Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Triết lý nhân sinh của phật giáo thời lý trần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 131 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------

TRẦN QUỐC CƯỜNG

TRIẾT LÝ NHÂN SINH
PHẬT GIÁO THỜI LÝ – TRẦN

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH NĂM 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------

TRẦN QUỐC CƯỜNG

TRIẾT LÝ NHÂN SINH
PHẬT GIÁO THỜI LÝ – TRẦN
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. TRƯƠNG VĂN CHUNG

TP. HỒ CHÍ MINH NĂM 2015




MỤC LỤC
Trang

PHẦN MỞ ĐẦU.................................................................................................................... 1
Chương 1: NHÂN SINH LUẬN PHẬT GIÁO, CƠ SỞ XÃ HỘI VÀ NỀN TẢNG TINH
THẦN CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINH PHẬT GIÁO THỜI LÝ –TRẦN ....................... 9
1.1. Nhân sinh luận Phật giáo từ Phật giáo nguyên thủy đến Thiền học ................................ 9
1.1.1. Khái quát triết học Phật giáo......................................................................................... 9
1.1.2. Thiền học – Triết lý nhân sinh nhập thế ..................................................................... 18
1.2. Cơ sở xã hội, nền tảng tinh thần của triết lý nhân sinh thiền học Lý – Trần............................ 22
1.2.1. Bối cảnh lịch sử, kinh tế, chính trị - xã hội và tư tưởng thời Lý – Trần ............................... 22
1.2.2. Nền tảng tinh thần của triết lý nhân sinh thiền học Lý – Trần ................................... 35
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ................................................................................................... 52
Chương 2: NỘI DUNG, ĐẶC ĐIỂM VÀ GIÁ TRỊ TRIẾT LÝ NHÂN SINH PHẬT
GIÁO THỜI LÝ – TRẦN .................................................................................................. 54
2.1. Nội dung cơ bản trong triết lý nhân sinh Phật giáo Lý – Trần ...................................... 54
2.1.1. Học thuyết Tâm Tông ................................................................................................. 54
2.1.2. Tư tưởng sắc, không ................................................................................................... 58
2.1.3. Tư tưởng về nghiệp, sinh, tử ....................................................................................... 66
2.1.4. Tư tưởng về giải thoát, giác ngộ ................................................................................. 72
2.2. Đặc điểm cơ bản của triết lý nhân sinh Phật giáo thời Lý – Trần ................................. 79
2.2.1. Tính nhập thế tích cực ................................................................................................ 79
2.2.2. Tính dung hợp “tam giáo” .......................................................................................... 87
2.2.3. Tính thực hành, trải nghiệm ........................................................................................ 95
2.3. Giá trị của triết lý nhân sinh Phật giáo thời Lý – Trần ................................................ 102
2.3.1. Giá trị tư tưởng ......................................................................................................... 102
2.3.2. Giá trị văn học nghệ thuật ......................................................................................... 106
2.3.3. Giá trị đạo đức .......................................................................................................... 114

KẾT LUẬN CHUNG ........................................................................................................ 119
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 124


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo và điều đặc biệt là các tơn giáo lớn trên
thế giới đều có mặt ở Việt Nam. Trong đó, Phật giáo đã để lại cho dân tộc ta nhiều
dấu ấn, có thể thấy từ tín ngưỡng cho đến văn hố, phong tục tập quán, từ thế giới
quan đến nhân sinh quan, từ tư tưởng đến tình cảm, đến sự ảnh hưởng của Phật giáo
trong đời sống chính trị đạo đức. Ở Việt Nam, Phật giáo du nhập vào khoảng đầu
Công nguyên. Tư tưởng nhà Phật dần dần len lỏi và thấm sâu vào suy nghĩ của
người Việt từ tầng lớp nghèo khổ nhất cho đến tầng lớp quý tộc, kể cả nhà vua. Trải
qua mấy chục thế kỷ, Phật giáo vẫn luôn chiếm một vị trí trong kiến trúc thượng
tầng, mặc dù khơng phải là học thuyết chính trị - xã hội như Nho giáo nhưng vẫn để
lại dấu ấn của mình trong tư tưởng, chính trị, chi phối đời sống tinh thần của người
Việt, ảnh hưởng của Phật giáo trong tư tưởng, văn học, nghệ thuật và trong cả
phong tục, tập quán, tâm lí của người Việt Nam, nó gắn liền và đóng góp quan trọng
vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Chính vì vậy, việc tìm
hiểu Phật giáo ở Việt Nam nói chung cũng như triết lý nhân sinh Phật giáo nói
riêng, khơng chỉ góp phần làm cho chúng ta hiểu về cội nguồn văn hóa người Việt
mà cịn định hướng cho q trình giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc
Việt Nam. Trong lịch sử hào hùng và oanh liệt nhất của dân tộc ta, giai đoạn Lý –
Trần cũng là giai đoạn cực thịnh trong lịch sử phát triển của Phật giáo. Mặt khác
đây cũng là giai đoạn phát triển mọi mặt ở nhiều lĩnh vực: chính trị, kinh tế và văn
hóa…Cùng với đó là tư tưởng nhập thế tích cực của các thiền sư thời Lý – Trần đã
tạo nên những giá trị to lớn từ tư duy triết học đến những giá trị văn hóa, tư tưởng
mang đậm tính nhân văn. Từ đó đã đúc kết nên những giá trị mang tính thời đại và

đến nay những giá trị tư tưởng này vẫn cịn ngun tính bền vững, và trở thành cơ
sở văn hoá xã hội, nền tảng tinh thần để bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.
Xây dựng hình ảnh con người Việt Nam tiên tiến, cùng với đó là một đất nước với
nền văn hóa tiên tiến mang đậm bản sắc dân tộc, theo tinh thần và quan điểm của


2

Đảng về xây dựng nhân cách con người Việt Nam trong thời kỳ mới, quan điểm thứ
3 của Nghị quyết 33-NQ/TW (khóa XI) chỉ rõ “Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện
nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa
văn hóa tr ng tâ

chă

o â

rong â

ựng

ựng con người có nhân cách ối sống tốt đẹp,

với các đặc tính cơ bản: êu nước nhân ái nghĩa tình trung thực đo n kết, cần cù,
sáng tạo” Nhiệm vụ đầu tiên Nghị quyết đặt ra là “Chă
Việt Nam phát triển toàn diện, tr ng tâ

t n vinh ch s

uật


ựng con người

b i ư ng tinh thần êu nước, lòng tự

hào dân tộc đạo đ c ối sống v nhân cách
th c, ý th c tôn tr ng há

o â

ạo chu ển biến

i người iệt a

ạnh

về nhận

đều hiểu biết sâu s c tự h o

văn hóa ân tộc”

Hiện nay, Việt Nam đang trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sự tồn tại
và ảnh hưởng của văn hoá truyền thống là tất yếu. Nên việc nghiên cứu về tơn giáo
nói chung và triết lý nhân sinh Phật giáo nói riêng có ý nghĩa bổ ích cho việc đưa ra
những chính sách kinh tế - xã hội, góp phần xây dựng đất nước ngày một giàu đẹp
hơn, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, cùng với đó là hình
ảnh con người Việt Nam văn minh, ln đặt lợi ích của quốc gia, cộng đồng trên cái
tơi hiện hữu. Ln có thái độ sống “tốt đời - đẹp đạo” như tinh thần của các tơn
giáo. Từ đây góp phần tăng cường hợp tác quốc tế, một xu hướng hội nhập tất yếu

của thời đại. Vì những lý do trên, với mong muốn được góp phần, dù nhỏ bé vào
giai đoạn lịch sử đầy ý nghĩa này của Phật giáo giai đoạn Lý - Trần, nên tôi chọn
viết luận văn thạc sĩ với đề tài: “Triết lý nhân sinh Phật giáo thời Lý – Trần”.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Phật giáo là một hệ tư tưởng triết học - tôn giáo hình thành ở một tiểu vương quốc
thuộc Ấn Độ thời cổ đại, sau đó được truyền bá đi nhiều nơi trên thế giới, những
nước Phật giáo đi đến và thâm nhập vào cuộc sống đều chịu ảnh hưởng ít nhiều, từ
văn hóa đến nghệ thuật, kiến trúc, đến nếp nghĩ và hành động của con người, sự ảnh
hưởng của Phật giáo vẫn còn cho tới ngày nay, với tư cách là bộ phận của kiến trúc
thượng tầng Phật giáo có tác động nhất định đến cơ sở hạ tầng sinh ra nó.


3

Ở Việt Nam, nhân sinh quan Phật giáo thể hiện vai trị và ảnh hưởng của mình
từ khi du nhập cho đến ngày nay, gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước
hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Thời đại Lý – Trần được xem như một móc
son chói lọi, đánh dấu bước ngoặc căn bản trong tư duy, nhận thức của người Việt
Nam về lòng yêu nước và tinh thần độc lập tự cường. Vì vậy, triết lý nhân sinh Phật
giáo Lý – Trần là một trong những vấn đề được quan tâm nghiên cứu ở những khía
cạnh khác nhau.
Về triết học Phật giáo: Phải kể đến các cơng trình nghiên cứu, các tập sách như:
hai cuốn Tiểu thừa Phật giáo tư tưởng luận, Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận (HT.
Thích Quảng Độ d ch), Nxb. Viện đại học Vạn hạnh, Sài Gòn, 1969 của Kimura
Taiken, hai cuốn sách đã chỉ người ta thấy cái nguồn gốc của tư tưởng Phật giáo Ấn
Độ qua các thời kỳ, và đâu là manh nha của tư tưởng Phật giáo Nguyên Thủy, đâu
là tiền đạo của tư tưởng Phật giáo Tiểu Thừa và đâu là tiên phong của tư tưởng Phật
giáo Đại Thừa. Tiếp theo là bộ sách 3 cuốn của Dusetzteitaro Suzuki, Thiền Luận
(Quyển thượng, quyển trung, quyển hạ), NXB. Hồng Đức, 2015, nói về mối liên hệ
giữa Thiền và các bản kinh Phật giáo, những đối thoại của Thiền tơng và chuyển

mình đối với Phật giáo Ấn Độ khi thích ứng với tâm hồn người Trung Hoa. Cuốn
Phật giáo những vấn đề triết h c, O.O.Rozewberg, Trung tâm tư iệu Phật h c xuất
bản, Hà Nội, 1990, Cuốn sách đã đi sâu vào những vấn đề lý luận cơ bản lâu đài của
Phật giáo dựa trên các căn bản Trung quốc và Nhật bản, đây là một tác phẩm có giá
trị cho đến ngày nay. Ngồi ra cịn có các tác phẩm kinh điển Phật giáo mang tính
Thiền học của Phật giáo v ng Nam Ấn đã truyền vào Việt Nam như: kinh
Cương

ư ng đầu t nh á

ật Đại bát iết b n,
i

át thiên t ng át nh

át nh tâ kinh

i

át nh ba a

thậ nh chương, kinh hoa nghiêm v.v… Ch ng hạn, kinh

Cương là một cuốn kinh Đại thừa Phật giáo thuộc kinh văn hệ

biến và có vị trí quan trọng trong Phật giáo, trong Thiền giới Trung

át nhã phổ
uốc, Việt


Nam. Nhờ bộ kinh này mà Lục tổ uệ Năng ở Trung uốc, nhà vua - thiền sư Trần
Thái Tông ở Việt Nam đã đắc pháp, ngộ đạo khi đọc đến câu “ ng vô sở trụ nhi


4

sinh kỳ tâm” mà

uệ Năng có ghi lại trong Pháp bảo Đàn kinh và Trần Thái Tơng

có viết trong Thiền tông chỉ nam tự.
Về lịch sử Phật giáo Việt Nam: Phải kể đến 3 tập sách của tác giả Nguyễn
Lang: Việt Nam Phật giáo s luận, tậ 1
Phật giáo s luận, tậ 2
luận, tậ 3

b

b

b

ăn h c, Hà Nội, 1992; Việt Nam

ăn h c, Hà Nội, 1994 và Việt Nam Phật giáo s

ăn h c, Hà Nội, 1994. Ba tập sách trên đã trình bày một cách sâu

sắc và đầy đủ về niên đại, con đường, tiến trình của Phật giáo trên đất nước Việt
Nam cùng những vị tăng sĩ, quan niệm về giáo lý, tư tưởng của Phật giáo Việt Nam

qua các thời đại lịch sử. Cuốn L ch s Phật giáo Việt Nam, Nxb. Khoa h c xã hội,
Hà Nội, 1988, do Nguyễn

i hư chủ biên cũng đã trình bày các giai đoạn của Phật

giáo Việt Nam, từ thời kỳ du nhập đến thời kỳ Pháp thuộc, tác phẩm đã chỉ ra cụ thể
con đường, niên đại Phật giáo đến Việt Nam, các dòng thiền, các vị thiền sư, tình
hình Phật giáo ở mỗi giai đoạn.
Và khi nói về các cơng trình viết về Phật giáo Việt Nam, không thể không kể
đến 3 cuốn sách, L ch s Phật giáo Việt Nam, tập 1, Từ khởi ngu ên đến thời Lý
a

Đế, Nxb. Thuận hóa, Huế, 1999; L ch s Phật giáo Việt Nam, tập 2, Từ Lý

a

Đế (544) đến Lý Thái Tơng (1054), Nxb. Thành phố H Chí Minh, 2001; L ch

s Phật giáo Việt Nam, tập 3, Từ Lý

hái

ng (1054) đến Trần Thánh Tông

(1278), Nxb. Thành phố H Chí Minh, 2002 của Lê Mạnh Thát, ơng đã trình bày
khá đầy đủ điều kiện xã hội, con đường, cách thức, tiến trình và những tư tưởng
Phật giáo du nhập vào Việt Nam.
Về triết lý nhân sinh Phật giáo thời Lý – Trần: Nghiên cứu về triết lý nhân
sinh Phật giáo và tư tưởng Việt Nam thời Lý – Trần có nhiều tác phẩm đi khai thác
những khía cạnh khác nhau như: Cuốn


ư tưởng Việt Nam thời Lý – Trần do

PGS S rương ăn Chung - PGS,TS. Dỗn Chính (Đ ng chủ biên) nă

(2008)

Nxb Chính tr quốc gia –Hà Nội. Tác phẩm gồm 475 trang, đi sâu phân tích những
tư tưởng và các nhân vật tiêu biểu thời Lý – Trần. Cuốn ư tưởng triết h c của
Thiền hái rúc â đời Trần của PGS S rương ăn Chung

b Chính tr Quốc

gia, 1998. Tác giả đã đề cập đến những tiền đề xã hội, tôn giáo và cơ sở của sự hình


5

thành, phát triển thiền phái Trúc Lâm – và những tư tưởng của thiền phái này. Về
bối cảnh lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội thời Lý - Trần.
Cuốn Tìm hiểu xã hội Việt nam thời Lý – Trần, viện s h c, Nxb khoa h c xã
hội, Hà nội - 1981. Tác phẩm trình bày tư tưởng của người Việt Nam từ thời tiền sử
đến thế kỷ XVIII, trong tác phẩm, tác giả đã dành một phần để trình bày về Phật
giáo, tình hình Phật giáo Việt Nam khi mới du nhập, thời Lý - Trần, sự phê phán
của Nho giáo đối với Phật giáo ở Việt Nam thế kỷ XIV, tư tưởng Phật giáo thế kỷ
XVI, XVII và đầu XVIII. Ngồi ra cịn có các cuốn L ch s tư tưởng triết h c Việt
Nam, do PGS,TS Dỗn Chính chủ Biên, Nxb. Chính tr quốc gia, 2013. Cuốn sách
khái quát lịch sử Việt Nam từ thời kỳ dựng nước đến thế kỷ XX. Xã hội Việt Nam
thời Lý – Trần, Nxb. Khoa h c xã hội, Hà Nội, Viện s h c (1981). Về triết lý Phật
giáo, tác giả Đồn Trung Cịn với cuốn Triết lý nhà Phật, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội,

2007. Cuốn Đ c phật và phật pháp Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2013), Nxb. Tơn
giáo, Hà Nội. Cuốn sách đã trình bày chi tiết đời sống và giáo lý căn bản mà Đức
Phật ban truyền. Cuốn Thiền sư iệt Nam của Thanh Từ, tu viện Chơn h ng uất
bản nă 1973. hơ văn Lý – Trần của Viện ăn h c, nhà xuất bản khoa h c xã hội


1977 tập 1, 1988 tập 2. Ngồi những tác phẩm kể trên cịn phải kể đến những

tác phẩm như: Đại cương triết h c Phật giáo Việt Nam,tập 1, Từ khởi ngu ên đến
thế kỷ XIV, của tác giả Nguyễn Hùng Hậu, Nxb. Khoa h c xã hội, Hà Nội, 2002, tác
phẩm gồm 3 chương, chương 1 trình bày quá trình du nhập, tiến trình của Phật giáo
ở Việt Nam từ khởi nguyên đến Phật giáo thời nhà Trần (thế kỷ XIII - XIV), tác giả
dành đến 2 chương cịn lại để trình bày thế giới quan và nhân sinh quan Phật giáo
nói chung và Việt Nam nói riêng.
Cuốn ư tưởng Phật giáo Việt Nam, của Nguyễn Duy Hinh, Nxb. Khoa h c xã
hội, Hà Nội, 1999. Tác phẩm gồm 808 trang viết về sự ra đời, các sự kiện quan
trọng của Phật giáo, và trình bày khá cơng phu tư tưởng Phật giáo Việt Nam buổi
đầu du nhập, Phật giáo Đại Việt, Phật giáo giai đoạn chấn hưng và canh tân. Tác
phẩm Pháp giáo nhà Phật, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2007, của tác giả Đo n rung


6

Cịn trình bày quan niệm “pháp” của Phật giáo, trình bày quan niệm của Phật giáo
về vũ tr và vạn vật, về t diệu đế, niết bàn và tham thiền...
ên cạnh các cuốn sách viết về Phật giáo thì các tạp chí viết về Phật giáo cũng
trình bày khá phong phú về nội dung, đề cập đến các mảng khác nhau của Phật giáo
và triết lý nhân sinh thời Lý – Trần, có thể kể đến các tạp chí sau: ạ chí ghiên
c u t n giáo tạ chí


ăn hóa Phật giáo tạ chí Phật giáo ngu ên thủ ... Về

wedsite, có rất nhiều trang wed như: Tu viện Quảng Đ c

hư viện hoa sen, v.v…

Các trang báo điện tử này đã góp phần rất lớn vào cơng tác truyền bá và đưa tin tức
Phật giáo Việt Nam và Phật giáo quốc tế đến độc giả trong và ngoài nước. Tuy
nhiên, hầu như các trang báo điện tử này không hồn tồn là một tờ báo điện tử
chính thức và đúng nghĩa, duy nhất trang Giác gộ on ine ()
được xem là cơ quan ngôn luận của Thành hội Phật giáo thành phố ồ Chí Minh.
Những cơng trình nghiên cứu trên đã đạt được một số kết quả nhất định, mang
lại bức tranh khá rõ về triết lý nhân sinh Phật giáo thời Lý – Trần, nhưng sự tìm
hiểu, nghiên cứu khơng chỉ dừng lại ở đó. Kế thừa những thành tựu nghiên cứu của
những người đi trước, luận văn muốn đóng góp thêm một cơng trình nghiên cứu về
triết lý nhân sinh Phật giáo thời Lý – Trần.
3. Mục đích và nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. M c đích của luận văn:
Mục đích của luận văn là làm rõ nội dung, đặc điểm và giá trị triết lý nhân sinh
của thiền học Lý – Trần
3.2. Nhiệm v của luận văn:
Th nhất, trình bày bối cảnh lịch sử của xã hội Đại Việt và cơ sở xã hội, nền
tảng tinh thần của triết lý nhân sinh Phật giáo từ đó làm rõ triết lý nhân sinh thiền
học Lý – Trần.
Th hai, trình bày nội dung cơ bản của triết lý nhân sinh Phật giáo Lý – Trần.
Th ba, trình bày đặc điểm và giá trị của triết lý nhân sinh Phật giáo Lý –Trần
trong đời sống xã hội Đại Việt.
3.3. Phạm vi nghiên c u:



7

Vấn đề triết lý nhân sinh Phật giáo Lý – Trần rất rộng lớn, phong phú. Tìm hiểu
vấn đề triết lý nhân sinh Phật giáo Lý – Trần là một chủ đề rất lớn. Trong khả năng
giới hạn về nhiều mặt, tác giả chỉ mong muốn góp một phần nhỏ bé nhằm làm rõ
những lý luận về thiền học Phật giáo, triết lý nhân sinh Phật giáo Lý – Trần trong xã
hội Đại Việt, thời gian cụ thể qua hai triều đại: Triều Lý (1009-1225), triều Trần
(1226-1400).
4. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn dựa vào chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử cũng như các sách báo nói về vấn đề vấn đề nhân sinh quan Phật giáo và xã hội
Việt Nam thời Lý – Trần. Mặt khác, luận văn cũng kế thừa có chọn lọc các cơng trình
nghiên cứu liên quan. Ngồi ra, tác giả cịn nghiên cứu thêm một số tư liệu khác của Tạp
chí Triết học, Tạp chí văn hóa Phật giáo, các cơng trình nghiên cứu và các bài báo khoa
học của khoa triết học Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học quốc gia
Thành Phố Hồ Chí Minh, v.v..
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở thế giới quan và
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử;
đồng thời còn sử dụng các phương pháp khác như phương pháp thông diễn học, văn
bản học, logic và lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp quy nạp
và diễn dịch, phương pháp so sánh, phương pháp sử học,… để nghiên cứu và trình
bày luận văn.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa khoa h c: đề tài hồn thành góp phần làm rõ quan điểm triết lý nhân sinh
của Phật giáo thời Lý –Trần qua các vấn đề về điều kiện xã hội Đại Việt từ thế kỷ X
đến XIV, nội dung triết lý nhân sinh của Phật giáo thời kỳ Lý –Trần qua các tư tưởng
và ảnh hưởng của nó trong đời sống chính trị đạo đức của xã hội Đại Việt.
Ý nghĩa thực tiễn: đề tài hồn thành có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo
có giá trị đối với những người quan tâm đến vấn đề lịch sử, triết lý nhân sinh của
Phật giáo thời Lý –Trần nói riêng và tư tưởng triết học Việt Nam nói chung.



8

6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo thì
luận văn được kết cấu thành 2 chương 5 tiết:
Chương 1: NHÂN SINH LUẬN PHẬT GIÁO, CƠ SỞ XÃ HỘI VÀ NỀN TẢNG
TINH THẦN CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINH CỦA PHẬT GIÁO THỜI LÝ –TRẦN
1.1. Nhân sinh luận Phật giáo từ Phật giáo nguyên thủy đến Thiền học
1.2. Cơ sở xã hội, nền tảng tinh thần của triết lý nhân sinh thiền học Lý – Trần
Chương 2: NỘI DUNG, ĐẶC ĐIỂM VÀ GIÁ TRỊ CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINH
PHẬT GIÁO THỜI LÝ – TRẦN
2.1. Những nội dung cơ bản trong triết lý nhân sinh Phật giáo thời Lý – Trần
2.2. Đặc điểm cơ bản của triết lý nhân sinh của Phật giáo thời Lý – Trần
2.3. Giá trị của triết lý nhân sinh của Phật giáo thời Lý – Trần


9

NỘI DUNG
Chương 1: NHÂN SINH LUẬN PHẬT GIÁO, CƠ SỞ XÃ HỘI VÀ NỀN
TẢNG TINH THẦN CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINH
PHẬT GIÁO THỜI LÝ –TRẦN
1.1. Nhân sinh luận Phật giáo từ Phật giáo nguyên thủy đến Thiền học
1.1.1. Khái quát triết học Phật giáo
Phật giáo ra đời ở một tiểu vương quốc thuộc phía Bắc Ấn Độ (hiện nay là quốc
gia Nêpan), là một trong những cái nôi của văn minh nhân loại, Ấn Độ là một bán
đảo lớn nằm ở miền Nam châu Á, điều kiện tự nhiên và điều kiện địa lý đa dạng, vơ
cùng khắc nghiệt, có núi cao đầy băng giá, rừng rậm âm u, có đại dương và những

con sơng lớn, có đồng bằng trù phú, lại vừa có những cao nguyên và sa mạc khơ
khan, nóng bức.
Về mặt tinh thần, tư tưởng, triết lý của Veda, Upanishad là tư tưởng thống trị xã
hội, cho rằng rahman là đấng sáng tạo tối cao. Nhưng bên cạnh đó cịn có nhiều
quan niệm khác nhau về bản ngun của thế giới...ví dụ phái Samkhya cho rằng có
hai bản nguyên tạo nên thế giới gồm bản nguyên vật chất mà trường phái này gọi
Prakriti, và bản nguyên tinh thần, gọi là Purusha; phái Lokayata cho rằng bản
nguyên của thế giới là do bốn yếu tố vật chất cơ bản đầu tiên tạo nên là đất, nước,
lửa, và khí; phái Pakhuda Kaccàyanna cho rằng thế giới là do bảy yếu tố căn bản
của thế giới tạo nên là đất, nước, lửa, gió, khổ, vui và linh hồn,...Họ lập ra những
thuyết: thời gian luận, không gian luận, phương hướng luận, chủ trương nhất
nguyên, nhị nguyên, đa nguyên... với khoảng trăm phái khác nhau, ln ln đả
kích chống báng nhau. Về tơn giáo, tín ngưỡng, xã hội Ấn Ðộ thời bấy giờ cũng
diễn ra một cảnh tượng vô cùng hỗn tạp, người thờ thần lửa, kẻ thờ thần núi, thần
sông, kẻ thờ thần gió, thần chớp, thần mặt trời… nhưng thời đó đạo Bàlamơn là tơn
giáo chính thống, chi phối, ràng buộc tinh thần con người. Về chế độ xã hội ở Ấn
Độ cổ, đây là một xã hội đầy bất công. Xét về sự bất công trong xã hội trên 2500
năm trước đây, thì xã hội Ấn Ðộ có lẽ là một trong những xã hội có một chế độ xã
hội và chính trị bất cơng nhất, với chế độ xã hội nơ lệ mang tính chất gia trưởng và


10

bị kìm hãm bởi chế độ cơng xã nơng thơn và chế độ phân biệt đ ng cấp hết sức
nghiệt ngã, có thể kể ra những đ ng cấp trong xã hội Ấn Độ thời ấy như sau: Thứ
nhất, đ ng cấp Brahmana gồm những tăng lữ, tu sĩ

àlamôn, những người giữ

quyền thống trị tinh thần, phụ trách về lễ nghi, cúng bái. Họ tự nhận mình là hạng

cao thượng, sinh từ miệng của thần Brahman, cầm cương lãnh đạo tinh thần dân tộc,
nên có quyền ưu tiên được tơn kính, và an hưởng cuộc đời sung sướng nhất. Thứ
hai, đ ng cấp Kshatriya là những vương công, võ sĩ, tự cho mình sinh từ cánh tay
Brahman, thay mặt cho Brahman nắm giữ quyền hành thống trị dân chúng. Thứ ba,
đ ng cấp Vaishya là những hàng thương nhân, điền chủ và dân tự do, tin mình sinh
ra từ bắp đ i thần Brahman, có nhiệm vụ đảm đương về kinh tế trong nước (mua
bán, trồng trọt, thu huê lợi cho quốc gia). Thứ tư, đ ng cấp Shudra là những người
lao động gồm đa số tiện dân và nô lệ, tin mình sinh từ hai bàn chân Brahman, nên
thủ phận làm khổ sai suốt đời cho các giai cấp trên. Ngồi bốn giai cấp trên cịn có
những người ở ngồi những đ ng cấp, đó là tầng lớp c ng đinh, hạ đ ng, ti tiện
nhất, được gọi là Paria, giống dân tộc mọi rợ, bị coi như sống ngoài lề xã hội loài
người, bị các giai cấp trên đối xử như thú vật, vô cùng khổ nhục, tối tăm. Năm giai
cấp này mặc y phục màu sắc khác nhau. Mỗi giai cấp sống theo luật lệ, hệ thống cha
truyền con nối, không được thay đổi nghề nghiệp hay cưới hỏi khác đ ng cấp, và
không được di chuyển chỗ ở khác. Theo luật Bàlamôn, chỉ ba giai cấp trên có quyền
đọc kinh, học đạo, cịn hai đ ng cấp dưới là Paria và Shudra thì đời đời chỉ làm nô
lệ cho ba giai cấp trên mà thôi. Hạng

àlamôn hưởng sung sướng nhàn hạ bao

nhiêu, thì đám người bần tiện ở dưới lại khổ sở, nhục nhã bấy nhiêu. Sự bất công xã
hội thật không thể nào diễn tả nổi. Giữa người với người, thật khơng có một nhịp
cầu thông cảm nào, nguồn yêu thương tắc nghẹn, giai cấp này đối với giai cấp khác
là địch thủ mà theo họ càng bóc lột được bao nhiêu là càng tốt bấy nhiêu.
Tóm lại, xã hội Ấn Ðộ lúc bấy giờ là một xã hội về vật chất thì đang rên siết
dưới ách bất cơng, áp bức, về tinh thần thì đang quay cuồng, điên đảo trong những
luồng tư tưởng lý thuyết rối ren. Xã hội ấy đang khao khát tình thương và bình
đ ng. Trong hồn cảnh đó Phật giáo ra đời để giải thốt con người khỏi sự trói



11

buộc, bất công. Phật giáo là một trào lưu tư tưởng mới, khơng chính thống, ra đời
vào khoảng cuối thế kỷ thứ VI trước Cơng ngun, ở phía Bắc Ấn Độ, phản ánh
một tinh thần tự do tư tưởng, nói lên quan điểm bình đ ng xã hội.
Người sáng lập Phật giáo là một thái tử, tên là Tất Đạt Đa (Siddharta), con trai
đầu vua Tịnh Phạn (Suddhodana - nghĩa là người trồng lúa sạch). Theo tác giả
Nguyễn Tài Thư trong cuốn Lịch sử Phật giáo Việt Nam cho rằng đức Phật sinh
“vào khoảng năm 563 trước Công nguyên... Ngài thọ 80 tuổi” [76, tr.9-10], tức ông
mất năm 483 trước Công nguyên. Thời bấy giờ xứ Ấn Ðộ gồm nhiều tiểu quốc, khi
hịa khi chiến với nhau. Ở phía Bắc Ấn Ðộ (nay thuộc đất Nêpan) có một nước nhỏ
do vua Tịnh Phạn (Sudhodana) trị vì, thuộc giai cấp Kshatriya, là một đại quý tộc ở
Ấn Ðộ, thuộc bộ tộc Sakiya. Vợ của vua Tịnh Phạn là Ma Da (Maha - maya) đến 45
tuổi mới có thai, sinh ra thái tử đặt tên là Tất Ðạt Đa (Siddharta) và theo tục lệ Ấn
Ðộ lấy họ mẹ là Thích Ca (Cakya). Tất Ðạt Đa tỏ ra là người tài năng và đức độ hơn
người, ông thấy những cảnh tương tàn tương sát của các lồi sâu bọ chim mng,
những cảnh già, ốm, chết của nhân thế. Vì vậy, Tất Ðạt Đa cảm thấy cuộc đời
khơng có gì là vui sướng, là bền vững, là giải thốt, hết thảy đều là vơ thường, từ đó
ơng sinh ra buồn rầu, ngày đêm ơng ln nghĩ đến phương pháp đưa con người
thốt khỏi nỗi khổ. Vì vậy, nhiều lần Tất Ðạt Đa xin vua cha đi xuất gia, nhưng vua
Tịnh Phạn đều không đồng ý. Biết được nỗi lịng của con mình nên vua Tịnh Phạn
đã dựng lên một cung điện nguy nga, lộng lẫy, bày đủ trò vui, và còn cưới cho con
một người vợ đẹp là nàng Da Du Ðà La (Yosodhara), nhưng Tất Đạt Đa vẫn không
từ bỏ ý định đi tìm con đường giải thốt. Năm 29 tuổi, Tất Đạt Đa đã quyết định đi
tu, với mong ước tìm ra con đường giải thoát cho nhân loại ra khỏi sự khổ đau trong
vịng ln hồi. an đầu ơng phải đi tìm học hỏi với những đạo sĩ danh tiếng nhất Ấn
Ðộ thời bấy giờ. Nhưng Tất Ðạt Đa không mấy tâm phục trước các cách tu tập của
các nhà tu hành này, ơng cho rằng phải tự mình tu luyện mới tìm ra cái đạo giải
thốt như mình mong muốn, ông tu khổ hạnh trong sáu năm trời, nhưng vẫn khơng
tìm ra được con đường giải thốt, ơng từ bỏ tu khổ hạnh, rồi đi đến cây đại thụ Tất

bà la (Pippala, tức là cây Bồ đề) ở Già Da (Yàyà) rải cỏ làm tòa, ngồi kiết già,


12

hướng mặt về phía Đơng, và thề rằng: “Nếu ta ngồi tịa này mà khơng chứng được
đạo Vơ Thượng Bồ Đề, thì thân này d nát, ta cũng quyết khơng chịu đứng dậy”.
Tương truyền Tất Ðạt Đa thiền định, suy nghĩ ln trong 49 ngày đêm thì giác ngộ.
Khi đã “giác ngộ”, có nghĩa là khi đã phát hiện ra nguyên nhân của nỗi khổ đau
nhân thế và cách dứt bỏ nó. Người Ấn Độ thời ấy gọi ơng là Sakya muni (Trung
Quốc dịch là Thích Ca Mâu Ni), tức là nhà hiền triết xứ “Sakya”. Từ lúc Tất Đạt Đa
thành đạo đến lúc mất, trong khoảng 45 năm trời (có thuyết 49 năm), ơng c ng các
học trị của mình chu du khắp lưu vực sơng Hằng, đem đạo của mình giác ngộ cho
mọi người, khơng phân biệt già trẻ, nam nữ, giàu nghèo, sang hèn, màu da, chủng
tộc, trí thức hay ngu si. Sau khi ơng mất các học trị đã tiếp tục tư tưởng của ơng,
xây dựng thành một hệ thống tơn giáo triết học lớn, có ảnh hưởng lớn ở Ấn Độ và
từ đó lan ra nhiều quốc gia khác trên thế giới.
ư tưởng căn bản của Phật giáo nguyên thủy
Những nguyên lý cơ bản của Phật giáo được thể hiện trong giáo lý. Hệ thống
giáo lý của Phật giáo là một hệ thống rất đồ sộ nằm chủ yếu trong tam tạng kinh
điển, gồm Kinh tạng (ghi lời Phật dạy), Luật tạng (các giới luật mà giáo đoàn Phật
giáo phải tuân theo), và Luận tạng (các bài kinh, tác phẩm luận giải, bình chú về
giáo pháp của các cao tăng và học giả sau này). Có thể nêu tóm tắt tư tưởng căn bản
của Phật giáo nguyên thủy về thế giới quan và nhân sinh quan như sau:
Về thế giới quan: Phật giáo đưa ra tư tưởng “vô ngã”, “vô thường”.
Phật giáo cho rằng tất cả sự vật, hiện tượng cũng như chính bản thân con người
là khơng có thực, chỉ là ảo giả, do vô minh đem lại. Thế giới (nhất là thế giới hữu
hình - con người) là do sự hợp lại của các yếu tố vật chất (Sắc) và tinh thần (Danh).
Đó là 5 yếu tố (ngũ uẩn): Sắc (vật chất); Thụ (cảm giác); Tưởng (ấn tượng); Hành
(tư duy nói chung); Thức (ý thức). Nhưng Danh và Sắc chỉ tụ hội trong một thời

gian rồi chuyển sang trạng thái khác, do vậy “ khơng có cái tơi” (vơ ngã - anatman)
cố định, trái với quan niệm của Upanishad cho rằng có Atman (ngã). Tư tưởng
trong Upanishad cũng như giáo lý àlamôn thừa nhận sự tồn tại của một thực thể
siêu nhiên sáng tạo và chi phối vạn vật là Brahman, trái với quan điểm đó, đạo Phật


13

cho rằng thế giới là một dịng biến chuyển khơng ngừng (Vơ thường), khơng thể tìm
ra ngun nhân đầu tiên, do vậy khơng có vị thần nào tạo ra thế giới và cũng khơng
có gì vĩnh hằng. Sự biến hiện của thế giới theo chu trình: sinh - trụ - dị - diệt theo
luật nhân quả. Có 3 khái niệm chủ yếu trong học thuyết nhân quả là “Nhân”,
“Duyên”, “ uả”, để nhằm giải thích ngun nhân biến hóa của vạn vật, cái gì phát
động ra ở vật, làm cho nó biến đổi, gây ra kết quả thì được gọi là “Nhân”, cịn cái gì
được kết tập lại do một hay nhiều nhân gọi là “ uả”, còn “Duyên” là điều kiện, là
mối liên hệ trợ giúp cho “Nhân”, tức ở trạng thái khả năng biến thành quả ở trạng
thái hiện thực. Trong quá trình nhân quả tương tục, duyên theo nghĩa vừa là kết quả
của quá trình cũ, vừa là nguyên nhân của quá trình mới, cái nhân (hetu) nhờ có
duyên trợ (pratyaya) mà trở thành quả (phala); quả mới lại nhờ duyên mới trợ giúp
mà tạo thành quả mới…cứ như vậy sự vật hiện tượng trong thế giới khơng ngừng
sinh hóa, biến hiện liên tục, vơ tận, q trình đó diễn ra trong nháy mắt (một satna,
một niệm) hay trong từng giai đoạn có sự biến đổi về chất: “Các hành đều vơ
thường… Khi đem trí tuệ soi xét được như thế thì sẽ nhằm lìa thống khổ”[6, tr.239].
Tư tưởng Phật giáo nguyên thủy không đề cập đến thần sáng tạo thế giới, thể
hiện tư tưởng vô thần, đây là nét độc đáo trong thế giới quan Phật giáo, Phật giáo
nguyên thủy còn thể hiện tư tưởng biện chứng trong quan niệm “vô thường” và
trong lý thuyết duyên khởi. Tuy nhiên bên cạnh mặt tích cực đó thì Phật giáo cũng
thể hiện tính duy tâm chủ quan của mình khi coi thế giới hiện tượng là ảo, là giả, do
cái tâm vô minh của con người tạo ra.
Về nhân sinh quan: Phật giáo tiếp thu tư tưởng luân hồi (samsara) và nghiệp

(karma) của Upanishad. Kinh Upanishad cho rằng Brahman là bản nguyên của thế
giới, nó biểu hiện trong con người và chúng sinh là linh hồn cá nhân bất diệt Atman, Atman chỉ là một bộ phận của cái toàn bộ là rahman, nhưng do Atman thể
hiện trong thể xác con người nên con người ta cứ lầm tưởng Atman khác với
rahman, tưởng nó là cái của ta, do ta. Những tình cảm, dục vọng và hành động của
thể xác nhằm thỏa mãn mọi ham muốn của con người trong đời sống trần tục đã che
lấp đi bản chất chân thực của mình, gây nên những hậu quả, giam hãm, ràng buộc


14

linh hồn bất tử đầu thai vào hết thân xác này đến thân xác khác, với các hình thức
khác nhau từ kiếp này sang kiếp khác, gọi là luân hồi (samsara). Theo tư tưởng luân
hồi và nghiệp báo (karma), kinh Upanishad cho rằng: “Người ta sẽ trở nên tốt vì
hành động tốt và trở nên xấu vì hành động xấu”, và “Những người có hành vi tốt
đẹp sẽ đầu thai vào kiếp tốt đẹp; hoặc thành Bàlamôn, hoặc thành người quý tộc
hoặc thành thương nhân. Những kẻ có hành vi xấu xa sẽ phải đầu thai vào những
kiếp xấu xa như kiếp chó, lợn hay những kẻ nơ lệ tơi tớ” [6, tr.117-118]. Kế thừa
quan điểm này, Phật giáo cho rằng sự vật mất đi ở chỗ này là để sinh ra ở chỗ khác,
có sự liên kết của nghiệp quả, từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện tại đến tương lai.
trình thác sinh ln hồi đó do nghiệp chi phối theo nhân quả. Nghiệp theo đúng
nghĩa của danh từ này là hành động hay việc làm, và định nghĩa một cách rốt ráo
nhất thì “nghiệp” có nghĩa là tác ý. Tư tưởng, lời nói, việc làm đều do ý muốn làm
động cơ, cái ý muốn hay ý chí đó gọi là tác ý. Vậy “nghiệp” là cái do hành động
thiện hay bất thiện, cố ý hay không cố ý, qua thân, khẩu, ý của ta để thỏa mãn
những ham muốn của ta mà thành. Do nghiệp chi phối theo luật nhân quả mà mọi
vật, kể cả con người mất đi ở chỗ này là để sinh ở chỗ khác, thời gian khác. Đó
chính là q trình tái sinh luân hồi. Trong cuộc đời mỗi người phải gánh chịu hậu
quả của nghiệp ở kiếp sống này và từ các kiếp trước và sang kiếp sống sau. Điểm
khác của Phật giáo so với Upanishad là không thừa nhận cái ngã, cái linh hồn cá
nhân, Phật giáo cho rằng không có cái ngã, cho nên quan niệm luân hồi của Phật

giáo căn bản được thể hiện ở tư tưởng về nghiệp và tái sinh thì Upanishad cho rằng
linh hồn bất tử, trú ngụ trong các thể xác khác nhau, sau khi con người chết linh hồn
sẽ đầu thai vào một hình thức thể xác khác, có thể là người, có thể là vật tùy theo
kết quả hành động của kiếp sống trước đã gây ra.
Để giải thích nguồn gốc luân hồi, nguyên nhân đau khổ và nhằm mục đích giúp
con người thoát khỏi nỗi khổ Phật giáo đã đưa ra triết lý “Thập nhị nhân duyên”
“Tứ diệu đế”, “ át chính đạo”. Theo quan niệm của đạo Phật, để đến được sự giải
thoát, mọi người phải nhận thức bốn chân lý (Tứ diệu đế).


15

Một là, Khổ đế: Phật giáo cho rằng đời là bể khổ. Cái khổ ấy khơng ngồi 8 nỗi
khổ: Sinh, lão, bệnh, tử, thụ biệt ly (yêu mà phải xa), oán tăng hội (ghét mà phải ở
gần), sở cầu bất đắc (muốn mà khơng được), thủ ngũ uẩn (khổ vì có sự tồn tại của
thân xác); Hai là, Tập đế: Mọi nỗi khổ đều có nguyên nhân. Phật giáo đưa ra “Thập
nhị nhân duyên” để chỉ ra nguyên nhân của sự khổ. Đó là: vơ minh, hành, thức,
danh sắc, lục căn, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử; Ba là, Diệt đế: Phật giáo kh ng
định có thể tiêu diệt nỗi khổ của nhân thế và chấm dứt được vòng luân hồi; Bốn là,
Đạo đế: Phật giáo đưa ra con đường giải thoát, diệt khổ thực chất là tiêu diệt vô
minh (sự tăm tối, không sáng suốt), gồm 8 con đường chính ( át chính đạo). Đó là:
Chính kiến: hiểu biết đúng đắn; Chính tư duy: suy nghĩ đúng đắn; Chính ngữ: giữ
lời nói chân chính; Chính nghiệp: Nghiệp có hai loại là tà nghiệp và chính nghiệp.
Tà nghiệp phải sửa, chính nghiệp phải giữ. Nghiệp có thân nghiệp (do hành động
gây ra), khẩu nghiệp, ý nghiệp; Chính mệnh: tiết chế dục vọng, giữ điều răn; Chính
tinh tiến: hăng hái tìm kiếm và truyền bá chân lý của Phật; Chính niệm: phải thường
hằng nhớ Phật, niệm Phật; Chính định: tĩnh tâm, tập trung tư tưởng nghĩ về sự luân
hồi, sự giải thốt…Theo

át chính đạo, con người có thể diệt trừ vơ minh, giải


thốt, nhập vào cõi niết bàn - Nirvana.
Về nhận th c luận: Hệ thống nhận thức luận Phật giáo đưa lại cho chúng ta một
cách nhìn hồn tồn mới về nhận thức, nó có điểm khác với triết học Mác – Lênin
như quan niệm về đối tượng nhận thức, các hình thái nhận thức và các năng lực
nhận thức cũng như khác về mục tiêu và mục đích nhận thức. Con người trong q
trình nhận thức bao giờ cũng phải có đối tượng, và đối tượng ấy được nêu ra trong
triết học Phật giáo là thế giới Tánh cảnh, thế giới Đới chất cảnh và Độc ảnh cảnh.
Thế giới Tánh cảnh chính là thế giới tự thân, thế giới tự nó mà con người khơng thể
thấu hiểu nó bằng con đường suy lý thơng thường; chỉ có bằng hình thái nhận thức
Hiện lượng - một sự nhận thức trực tiếp thông qua các giác quan, cùng với việc phát
huy khả năng trực giác siêu nghiệm và thực nghiệm tâm linh của các vị Tam thừa,
những bậc đã tu chứng thành Phật thì mới có thể thâu hiểu về thế giới này. Thế giới
Đới chất cảnh và Độc ảnh cảnh là những đối tượng được tạo dựng nên trên cơ sở


16

của thế giới Tánh cảnh thông qua sự tưởng tượng và tư duy kiến tạo của con người.
Hình thái nhận thức đặc trưng của hai thế giới này chính là Tỷ lượng, tức là sự tính
tốn, so đo bằng suy diễn, thuyết lý, luận đoán hoặc chỉ đơn thuần bằng tưởng
tượng. Nhờ những phương thức nhận thức như thế mà hai thế giới trên hiện ra trước
chúng sinh với tính cách vô c ng đa dạng, phong phú so với thế giới Tánh cảnh.
Lý luận nhận thức luận của triết học Phật giáo được tựu trung lại trong lý thuyết
Tam tự tính: Biến kế sở chất, Y tha khởi và Viên thành thật.
Với tự tính Biến kế sở chấp, vạn pháp khơng hiện hữu theo cách thức như chúng ta
có khái niệm về chúng, bởi thế giới khái niệm không phải là thế giới thực tại thật sự.
Với Y tha khởi, vạn pháp trong vũ trụ được hiểu vốn không có pháp nào hiện
diện một cách độc lập mà khơng liên hệ với các vật khác, cũng như khơng có pháp
nào khơng nương tựa vào Thức Alaya mà có thể sanh khởi, lớn lên và tồn tại được.

Viên thành thật tính có nghĩa là tự tính của tất cả các pháp về mặt chân lý chính
là thể tính chân thật đã được thành tựu một cách viên mãn tròn sáng. Con người
muốn hiểu biết tự tính này thì phải có trí tuệ để qn sát trực tiếp, đó là trí tuệ được
chuyển từ Ý thức sau nhiều năm tu tập, là Trí diệu quan sát vạn pháp một cách mầu
nhiệm, một cách độc lập để hiểu biết.
Có thể nói rằng, quá trình hình thành lý luận nhận thức trong các học thuyết triết
học thường diễn ra thông qua việc giải quyết mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Vì
vậy, trong triết học Phật giáo, bản thể luận, nhận thức luận và nhân sinh quan cũng
thống nhất với nhau. Điều đó biểu hiện ở chỗ: vấn đề “Tính khơng” hay “Vô ngã,
vô thường” của bản thể được triết học Phật giáo giải quyết trong quan hệ với
“Tâm”.

uan hệ này cũng giống với quan hệ giữa bản thể và thế giới hiện tượng.

Thành thử, nếu trong sự phân tích của triết học Phật giáo có việc tách rời nhận thức
luận với bản thể luận và nhân sinh quan thì cũng chỉ có tính tương đối và nhằm cố
gắng rạch rịi hơn những khía cạnh được bàn đến mà thơi. Việc nghiên cứu về nhận
thức trong triết học Phật giáo, do đó khơng chỉ có tác dụng làm rõ các vấn đề nhận
thức luận chun biệt mà cịn góp phần quan trọng làm sáng tỏ, bổ sung phát triển
kinh bổn và giáo lý của cả hệ thống triết lý của cả trường phái này.


17

Con người là chủ thể nhận thức, nhưng cái đảm nhiệm vai trị nhận thức lại
chính là Tâm, và hoạt động nhận thức của tâm là Tâm thức. Thế giới Tâm thức
được triết học Phật giáo trình bày trong thuyết Tám thức. Với nhận thức luận Phật
giáo, thế giới này khơng sinh cũng khơng diệt, khơng có cái gì xuất hiện hồn tồn
mới mẻ cũng khơng có cái gì biến mất đi hoàn toàn, chỉ là sự biến đổi từ trạng thái
này sang trạng thái khác. Chính cách tiếp cận trên của nhận thức luận Phật giáo đã

quy định tính chất, lập trường và phương pháp của bản thể luận và nhân sinh quan
trong toàn bộ triết lý của nền triết học này.
Trong bản thể luận, triết học Phật giáo căn cứ vào tính chất tương liên, tương sinh
của vạn vật mà cũng đi đến kết luận rằng, vũ trụ là tự nó, khơng sinh và khơng thể
tiêu diệt, khơng có một thế lực nào có thể dùng ý muốn của mình mà chi phối sự vận
hành của nó. Trong vũ trụ, vạn Pháp khơng có tự tính (khơng có bản tính riêng của
mình) mà chỉ là sự hồ hợp của nhân dun.
Với triết học Phật giáo, khơng có Pháp nào là tồn tại vĩnh cữu mà tất cả tuân
theo luật sinh, trụ, dị, diệt (thành, trụ, hoại, không). Con người và sự vật trong đời
này luôn thay đổi, biến dịch từng giờ, từng phút, từng sát na. Mọi Pháp là vơ thường
nhưng khơng có vật gì là hoại diệt tuyệt đối, chỉ có hình thái thay đổi. Vơ ngã là
khơng có cái Ta, khơng có bản thế vĩnh hằng, bất biến. Sở dĩ khơng có cái Ta,
khơng có bản thể vĩnh hằng, bất biến vì vạn Pháp chỉ do nhân duyên ph hợp và
trong trạng thái vô thường bất định.
Những quan điểm về bản thể luận ở trên c ng với nhận thức luận tiếp tục trở
thành cơ sở giải thích cho triết lý nhân sinh và con đường giải thốt của đạo Phật.
Mục đích cuối c ng của Phật là tìm ra con đường giải thốt, đưa chúng sinh ra khỏi
vịng ln hồi bất tận đó.
Với thuyết “ln hồi”, “nghiệp báo”, Phật giáo cho rằng, con người trong quá
trình tồn tại do duyên hợp, ngũ uẩn đã làm những việc thiện, ác, tạo ra “nghiệp”.
Theo luật nhân quả, những việc làm thiện, ác hay “nghiệp” sẽ là động lực, là nhân
tố để tạo ra sự kết hợp ngủ uẩn tiếp theo... cứ như vậy kéo con người vào vịng ln
hồi sinh tử khơng ngừng từ đời này sang đời khác. Tuy nhiên, nội dung cơ bản của


18

giáo lý đạo Phật khi lý giải về cuộc đời con người là học thuyết về “khổ” và con
đường “cứu khổ”. ởi vì con người khơng nhận thức được cái biến ảo, vô thường,
vô định của vạn vật là thường hằng, chân thực và cũng không nhận thức được rằng,

cái Ta có mà khơng, khơng mà có, cho nên con người luôn nhầm tưởng Ta tồn tại
mãi. Nhằm loại trừ vô minh, dứt bỏ dục vọng để đạt tới chân lý, triết học phật giáo
đã đề ra bốn chân lý mà mọi người phải thấm nhuần để thực hiện. Đó là Tứ diệu đế.
Tứ diệu đế bao gồm: Khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế. Ngoài ra, triết học Phật giáo
xây dựng thuyết Tam học hay át chính đạo... với tư cách là những phương pháp
nhận thức hướng tới giác ngộ và giải thoát c ng với những yêu cầu cụ thể cho mỗi
phương pháp ấy.
Nhận thức luận Phật giáo như một sợi dây vơ hình liên kết bản thể luận và nhân
sinh quan, tạo nên tính thống nhất và tồn vẹn về nội dung, tư tưởng và hình thức
của trường phái triết học này. Chính do sự mới mẻ, biện chứng và phần nào mang
tính khoa học trong tư tưởng, nên, mặc dù cho triết học Phật giáo ra đời cách đây
hàng mấy mươi thế kỷ nhưng vẫn có được một chỗ đứng và đã có nhiều đóng góp
cho sự phát triển tư tưởng lồi người.
1.1.2. Thiền học – Triết lý nhân sinh nhập thế
uan niệm về thiền trong Kinh Tứ thập nhị chương có d ng danh từ “thiền
định” một lần, trong lời mở đầu: “an trụ đại Thiền định, hàng phục các ma đạo” [62,
tr.12]. Thiền nói đủ là Thiền - na (Dhyàna) có nghĩa là tĩnh lự, tĩnh là an tĩnh, lự là
tư lự, suy xét, tức là tiêu trừ những sự tán loạn, vọng động, làm cho trong tâm được
an trụ.

ai chữ “Tĩnh lự” ở đây đồng nghĩa với hai chữ “Định huệ”, Tĩnh tức là

Định, lự tức là

uệ. Định và

uệ tương ứng nên tâm được vắng lặng sáng suốt và

phát ra năng lực mạnh mẽ: Thần thơng, biện tài khơng có thứ nào là khơng đầy đủ,
nên có thể hàng phục hết thảy các ma đạo. Trong kinh này gọi là đại thiền định là để

phân biệt thiền định của Phật với thiền định của ngoại đạo và các loại thiền định
đương thời. Thiền định Phật giáo ln qn bình chỉ và qn không rơi vào thuần
túy định tâm (chỉ), mà định tâm là điều kiện tốt cho sự quán chiếu sâu vào lịng sự
vật. Vì vậy, thiền định Phật giáo khơng dừng lại ở các trạng thái của định mà luôn


19

luôn vượt qua, không vướng vào các giai đoạn của tâm định. Thiền định Phật giáo
gắn bó với đời sống thực tiễn và nó có cơng dụng cải hóa cá nhân và xã hội. Do vậy
mà gọi là đại thiền định có cơng năng hàng phục chúng ma.
Và trong chương 19 của kinh

thậ nh chương có nói đến sự quán niệm về vô

thường (quán thế giới niệm vô thường, quán thiên địa niệm vơ thường). Ðây cũng là
một hình thức thiền định, gọi là vô thường quán. Theo quan niệm này thì vũ trụ vạn
vật chung quanh ta là đối tượng tiếp xúc của các giác quan và ý thức. Ta ln ln
thấy nó bền vững, chắc thật như tảng đá, ngọn núi, bầu trời, trái đất ... Chúng ta dễ
dàng thấy sự vô thường của bọt nước, của ánh chớp, của sương mai... nhưng ít khi
chúng ta thấy rõ sự vô thường của các thiên hà, của những hiện tượng lớn trong vũ
trụ. Vì vậy, phải thấu triệt bản chất của vũ trụ vạn vật từ lớn cho đến nhỏ đều vơ
thường. Thấy sự vơ thường một cách tồn diện của mọi sự vật là ta đã có trí tuệ, rất
gần với sự giải thốt.
Triết lý Thiền tơng là lời Đức Thế tôn diễn thuyết được tập hợp trong các bộ
kinh điển về quy luật hằng thường, về lẽ sinh, trụ, dị, diệt... ở đời. Trong rất nhiều
giáo lý của nhà Phật thì “Tứ diệu đế”, “Thập nhị nhân duyên”, “ át chánh đạo” là
những triết lý cơ bản ngay từ ngày đầu Phật giáo hình thành nhưng lại được phái
Thiền Tông tiếp thu đầy đủ và thể hiện một cách uyên áo rồi ăn sâu vào đời sống
nhân dân, gắn chặt với cuộc sống trần gian, nhiều lúc nó trở thành nguồn an ủi vỗ

về mặt tinh thần của con người.
Thiền tông là sản phẩm của đất Trung

oa, (nó là sự kết hợp giữa đại thừa Ấn

Độ với Lão Trang và văn hóa Trung Hoa), mà gần một nghìn năm đầu, nước ta nội
thuộc Trung

uốc, vậy văn hóa của họ, đặc biệt là Thiền Tông, không thể không

ảnh hưởng đến nước ta .
Thiền tông với phương châm: “ ất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ
nhân tâm, kiến tính thành Phật”, phương châm này ph hợp với người dân Việt
Nam [28, tr.390]. Trong các tông phái Phật giáo, Thiền tơng có quan niệm về nhập
thế rõ ràng hơn cả. Một vị tổ Thiền đã đưa ra phương châm “một ngày không làm,
một ngày không ăn” [28, tr.390]. Sang Việt Nam thiền cịn nhập thế tích cực hơn


20

nữa. Điều đó thể hiện trong việc đánh giặc cứu nước cũng là Thiền, chống úng cũng
là phật sự có lẽ cũng chính vì vậy mà Thiền đáp ứng được nhu cầu đời sống tâm
linh, đáp ứng được nhiệm vụ dựng nước và giữ nước của người Việt.
Ngay Thiền tông khi sang Việt Nam cũng được Việt hóa và mang một màu sắc,
đặc điểm mới. Phật giáo ở Trung

uốc có rất nhiều tông phái, mà Thiền là chỉ một

trong số đó. Trong Thiền Trung uốc, ban đầu có Lão, về sau có thêm cả Nho và và
văn hóa Trung oa nói chung. Nhưng sự tổng hợp tam giáo ở Trung uốc khác với

Việt Nam. “Ở Trung

uốc đồng nguyên tam giáo luôn dựa trên Nho giáo, lấy Nho

giáo làm nền tảng; trong khi đó ở Việt Nam lại khác, đồng nguyên tam giáo là cụ
thể là lần thứ nhất vào thế kỷ thứ II, III, và lần thứ hai vào thời Lý - Trần nó lại dựa
trên cơ sở Phật giáo mà chủ yếu là Thiền Tông” [28, tr 391].
Về phương diện tu hành tôn giáo, các vị tổ Thiền tông đã đưa ra những biện
pháp, cách thức để dẫn dắt mơn đồ trên con đường hướng đến giải thốt. Những
biện pháp, cách thức đó thể hiện ở vấn đáp, niệm tụng, các cơng án như nói ngược
lại, nói vượt qua, nói quyết, nói nhại, lý luận vịng trịn, im lặng, hét, đánh, cấu, véo,
đạp... Những cái đó được đề cặp đến trong Lâm tế ngữ lục, ích nham tập, Võ mơn
quan,... Một số phương pháp đó được các Thiền sư Việt Nam sử dụng, thậm chí cịn
sớm hơn Trung uốc.
Phật giáo đời Lý đã có những Thiền sư nổi tiếng làm cầu nối cho Phật giáo đời
Trần đạt đến đỉnh cao trong lịch sử để kh ng định quyền tự chủ tự cường của một
đất nước. Vì vậy, dân tộc Việt Nam sẵn sàng chống lại bất cứ sức mạnh nào muốn
phá hoại nền hịa bình, hạnh phúc của mình. Và Phật giáo Lý – Trần đã đáp ứng
nguyện vọng ấy, góp phần vĩ đại vào cơng cuộc xây dựng bảo vệ đất nước. Chiến
cơng hiển hách cịn ghi lại trong lịch sử. Nếu Lý Thái Tông đã đánh giặc Nùng rồi
bình được Chiêm Thành. Lý Thường Kiệt đem binh đánh Tống thì Trần Thái Tơng
cũng thu phục được đất Chiêm và cuộc chiến thắng Nguyên Mông vẻ vang này dưới
sự lãnh đạo tài tình của vua Trần Nhân Tơng và

ưng Đạo Vương. Xưa nay, các

bậc đế vương thâu phục giang sơn bằng con đường gươm đao, chế ngự dân bằng
quyền hành, bạo lực. Còn thời đại Lý – Trần thì khác, lên ngơi vua khơng hề có một



21

giọt máu rơi, quần thần trong triều đình đều nhất trí và cũng khơng nghe dân tình
than ốn. Sức mạnh nào đã tạo nên một quốc gia hưng thịnh h ng cường, có phải
chăng chính đức từ, bi, hỷ, xả của nhà Phật đã thấm nhuần từ vua quan cho đến thứ
dân. Nói chung, các ơng vua Phật tử thuần thành đời Lý và đời Trần đều có tấm
lịng thương yêu dân như vậy là nhờ thấm nhuần tinh thần từ, bi, hỷ, xả, vô ngã vị
tha của đạo Phật. Đường lối lấy đức trị dân của hai triều đại Lý – Trần đã minh
chứng sự hội nhập của Phật giáo vào đời sống văn hóa, chính trị và xã hội của dân
tộc Việt Nam. Song, điểm đặc sắc của hai triều đại Phật giáo Lý – Trần là ngoài
những ơng vua Phật tử thuần thành, cịn có những ơng vua kiêm Thiền sư, kiêm là
những nhà Phật học uyên bác, viết sách, giảng kinh, khơng khác gì các cao Tăng
thạc đức. Có thể kể Lý Thái Tơng, học trị đắc pháp của Thiền sư Thiền Lão, và
được dự vào hàng Tổ thứ bảy của dịng thiền Vơ Ngơn Thơng. Lý Thánh Tông
được tuyền thừa làm Tổ thứ 2 của Phái Thiền Thảo Đường, và đặc biệt là hai ông
vua Trần Thái Tông và Trần Nhân Tông là một trong những ngơi sao sáng của Phật
giáo thời đó. Vua Trần Thái Tơng là tác giả cuốn Khóa
giáo viết bằng chữ

ư Lục, một tác phẩm Phật

án Nôm, đã được dịch ra tiếng Việt và xuất bản nhiều lần.

Cuốn sách chứa nhiều tư tưởng độc đáo. Như tư tưởng xem mọi người đều là Phật,
đều là những vị Phật sống mà không tự biết. Ông viết trong bài Niệm Phật Luận:
“Thân ta tức là thân Phật, khơng có hai tướng”. Lại viết tiếp: “Tướng Phật là tướng
ta không phải hai, lặng vậy mà thường tồn tại, tồn tại mà khơng biết. Đó là Phật
sống vậy”. Người là Phật, nhưng người lại không tự biết, cho nên Trần Thái Tông
gọi người là Phật sống. Và điểm nổi bật của Phật giáo thời Lý – Trần là nó cung cấp
một triết lý sống, chứ khơng phải là những tín điều chết, các Thiền sư thời Lý –

Trần đã quán triệt, đã thực hiện triết lý đó bằng cả cuộc sống của chính mìmh. Đạo
Phật đời Lý – Trần không chấp tướng, không giáo điều, khơng vướng mắc vào hình
thức, khơng bó hẹp trong chùa chiền, tu viện, càng không phải là sở hữu riêng của
giới Tăng, Ni mà là của tất cả mọi người biết lấy nó làm lẽ sống, d người đó là vua
chúa, Thiền sư, quan lại, hay là người dân bình thường. Ai cũng học và tu đạo Phật
được, ở đâu, làm gì cũng học và tu theo đạo Phật được, miễn là biết nhìn rõ tâm


22

mình, chuyển hóa tâm và sử dụng tâm cho tốt. Trong “Khóa

ư Lục”, Trần Thái

Tơng gọi đó là biện tâm, Trần Thái Tông viết: “Không kể là sống ẩn trên núi hay
giữa thành thị, không phân biệt tại gia hay xuất gia, tăng hay tục, điều chủ yếu là
biện tâm, vốn khơng có phân biệt nam nữ sao cịn chấp tướng”. Vì khơng chấp
tướng nên Phật giáo đời Trần mới có được một nhân vật đặc biệt như Tuệ Trung
Thượng Sĩ, tuy là một cư sĩ tại gia, nhưng lại được mọi người Tăng cũng như tục
tơn kính, học hỏi như là một bậc Thầy lớn trong đạo. Thậm chí Trần Nhân Tông và
Pháp Loa là hai vị Tổ thứ nhất và thứ hai của Phái Thiền Trúc Lâm cũng suy tơn
Tuệ Trung Thượng Sĩ là Thầy của mình. Với tinh thần không chấp tướng, vua Trần
Nhân Tông sau khi xuất gia, đã không quản gian khổ nhọc nhằn, đi khắp nơi trong
nước khuyên mọi người sống theo năm giới, mười thiện là những nguyên lý căn bản
của Đạo Đức Phật giáo. Nhờ vậy, ngay giữa lòng của xã hội Phong kiến, đạo Phật
đời Lý – Trần đã tạo ra những mẫu người tuyệt vời, mà con người ở vào thời đại
nào cũng cảm thấy tự hào.

1.2. Cơ sở xã hội, nền tảng tinh thần của triết lý nhân sinh thiền học Lý – Trần
1.2.1. Bối cảnh lịch sử, kinh tế, chính trị - xã hội và tư tưởng thời Lý – Trần

 Khái quát điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị - xã hội và tư tưởng thời
kỳ nhà Lý
Thời nhà Lý được mở đầu vào tháng 11 năm Kỷ Dậu, (tức năm 1009), đánh đấu
bởi sự lên ngơi của hồng đế Lý Cơng Uẩn dưới sự đỡ đầu của thế lực Phật giáo là
Sư Vạn Hạnh và các triều thần. Lý Công Uẩn lên ngôi, quyết định lấy năm 1010
làm năm thuận thiên thứ nhất và kéo dài cho đến năm 1225, kết thúc đời thứ chín là
Lý Chiêu Hoàng. Triều đại nhà Lý tồn tại 215 năm, nhà Lý đã tạo ra được bề dày
lịch sử của một quốc gia phong kiến độc lập có chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ. Các
triều đại Ngơ, Đinh, Tiền Lê với các nhiệm vụ bảo vệ đất nước, củng cố quốc gia,
dân tộc sau thời gian Bắc thuộc hàng ngàn năm nên chưa có điều kiện để quan tâm
phát triển văn hóa, tư tưởng....Đến nhà Lý, tình hình xã hội nói chung đã bắt đầu ổn
định. Dựa trên những tiền đề về lịch sử - xã hội, văn hóa và tư tưởng triều Lý đã


×