũ cán bộ, cơ cấu hoàn chỉnh, chất lượng được
nâng cao. Tuy nhiên chúng ta cũng phải thấy được những mặt hạn chế, khuyết điểm
của công tác cán bộ thời kỳ chống Mỹ từ đó để tìm cách khắc phục. Song đánh giá
chúng ta có thể khẳng định: Cơng tác cán bộ có nhiều thành cơng rất cơ bản, đã góp
phần thúc đẩy tồn bộ các mặt xây dựng và chiến đấu của quân đội trong sự nghiệp
kháng chiến và tích luỹ được nhiều kinh nghiệm, góp phần vào việc xây dựng đội
ngũ cán bộ của Đảng trong quân đội trong giai đoạn cách mạng mới.
Ngày nay, tình hình, nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới đặt ra yêu cầu
rất cấp thiết đối với công tác cán bộ. Đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng được đội ngũ
cán bộ vừa “hồng” vừa “chuyên”, đó là những người “có đức, có tài, có phẩm chất
chính trị tốt, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng; hết lịng phấn đấu vì lợi
ích của nhân dân, của dân tộc; có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định lý tưởng
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; khơng dao động trước mọi biến cố phức
tạp, có đủ năng lực thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng và pháp


- 17 -


luật của Nhà nước, có nhân cách và lối sống mẫu mực, trong sáng, có ý thức tổ
chức kỷ luật cao, tơn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân.”1
Công tác cán bộ (CTCB) trong quân đội là một bộ phận hợp thành công tác
cán bộ của Đảng; một nội dung quan trọng của công tác Đảng, công tác chính trị
trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Nhiệm vụ của CTCB là tập trung xây dựng
đội ngũ cán bộ (ĐNCB) qn đội có phẩm chất chính trị vững vàng, kiên định,
tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân; có đạo đức cách mạng
trong sáng, ý thức tổ chức, kỷ luật cao; có trình độ, năng lực lãnh đạo, chỉ huy,
quản lý giỏi; có phong cách, tác phong công tác mẫu mực;... đáp ứng yêu cầu xây
dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại,
hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Trách nhiệm của cấp ủy và người
chỉ huy các cấp là phải thường xuyên nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng
về CTCB; đồng thời, căn cứ vào đặc điểm, yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội
trong từng thời kỳ để có chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo CTCB đúng đắn,
phù hợp, tạo điều kiện cho ĐNCB quân đội phát triển đồng bộ, vững chắc.
Nhận thức rõ vị trí quan trọng của ĐNCB và CTCB, 5 năm qua, các cấp ủy
Đảng trong quân đội đã quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội IX, Đại hội X của
Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ VII, VIII, Nghị quyết Trung
ương 3 (khóa VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước; tiếp tục quán triệt và thực hiện Nghị quyết số 93, 94 của Đảng
ủy Quân sự Trung ương (ĐUQSTƯ) về xây dựng ĐNCB trong thời kỳ mới.
Thường vụ ĐUQSTƯ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai toàn diện các mặt
CTCB: coi trọng giải quyết số lượng đáp ứng kịp thời các yêu cầu nhiệm vụ,
đồng thời tập trung nâng cao chất lượng; tăng cường quản lý cán bộ; coi trọng
chất lượng quy hoạch cán bộ; đổi mới chính sách cán bộ phù hợp với sự phát
1

Đảng CSVN, Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ X , Nxb CTQG, HN 2006, tr. 136.



- 18 -

triển của tình hình, nhiệm vụ; chú trọng tạo sự chuyển biến mới trong xây dựng
và huy động sĩ quan dự bị (SQDB). Để thực hiện có hiệu quả những nội dung,
yêu cầu đó, Thường vụ ĐUQSTƯ đã chú trọng lãnh đạo các cấp chấp hành
nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ; đề cao trách nhiệm của cấp uỷ, bí thư;
phát huy vai trị của cơ quan cán bộ trong thực hiện chức năng tham mưu, giúp
cơ quan chính trị, cấp ủy cùng cấp triển khai các mặt hoạt động CTCB đúng với
quan điểm, đường lối xây dựng ĐNCB của Đảng, của quân đội trong tình hình
mới. Đến nay, ĐNCB toàn quân đã được kiện toàn, bảo đảm tương đối đủ về số
lượng theo nhu cầu biên chế; cơ cấu từng bước được cân đối, phù hợp với chức
năng, nhiệm vụ của quân đội. Đặc biệt, chất lượng ĐNCB ngày càng tăng; tuyệt
đại đa số có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có phẩm chất
đạo đức tốt, lối sống trong sạch, lành mạnh, chấp hành nghiêm kỷ luật Đảng,
pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội; có tinh thần cảnh giác cách mạng cao, sẵn
sàng nhận và hồn thành mọi nhiệm vụ được giao; trình độ học vấn không
ngừng được nâng lên; năng lực lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, khả năng chuyên
môn, kỹ thuật, nghiệp vụ và phương pháp, tác phong công tác đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ.
Tuy nhiên, CTCB trong quân đội vẫn còn bộc lộ những hạn chế, khuyết
điểm. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cịn có khoảng cách so với yêu cầu thực
tiễn xây dựng quân đội. Đội ngũ cán bộ vừa thừa, vừa thiếu, nhưng số thừa không
bù được cho số thiếu. Xây dựng đội ngũ SQDB còn gặp khó khăn, vì đa số chưa
qua thực tế lãnh đạo, chỉ huy, quản lý. Việc nhận xét, đánh giá cán bộ ở một số nơi
còn chủ quan, phiến diện, thiếu nhất qn. Quy hoạch cán bộ cịn có biểu hiện
khép kín, cục bộ, chưa quan tâm đúng mức việc phát hiện, bồi dưỡng tài năng; độ
tuổi trung bình cịn cao; cịn có sự hụt hẫng về thế hệ. việc xét đề bạt, nâng lương,



- 19 -

phong, thăng quân hàm chưa coi trọng đầy đủ về tiêu chuẩn, trách nhiệm, còn
nặng về vận dụng. Các chế độ, chính sách ưu đãi đối với sĩ quan chưa được thể
chế hóa đầy đủ theo sự phát triển của tình hình; chưa giữ gìn và thu hút được
nhiều nhân tài vào quân đội. Năng lực tham mưu của cơ quan cán bộ các cấp chưa
đồng đều; phong cách, tác phong cơng tác cịn có những hạn chế...
Để thực hiện được mục tiêu: xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính
trị vững vàng, có đạo đức, lối sống lành mạnh, khơng quan liêu, tham nhũng,
lãng phí, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu tham nhũng, lãng phí; có tư duy
đổi mới, sáng tạo, có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghIệp hố, hiện đại hố; có tinh thần đoàn kết, hợp tác,
ý thức tổ chức, kỷ luật cao và phong cách làm việc khoa học, tôn trọng tập thể,
gắn bó với nhân dân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Đội ngũ cán
bộ có tính kế thừa và phát triển, có số lượng và cơ cấu hợp lý. Công tác đào
tạo, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ trong quân đội cần tuân thủ những nguyên tắc,
những vấn đề có tính quy luật, trên cơ sở vận dụng tổng hợp các chủ trương,
biện pháp, cách thức, với nhiều khâu, nhiều bước một cách hợp lý, có hiệu quả
trong từng hoàn cảnh, điều kiện cụ thể.
Trước hết, đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ trong quân
đội phải xuất phát từ đường lối chính trị, đường lối quân sự của Đảng, nhiệm vụ
của cách mạng, đồng thời nắm vững đặc điểm, yêu cầu nhiệm vụ của từng đơn vị.
Cán bộ vừa là sản phẩm của đường lối, vừa là người xây dựng đường lối,
bảo vệ, giữ vững, phát triển và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng.
Đường lối chính trị đúng là cơ sở, là phương hướng để xây dựng đội ngũ cán
bộ ngang tầm nhiệm vụ. Đường lối chính trị quyết định đường lối tổ chức cán
bộ, quyết định phương hướng lựa chọn, bố trí, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ, quyết
định nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Do đó, nắm vững đường lối chính trị



- 20 -

của Đảng để tiến hành xây dựng đội ngũ cán bộ là vấn đề có tính ngun tắc,
bảo đảm cho cơng tác cán bộ có phương hướng, mục tiêu, yêu cầu, nội dung
đúng đắn, mới giữ vững tính Đảng, tính cách mạng, tính khoa học trong q
trình xây dựng đội ngũ cán bộ. Trong điều kiện hiện nay, trong quá trình xây
dựng đội ngũ cán bộ, các cơ quan, đơn vị cần kế thừa và phát huy những thành
quả của công tác cán bộ các giai đoạn trước, chủ động khắc phục khó khăn,
giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng tổng thể với kế hoạch, bước đi cho
từng từng giai đoạn cụ thể. Trên cơ sở quán triệt quan điểm “Nhiệm vụ quan
trọng nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, trước hết là cán bộ lãnh đạo
cấp chiến lược và người đứng đầu tổ chức các cấp, các ngành của hệ thống
chính trị…Quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc
thiểu số, cán bộ xuất thân từ cơng nhân, con em những gia đình có cơng với
cách mạng”1 công tác cán bộ ở các đơn vị quân đội cần căn cứ vào yêu cầu
nhiệm vụ chính trị cụ thể của đơn vị, chú ý phân tích sâu sắc đặc điểm dân tộc,
tập quán, tâm lý xã hội, truyền thống, kinh nghiệm, tình hình chất lượng đội
ngũ của đơn vị mình mà xây dựng kế hoạch, vạch chương trình hoạt động cho
phù hợp, khả thi.
Đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ trong quân đội phải quán triệt
sâu sắc quan điểm giai cấp của Đảng, thực hiện đúng nguyên tắc Đảng thống nhất
lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đồng thời đề cao trách nhiệm
của các tổ chức trong hệ thống chính trị và người đứng đầu tổ chức.
Đội ngũ cán bộ là những người thay mặt Đảng trong các tổ chức, là cầu
nối giữa Đảng với quần chúng. Quá trình hình thành, phát triển chất lượng đội
ngũ cán bộ có mối quan hệ mật thiết với q trình giữ vững, tăng cường bản
chất giai cấp công nhân của Đảng, với việc giữ đúng nguyên tắc Đảng thống
1

Đảng CSVN, Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ X , Nxb CTQG, HN 2006, tr. 293.



- 21 -

nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ. Bản chất giai cấp
công nhân của Đảng quy định nội dung bản chất chính trị của đội ngũ cán bộ
và được biểu hiện qua bản lĩnh chính trị, lập trường giai cấp cơng nhân, ý thức
tổ chức kỷ luật của mỗi cán bộ; đây cũng là những nội dung cốt lõi trong chất
lượng đội ngũ cán bộ, là vấn đề hàng đầu cần quan tâm bồi dưỡng, rèn luyện
cho cán bộ đảng viên trong tình hình hiện nay bởi vì: “Tình trạng suy thối về
tư tưởng chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá
nhân, thiếu trung thực và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu trong
một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng”1
Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân, là người đại diện cho quyền lợi của
dân tộc, chiến đấu hy sinh vì dân tộc, vì thế quan điểm giai cấp của Đảng khơng
mâu thuẫn mà hồn tồn thống nhất với lợi ích, truyền thống và tinh hoa của dân
tộc Việt Nam, sự kết hợp nhuần nhuyễn hệ tư tưởng tiên tiến của giai cấp cơng
nhân với khí phách, tinh hoa, truyền thống yêu nước và đoàn kết của dân tộc ta
chính là sức mạnh của Đảng, là nội dung cốt lõi bảo đảm cho đội ngũ cán bộ đủ
sức hoàn thành mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó.
Qn triệt quan điểm giai cấp cơng nhân trong đào tạo, bồi dưỡng, rèn
luyện cán bộ đòi hỏi không chỉ quan tâm lựa chọn cán bộ xuất thân từ giai cấp
công nhân, mà điều quan trọng là không ngừng giáo dục, bồi dưỡng lập trường
giai cấp công nhân cho đội ngũ cán bộ, đồng thời cần đề phòng khuynh hướng
“thành phần chủ nghĩa” tuyệt đối hoá vấn đề thành phần xuất thân của cán bộ
dẫn đến hẹp hòi, máy móc, cứng nhắc trong cơng tác cán bộ. Về vấn đề này
Đại hội Đại biểu Toàn quốc của Đảng đã chỉ rõ: “ Quan tâm xây dựng đội ngũ
cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ các dân tộc thiểu số, cán bộ xuất thân từ công
nhân, con em các gia đình có cơng với cách mạng ”.
1


Đảng CSVN, Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ X , Nxb CTQG, HN 2006, tr. 48.


- 22 -

Công tác cán bộ là “công việc gốc”của Đảng, Đảng phải chăm lo công tác
cán bộ như chăm sóc những cây cối quý báu, phải coi đây là nhiệm vụ của toàn
Đảng, toàn dân, trước hết là của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị. Thời
gian qua, do nhiều tổ chức cơ sở đảng bị tê liệt, thiếu sức chiến đấu và không đủ
năng lực lãnh đạo và chỉ đạo để giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh, đã
làm cho “Công tác tổ chức và cán bộ còn bộc lộ nhiều mặt yếu kém, chưa thực
hiện đầy đủ các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng” Để khắc phục tình
trạng này, Đại hội Đại biểu lần thứ X của Đảng đã vạch rõ: “Quán triệt và thực
hiện đúng nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội
ngũ cán bộ, đồng thời đề cao trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính
trị và người đứng đầu tổ chức. Cấp uỷ, tổ chức đảng có thẩm quyền phải chủ trì
và chịu trách nhiệm về cơng tác tổ chức cán bộ theo đúng nguyên tắc tập trung
dân chủ, tập thể quyết định; xác định rõ trách nhiệm của tập thể và trách nhiệm
cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ”. Đào
tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ trong quân đội phải gắn liền với củng
cố, kiện toàn tổ chức, mở rộng và phát huy dân chủ, khơng ngừng hồn thiện cơ
chế quản lý, giám sát, đánh giá và sử dụng cán bộ.
Quan hệ giữa tổ chức và cán bộ là mối quan hệ biện chứng. Tổ chức là nơi
phát hiện, lựa chọn, sàng lọc và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Tổ chức cũng là nơi
kiểm định, giám sát, và đánh giá hiệu quả hoạt động của cán bộ trong thực tiễn.
Cán bộ vừa là thành viên của tổ chức vừa là chủ thể quan trọng của tổ chức, góp
phần quyết định đến sự vững mạnh của tổ chức. Do đó q trình đào tạo, bồi
dưỡng, rèn luyện cán bộ phải gắn liền với việc củng cố, kiện toàn tổ chức, nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng, chính quyền, đồn

thể trong các đơn vị. Phát huy vai trò của các tổ chức trong quản lý, giáo dục, rèn
luyện cán bộ, đồng thời đề cao trách nhiệm tiền phong gương mẫu của đội ngũ


- 23 -

cán bộ trước Đảng, trước quần chúng nhân dân. Nội dung, biện pháp, quy trình
đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ phải gắn chặt một cách biện chứng
với kiện toàn cấp uỷ, chi bộ, với nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan.
Đảng thực hiện sự lãnh đạo công tác cán bộ thông qua cơ chế cụ thể. Nếu cơ
chế phù hợp sẽ tạo nên sự vận hành có hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi để mỗi
cán bộ có thể phát huy cao nhất khả năng, cơ hội cho quá trình cống hiến của bản
thân, đồng thời cũng tạo ra yêu cầu cao địi hỏi mỗi cán bộ phải khơng ngừng cố
gắng, phấn đấu rèn luyện, nâng cao phẩm chất, năng lực của mình để có thể hồn
thành chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao phó. Trái lại, nếu cơ chế
không phù hợp sẽ hạn chế việc phát huy sức mạnh của tổ chức, làm giảm trách
nhiệm và nhiệt tình phấn đấu của cán bộ. Vì thế, cùng với việc kiện tồn tổ
chức, thì việc khơng ngừng hồn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng với công tác
cán bộ là một đòi hỏi khách quan, là quy luật tất yếu bảo đảm cho quá trình đào
tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ ngày càng có chất lượng. Nguyên tắc
cơ bản của xây dựng Đảng ta là tập trung dân chủ, đo đó, điều cần thiết trước
hết trước hết trong hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng với cơng tác cán bộ
chính là “Mở rộng và phát huy dân chủ, thực hiện công khai, minh bạch trong
công tác cán bộ”. Q trình hồn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng với công tác
cán bộ phải tuân theo nguyên tắc xây dựng Đảng, xây dựng quân đội cách
mạng, đồng thời quan tâm đúng mức đến những đặc điểm tâm lý xã hội, truyền
thống văn hố dân tộc, trình độ, kinh nghiệm tổ chức của đội ngũ cán bộ ở các
đơn vị. Do đó, cùng với việc cụ thể hóa, thể chế hóa ngun tắc Đảng thống
nhất lãnh đạo cơng tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, thì đồng thời phát huy
vai trị, quyền hạn và trách nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống

chính trị. Tổ chức đảng có thẩm quyền phải chủ trì công tác cán bộ theo nguyên
tắc tập trung dân chủ, tập thể quyết định đi đôi với phát huy trách nhiệm của


- 24 -

người đứng đầu tổ chức trong hệ thống chính trị, tổ chức cơ quan, đơn vị cơng
tác của cán bộ. Quy định trách nhiệm của cơ quan tham mưu trong cơng tác cán
bộ. Có cơ chế để đảng viên và nhân dân giám sát cán bộ và công tác cán bộ. Để
thực hiện được yêu cầu công khai minh bạch trong công tác cán bộ, các cấp uỷ
cần phải coi trọng và đổi mới cách đánh giá, quản lý cán bộ, phải lấy hiệu quả
công tác là thước đo cuối cùng; phải khắc phục những biểu hiện cá nhân, cục
bộ, thiếu dân chủ, không công tâm, nể nang, tuỳ tiện trong công tác cán bộ.
Một trong những vấn đề cần tập trung đổi mới hiện nay đó là đổi mới quy
trình các khâu đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí và sử
dụng cán bộ. Đánh giá cán bộ phải công khai, minh bạch, khách quan, tồn diện
và cơng tâm, trên cơ sở gắn với trách nhiệm, chức vụ quyền hạn, lấy hiệu quả
công tác, khả năng đoàn kết, quy tụ quần chúng, kết quả tiến bộ của tập thể, đơn
vị mà cán bộ đó phụ trách để đánh giá, xem xét cán bộ. Không bổ nhiệm, đề bạt
những người không đủ phẩm chất và năng lực; khoan dung những người thành
thật nhận và sửa chữa sai lầm, khuyết điểm.
Q trình hồn thiện và phát huy cơ chế lãnh đạo của Đảng với công tác cán
bộ cũng là q trình khơng ngừng hồn thiện chính sách sử dụng và đãi ngộ cán
bộ. Cùng với việc yêu cầu cao trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện phẩm
chất, năng lực cho đội ngũ cán bộ, Đảng ta xác định: “Tăng cường nguồn đầu tư
của Nhà nước và toàn xã hội vào phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài,
trước hết trên ba lĩnh vực: lãnh đạo - quản lý, sản xuất – kinh doanh và khoa học
cơng nghệ; có chính sách phát triển nhân tài trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và
các lĩnh vực khác; tiếp tục thực hiện chủ trương, chính sách khuyến khích đưa cán
bộ, học sinh, sinh viên có đạo đức và triển vọng đi đào tạo ở nước ngồi, làm tốt

cơng tác quản lý, giáo dục và sử dụng sau đào tạo; thu hút, sử dụng tốt tài năng
người Việt Nam định cư ở nước ngoài và chuyên gia giỏi ở nước ngoài”


- 25 -

Đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ trong quân đội phải thông qua
hoạt động thực tiễn, phát huy tinh thần tự giác, tích cực tự học tập nghiên cứu của
mỗi cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “Thực hành sinh ra hiểu biết, hiểu biết
tiến lên lý luận, lý luận lãnh đạo thực hành” và theo Người thì “muốn hiểu biết
một việc gì, một vật gì thì phải tham gia vào cuộc đấu tranh và biến đổi của việc
ấy, vật ấy” 2. Quá trình tham gia hoạt động thực tiễn ở đơn vị là điều kiện trực tiếp
cho đội ngũ cán bộ tích luỹ những kinh nghiệm. Chỉ có thơng qua sự trải nghiệm
thực tiễn ở đơn vị, đội ngũ cán bộ mới có được sự thành thạo nghiệp vụ chun
mơn, có được khả năng ứng biến sáng tạo tri thức vào đời sống thực tiễn. Nghị
quyết của Đảng uỷ Quân sự Trung ương đã chỉ rõ: “Thông qua hoạt động thực
tiễn để tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện cán bộ”3. Thống nhất giữa lý luận với thực
tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin. Thực tiễn hoạt động ở
đơn vị cơ sở luôn không ngừng biến động, đặt ra yêu cầu phải linh hoạt, nhạy bén,
không ngừng hoàn thiện, phát triển phẩm chất và năng lực cho đội ngũ cán bộ.
Hiện nay, trong đội ngũ cán bộ ở các đơn vị cơ sở trong quân đội có sự
chênh lệch khá lớn về tuổi quân, tuổi đời, kiến thức và kinh nghiệm hoạt động
thực tiễn. Bởi vậy, cần có sự bố trí, phân cơng cán bộ hợp lý, tạo điều kiện
kèm cặp giúp đỡ lẫn nhau, đồng thời phải chú ý tổ chức tốt hoạt động hội
thao, nói chuyện kinh nghiệm, tham quan điển hình… để đội ngũ cán bộ có
điều kiện học tập, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau.
Q trình hồn thiện và phát triển các phẩm chất, năng lực của đội ngũ
cán bộ là quá trình kết hợp, kế thừa và hỗ trợ lẫn nhau giữa kết quả đào tạo ở
nhà trường, đơn vị với kết quả tự học tập và rèn luyện của bản thân mỗi cán bộ.
Quá trình đào tạo tại nhà trường, các lớp bồi dưỡng giữ vai trò chủ đạo, trang bị

cho người cán bộ những kiến thức nền tảng, phương pháp cơng tác khoa học,
2

Hồ chí Minh Tồn tập, Nxb CTQG, H, 2002, tập 6, tr. 251.
Đảng uỷ Quân sự Trung ương (1998) Nghị quyết về xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội trong
thời kỳ mới, tr.5
3


×