Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

LUẬN VĂN: Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở tỉnh Cà Mau hiện nay ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (784.27 KB, 99 trang )














LUẬN VĂN:

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã ở tỉnh Cà Mau hiện nay












MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Gần 80 năm lãnh đạo cách mạng, đặc biệt sau Đại hội đổi mới (Đại hội VI năm
1986) đến nay; công tác cán bộ, công chức luôn được Đảng và Nhà nước ta chú trọng và
quan tâm. Hội nghị Trung ương 3 - khoá VIII, Đảng đã khẳng định: “Cán bộ là nhân tố
quyết định đến sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất
nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”[16].
Đảng ta quan tâm đối với cán bộ, công chức là sự quan tâm toàn diện, không
chỉ cán bộ, công chức cấp cao, lãnh đạo, quản lý; cán bộ, công chức ở cấp trung ương,
tỉnh, huyện mà cả cán bộ công chức bình thường, đặc biệt là cán bộ, công chức ở cơ
sở, xã, phường, thị trấn; Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã nhấn mạnh việc nâng cao
phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, trong đó xác định: “Đẩy mạnh đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức với chương trình nội dung sát hợp; chú trọng đội ngũ
cán bộ xã, phường”[19, tr.217], Nghị quyết Trung ương 5 - khoá IX khẳng định: “Xây
dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện
đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm thạo việc, tận tụy với dân, biết
phát huy sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp; trẻ hoá đội ngũ, chăm lo đào tạo,
bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở” và tại Nghị
quyết Trung ương 6 - khoá X cũng đã xác định: “Thực hiện mạnh mẽ chủ trương trẻ
hoá, tiêu chuẩn hoá, thể chế hoá và từng bước nhất thể hoá chức danh cán bộ; tạo bước
chuyển có tính đột phá về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở”. Tổ chức thực
hiện chủ trương trên, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đã đạt được
những kết quả quan trọng, như đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đã được chú trọng
quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, các chế độ chính sách ngày càng hoàn thiện; tăng thêm
về mặt số lượng, trình độ và kiến thức các mặt được nâng lên. Tuy nhiên, bên cạnh đó
công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã vẫn là khâu yếu kém: nội dung
chương trình đào tạo còn bất cập; quy hoạch còn bị động, chắp vá; chế độ, chính sách
chưa thật sự thoả đáng… Chính điều này dẫn đến một bộ phận không nhỏ cán bộ, công


chức cơ sở phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí chiến đấu, suy thoái về đạo đức, lối sống,

quan liêu, tham nhũng, lãng phí…
Cấp xã (xã, phường, thị trấn) là một cấp trong hệ thống hành chính bốn cấp
của Nhà nước Việt Nam, là nơi trực tiếp thực hiện các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ cấp trên giao, chăm lo mọi
sinh hoạt và đời sống hằng ngày của nhân dân ở địa phương và là cầu nối giữa Đảng,
Nhà nước với nhân dân. Thực tiễn cho thấy nơi đâu có quan tâm đầy đủ và làm tốt
công tác cán bộ, công chức ở cơ sở, có đội ngũ cơ sở vững mạnh thì nơi đó tình hình
chính trị - xã hội ổn định, kinh tế, văn hoá phát triển, quốc phòng an ninh được giữ
vững. Ngược lại, ở đâu công tác cán bộ không được quan tâm, đội ngũ cán bộ, công
chức không đủ phẩm chất, năng lực và uy tín thì sẽ gặp khó khăn, có nhiều nơi còn tạo
sơ hở cho kẻ địch lợi dụng, gây nên “điểm nóng” về chính trị. Điều đó cho thấy, đội
ngũ cán bộ, công chức cấp xã có vai trò rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến việc
xây dựng và củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở, tác động trực tiếp đến sự nghiệp cách
mạng và đổi mới của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Cà Mau là một tỉnh cuối cùng cực Nam của Tổ quốc, có nhiều dân tộc, tôn
giáo cùng sinh sống trên địa bàn, có vị trí địa lý phức tạp (là vùng bán đảo, rừng, biển,
đồng bằng và cả hải đảo) là vùng căn cứ kháng chiến nên chịu nhiều hậu quả của chiến
tranh, là vùng đất mới, là bán đảo nên chịu nhiều thiên tai. Ngay từ khi tách tỉnh Minh
Hải cũ tái lập tỉnh Cà Mau, cùng với những cơ hội và thuận lợi, tỉnh còn thiếu hụt trầm
trọng và yếu kém của đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và đội ngũ cán bộ, công
chức cơ sở nói riêng.
Trong những năm qua, việc tổng kết, đánh giá một cách có hệ thống và thường
xuyên đội ngũ cán bộ, công chức (đặc biệt là cấp xã) chậm được tiến hành. Nhìn
chung chưa có giải pháp đồng bộ, phù hợp với đặc thù của địa phương nhằm xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức của tỉnh nói chung, cán bộ, công chức cấp xã.
Xuất phát từ những lý do trên, cùng với kinh nghiệm công tác của bản thân,
kết hợp với kiến thức học được trong thời gian 03 năm ở Học viện Chính trị - Hành


chính quốc gia Hồ Chí Minh, tác giả chọn đề tài: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công

chức cấp x ở tỉnh C Mau hiện nay” để nghiên cứu và viết luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề cán bộ, công chức cấp xã đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên
cứu. Liên quan trực tiếp đến việc nâng cao chất lượng và quản lý đội ngũ cán bộ, công
chức có một số công trình:
- Đề tài khoa học cấp Bộ: Th.S Nguyễn Thế Vịnh - Vụ Chính quyền địa
phương - Bộ Nội vụ (2007), Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở theo Nghị quyết Trung
ương 5 (khoá IX), Hà Nội.
- TS. Thang Văn Phúc và TS. Nguyễn Minh Phương (đồng chủ biên) (2001),
Cơ sở lý luận thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ công chức, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
- Lê Thị Lý (2003), Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức xã trước yêu cầu đổi
mới, Luận văn Thạc sĩ, Đại học quốc gia, Hà Nội.
- Dương Hương Sơn, Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chính
quyền cấp xã ở tỉnh Quảng Trị hiện nay, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh.
Trần Tấn Tài, Đào tạo nguồn cán bộ quản lý hành chính nhà nước cấp xã
trên địa bàn thành phố Cần Thơ - thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2004).
Nguyễn Khắc Bộ, Nâng cao năng lực quản lý nhà nước của chính quyền cơ
sơ”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số tháng 3/2006.
Những tài liệu trên đây chừng mực nhất định đã đề cập đến một số vấn đề lý
luận về cán bộ, công chức; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức như: khái niệm cán
bộ, công chức, một số nội dung về xây dựng cán bộ, công chức; nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ, công chức…
Đến nay, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu tương đối đầy đủ và
toàn diện về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của một tỉnh ở đồng bằng sông Cửu
Long nói chung và tỉnh Cà Mau nói riêng. Vì vậy, đề tài nghiên cứu của luận văn



không trùng với các công trình khoa học đã được công bố. Mặc dù vậy, các công trình
khoa học trên đây là tài liệu tham khảo có giá trị cho việc nghiên cứu và hoàn thiện
bản luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích:
Luận văn có mục đích là trên cơ sở nghiên cứu lý luận về xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức cấp xã và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở
tỉnh Cà Mau, luận văn đề xuất các giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp
xã ở tỉnh Cà Mau hiện nay.
- Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
+ Nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở
cấp xã.
+ Phân tích, đánh giá thành tựu và chỉ ra những mặt tồn tại, hạn chế, nhiên cứu
xây dựng đội ngũ cán bộ công chức cấp xã ở tỉnh Cà Mau.
+ Đề xuất các giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở
tỉnh Cà Mau hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã theo
Luật Cán bộ, công chức 2008.
- Qua khảo sát ở các xã ở nông thôn, đô thị ở tỉnh Cà Mau để đánh giá việc
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở Cà Mau từ khi tách tỉnh đến nay.
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu xây dựng đội ngũ cn bộ, cơng chức cấp x ở tỉnh
Cà Mau đến năm 2015.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà
nước về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và cán bộ, công chức chính
quyền cơ sở nói riêng.



Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Lịch sử - cụ thể, phân tích -
tổng hợp; điều tra xã hội học, thống kê so sánh.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Luận văn chỉ ra được những kết quả, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân tồn tại,
hạn chế của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở tỉnh Cà Mau sau khi tách
tỉnh đến nay.
- Đề xuất các giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã tỉnh
Cà Mau đến năm 2015.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Về lý luận, đề tài góp phần làm phong phú thêm lý luận về xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức ở địa phương.
- Về thực tiễn, luận văn là tài liệu tham khảo có giá trị cho việc định ra chủ trương,
chính sách xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở tỉnh Cà Mau.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
CN BỘ, CƠNG CHỨC CẤP X


1.1. QUAN NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VỊ TRÍ, VAI TRỊ CỦA CN BỘ, CƠNG
CHỨC CẤP X
1.1.1. Quan niệm về cán bộ, công chức
Trên thế giới có những quan niệm khác nhau về cán bộ, công chức. Ở Cộng hoà
Pháp, công chức gồm những người được tuyển dụng và bổ nhiệm vào ngạch, làm việc
ở các công sở trong cơ quan công quyền, tổ chức phục vụ sự nghiệp công do Chính
phủ Trung ương thống nhất quản lý [44, tr.40]. Ở Inđônêxia, công chức là những



người được tuyển dụng, bổ nhiệm làm việc trong các công sở hành chính từ trung
ương đến địa phương, ngoài ra còn có sĩ quan cao cấp làm việc trong quân đội, những
người đứng đầu doanh nghiệp nhà nước. Ở Canada, công chức là những người được
tuyển dụng làm việc trong bộ máy hành chính nhà nước (không kể những người làm
việc trong đơn vị hành chính sự nghiệp).
Ở Việt Nam, cán bộ, công chức là khái niệm thường được dùng để gọi chung
những người làm việc cho nhà nước, hoặc các tổ chức trong hệ thống chính trị. Theo
Từ điển Tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng, năm 2006) cán bộ được định
nghĩa là: "Người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan Nhà nước, Đảng
và đoàn thể có chức vụ. Như vậy, trong tổ chức đảng và đoàn thể, cán bộ được dùng
để chỉ những người được bầu vào các chức vụ lnh đạo, làm công tác chuyên trách
hưởng lương từ ngân sách nhà nước". "Công chức là những người được tuyển dụng,
bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong cơ quan nhà nước, hưởng lương do
ngân sách nhà nước cấp". Như vậy, khái niệm công chức theo Từ điển Tiếng Việt
không đề cập đến lực lượng làm việc trong cơ quan Đảng, tổ chức chính trị - x hội. Cc
yu cầu phải "được tuyển dụng", "được bổ nhiệm" và "hưởng lương từ ngân sách nhà
nước" không phải là điểm đặc trưng của riêng đối tượng công chức. Lực lượng cán bộ
ở các cơ quan đảng cũng được bổ nhiệm và cũng hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Với khái niệm công chức như vậy, thì khơng thể phn biệt được cán bộ và công chức.
Dẫn đến việc khó khăn cho các cấp có thẩm quyền trong việc hoạch định chính sách
cụ thể đối với đối tượng cán bộ, công chức.
Hiện nay, theo văn bản quy phạm pháp luật đang có hiệu lực pháp luật và có giá
trị pháp lý cao nhất về địa vị pháp lý của cán bộ, công chức Việt Nam là Pháp lệnh
Cán bộ, công chức năm 1998 được sửa đổi bổ sung một số điều năm 2003 thì cn bộ,
cơng chức được quy định chung tại Khoản 1, Điều 1 như sau:
1. Cán bộ, công chức quy định tại Pháp lệnh này là công dân Việt Nam, trong
biên chế, bao gồm:
a) Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong cơ quan
nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - x hội ở Trung ương; ở tỉnh, thành phố



trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung l cấp tỉnh); ở huyện, quận, thị x, thnh phố
thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện);
b) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường
xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - x hội ở Trung ương, cấp
tỉnh, cấp huyện;
c) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức hoặc
giao giữ một công vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà nước ở Trung ương, cấp
tỉnh, cấp huyện;
d) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức hoặc giao
giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - x hội;
đ) Thẩm phán Toà án nhân dân, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân;
e) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường
xuyên làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ
quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phịng; lm việc trong cơ quan, đơn vị
thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp;
g) Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường
trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân; Bí thư, Phó bí thư Đảng uỷ; người đứng
đầu tổ chức chính trị - x hội x, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp x);
h) Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn nghiệp
vụ thuộc Uỷ ban nhn dn cấp x.
Cán bộ, công chức theo pháp luật Việt Nam phải đảm bảo tối thiểu các điều
kiện như phải là công dân Việt Nam, trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách hoặc
các nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp, đối với công chức ở các đơn vị sự nghiệp cịn
gọi l vin chức.
Php lệnh cn bộ, cơng chức khơng phn biệt r giữa cn bộ v cơng chức nhưng các
Nghị định số 117/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 lại xác định công chức là
những đối tượng sau:

Điều 2. Đối tượng điều chỉnh


Công chức nói tại Nghị định này là công dân Việt Nam, trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước được quy định tại Điểm b, Điểm c, Điểm e Khoản
1 Điều 1 của Pháp lệnh Cán bộ, công chức, làm việc trong các cơ quan nhà nước, lực
lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - x hội sau đây:
1. Văn phịng Quốc hội;
2. Văn phịng Chủ tịch nước;
3. Các cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
4. Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp;
5. Cơ quan đại diện nước Cộng hoà x hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài;
6. Đơn vị thuộc Quân đội nhân dân và Công an nhân dân;
7. Bộ my gip việc thuộc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - x hội ở trung ương,
cấp tỉnh, cấp huyện.
Ngoại trừ những đối tượng được xác định là viên chức ở Điểm d, Khoản 1,
Điều 1 của Php lệnh Cn bộ, cơng chức thì những đối tượng cịn lại l cn bộ. Cn bộ cĩ
những điểm khác biệt cơ bản so với công chức theo quy định của các văn bản trên như
được bổ nhiệm và làm việc theo nhiệm kỳ, không phân biệt cơ quan họ công tác là cơ
quan nhà nước hay các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - x hội, cn bộ khơng nằm
trong bin chế của bộ my nh nước. Xét về mặt nguyên tắc nếu họ (cán bộ) không được
bầu cử ở các nhiệm kỳ tiếp theo thì họ sẽ khơng tiếp tục hoạt động trong cơ quan nhà
nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - x hội.
Luật về Cán bộ, công chức năm 2008, có hiệu lực thi hành vào ngày 1/1/2010
cũng có những quy định phân biệt r giữa cn bộ v cơng chức tại điều 4 như sau:
1. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức
vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước,
tổ chức chính trị - x hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau
đây gọi chung l cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị x, thnh phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung
là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.

2. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức
vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - x


hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà
không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phịng; trong cơ quan, đơn
vị thuộc Công an nhn dn m khơng phải l sĩ quan, hạ sĩ quan chuyn nghiệp v trong bộ my lnh
đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ
chức chính trị - x hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lnh đạo, quản lý của
đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công
lập theo quy định của pháp luật.
Như vậy, Luật Cán bộ, công chức là một sự kế thừa và phát triển những quy
định trước đây về cán bộ, công chức. Khái niệm cán bộ, khái niệm công chức đ được
luật hoá. Luật Cán bộ, công chức có hiệu lực sẽ là cơ sở pháp lý cơ bản để phân định r
giữa cn bộ v cơng chức. Việc phn định r cn bộ, công chức sẽ tạo điều kiện thuận lợi để
cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng các chính sách đối với cán bộ, công chức
một cách phù hợp, phát huy được vai trị quan trọng của đội ngũ cán bộ, công chức
Việt Nam trong hệ thống chính trị.
1.1.2. Quan niệm, đặc điểm cán bộ cấp x
Sự nhận thức đối với quan niệm về cán bộ, công chức cấp x ở Việt Nam cũng
nằm trong sự vận động chung của quan niệm về cán bộ, công chức Việt Nam qua từng
thời điểm ban hành các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể như đ phn tích ở mục 1.1.1
của luận văn. Bên cạnh đó, quan niệm về cn bộ, cơng chức cấp x cĩ những đặc thù.
Các quy định liên quan đến cán bộ, công chức x được điều chỉnh bởi các văn bản như
Quyết định số 112/HĐBT ngày 15/10/1981 quy định về chức năng, nhiệm vụ của
chính quyền cấp x; Thơng tư 477/TCCP ngày 10/12/1981 hướng dẫn thực hiện Quyết
định số 112/HĐBT ngày 15/10/1981; Nghị định số 50/CP ngày 26/7/1995 quy định về
số lượng và chế độ chính sách của cán bộ công tác Đảng, chính quyền, đoàn thể ở cấp
x; Thơng tư 97/TTLB/TCCP-BTC ngày 16/8/1995 hướng dẫn thực hiện Nghị định số

50/CP ngày 26/7/1995. Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 không quy định cụ thể
về cán bộ, công chức cấp x m chỉ quy định chung về cán bộ, công chức. Trong các văn
bản trên chỉ r những chức danh no l cn bộ cơng tc tại x được hưởng sinh hoạt phí chứ


không nêu khái niệm về cán bộ và công chức cấp x. Trải qua một thời gian tương đối
dài, lực lượng cán bộ, công chức cấp x chưa được quan tâm đúng mức.
Năm 2003, Uỷ ban thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp
lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 mới quy định chung về cn bộ, cơng chức cấp x: Cán
bộ, công chức quy định tại Pháp lệnh này là công dân Việt Nam, trong biên chế, bao
gồm:
g) Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường
trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân; Bí thư, Phó bí thư Đảng uỷ; người đứng
đầu tổ chức chính trị - x hội x, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp x);
h) Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn nghiệp
vụ thuộc Uỷ ban nhn dn cấp x (Khoản 1, Điều 1, Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm
2003).
Mặc dù quy định trên cũng chưa phân định r quan niệm về cn bộ v cơng chức
cấp x nhưng trên cơ sở tiêu chí chung để phân biệt giữa cán bộ và công chức và Nghị
định 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 về cán bộ, cơng chức cấp x thì chúng ta vẫn
có thể xác định được những đối tượng là cán bộ, cơng chức cấp x. Cn bộ cấp x bao
gồm cn bộ chuyn trch v khơng chuyn trch. Cn bộ chuyn trch gồm:
1. Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ (sau đây gọi
chung là cán bộ chuyên trách cấp x), gồm cĩ cc chức vụ sau đây:
a) Bí thư, Phó Bí thư đảng uỷ, Thường trực đảng uỷ (nơi không có Phó Bí thư
chuyên trách công tác đảng), Bí thư, Phó Bí thư chi bộ (nơi chưa thành lập đảng uỷ
cấp x);
b) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
c) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân;
d) Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ

Chí Minh, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ, Chủ tịch Hội Nông dân và Chủ tịch Hội
Cựu chiến binh.
Cán bộ không chuyên trách gồm:


a) Trưởng Ban Tổ chức đảng, Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra đảng, Trưởng Ban
Tuyên giáo và 01 cán bộ Văn phịng Đảng uỷ;
b) Phó Trưởng công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy);
c) Phó Chỉ huy trưởng quân sự;
d) Cán bộ kế hoạch - giao thông - thuỷ lợi - nông, lâm, ngư, diêm nghiệp;
đ) Cán bộ lao động - thương binh và x hội;
e) Cán bộ dân số - gia đình v trẻ em;
g) Thủ quỹ - văn thư - lưu trữ;
h) Cán bộ phụ trách đài truyền thanh;
i) Cn bộ quản lý nh văn hoá;
k) Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc; Phó các đoàn thể cấp x: Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến
binh;
l) Chủ tịch Hội Người cao tuổi; Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Việt Nam.
(Trích khoản 3, điều 2, Nghị định 121/2003/NĐ-CP ngày 23/10/2003 quy định
về chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức cấp x).
Luật Cán bộ, công chức năm 2008 đ quy định cụ thể cán bộ và công chức x tại
Điều 4 và Điều 61: là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ
trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy,
người đứng đầu tổ chức chính trị - x hội. Cn bộ cấp x cĩ cc chức vụ sau đây:
a) Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ;
b) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
c) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân;
d) Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
đ) Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;

e) Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
g) Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với x, phường, thị trấn có
hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân Việt Nam);
h) Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.


Từ những quy định trên đây cho thấy đội ngũ cán bộ cấp x cĩ những đặc điểm
sau:
Về tiu chuẩn, cn bộ cấp x cĩ tiêu chuẩn chung được quy định tại Quyết định số
04/2004/QĐ-BNV ngày 16/1/2004. Hầu hết cán bộ x đều đảm nhận vị trí chủ chốt tại
x kể cả cơng tc Đảng, chính quyền và đoàn thể. Nên tiêu chuẩn về chính trị là một
trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất. Tiêu chuẩn chính trị đảm bảo cho cán bộ x đủ
phẩm chất để lnh đạo các mặt công tác quan trọng.
Nguồn hình thnh cn bộ cấp x rất đa dạng. Do cán bộ được bầu cử nên các tổ
chức chính trị - x hội như: Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể là nơi cung cấp
nguồn cn bộ cho x. Cũng xuất pht từ lý do trn nn cn bộ x thường xuyên biến động,
thay đổi vị trí công tác do yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị tại địa phương.
Trong thực tế, trình độ chuyên môn của cán bộ không đồng đều. Nguyên nhân
là do cán bộ hình thnh từ cơ chế bầu cử nên tiêu chuẩn chuyên môn chưa được chú ý
đúng mức. Cán bộ Mặt trận và đoàn thể chưa có chuyên môn phù hợp. Tuy nhiên, do
cán bộ được sự tín nhiệm nên được giữ những trọng trách quan trọng mặc dù có thể
chưa đủ tiêu chuẩn theo quy định. Từ thực tế đó địi hỏi cc cơ quan có thẩm quyền phải
có kế hoạch chuẩn hoá lực lượng cán bộ này.
1.1.3. Quan niệm, đặc điểm công chức cấp x
Công chức cấp x được quy định tại Khoản 2, Điều 2, Nghị định 114/2003/NĐ-
CP như sau:
2. Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyn mơn, nghiệp
vụ thuộc Uỷ ban nhn dn cấp x (gọi chung l cơng chức cấp x), gồm cĩ cc chức danh sau
đây:
a) Trưởng công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy);

b) Chỉ huy trưởng quân sự;
c) Văn phịng - Thống kê;
d) Địa chính - Xây dựng;
đ) Tài chính - Kế toán;
e) Tư pháp - Hộ tịch;


g) Văn hoá - X hội.
Cơng chức cấp x l cơng dn Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức
danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhn dn cấp x, trong bin chế v hưởng lương từ
ngân sách nhà nước. Công chức cấp x cĩ cc chức danh sau đây:
a) Trưởng Công an;
b) Chỉ huy trưởng Quân sự;
c) Văn phịng - thống k;
d) Địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn) hoặc
địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với x);
đ) Tài chính - kế toán;
e) Tư pháp - hộ tịch;
g) Văn hóa - x hội.
Như vậy, kể từ ngày 01/01/2010 thì cc đối tượng là cán bộ, công chức đ được
xác định r v luật chỉ điều chỉnh đối với các chức danh cán bộ chủ chốt, hay cán bộ
chuyên trách. Các đối tượng là cán bộ không chuyên trách theo Nghị định
121/2003/NĐ-CP chưa được Luật quy định.
Qua đó cho thấy đội ngũ công chức cấp x cĩ những đặc điểm sau:
Cơng chức x theo quy định tại Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/1/2004
của Bộ Nội vụ phải cĩ trình độ chuyên môn phù hợp từ trung cấp trở lên. Chính từ quy
định này nên công chức x cĩ sự đồng nhất và tương đối đạt chuẩn về trình độ chuyên
môn nghiệp vụ.
Cơng chức x phải thơng qua tuyển dụng v phụ trch những lĩnh vực cơng tc cụ
thể nn nhìn chung cĩ sự đảm bảo về tiêu chuẩn và tính ổn định trong công tác. Tính ổn

định của công chức cấp x cao hơn so với cán bộ cấp x. Cơng chức x trực tiếp tham mưu
cho lnh đạo UBND cấp x trong việc điều hành, chỉ đạo công tác. Chất lượng của cơng
chức cấp x sẽ gĩp phần quyết định đến hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính nhà nước ở
cấp x.
Đội ngũ cán bộ, công chức cấp x đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện các
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và là lực lượng chiếm số lượng hết sức


đông đảo trong tổng số biên chế hiện nay. Chính vì vậy, việc xc định r đặc điểm, vị trí,
vai trị của cn bộ, cơng chức cấp x l vấn đề cần thiết để có chủ trương, chính sách phù
hợp.
1.1.4. Vị trí, vai trị của cn bộ, cơng chức cấp x
Cán bộ, công chức có một vị trí, vai trò rất quan trọng, là chủ thể thực thi pháp
luật để quản lý mọi mặt của đời sống xã hội nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
mà Nhà nước đề ra; giữ gìn trật tự kỷ cương xã hội, đấu tranh ngăn chặn, phòng ngừa,
xử lý các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm, bảo vệ lợi ích của các tầng lớp nhân
dân lao động; điều hành các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong quá
trình hoạt động của bộ máy nhà nước.
Xuất phát từ đặc điểm của mình, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ngoài
những vị trí, vai trò chung của cán bộ, công chức còn có những vị trí, vai trò sau:
- Một là, cán bộ, công chức cấp xã là người trực tiếp tuyên truyền, phổ biến
các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước đến nhân dân;
làm cho các tầng lớp nhân dân hiểu đúng, hiểu đầy đủ các chủ trương, chính sách đó:
+ Trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đang tiến hành xây dựng nhà nước
pháp quyền, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa
Đảng, Nhà nước và nhân dân; vì vậy, vai trò này của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
càng có ý nghĩa quan trọng, đảm bảo cho nhân dân biết và nắm được các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, trên cơ sở đó sẽ tham gia, đóng góp vào việc thực
hiện thắng lợi các chủ trương, chính sách đó.
+ Để làm được điều đó, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã phải tiến hành nhiều

hình thức, biện pháp khác nhau như thông qua các buổi tuyên truyền, nói chuyện tại
cuộc họp thôn, xóm, khu dân cư, tổ đoàn kết, trung tâm học tập cộng đồng hoặc thông
qua các buổi đối thoại trực tiếp với nhân dân để giải quyết các vấn đề mới phát sinh
như liên quan đến việc bồi thường thiệt hại, giải phóng mặt bằng, quy hoạch… Đồng
thời, nó còn đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã phải có những hiểu biết nhất
định về lý luận và am hiểu tình hình thực tế của địa phương, cũng như nắm bắt được
đặc điểm, tâm lý của từng lớp dân cư thuộc phạm vi quản lý của mình.


- Hai là, cán bộ, công chức cấp xã là người có vai trò rất quan trọng trong việc
tổ chức và vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế
- xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư:
+ Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được nhân dân nắm bắt,
nhận thức mới chỉ là khởi đầu, điểm xuất phát để kiểm nghiệm được tính đúng đắn của
chủ trương, đường lối đó; điều kiện đủ là phải tổ chức thực hiện trong thực tiễn; muốn
làm được điều đó không có ai khác là cán bộ, công chức cấp xã, bởi cán bộ, công chức
cấp xã là người tiếp xúc nhiều nhất, hiểu rõ nhất, giải quyết nhiều việc nhất của nhân
dân.
+ Để thực hiện tốt vị trí, vai trò này; đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
phải có khả năng tổ chức, bố trí, sử dụng, tập hợp và lôi cuốn mọi người vào hoạt động;
phải có khả năng xử lý các tình huống phát sinh, đó là các tình huống về tài chính, về
thiên tai, địch họa, do va chạm xóm giềng, dòng tộc, tình huống nảy sinh khi ra những
quyết định sai trái với cấp trên…; phải có khả năng kiểm tra, đánh giá hoạt động của mình
và khả năng tổng kết, sơ kết việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách.
+ Cán bộ, công chức cấp xã có vai trò đảm bảo cho các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước thực hiện một cách nghiêm túc, thông qua việc xử lý, đấu tranh
ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật kịp thời, hiệu quả, góp phần ổn định tình
hình an ninh - chính trị, trật tự an toàn xã hội tại từng địa bàn thôn, xóm, thực hiện
thắng lợi các nhiệm vụ chính trị đề ra.

- Ba là, cán bộ, công chức cấp xã là người nắm bắt kịp thời, phản ánh đầy đủ
các tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để Đảng, Nhà nước có cơ sở khoa học sửa đổi,
bổ sung, ban hành mới các chủ trương, chính sách có tính khả thi, phù hợp với từng
giai đoạn phát triển của đất nước:
+ Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước khi ban hành muốn đảm
bảo tính khả thi phải xuất phát từ thực tiễn cuộc sống; muốn vậy, đòi hỏi đội ngũ cán
bộ, công chức nói chung, cán bộ, công chức cấp xã nói riêng phải nắm bắt được tâm
tư, nguyện vọng của nhân dân, để mọi chủ trương, chính sách khi ban hành đều vì lợi


ích của nhân dân, dựa trên ý kiến của nhân dân; qua đó sẽ phát huy được tính tích cực,
chủ động của mỗi con người, làm cho mọi tiềm năng sáng tạo được phát triển, mọi
người dân đều được tham gia vào các quá trình chính trị, xã hội, các vấn đề nảy sinh
được phát hiện kịp thời, các khó khăn sớm được tháo gỡ, tạo sự phát triển mạnh mẽ
của đất nước.
+ Thực tiễn cách mạng của đất nước đã khẳng định, chính từ vai trò của cán bộ,
công chức cấp xã trong việc nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, nên Đảng và Nhà
nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách đúng, được nhân dân đồng tình ủng hộ.
Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết quan trọng như Nghị quyết về khoán sản phẩm trong
nông nghiệp; công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc… Nhà nước cũng đã ban
hành nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh có hiệu quả các mặt của đời sống - xã hội như Bộ
Luật dân sự, Bộ Luật hình sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Cư
trú, Luật Phòng chống tham nhũng…
Tóm lại, bất cứ ở đâu và lúc nào, đội ngũ cán bộ, công chức cũng có vị trí, vai
trò hết sức to lớn; với tư cách là một bộ phận quan trọng, chiếm số lượng tương đối
lớn thì đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với
chế độ, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.2. KHI NIỆM, VAI TRỊ V NỘI DUNG XY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC CẤP X

1.2.1. Khi niệm, vai trị của của việc xy dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp
x
Khái niệm từ “xây dựng”: Theo cuốn Đại từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như
Ý thì từ “xy dựng” cĩ 3 nghĩa chính: Làm nên, gây dựng nên; tạo ra các giá trị tinh
thần có nội dung nào đó; thái độ, ý kiến có tinh thần đóng góp, làm tốt hơn, thái độ xây
dựng [85, tr.1856].
Để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung, cán bộ, công chức cấp xã
nói riêng có chất lượng thì phải trải qua nhiều khâu, nhiều công đoạn khác nhau, từ
việc xác định chủ trương, mục tiêu, đến việc xây dựng tiêu chuẩn, đánh giá, quy


hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng, xây dựng và thực hiện chính
sách cán bộ. Quá trình đó được coi là xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức.
Như vậy, có thể hiểu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là toàn bộ
các mặt công tác, hoạt động, từ việc xác định mục tiêu đến xây dựng và thực hiện
chính sách đối với cán bộ, công chức, được tiến hành bởi các cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền, nhằm tạo nên một đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đồng bộ, có
số lượng và cơ cấu hợp lý, có phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ, năng lực, đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ chính trị ở cơ sở trong từng giai đoạn cách mạng.
Từ khái niệm này, ta có thể thấy xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
có một số đặc điểm sau:
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có nhiều nội dung khác nhau,
các nội dung đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình thực hiện, không
được xem nhẹ nội dung nào.
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã được tiến hành bởi các cơ quan,
tổ chức, cá nhân có thẩm quyền như Ban Thường vụ cấp ủy huyện, UBND cấp huyện,
trong đó cơ quan có vai trò tham mưu quan trọng là Ban Tổ chức và Phòng Nội vụ cấp
huyện.
+ Đối tượng được xây dựng là đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã nhằm tạo ra một đội ngũ cán bộ,

công chức cấp xã có chất lượng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính trị đặt ra đối với
từng xã, phường, thị trấn.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp x giữ vai trị hết sức quan trọng trong
tình hình hiện nay, góp phần xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh toàn diện.
Bởi vì, con người và tổ chức luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau. Con người
sáng lập ra tổ chức, là yếu tố động nhất trong tổ chức, con người hoạt động hiệu quả
thì tổ chức hoạt động hiệu quả; nhưng khi tổ chức thành lập thì nó tác động trở lại con
người, làm con người phát triển đi lên và ngược lại kìm hãm sự phát triển của con
người; con người sống trong tổ chức thì sức mạnh được nhân lên gấp bội và ngược lại
thì sức mạnh của con người sẽ yếu đi.


Đối với đội ngũ cán bộ, công chức cấp x cũng vậy, lực lượng này có quan hệ
mật thiết với hệ thống chính trị ở cơ sở. Hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở có
chất lượng và hiệu quả hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố như cơ sở vật chất,
phương tiện làm việc, tính khoa học, hợp lý trong thiết kế bộ máy và đội ngũ cán bộ,
công chức…; trong đó đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là yếu tố có ảnh hưởng trực
tiếp nhất.
1.2.2. Nội dung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp x
1.2.2.1. Mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp x
- Mục tiêu chung: Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp x nhằm tạo ra
một đội ngũ cán bộ, công chức đồng bộ, có số lượng, cơ cấu hợp lý, có phẩm chất
chính trị đạo đức, lối sống tốt; có trình độ và năng lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ chính trị ở cơ sở trong từng giai đoạn cách mạng.
- Mục tiêu cụ thể:
Một là: Tạo ra một đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có số lượng, cơ cấu
hợp lý:
+ Tính hợp lý trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã biểu hiện
ở việc tinh giản biên chế một cách tối ưu, đảm bảo gọn nhẹ, hoạt động có chất lượng,
trong đó mỗi cá nhân cán bộ, công chức phát huy được hết năng lực, sở trường của

mình, có thể đảm đương tốt nhiệm vụ được giao, đảm bảo cho bộ máy hoạt động thông
suốt và hiệu quả. Tính hợp lý còn biểu hiện ở chỗ số lượng cán bộ, công chức không
qúa đông, nếu không sẽ gây dư thừa, lãng phí nguồn nhân lực, đồng thời cũng không
quá ít, vì nó tạo ra sức ép lớn trong công việc, gây ra sự mệt mỏi, căng thẳng trong cán
bộ, công chức.
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã sẽ tạo ra một đội ngũ cán bộ,
công chức cấp xã có cơ cấu hợp lý, đó là sự cân đối giữa các thành phần dân tộc, giai
cấp, nghề nghiệp, giới tính, độ tuổi; sự hợp lý đó sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp, tính
năng động, phối hợp nhịp nhàng, hài hòa và sự kế thừa, phát triển trong đội ngũ cán
bộ, công chức; đặc biệt hiện nay với chủ trương của Đảng và Nhà nước là tăng tỷ lệ


trẻ, tỷ lệ nữ trong đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, thì công tác này sẽ biến chủ
trương đó thành kết quả trong thực tế.
Hai là: Tạo ra một đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có phẩm chất chính trị,
đạo đức, lối sống tốt:
+ Về phẩm chất chính trị: Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có lòng yêu nước
sâu sắc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; chấp hành
tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, quyết tâm tổ chức thực hiện
thắng lợi đường lối đổi mới. Có bản lĩnh chính trị vững vàng, không dao động trước
những khó khăn, thách thức và những biến động của tình hình thế giới và trong nước.
Có ý thức giữ vững và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước.
Kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm lệch lạc, sai trái của các thế lực thù địch.
+ Về phẩm chất đạo đức, lối sống:
Có đạo đức cách mạng thì cán bộ, công chức mới có khả năng hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao, mới được nhân dân tin yêu và giúp đỡ, như Hồ Chí Minh khẳng
định: “Cũng như sông thì có nguồn, mới có nước, không có nguồn thì cạn; cây phải có
gốc, không có gốc thì cây héo; người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức
thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [54, tr.252-253]. Tuy nhiên,
trong thời gian qua tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống trong một bộ phận không

nhỏ cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng, làm giảm sút lòng tin của nhân dân, Đảng
ta đánh giá: “Đó là một nguy cơ lớn liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ’’
[4, tr.253]. Vì vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức không thể không chú ý về đạo
đức, lối sống. Trong giai đoạn hiện nay, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có
phẩm chất, đạo đức tốt phải đáp ứng được yêu cầu:
Có tinh thần trách nhiệm cao, gương mẫu, đi đầu trong công tác; xử lý
hài hòa các lợi ích, đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc lên trên hết. Liên hệ
mật thiết với nhân dân, tôn trọng và bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Có
lối sống trong sạch, lành mạnh, có kỷ cương, kỷ luật. Không quan liêu,
tham nhũng, lãng phí và kiên quyết đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí và các tiêu cực khác [4, tr.289-290].


Ba là: Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã còn tạo ra một đội ngũ cán
bộ, công chức cấp xã có trình độ năng lực chuyên môn:
Cán bộ, công chức có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt mà không có năng lực
thì trong quá trình thực hiện nhiệm vụ sẽ gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí thất bại,
như V.I.Lênin đề cập: “Chỉ dựa vào tinh thần xung kích, vào tinh thần phấn khởi và
nhiệt tình không thôi, thì không thể làm được cái gì cả” [48, tr.253] và Lênin cũng cho
rằng: “Lòng trung thành được kết hợp với năng lực hiểu biết về con người, về năng lực
giải quyết những vấn đề tổ chức, thì chỉ có lòng trung thành đó mới có thể rèn luyện ra
những tổ chức lớn” [dt 13, tr.20].
Đối với Hồ Chí Minh, bên cạnh những đòi hòi về đạo đức cách mạng, Người
còn chú trọng đến việc nâng cao trình độ năng lực đối với cán bộ, công chức, Người
đã nói: “Năng lực của con người không phải hoàn toàn tự nhiên mà có, mà phần lớn do
công tác, do luyện tập mà có” [53, tr.21]. Như vậy, năng lực khôg phải là phẩm chất
bẩm sinh, mà phải thông qua một quá trình rèn luyện, phấn đấu trong học tập, đặc biệt
trong hoạt động thực tiễn.
Vì vậy, bên cạnh những yêu cầu về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống thì
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã phải tạo ra được đội ngũ cán bộ, công chức

cấp xã có trình độ, năng lực tư duy lý luận và năng lực tổ chức thực tiễn, đó là:
+ Trình độ đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã về học vấn, chuyên môn nghiệp
vụ, lý luận chính trị và các kiến thức bổ trợ phải đáp ứng được tiêu chuẩn đặt ra đối
với từng loại cán bộ, công chức cấp xã.
+ Về năng lực tư duy lý luận: Đòi hỏi cán bộ, công chức cấp xã phải đáp ứng
được yêu cầu phát hiện, nhận thức đúng đắn, nhanh nhạy các vấn đề thực tiễn ở cơ sở
dưới góc độ lý luận, quản lý. Đồng thời, có những đề xuất, kiến nghị sắc bén, khả năng
vận dụng linh hoạt, sáng tạo nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ở cơ sở.
+ Về năng lực tổ chức thực tiễn: Năng lực này là những hiểu biết, những kỹ
năng và các phẩm chất tâm - sinh lý của chủ thế quản lý bảo đảm cho việc tổ chức
thực tiễn đạt hiệu quả. Như vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có năng lực tổ
chức thực tiễn phải đảm bảo cho đội ngũ này đáp ứng những yếu tố sau:


* Phải có những hiểu biết: Đó là sự hiểu biết về chức năng, nhiệm vụ mà họ
đang công tác; về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; về con người, kinh tế
- xã hội của địa phương; về khoa học quản lý.
* Phải có những kỹ năng: Đó là kỹ năng cụ thể hóa chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thành những quyết định phù hợp. Kỹ năng
phổ biến và tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến với quần
chúng nhân dân. Kỹ năng tổ chức thực hiện để biến những chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước trở thành hiện thực ở địa phương.
* Phải có được các phẩm chất tâm - sinh lý:
 Trí tuệ mềm dẻo và linh hoạt: Giúp cho cán bộ, công chức có khả năng phân
tích, xử lý các tình huống một cách chính xác, kịp thời và dễ thích nghi với những biến đổi
của môi trường kinh tế - xã hội ở địa phương.
 Khả năng quan sát: Giúp cán bộ, công chức có cài nhìn tổng quát, toàn
diện, cụ thể, chi tiết về một vấn đề nào đó; giải quyết tốt các tình huống, mâu thuẫn
nảy sinh, những mối quan hệ phức tạp trong công việc để đảm bảo sự hài hòa, thống
nhất ở địa phương; đồng thời, giúp họ bố trí, sắp xếp cán bộ dưới quyền hợp lý, chọn

đúng người, giao đúng việc, bảo đảm sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ;
 Sáng tạo, năng động: giúp cán bộ, công chức có những sáng kiến trong
công tác. Đồng thời, sự sáng tạo, năng động thôi thúc đội ngũ cán bộ, công chức tìm ra
những cách thức và biện pháp làm việc mới mang lại hiệu quả cao hơn;
 Tính quyết đoán: Giúp cán bộ, công chức cấp xã vượt qua những thử thách,
khó khăn để thực hiện những mục tiêu do tập thể đặt ra. Nhờ có phẩm chất này mà
người cán bộ, công chức quyết tâm không chùn bước, dao động trước những khó khăn,
trở ngại trên con đường tiến tới mục tiêu; họ sẽ làm cho nhân dân phục tùng và tập
trung được sức mạnh của tập thể;
 Khả năng thuyết phục và lôi cuốn quần chúng: Cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng nhân dân, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức phải có khả năng này để huy
động được sức mạnh của toàn dân vào việc thực hiện mục tiêu xây dựng và phát triển
quê hương, đất nước.


1.2.2.2. Xác định tiêu chuẩn và tuyển dụng cán bộ, công chức
Đây là nội dung quan trọng hàng đầu ảnh hưởng đến việc xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức cấp xã. Tiêu chuẩn cán bộ, công chức là sự biểu hiện yêu cầu về phẩm
chất và năng lực để hoàn thành nhiệm vụ, luôn luôn được bổ sung, cụ thể hóa phù hợp
với từng giai đoạn phát triển của cách mạng. Tiêu chuẩn cán bộ, công chức là căn cứ
để lựa chọn, bố trí, sử dụng, đánh giá, quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức. Có tiêu chuẩn phù hợp mới có cơ sở rà soát, đánh giá khách quan đội ngũ cán
bộ, công chức hiện có, loại bỏ những cán bộ, công chức cơ hội, thoái hóa, biến chất.
Mặt khác, căn cứ vào tiêu chuẩn, từng cán bộ, công chức sẽ phấn đấu hoàn thiện bản
thân mình.
Hiện nay, tiêu chuẩn đối với cán bộ, công chức cấp xã được quy định tại Nghị
định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ về cán bộ, công chức xã,
phường, thị trấn và Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/01/2004 của Bộ trưởng
Bộ Nội vụ như sau:
- Về tiêu chuẩn chung:

+ Có tinh thần yêu nước sâu sắc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; có năng lực và tổ chức vận động nhân dân thực hiện có kết quả đường lối
của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước;
+ Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, công tâm, thạo việc, tận tụy với dân.
Không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ
luật trong công tác. Trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được
nhân dân tín nhiệm;
+ Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước; có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực
và sức khỏe để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao.
- Tiêu chuẩn cụ thể đối với từng cán bộ, công chức: Được quy định tại Quyết
định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/01/2004 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ, theo quyết định
này thì tiêu chuẩn cụ thể đối với từng loại cán bộ, công chức cấp xã được xác định có
sự khác nhau về tuổi đời, trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị và


có sự phân biệt tiêu chuẩn giữa đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở khu vực đồng bằng
và miền núi.
Lựa chọn, tuyển dụng cán bộ, công chức là hoạt động của tổ chức nhằm tìm
kiếm những người có đủ phẩm chất, trình độ, năng lực theo những tiêu chuẩn nhất
định để bố trí, sử dụng hoặc dự nguồn sử dụng cho một tổ chức nào đó nhằm đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ của tổ chức đó, cũng như để củng cố, xây dựng tổ chức vững mạnh
toàn diện. Lựa chọn cán bộ, công chức đưa vào nguồn quy hoạch là biện pháp tất yếu
bảo đảm cho đội ngũ cán bộ, công chức phát triển ổn định và làm cho công tác cán bộ
có tính chủ động và tính kế hoạch cao.
Lựa chọn cán bộ, công chức cấp xã hiện nay được tiến hành thông qua hình thức
bầu cử cán bộ chuyên trách và tuyển dụng công chức cấp xã:
+ Bầu cử cán bộ chuyên trách:
* Việc bầu cử cán bộ chuyên trách cấp xã của HĐND, UBND được thực hiện theo
Luật Bầu cử đại biểu HĐND, Luật Tổ chức HĐND và UBND.

* Việc bầu cử cán bộ chuyên trách cấp xã trong tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội thực hiện theo điều lệ của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
+ Tuyển dụng công chức cấp xã:
* Việc tuyển dụng công chức cấp xã, phải căn cứ vào nhu cầu công việc, vị trí
công tác, tiêu chuẩn và số lượng các chức danh cần tuyển dụng;
* Người được tuyển dụng làm công chức phải có phẩm chất đạo đức, đủ tiêu
chuẩn và thông qua thi tuyển. Việc tuyển dụng công chức ở vùng cao, vùng sâu, vùng
xa, biên giới, hải đảo hoặc để đáp ứng yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
vùng dân tộc thiểu số thì có thể thực hiện thông qua xét tuyển.
* Chủ tịch UBND cấp huyện chỉ đạo, tổ chức việc tuyển dụng công chức cấp xã
theo quy chế tuyển dụng công chức của UBND cấp tỉnh.
* Người được tuyển dụng phải thực hiện chế độ tập sự đủ thời gian 06 tháng.
Khi hết thời gian tập sự. Chủ tịch UBND cấp xã căn cứ vào tiêu chuẩn và kết quả công
việc của người tập sự, nếu đủ tiêu chuẩn thì đề nghị Chủ tịch UBND cấp huyện xem
xét quyết định tuyển dụng; nếu không đủ tiêu chuẩn tuyển dụng thì cho thôi việc.


1.2.2.3. Xác định tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức
Đánh giá cán bộ, công chức là việc hệ trọng, là khâu có ý nghĩa quyết định
trong công tác cán bộ, là cơ sở để thực hiện các khâu khác trong công tác cán bộ. Đánh
giá đúng cán bộ, công chức sẽ phát huy tiềm năng của từng cán bộ, công chức và cả
đội ngũ cán bộ, công chức. Đánh giá không đúng, sẽ dẫn đến việc lựa chọn cán bộ,
công chức không đủ phẩm chất và năng lực bố trí vào những cương vị có trọng trách,
dẫn đến hỏng người, hỏng việc, gây tổn thất cho địa phương và ảnh hưởng trong phạm
vi cả nước.
Đánh giá cán bộ, công chức là công việc hết sức khó khăn và nhạy cảm, sau
đánh giá có thể xảy ra hai khuynh hướng khác nhau; một mặt nó làm cho cán bộ, công
chức yên tâm, phấn khởi, năng động, sáng tạo trong công tác, mặt khác nó gây ra sức
ỳ, thiếu chí tiến thủ, bi quan, chán nản trong cán bộ, công chức, thậm chí gây ra những
hành vi vi phạm pháp luật, bị các thế lực thù địch lợi dụng, chống phá Đảng và Nhà

nước. Vì vậy, khi đánh giá cán bộ, công chức cấp xã phải đảm bảo căn cứ, nguyên tắc,
quy trình, thủ tục, thẩm quyền và trách nhiệm đúng theo Quyết định số 50 QĐ/TW
ngày 03/05/1999 của Bộ Chính trị (Khoá VIII) về qui chế đánh giá cán bộ.
- Muốn đánh giá lựa chọn, bố trí xây dựng một cách đúng đắn phù hợp với
thực trạng năng lực, sở trường của đội ngũ cán bộ, công chức các x trong tỉnh C Mau
cần ch ý những vấn đề chủ yếu sau đây:
+ Phải nắm vững và dựa vào tiêu chuẩn cán bộ, công chức do Trung ương quy
định và vận dụng, cụ thể của tỉnh Cà Mau; đồng thời lựa chọn những người có đức có
tài, có đầy đủ phẩm chất và năng lực.
+ Phải lấy hiệu quả công tác và sự đóng góp thực tế giảm thước đo phẩm chất
và năng lực phải dựa vào dân, phong trào cách mạng của quần chúng dễ phát hiện,
đánh giá kiểm tra cán bộ, công chức.
+ Phải đặt cán bộ trong môi trường và điều kiện cụ thể để xem xét toàn diện cả
qu trình pht triển của cn bộ.
+ Đánh giá cán bộ phải đảm bảo dân chủ, khách quan trung thực.
1.2.2.4. Xác định tiêu chuẩn quy hoạch cán bộ, công chức

×