Tải bản đầy đủ (.pdf) (156 trang)

Vấn đề dân tộc và xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở tỉnh đắk lắk hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (978.25 KB, 156 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


TRẦN THỊ HUYỀN TRANG

VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ XÂY DỰNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ
Ở TỈNH ĐẮK LẮK HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
TS. Thân Ngọc Anh

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2016


BẢNG DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Số thứ tự

Những từ viết tắt

Kí hiệu

1

Cán bộ dân tộc thiểu số



CBDTTS

2

Chuyên môn

3

Dân tộc thiểu số

4

Giáo sư

5

Kỹ năng nghiệp vụ

KNNV

6

Lý luận – chính trị

LL - CT

7

Nhà xuất bản


NXB

8

Phó giáo sư

PGS

9

Quản lý nhà nước

10

Quyết định

11

Sinh hoạt cộng đồng

12

Số thứ tự

13

Thành phố

TP


14

Thị xã

TX

15

Tiến sĩ

TS

16

Bồi dưỡng tập huấn

CM
DTTS
GS

QLNN

SHCĐ
STT

BDTH


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu khoa
học của tơi, dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Thân Ngọc Anh.
Kết quả nghiên cứu cơng trình khoa học này là trung thực và chưa
từng được cơng bố.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 01 năm 2016
Tác giả
Trần Thị Huyền Trang


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC, DÂN TỘC
THIỂU SỐ VÀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ ................................... 11
1.1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VÀ QUAN ĐIỂM, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT
NAM VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC, DÂN TỘC THIỂU SỐ .....................................11
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề dân tộc, dân tộc thiểu số ............................................................................11
1.1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc ......................11
1.1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, dân tộc thiểu số ....................24
1.1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính sách của Nhà nước
Việt Nam về vấn đề dân tộc, dân tộc thiểu số............................................... 28
1.1.2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân tộc, dân tộc
thiểu số .......................................................................................................... 28
1.1.2.2. Chính sách của Nhà nước Việt Nam về vấn đề dân tộc, dân tộc
thiểu số .......................................................................................................... 33
1.2. KHÁI NIỆM, TIÊU CHUẨN, NỘI DUNG VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆC
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ.......... 42
1.2.1. Khái niệm, tiêu chuẩn của đội ngũ cán bộ và cán bộ dân tộc thiểu số ... 42
1.2.1.1. Khái niệm của đội ngũ cán bộ và cán bộ dân tộc thiểu số ............... 42

1.2.1.2. Tiêu chuẩn của đội ngũ cán bộ và cán bộ dân tộc thiểu số.............. 48
1.2.2. Vai trò, nội dung của việc xây dựng đội ngũ cán bộ và cán bộ dân tộc
thiểu số .......................................................................................................... 55
1.2.2.1. Vai trò của việc xây dựng đội ngũ cán bộ và cán bộ dân tộc thiểu số.....55
1.2.2.2. Nội dung của việc xây dựng đội ngũ cán bộ và cán bộ dân tộc


thiểu số .............................................................................................. 60
Kết luận chương 1 ......................................................................................... 66
Chương 2: XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ
TỈNH ĐẮK LẮK – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP .................................69
2.1. KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ TỰ NHIÊN, KINH TẾ, VĂN HÓA
– XÃ HỘI CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ ĐẶC ĐIỂM CÁN BỘ DÂN TỘC
THIỂU SỐ TỈNH ĐẮK LẮK .............................................................................70
2.1.1. Khái quát điều kiện lịch sử tự nhiên, kinh tế, văn hóa – xã hội các
dân tộc thiểu số tỉnh Đắk Lắk .................................................................... 70
2.1.1.1. Khái quát điều kiện lịch sử tự nhiên, kinh tế các dân tộc thiểu
số tỉnh Đắk Lắk ................................................................................. 70
2.1.1.2. Khái quát đặc điểm văn hóa – xã hội các dân tộc thiểu số tỉnh
Đắk Lắk .................................................................................................75
2.1.2. Đặc điểm của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tỉnh Đắk Lắk .............. 80
2.2. THỰC TRẠNG, GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ TỈNH ĐẮK LẮK .................................... 85
2.2.1. Thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tỉnh Đắk Lắk..........86
2.2.1.1. Những thành tựu và nguyên nhân trong xây dựng đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số tỉnh Đắk Lắk .............................................................................. 86
2.2.1.2. Những khó khăn, hạn chế và nguyên nhân trong xây dựng đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số ở tỉnh Đắk Lắk ........................................................ 95
2.2.2. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số tỉnh Đắk Lắk .................................................................................. 107

2.2.2.1. Những giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tỉnh
Đắk Lắk ...................................................................................................... 107
2.2.2.2. Một số kiến nghị xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tỉnh
Đắk Lắk ...................................................................................................... 124


Kết luận chương 2 ....................................................................................... 127
KẾT LUẬN ................................................................................................ 130
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................. 134
PHỤ LỤC ................................................................................................... 144


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc là một trong những nội dung cơ
bản trong quan điểm, chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước ta. Xuất
phát từ tình hình đặc điểm của mỗi quốc gia có nhiều dân tộc, có truyền
thống lịch sử, văn hóa lâu đời; Đảng Cộng sản Việt Nam lấy những nguyên
lý của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng để xây dựng, giải quyết vấn đề dân tộc trong từng giai đoạn cách
mạng. “Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tôn
trọng, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, xây dựng, bảo vệ nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam” [29, 121].
Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta ln đánh giá đúng vị trí chiến lược của
vấn đề dân tộc, đại đoàn kết các dân tộc, vì vậy đã có những chính sách dân
tộc phù hợp cho từng thời kỳ. Hiện nay, nước ta đã bước vào năm thứ hai
chín thực hiện đường lối đổi mới đất nước với nhiệm vụ trọng tâm là công

nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với kinh tế tri thức nhằm đưa nước ta thốt
khỏi tình trạng một nước nơng nghiệp lạc hậu, trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, trong bối cảnh khoa học cơng
nghệ, tồn cầu hố phát triển mạnh mẽ, làm gia tăng gay gắt tính chất cạnh
tranh trong cuộc đua phát triển giữa các quốc gia. Để làm được như vậy thì
một vấn đề cần được đặt lên hàng đầu đó là phát triển lực lượng sản xuất,
nâng cao kỹ thuật, cơng nghệ, trong đó trọng tâm là phát triển nguồn nhân
lực đồng đều, tiên tiến. Để đạt được kết quả đó, trước hết cần phải xây dựng
được đội ngũ cán bộ vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong
sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn. Bởi


2

cán bộ là người phổ biến những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước đến nhân dân thực hiện, là tấm gương nói được làm được, phải kiên
định, gương mẫu.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất xem trọng công tác xây dựng đội
ngũ cán bộ, người đã từng khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công
việc” [66, 269] hay “Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt
hay kém” [66, 240]. Thấm nhuần tư tưởng của Hồ Chí Minh, trong suốt q
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ trước đến nay, Đảng ta luôn quan tâm
đến vấn đề cán bộ, coi công tác cán bộ là một trong những khâu công tác
trọng yếu của Đảng, của các ngành, các cấp. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ X của Đảng cũng đã đề ra mục tiêu chung của công tác cán bộ là: “xây
dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống
lành mạnh, khơng quan liêu, tham nhũng, lãng phí; có tư duy đổi mới, sáng
tạo, có kiến thức chun mơn, nghiệp vụ đáp ứng u cầu của thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa…” [29, 292 - 293].
Đắk Lắk là một trong những trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và

giữ một vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về an ninh quốc phịng của tỉnh
cũng như tồn vùng Tây Nguyên. Với lịch sử hình thành, phát triển hơn một
trăm năm, đã mang trong mình những giá trị văn hóa riêng bởi nơi đây là
nơi tập trung những cộng đồng dân tộc khác nhau, bên cạnh dân tộc bản địa
là người Êđê cịn có các dân tộc khác sinh sống như người Mnông, Stiêng,
Jarai, Bana… Công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế của đất nước đã làm
thay đổi diện mạo kinh tế - xã hội của tỉnh Đắk Lắk. Bởi vì có những thuận
lợi về sự đa dạng văn hóa dân tộc truyền thống, đất đai, khí hậu ưu đãi cho
cho việc phát triển kinh tế nên khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, tỉnh
Đắk Lắk có nền văn hóa phát triển văn minh hơn so với nền văn hóa truyền
thống cổ hủ lạc hậu trước đó, bên cạnh đó, nền kinh tế cũng thay đổi cơ cấu,


3

phát triển theo hướng công nghiệp – dịch vụ, xây dựng nhiều nhà máy chế
biến nông sản, đẩy mạnh sự phát triển bền vững của tỉnh.
Tuy nhiên, Đắk Lắk cũng có những hạn chế từ hồn cảnh lịch sử như: cơ
cấu dân cư, thành phần dân tộc, trình độ văn hóa… ảnh hưởng đến sự phát triển
bền vững. Với đặc thù của tỉnh miền núi, dân cư phân bổ không đồng đều, cơ
sở hạ tầng còn thấp kém, đời sống của nhân dân ở một số vùng cịn nhiều khó
khăn, đội ngũ cán bộ, cơng chức của tỉnh có trình độ không được đồng đều ở
một số xã vùng sâu, vùng đặc biệt khó khăn, nhất là cán bộ người dân tộc thiểu
số trình độ cịn thấp. Trong những năm qua, tình hình an ninh, chính trị ở đây
có nhiều diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch đã và đang lợi dụng vấn đề
tôn giáo, dân tộc, dân chủ, nhân quyền để thực hiện chiến lược “diễn biến hịa
bình”, kết hợp với âm mưu bạo loạn, lật đổ ở Tây Nguyên nói chung và Đắk
Lắk nói riêng. Chúng sử dụng nhiều thủ đoạn chống phá trên các lĩnh vực kinh
tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa. Do đó, việc xây dựng đội ngũ cán bộ là người
dân tộc thiểu số trên địa bàn là việc làm mang tính cấp thiết và có ý nghĩa thiết

thực, bởi hơn ai hết họ là những người thấu hiểu tâm tư tình cảm, phong tục tập
quán của đồng bào các dân tộc nên lời nói và việc làm của họ có tính thuyết
phục đối với đồng bào các dân tộc và một điều quan trọng hơn nữa là đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số này là người trực tiếp đưa đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước đi vào cuộc sống của đồng bào các dân tộc, thực hiện
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn ở Đắk Lắk
hiện nay. Để thực hiện điều đó, cần phải xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung và
cán bộ người các dân tộc thiểu số nói riêng có phẩm chất và năng lực đáp ứng
yêu cầu thực tiễn.
Với những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: “Vấn đề dân tộc và xây
dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay” làm đề tài
luận văn thạc sĩ của mình.


4

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài
Từ những ý nghĩa lý luận và thực tiễn đã trình bày, phân tích ở trên thì
vấn đề dân tộc và xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đã được sự quan
tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học dưới nhiều góc độ khác nhau nhưng
chúng ta có thể khái quát thành ba hướng như sau:
Hướng thứ nhất: Các cơng trình nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, dân tộc thiểu số: Nguyễn Thế Thắng
(1999), Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc,
Nxb. Lao Động; Lê Ngọc Thắng (2005), Một số vấn đề về dân tộc và phát
triển, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; PGS.TS. Lê Ngọc Thắng (2005),
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam, Nxb. Trường đại học
văn hóa, Hà Nội. Nxb. Lao Động; Vũ Hiền, Ngô Mạnh Lân (1995), Vấn đề
dân tộc, giai cấp và tồn nhân loại, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn
Trọng Chuẩn (6/2011), Một số khái cạnh về vấn đề dân tộc, giai cấp và đấu

tranh giai cấp thời kỳ quá độ ở nước ta, Tạp chí triết học số 3; Một số vấn đề
dân tộc và quan điểm chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, Nxb.
Qn đội nhân dân, Hà Nội, 1998…
Trong các cơng trình kể trên thì đang chú ý cuốn “Chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc” của tác giả Nguyễn Thế Thắng,
tác phẩm tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin về sự hình thành dân tộc, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách
của Đảng, Nhà nước ta về vấn đề dân tộc trong thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Cuốn “Một số vấn đề dân tộc và quan điểm chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước ta”, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội ấn hành, tác phẩm
đã trình bày một cách khái quát về vấn đề dân tộc và quan hệ tộc người trong
một quốc gia dân tộc, về dân tộc Việt Nam và các chính sách dân tộc của
Đảng, Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới.


5

Cuốn “Những vấn đề cơ bản về chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay”
của PGS, TS. Phan Xuân Sơn, ThS. Lưu Văn Quảng (Đồng chủ biên) đã giúp
cho người đọc có những nhận thức cơ bản về dân tộc và chính sách dân tộc;
có cái nhìn hệ thống về chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta qua các
thời kỳ từ 1930 đến nay; mà còn có những tổng kết và phân tích sâu sắc về
những vấn đề đang đặt ra cho việc thực hiện chính sách dân tộc, vấn đề
nghèo đói, hoạt động của các thế lực thù địch… Đặc biệt, từ những kiến giải
về thực tiễn ấy, các tác giả bước đầu đã đưa ra những quan điểm, giải pháp
góp phần thực hiện tốt chính sách dân tộc hiện nay.
Và nhân kỷ niệm sinh nhật 106 năm của chủ tịch Hồ Chí Minh, Ủy ban
dân tộc miền núi cùng với Học viện chính trị quốc gia, thành phố Hồ Chí
Minh đã tổ chức hội thảo khoa học với đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề dân tộc Việt Nam”. Trong hội thảo các bản báo cáo của các nhà khoa

học đã làm nổi bật sự quan tâm sâu sắc và tình cảm gắn kết của chủ tịch Hồ
Chí Minh với đồng bào các dân tộc Việt Nam. Thông qua hội thảo thảo thì
các bài tham luận đã làm sáng tỏ các vấn đề: tư tưởng Hồ Chí Minh về bình
đẳng, đồn kết dân tộc, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc miền núi
trong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc, Hồ Chí Minh với việc phát triển kinh tế - xã
hội vùng dân tộc miền núi, những vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc
trong chủ nghĩa xã hội…
Hướng thứ hai, các cơng trình nghiên cứu về cán bộ, xây dựng đội ngũ
cán bộ: có TS. Trịnh Quang Cảnh (2005), Phát huy vai trị của đội ngũ trí
thức các dân tộc thiểu số nước ta trong sự nghiệp cách mạng hiện nay, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Triết học Mác – Lênin về con người và xây
dựng con người Việt Nam thời kỳ cơng nghiện hóa, hiện đại hóa của Vũ
Thiện Vương (2001), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; PGS.TS Trương
Minh Dục (2008), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc và quan hệ


6

dân tộc ở Tây Nguyên, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; GS.TS. Lê Hữu
Nghĩa (2001), Một số vấn đề về xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt
cấp huyện người các dân tộc ở Tây Nguyên, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội; PGS.TS. Nguyễn Cúc, TS. Lê Phương Thảo, TS. Doãn Hùng (2001),
Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa – luận cứ và giải pháp, Nxb. Lý luận chính
trị, Hà Nội; Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên, 2001),
Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời
kỳ đấy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội; Lô Quốc Toản (2010), Phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số
ở các tỉnh miền núi phía bắc nước ta hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội; PGS.TS Ngơ Ngọc Thắng (2010), Vai trị nhân tố chính trị trong phát

triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số, đáp ứng u cầu đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Tạp chí lý luận chính trị; Nguyễn Đăng Thành
(2012), Phát triển nguồn nhân lực vùng đồng bào dân tộc thiểu số Việt Nam
đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội; PGS.TS. Hà Đình Thành (2012), Cộng đồng Ê
đê ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội…
Trong các cơng trình kể trên thì đang chú ý là cuốn “Luận cứ khoa học
cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đấy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” do Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm
(Đồng chủ biên, 2001), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội ấn hành, các tác giả
đã nghiên cứu lịch sử phát triển của các khái niệm về cán bộ, cơng chức,
viên chức; góp phần lý giải hệ thống hóa các căn cứ khoa học của việc nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Từ đó, đưa ra những kiến nghị và phương hướng, giải pháp nhằm
củng cố, phát triển đội ngũ này cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu đáp ứng


7

u cầu nhiệm vụ của thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Cuốn “Một số vấn đề về xây dựng cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện
người các dân tộc người ở Tây Nguyên” do Lê Hữu Nghĩa (Chủ biên,
2001), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội ấn hành, tác giả đã tập trung phân
tích thực trạng đội ngũ cán lãnh đạo chủ chốt cấp huyện người các dân tộc ở
Tây Nguyên; làm rõ tầm quan trọng của đội ngũ này đối với công cuộc đổi
mới ở Tây nguyên; đúc rút một số bài học kinh nghiệm và đề xuất giải pháp
về quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng… đội ngũ cán bộ dân tộc đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ trong tình hình hiện nay.
Cuốn “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân
tộc ở Tây Nguyên”, do Trương Minh Dục (Chủ biên, 2008), Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội ấn hành, tác phẩm trình bày vấn đề dân tộc, đặc điểm kinh
tế - xã hội của các dân tộc thiểu số Tây Nguyên; Những nhân tố ảnh hưởng
đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số, những vấn đề
lý luận thực tiễn đặt ra trong q trình thực hiện chính sách dân tộc của
Đảng ở khu vực này.
Cuốn “Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức các dân tộc thiểu số nước
ta trong sự nghiệp cách mạng hiện nay”, do Trịnh Quang Cảnh chủ biên,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2005. Tác phẩm đã chỉ ra những nét chung
nhất về đặc điểm, vai trò cũng như thực trạng của đội ngũ tri thức mà đặc
biệt là tri thức dân tộc thiểu số Việt Nam, đồng thời đề xuất một số giải pháp
nhằm góp phần xây dựng, phát triển đội ngũ về số lượng và chất lượng.
Hướng thứ ba, các cơng trình nghiên cứu thực trạng, giải pháp về vấn
đề dân tộc và xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở tỉnh Đắk Lắk:
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk
lấn thứ XIV, nhiệm kỳ 2005 – 2010, Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Văn
kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lấn thứ XV, nhiệm kỳ 2010 – 2015;


8

Thành ủy Bn Ma Thuột (03/2000), Chương trình Cơng tác cán bộ dân tộc
từ nay đến năm 2005; Tỉnh ủy Đắk Lắk (2013), Báo cáo tổng kết 15 năm
thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) “Về xây dựng và phát triển
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; Ủy ban Nhân dân
tỉnh Đắk Lắk (2013), Báo cáo về việc thực hiện chính sách, pháp luật trong
đào tạo và sử dụng đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân
tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk; Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk
(2014), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Đắk Lắk; Báo cáo chính
trị Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số tỉnh Đắk Lắk lần thứ II; Kết quả
thực hiện công tác dân tộc năm 2014, phương hướng nhiệm vụ năm 2015;

Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2015), Báo cáo tình hình phát triển kinh tế
- xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh năm 2014 và phương hướng, nhiệm
vụ kế hoạch năm 2015… Tại các Văn kiện và báo cáo của tỉnh Đắk Lắk, vấn
đề dân tộc và xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc của tỉnh hiện nay đã được
làm rõ, qua đó nêu ra một số ngun nhân tích cực và hạn chế trong q
trình xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số của tỉnh. Từ đó đề ra
những phương hướng và giải pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ người dân
tộc phù hợp với điều kiện phát triển của tỉnh, đáp ứng u cầu phát triển
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh cũng như cả nước hiện nay.
Các cơng trình nghiên cứu rất đa dạng, phong phú, các tác giả đã trình
bày quan điểm Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc cũng
như vai trị của cán bộ, trong đó có là cán bộ dân tộc thiểu số theo những
chiều hướng khác nhau. Ngoài các cơng trình trên cịn nhiều cơng trình của
các tác giả đăng trên tạp chí triết học, tạp chí cộng sản, trang web… Những
tác giả trên đã tìm hiểu và nghiên cứu về vấn đề dân tộc, vấn đề xây dựng
đội ngũ cán bộ ở nhiều khía cạnh, cung cấp những nguồn tài liệu quý báu
cho tác giả kế thừa và phát triển đề tài.


9

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích của luận văn
Làm rõ một cách có hệ thống nội dung vấn đề dân tộc và xây dựng đội
ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở tỉnh Đắk Lắk. Trên cơ sở đó phân tích thực
trạng và đề xuất các giải pháp nhằm tiếp tục phát triển đội ngũ cán bộ người
dân tộc thiểu số trong giai đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất: Trình bày, hệ thống, phân tích làm rõ những vấn đề lý luận

về vấn đề dân tộc, về cán bộ, cán bộ dân tộc thiểu số, vai trò của đội ngũ cán
bộ, cán bộ người dân tộc thiểu số trong giai đoạn hiện nay.
Thứ hai: Trình bày, phân tích, đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số ở Đắk Lắk, chỉ ra nguyên nhân và những vấn đề đặt ra trong xây
dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh trong giai đoạn hiện nay.
Thứ ba: Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ
dân tộc thiểu số tỉnh Đắk Lắk đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng của luận văn
Vấn đề dân tộc và xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở
tỉnh Đắk Lắk hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn giới hạn việc nghiên cứu vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số ở tỉnh Đắk Lắk thông qua công tác quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ từ năm 2006 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
* Cơ sở lý luận của luận văn
Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác –


10

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
vấn đề dân tộc và xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong sự nghiệp
đổi mới đất nước.
* Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc. Từ cơ sở
lý luận trên, để hoàn thành mục đích, nhiệm vụ của luận văn, tác giả cịn sử
dụng các phương pháp khác như: Phương pháp lịch sử và logic, phương pháp

phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê khi phân
tích thực trạng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở tỉnh Đắk Lắk.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
* Ý nghĩa về khoa học
Luận văn hệ thống hóa quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và đưa ra một số giải pháp để xây
dựng đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay cả về
số lượng, chất lượng, cơ cấu đáp ứng u cầu thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
* Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn góp phần đề xuất một số phương hướng và giải pháp mang
tính định hướng góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở
tỉnh Đắk Lắk hiện nay.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên cao
học Khoa Triết nói riêng và sinh viên Khoa học xã hội nhân văn nói chung
trong việc học tập, nghiên cứu các vấn đề khoa học xã hội nhân văn.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục luận văn
được kết cấu thành 2 chương, 4 tiết.


11

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC, DÂN TỘC
THIỂU SỐ VÀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
1.1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VÀ QUAN ĐIỂM, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC, DÂN TỘC THIỂU SỐ


1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề dân tộc, dân tộc thiểu số
1.1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc
Muốn giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc của một quốc gia thì phải đứng
trên lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, dựa vào tình hình cụ
thể của các dân tộc mà đề ra những nguyên tắc, những chính sách dân tộc phù
hợp “vấn đề dân tộc là một bộ phận của vấn đề chung về cách mạng vô sản,
một bộ phận của vấn đề chun chính vơ sản” [85, 294]. Đó là vấn đề lực
lượng hậu bị và vấn đề liên minh của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh cho
chủ nghĩa xã hội, vì thế nó có ý nghĩa hết sức quan trọng. Giải quyết đúng đắn
vấn đề dân tộc là một trong những điều kiện tất yếu để chủ nghĩa xã hội chiến
thắng chủ nghĩa tư bản.
Quan điểm của Mác – Ăngghen về vấn đề dân tộc:
Khi xây dựng học thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, Mác –
Ăngghen đã chỉ ra cho các nhà nghiên cứu một phương pháp luận sắc bén để
nghiên cứu tự nhiên, xã hội và con người. Trong đó, vấn đề dân tộc là một
vấn đề được Mác – Ăngghen đặc biệt chú ý trong quá trình xây dựng học
thuyết của mình. Mác – Ăngghen là những người đóng vai trò tiên phong,
vạch ra những giải pháp quan trọng cho giải quyết vấn đề dân tộc cho các
nhà lý luận mácxít sau này. Quan niệm của Mác – Ăngghen về vấn đề dân


12

tộc được trình bày chủ yếu trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế
độ tư hữu và của nhà nước” của Ăngghen và tác phẩm “Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản” tác phẩm viết chung của Mác – Ăngghen.
Theo quan điểm của Mác – Ăngghen dân tộc là sản phẩm của quá trình
phát triển lâu dài của lịch sử xã hội loài người. Trước khi tiến tới cộng đồng

dân tộc thì lồi người trải qua các hình thức cộng đồng tiền dân tộc như thị
tộc, bộ tộc, bộ lạc.
Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của
Nhà nước”, Ăngghen đặt nền tảng bước đầu khi nghiên cứu về các thời đại
của lịch sử loài người trên nền tảng khoa học thời bấy giờ. Trên nền tảng
phương pháp luận biện chứng duy vật, Ăngghen chỉ rõ: “Moóc-gan là người
đầu tiên, với sự am hiểu vấn đề, đã tìm cách sắp xếp thời kỳ tiền sử của loài
người thành một hệ thống nhất định; chừng nào mà cịn chưa có thêm được
nhiều tài liệu khiến người ta thấy cần phải sửa đổi lại thì, khơng nghi ngờ gì
nữa, cách chia thời kỳ của Mc-gan vẫn cịn giá trị” [60, 43]. Dựa trên tài
liệu do Mc-gan phát hiện và những tài liệu tự nghiên cứu, Ăngghen đã
phân tích về thị tộc, bào tộc và bộ lạc.
Ăngghen khái quát lịch sử chỉ ra rằng thị tộc là hình thức cộng đồng
người đầu tiên, là tổ chức xã hội sớm nhất của lồi người đó là hình thức tồn
tại cơ bản của xã hội nguyên thủy, biết dùng các cơng cụ thơ sơ như đá mài,
cung tên… Ơng viết: “Thị tộc đã phát triển một cách tất yếu mà cịn phát
triển một cách hồn tồn tự nhiên…tất nhiên chúng ta có cơ sở để thừa nhận
một cách gần như chắc chắn rằng trong quá khứ, hình thức gia đình ấy đã tồn
tại ở tất cả các dân tộc” [60, 74].
“Thị tộc (trong chừng mực những tài liệu hiện có cho phép chúng ta
phán đốn) là một thiết chế chung nhất cho tất cả các dân dã man, cho tận đến
khi họ bước vào thời đại văn minh, và thậm chí cịn sau hơn nữa” [60, 130].


13

Thị tộc là tập đồn người cùng dịng máu, “con cháu được thừa nhận
của cùng một bà cụ tổ nhất định, người sáng lập ra thị tộc” [60, 131]. Như
vậy, thị tộc được hình thành trên cơ sở những mối quan hệ huyết thống, cùng
tổ tiên sinh ra. Trong thị tộc có sự phân cơng lao động rõ ràng, đàn ông làm

nhiệm vụ săn bắt, hái lượm, còn phụ nữ trồng trọt và chăn nuôi. Công việc
của đàn ông mang tính chất nhất thời, bị động, cịn cơng việc của người phụ
nữ lại mang tính chất chủ động và ổn định. Chính cơng việc mà người phụ
nữ làm đã đảm bảo nguồn sống ổn định cho cộng đồng. Ở thời kỳ này vai trò
của người phụ nữ được đề cao, nên, thị tộc thời kỳ này mang hình thức mẫu
quyền. Trong thị tộc tuyệt đối không một thành viên nào được phép lấy vợ
lấy chồng trong nội bộ thị tộc. Đó là quy tắc cơ bản của thị tộc, mối dây gắn
bó những người trong thị tộc với nhau. Thị tộc phụ quyền xuất hiện khi nghề
trồng trọt và chăn nuôi phát triển, người đàn ông đảm nhiệm những công
việc nặng nhọc cho nên vai trò của họ ngày càng tăng lên. Ăngghen viết:
“Chế độ mẫu quyền bị lật đổ là sự thất bại lịch sử có tính chất tồn thế giới
của giới nữ” [60, 93].
Thị tộc có hai chức năng quan trọng được đảm bảo bởi người tù trưởng
(người cầm đầu trong thời bình) và người thủ lĩnh (người chỉ huy quân sự).
Người tù trưởng phải là người được lựa chọn trong nội bộ các thành viên
trong thị tộc, cịn người thủ lĩnh có thể lựa chọn người ngồi thị tộc thơng
qua hình thức bầu cử của tất cả thành viên của thị tộc. Thị tộc có thể tùy ý
bãi miễn chức vụ tù trưởng và thủ lĩnh quân sự. Những người cùng thị tộc
đều có bổn phận bảo vệ và giúp đỡ lẫn nhau. Cơ quan quyền lực tối cao của
thị tộc có một hội đồng, được bầu lên, hội đồng có quyền bầu ra, bãi miễn
các tù trưởng và thủ lĩnh quân sự. Như vậy, “với tất cả tính ngây thơ và giản
dị của nó, chế độ thị tộc đó quả là một tổ chức tốt đẹp biết bao. Không quân
đội, hiến binh và cảnh sát, không có quý tộc, vua chúa, tổng đốc, trưởng quan


14

và quan tịa, khơng có nhà tù” [60, 149].
Bào tộc là một tổ chức gồm nhiều thị tộc. Bào tộc phần lớn đều tiêu
biểu cho những thị tộc ban đầu, tức những phân nhánh ban đầu của bộ lạc,

bởi vì khi không được kết hôn trong nội bộ thị tộc thì mỗi bộ lạc, muốn tồn
tại độc lập nhất thiết phải gồm ít nhất là hai thị tộc. Bộ lạc mà phát triển thì
mỗi thị tộc lại tách ra làm hai hay nhiều nhánh và mỗi nhánh lại là một thị
tộc độc lập. Còn nhiều thị tộc ban đầu, bao gồm tất cả những thị tộc con vẫn
còn tồn tại với tư cách là bào tộc. Những thị tộc cùng chung một bào tộc đều
được coi là những thị tộc anh em ruột với nhau, còn những thị tộc bào tộc
khác thì được coi là những thị tộc anh em họ của mình.
Những đặc điểm, chức năng của bào tộc có tính chất xã hội và một phần
tính chất tơn giáo. Đó là các bào tộc có các trận đấu bóng với nhau. Nếu có
vụ giết người xảy ra trong bộ lạc mà hung thủ và nạn nhân không thuộc cùng
một bào tộc, thì thị tộc của nạn nhân thường kêu gọi sự giúp đỡ của những
thị tộc anh em của mình. Trường hợp có những nhân vật quan trọng chết đi,
bào tộc đối diện có trách nhiệm làm lễ mai táng, ma chay, còn bào tộc của
người quá cố thì đi đưa đám với tư cách là bà con của người đã chết.
Cũng giống như nhiều thị tộc hợp lại thành một bào tộc, nhiều bào tộc
hợp lại thành một bộ lạc, trong một số trường hợp những bộ lạc đã suy yếu
đi nhiều thì khơng có tổ chức trung gian là bào tộc. Lúc đầu thị tộc chỉ là một
cộng đồng với quy mơ nhỏ bé, thường thì từ 30 đến 50 người. Về sau thị tộc
phát triển, ngày càng tăng nhiều lên, nhiều thị tộc có quan hệ huyết thống và
quan hệ hôn nhân với nhau hợp thành bộ lạc. Đó là hình thức mở rộng, phát
triển cao hơn thị tộc. Bộ lạc có những đặc trưng sau: Mỗi bộ lạc đều có một
lãnh thổ riêng, tên gọi riêng, có ngơn ngữ riêng; mỗi bộ lạc đều có tù trưởng,
thủ lĩnh quân sự do các thị tộc bầu ra nhưng quyền hành lại rất hạn chế; mỗi
bộ lạc có quyền bãi miễn tù trưởng và thủ lĩnh quân sự; mỗi bộ lạc có những


15

quan niệm riêng về tôn giáo và các nghi lễ; bộ lạc có hội đồng gồm tất cả các
tù trưởng và thủ lĩnh quân sự quân sự của các thị tộc để thảo luận, giải quyết

những công việc chung của bộ lạc. Hội đồng họp trước cơng chúng, họ có
quyền tham gia đóng góp ý kiến.
Với tất cả những tính ngây thơ, giản dị của nó, thời kỳ này chưa có chế
độ tư hữu, chưa có giai cấp, chưa có Nhà nước, vì vậy cũng khơng có qn
đội, hiến binh, cảnh sát, khơng có q tộc, vua chúa, tổng đốc, trưởng quan
và quan tịa, khơng có nhà tù, khơng có những vụ xử án nhưng mọi việc đều
diễn ra trôi chảy.
Bộ lạc là hình thức tốt nhất để phát triển sản xuất, ở thời kỳ này công cụ
sản xuất bằng kim loại đã được hình thành tạo nên hình thức phân cơng lao
động đầu tiên. Đó là tiền đề khách quan của sự xuất hiện tư hữu tư nhân, từ
đó dẫn đến sự thay đổi hình thái kinh tế - xã hội bộ tộc ra đời thay thế cho
hình thức cộng đồng thị tộc, bộ lạc.
Bộ tộc là hình thức cộng đồng được hình thành từ sự liên kết của nhiều
bộ lạc và liên minh các bộ lạc trên cùng một lãnh thổ nhất định. Bộ tộc đông
đảo hơn bộ lạc và thị tộc. Khác với bộ lạc và thị tộc, bộ tộc có tên gọi và có
những đặc điểm kinh tế, văn hóa riêng. Thời kỳ hình thành bộ tộc đánh dấu
sự tan rã hoàn toàn của xã hội công xã nguyên thủy; sỡ hữu tư nhân và chế
độ sỡ hữu ra đời thay thế sỡ hữu tập thể của thị tộc, bộ lạc. Nhà nước, tổ
chức chính trị có giai cấp đầu tiên xuất hiện đó là nhà nước chiếm hữu nô lệ.
Phạm vi thống trị của Nhà nước khơng trùng với bộ tộc. Nhà nước tập quyền
có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự thống nhất kinh tế, văn hóa, giao
lưu giữa các bộ tộc. Dưới sự tác động của những điều kiện kinh tế, văn hóa,
xã hội mới thì bộ tộc khơng cịn thích hợp cho sự phát triển. Chính những
nhân tố trên đã dẫn đến sự ra đời của một hình thức cộng đồng người mới
thay thế bộ tộc đó là dân tộc.


16

Dân tộc là một hình thức cộng đồng người hình thành sau bộ tộc. Dân

tộc được hình thành từ một bộ tộc hoặc từ sự liên kết của tất cả các bộ tộc
sống cùng trên một lãnh thổ. Cũng như bộ tộc, dân tộc là hình thức cộng đồng
người gắn liền với xã hội có giai cấp, các thể chế chính trị và Nhà nước.
Thuật ngữ dân tộc được hiểu theo hai nghĩa là dân tộc với nghĩa cộng
đồng tộc người (ethnic, ethnie) và dân tộc với nghĩa quốc gia dân tộc, một
cộng đồng chính trị - xã hội (nation).
Khái niệm dân tộc theo nghĩa cộng đồng tộc người (ethnic, ethnie),
khơng phân biệt trình độ phát triển, đa số hay thiểu số, sống ở phạm vi quốc
gia nào, bao gồm bốn điểm chung lớn nhất đó là: chung một ngơn ngữ; chung
một lịch sử nguồn gốc; chung một đời sống văn hóa và cùng nhận mình là dân
tộc đó. Theo nghĩa này, ta có dân tộc Kinh, dân tộc Thái, dân tộc Hán…
Khái niệm dân tộc theo nghĩa quốc gia dân tộc (nation), để chỉ cộng
đồng cư dân một quốc gia nhất định, bao gồm nhiều dân tộc, nhiều tộc
người, có nền kinh tế thống nhất, có quốc ngữ chung và có ý thức về sự
thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế,
truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình
lịch sử dựng nước và giữ nước. Theo nghĩa này có dân tộc Việt Nam, dân tộc
Trung Hoa, dân tộc Pháp...
Ăngghen cho rằng ở Châu Âu vào cuối thế kỷ IX đã diễn ra quá trình
hình thành dân tộc từ sự phát triển của các bộ tộc, xuất hiện hàng loạt các
dân tộc với các quốc gia phong kiến. Trong thời kỳ này phương thức sản
xuất phong kiến đóng vai trị thống trị. Nhà nước phong kiến do vua đứng
đầu là đại diện của một dân tộc đang hình thành đối lập với tình trạng chia
nhỏ thành nhiều quốc gia.
Mặc dù đóng vai trị quan trọng trong việc hình thành dân tộc, nhưng
vào cuối thời kỳ phong kiến do sự phát triển của lực lượng sản xuất, giai cấp


17


quý tộc phong kiến bắt đầu lỗi thời, lạc hậu và trở thành lực cản cho sự phát
triển của những thành phố, quốc gia dân tộc. Khi này vai trò của giai cấp tư
sản trong việc xây dựng dân tộc, quốc gia dân tộc ngày càng trở nên quan trọng.
Dân tộc và các quốc gia dân tộc tư sản được hình thành trên nền tảng
đại cơng nghiệp tư bản chủ nghĩa. Quá trình hình thành dân tộc tư sản là một
quá trình thống nhất lãnh thổ, thống nhất thị trường, đồng thời cũng là một
q trình đồng hóa các dân tộc khác thành một dân tộc. Trong tác phẩm
Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, Mác - Ăngghen chỉ rõ: “Giai cấp tư sản ngày
càng xóa bỏ tình trạng phân tán về tư liệu sản xuất, về tài sản và về dân cư.
Nó tụ tập dân cư, tập trung các tư liệu sản xuất, tích tụ tài sản vào trong tay
một số ít người. Kết quả tất nhiên của những thay đổi ấy là sự tập trung về
chính trị. Những địa phương độc lập, liên hệ với nhau hầu như chỉ bởi những
quan hệ liên minh, có những lợi ích, luật lệ, chính phủ, thuế quan khác nhau,
thì đã được tập hợp lại thành một dân tộc thống nhất, có một chính phủ thống
nhất, một luật pháp thống nhất, một lợi ích dân tộc thống nhất mang tính giai
cấp và một hàng rào thuế quan thống nhất” [62, 51].
Trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản đóng vai trị hết
sức tiến bộ, có tác dụng tích cực, thúc đẩy sự phát triển của lịch sử. Tuy
nhiên, do những khuyết tật thuộc về bản chất của phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa, giai cấp tư sản dần dần trở nên lỗi thời, phản động. Khi giai cấp tư
sản chính là kẻ gây ra nạn áp bức, thù hằn dân tộc. Trong nước thì áp bức bóc
lột giai cấp công nhân, nhân dân lao động của dân tộc mình, ngồi nước thì
gây chiến tranh xâm lược nhằm áp bức, bóc lột các dân tộc khác. Vì vậy, theo
Mác - Ăngghen thì cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc bị áp bức không thể
tách rời cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động
trong từng quốc gia dân tộc. Trong tuyên ngôn của Đảng Cộng sản có viết:
“Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột


18


dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ. Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong
nội bộ dân tộc khơng cịn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời
mất theo” [62, 51]. Chủ nghĩa Mác chỉ ra, chủ nghĩa quốc tế là bản tính xã hội
của giai cấp cơng nhân, lợi ích căn bản của giai cấp cơng nhân địi hỏi phải đấu
tranh triệt để chống chính sách nơ dịch dân tộc khác, chống chế độ áp bức dân
tộc và đặc quyền dân tộc, bởi vì những người đi áp bức dân tộc khác là những
người không hề tự do.
Mác – Ăngghen nêu rõ: trong quá trình ra đời, thay đổi của các hình thức
cộng đồng người trong lịch sử, xét cho cùng đều là nguyên nhân kinh tế, mỗi
hình thức cộng đồng người nói chung đều tương ứng với một phương thức
sản xuất nhất định. Từ đó, Mác – Ăngghen đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò
độc lập dân tộc trong cuộc đấu tranh giai cấp.
Mác – Ăngghen luôn nhắc nhở rằng không nên tuyệt đối hóa vai trị của
một nhân tố nào đó trong số các nhân tố đó, mà ln cần phải có quan điểm
lịch sử, tồn diện, cụ thể khi xem xét vấn đề dân tộc.
Quan điểm của Lênin về vấn đề dân tộc:
Trong hoàn cảnh lịch sử mới, trong thời đại chủ nghĩa đế quốc và cách
mạng vô sản. Trên cơ sở kế thừa những quan điểm của Mác – Ăngghen về
vấn đề dân tộc, lúc này phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đã trở thành
một bộ phận của cuộc đấu tranh chung chống chủ nghĩa đế quốc. Lênin đã
phát triển vấn đề dân tộc thành một hệ thống lý luận toàn diện, sâu sắc làm cơ
sở cho đường lối, chính sách về vấn đề dân tộc của các chính đảng của giai
cấp vơ sản.
Theo quan điểm của Lênin, những dấu hiệu để xác định sự tồn tại của
một dân tộc bao gồm nhiều quan hệ, trong đó có quan hệ chính trị, quan hệ
kinh tế, quan hệ lãnh thổ, quan hệ pháp lý, quan hệ tư tưởng và văn hóa giữa
các dân tộc, các nhóm dân tộc và bộ tộc.



19

Dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của lịch sử. Trước
dân tộc là cộng đồng tiền dân tộc như thị tộc, bộ lạc, bộ tộc. Sự ra đời và phát
triển của chủ nghĩa tư bản dẫn đến sự ra đời của các Nhà nước tư sản. Khi chủ
nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa đế quốc, đi
áp bức, bóc lột các dân tộc yếu hơn mình thì bắt đầu xuất hiện vấn đề dân tộc
thuộc địa. Sau cách mạng tháng Mười Nga, phong trào giải phóng dân tộc
phát triển mạnh mẽ dẫn đến sự tan rã hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế
quốc và xuất hiện các quốc gia dân tộc độc lập. Vì vậy, muốn xóa bỏ nạn áp
bức giai cấp, tình trạng dân tộc này đi nơ dịch, bóc lột dân tộc khác thì phải
xóa bỏ tận gốc rễ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, cơ sở kinh tế - xã
hội sinh ra nạn áp bức giai cấp, nạn nô dịch dân tộc.
Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản xét
về bản chất là một cuộc đấu tranh quốc tế - toàn bộ giai cấp vơ sản chống lại
tồn bộ giai cấp tư sản, nhưng ban đầu lại diễn ra trong phạm vi dân tộc mang
hình thức đấu tranh dân tộc. Vì thế, trước tiên giai cấp vơ sản phải giành lấy
chính quyền ở nước mình, phải tự mình trở thành dân tộc, phải biến lợi ích
của mình thành lợi ích của dân tộc, biến lợi ích của dân tộc thành lợi ích của
mình, để trở thành người lãnh đạo tồn thể dân tộc trong cuộc đấu tranh cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới tiến bộ hơn.
Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, thời đại mà Lênin sống, hoạt động
cách mạng, vấn đề bình đẳng, tự quyết dân tộc lại càng bức thiết hơn. Khi
nghiên cứu về vấn đề dân tộc, Lênin phát hiện ra hai xu hướng có ý nghĩa lịch
sử trong vấn đề dân tộc, hai xu hướng có tính chất quy luật phát triển khách
quan của chủ nghĩa tư bản. Xu hướng thứ nhất là sự thức tỉnh của ý thức dân
tộc và phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc sẽ dẫn đến việc thành lập
các quốc gia dân tộc độc lập. Xu hướng này chiếm ưu thế trong thời kỳ chủ
nghĩa tư bản mới phát triển. Xu hướng thứ hai là việc tăng cường, phát triển



×