Tải bản đầy đủ (.pdf) (174 trang)

Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong đấu tranh phòng, chống buôn lậu qua biên giới của lực lượng hải quan Việt Nam hiện nay. LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 174 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN VĂN NGHIấN

pháp chế xà hội chủ nghĩa
trong đấu tranh phòng, chống buôn lậu
qua biên giới của lực lượng hải quan Việt Nam
hiÖn nay
Chuyên ngành

: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật

Mã số

: 62 38 01 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN MINH ĐOAN

HÀ NỘI - 2015


L I CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các tài liệu, số liệu trích dẫn trong luận án là
trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa
học của luận án chưa từng được ai cơng bố trong bất cứ
cơng trình nào.


Tác giả luận án

Nguyễn V n Nghiên


M C LỤC
M

Trang
1

ĐẦU

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CĨ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án
1.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu

9
9
23

Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TRONG ĐẤU TRANH PHỊNG, CHỐNG BN LẬU QUA
BIÊN GIỚI CỦA LỰC LƯỢNG HẢI QUAN

2.1. Khái niệm và vai trò pháp chế xã hội chủ nghĩa trong đấu tranh
phòng, chống buôn lậu qua biên giới của lực lượng Hải quan
2.2. Nội dung của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong đấu tranh phịng,

chống bn lậu qua biên giới của Hải quan
2.3. Những điều kiện bảo đảm của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong
đấu tranh phịng, chống bn lậu qua biên giới của lực lượng
Hải quan
2.4. Pháp chế trong đấu tranh phịng, chống bn lậu qua biên giới
của Hải quan một số nước trên thế giới và những kinh nghiệm
gợi mở đối với Hải quan Việt Nam

26
26
38
42
49

Chương 3: THỰC TRẠNG PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG
ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG BUÔN LẬU QUA BIÊN
GIỚI CỦA LỰC LƯỢNG HẢI QUAN VIỆT NAM

3.1. Khái qt về tình hình bn lậu ở Việt Nam và chức năng đấu tranh
phịng, chống bn lậu qua biên giới của Hải quan Việt Nam
3.2. Thực trạng pháp luật phịng, chống bn lậu qua biên giới của
lực lượng Hải quan Việt Nam hiện nay
3.3. Thực trạng thực hiện pháp luật trong hoạt động đấu tranh phịng,
chống bn lậu qua biên giới của lực lượng Hải quan Việt Nam
hiện nay

60
60
70
83


Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÁP CHẾ
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG ĐẤU TRANH PHỊNG,
CHỐNG BN LẬU QUA BIÊN GIỚI CỦA LỰC LƯỢNG
HẢI QUAN VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. Quan điểm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong
tranh phịng, chống bn lậu qua biên giới của lực lượng
quan hiện nay
4.2. Giải pháp tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong
tranh phịng, chống bn lậu qua biên giới của lực lượng
quan Việt Nam hiện nay
ẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

105

đấu
Hải
105
đấu
Hải
112
155
161
162


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

CHXHCN :

Cộng hịa xã hội chủ nghĩa

CNTT

:

Cơng nghệ thơng tin

HĐND

:

Hội đồng nhân dân

HĐNN

:

Hội đồng nhà nước

HQCK

:

Hải quan cửa khẩu

KSHQ


:

Kiểm sát hải quan

SBQT

:

Sân bay quốc tế

SHTT

:

Sở hữu trí tuệ

TNHH

:

Trách nhiệm hữu hạn

UBND

:

Uỷ ban nhân dân

XHCN


:

Xã hội chủ nghĩa

WTO

:

Tổ chức Thương mại thế giới


1
M

ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN) là nguyên tắc quan trọng trong tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta. Pháp chế XHCN đòi hỏi trong đời
sống xã hội, pháp luật phải được tôn trọng và thực thi một cách nghiêm minh,
chính xác; mọi cá nhân, tổ chức, cơ quan Nhà nước đều phải triệt để tuân thủ
pháp luật; mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện, xử lý kịp
thời theo đúng quy định pháp luật.
Pháp chế XHCN với hệ thống pháp luật hoàn thiện và việc thực hiện
pháp luật nghiêm minh, là điều kiện cơ bản để xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Nếu pháp chế khơng được tăng
cường, cịn bị bng lỏng và có nhiều hạn chế, thì tất yếu sẽ dẫn đến tình
trạng gia tăng, phát triển của các hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật, và có
thể gây ra tình trạng rối loạn kỷ cương trong xã hội.
Buôn lậu là một loại vi phạm pháp luật rất phổ biến, đặc biệt là từ khi

nước ta mở cửa, giao lưu và hội nhập với kinh tế thế giới, thì loại vi phạm
pháp luật này ngày càng nghiêm trọng, với nhiều diễn biến mới, cực kỳ phức
tạp. Tình trạng gia tăng, phát triển của các hoạt động buôn lậu qua biên giới
đã phản ánh một thực trạng, pháp chế trong hoạt động phịng, chống bn lậu
cịn có quá nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi của sự
phát triển đất nước và sự hợp tác hội nhập với thế giới hiện nay. Do đó, tăng
cường pháp chế XHCN trong hoạt động phịng, chống bn lậu qua biên giới
đã trở thành một địi hỏi khách quan và là nhu cầu tự thân của quản lý nhà
nước ở nước ta hiện nay.
Trong các cơ quan thực hiện chức năng trực tiếp đấu tranh phịng, chống
bn lậu, Hải quan là lực lượng tiên phong, được giao trách nhiệm ngăn chặn
hoạt động xuất, nhập lậu ngay tại biên giới, cửa khẩu, cảng biển, cảng hàng
không quốc tế. Từ khi thành lập đến nay, lực lượng Hải quan đã trưởng thành
lớn mạnh nhanh chóng, có nhiều đóng góp vào sự nghiệp cách mạng giành
độc lập cho dân tộc; xây dựng, phát triển và bảo vệ nền kinh tế của đất nước.


2
Những năm gần đây, trong xu thế hội nhập với thế giới, lực lượng Hải quan
đã có sự đổi mới mạnh mẽ. Mọi hoạt động của lực lượng Hải quan đang từng
bước tiếp cận và hoàn thiện theo chuẩn mực quốc tế, từ chế độ thủ tục, giám
sát quản lý người, phương tiện, hàng hoá xuất nhập khẩu đến hoạt động kiểm
sốt đấu tranh phịng, chống bn lậu qua biên giới.
Pháp luật Hải quan nói chung và pháp luật về phịng, chống bn lậu
qua biên giới của Hải quan nói riêng đã được Nhà nước quan tâm xây dựng,
hoàn thiện tạo ra những khuôn khổ pháp lý căn bản cho việc xây dựng cơ cấu
tổ chức và hoạt động của lực lượng Hải quan.
Tuy vậy, có một thực tế là, trong cơng tác triển khai hoạt động phịng,
chống bn lậu qua biên giới, lực lượng Hải quan vẫn đang gặp phải những
rào cản, bất cập từ chính các quy định của pháp luật, làm hạn chế sức mạnh

đấu tranh và khả năng kiểm soát, phát hiện, điều tra, xử lý các hành vi bn
lậu, vận chuyển trái phép hàng hố qua biên giới.
Vai trò của cơ quan Hải quan chưa được nâng cao, chưa tương xứng với
khả năng và tính chất công tác nghiệp vụ đặc thù của Ngành. Mặc dù là cơ
quan có lực lượng chuyên trách đấu tranh chống buôn lậu, được tổ chức và
hoạt động theo xu hướng chun nghiệp, hiện đại hố, có mối quan hệ hợp tác
quốc tế rộng rãi, nhưng Hải quan Việt Nam theo quy định của pháp luật chưa
phải là lực lượng nòng cốt trong hệ thống các cơ quan chức năng đấu tranh
chống buôn lậu của nước ta hiện nay. Trong khi buôn lậu giờ đây đang là một
trong những mặt trận nóng bỏng, đối tượng bn lậu ngày càng chun
nghiệp có tính liên kết và tổ chức cao, thì hệ thống các lực lượng chức năng
chống buôn lậu lại chưa được tổ chức chặt chẽ, thiếu một lực lượng chính quy
tinh nhuệ để giữ vai trò nòng cốt, đủ khả năng làm cơ quan tham mưu chiến
lược, đồng thời chỉ huy và gắn kết hữu cơ sự phối hợp giữa các lực lượng
chức năng này.
Quy định của pháp luật về những biện pháp phịng chống bn lậu của
lực lượng kiểm sốt Hải quan cịn thiếu cả về chiều rộng và chiều sâu nghiệp
vụ. Cơ cấu tổ chức của lực lượng kiểm sốt Hải quan cịn q dàn trải, mức


3
độ tập trung thống nhất và triển khai lực lượng linh hoạt chưa cao; chưa đủ cơ
sở pháp lý để xây dựng thành một lực lượng kiểm soát thực sự mạnh, chuyên
nghiệp, tinh nhuệ và hiện đại với hệ thống cơ quan tình báo phát triển tồn
diện và hoạt động hiệu quả.
Thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn, điều tra, xử lý hành vi
buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới của cơ quan Hải quan
cịn rất hạn chế, lực lượng kiểm sốt Hải quan chưa có được địa vị pháp lý
tuơng xứng, cần thiết để có đủ khả năng trấn áp mạnh mẽ làm cho các đối
tượng bn lậu phải e sợ…

Bên cạnh đó, nhận thức và sự tuân thủ chính sách pháp luật về đấu
tranh phịng, chống bn lậu qua biên giới của một bộ phận cán bộ công
chức trong lực lượng Hải quan còn chưa đồng đều; chưa thấy được tầm
quan trọng của nhiệm vụ đấu tranh phịng, chống bn lậu; cá biệt cịn có
những trường hợp tiêu cực, bao che cho hoạt động buôn lậu. Hải quan là
lực lượng tiên phong trong đấu tranh phịng, chống bn lậu qua biên giới,
là người gác cửa khẩu quốc tế của đất nước. Vì vậy, những hiện tượng
nhũng nhiễu, tiêu cực phiền hà, không tuân thủ pháp luật, tiếp tay cho các
hành vi buôn lậu của cán bộ, chiến sĩ Hải quan xảy ra trong thời gian qua
đã gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng, không chỉ là những thiệt
hại về mặt kinh tế mà cịn ảnh hưởng nghiêm trọng tới hình ảnh quốc gia
và những hệ luỵ cho việc xây dựng lực lượng, tổ chức bộ máy của ngành
Hải quan.
Do vậy, mặc dù những năm gần đây lực lượng Hải quan đã triển khai
đấu tranh rất quyết liệt; tích cực, chủ động đẩy mạnh phối hợp với các ngành
chức năng khác. Nhưng những bất cập, hạn chế từ hệ thống pháp luật, cộng
thêm những yếu kém về năng lực, ý thức trách nhiệm của một bộ phận cán
bộ, công chức đã dẫn đến hiệu quả tác động thực tế của công tác đấu tranh
phịng, chống bn lậu qua biên giới của lực lượng Hải quan là chưa cao.
Chính vì hiện nay pháp chế trong đấu tranh phịng, chống bn lậu qua biên
giới của lực lượng Hải quan và các cơ quan chức năng khác chưa đủ mạnh mẽ


4
nên đã không thể ngăn chặn được hoạt động buôn lậu. Trái lại, hoạt động
buôn lậu như một con bệnh đã nhờn thuốc, tiếp tục phát triển, gia tăng, gây ra
những hậu quả ngày càng nghiêm trọng hơn đối với tình hình sản xuất hàng
hố và kinh doanh thương mại của đất nước.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong


u tranh

phịng, chống bn lậu qua biên giới của lực lượng Hải quan Việt Nam hiện nay
là rất cấp thiết, có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. Nghiên cứu này cung cấp
những cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn cho việc tăng cường pháp chế XHCN trong
công tác đấu tranh phịng, chống bn lậu của Nhà nước ta hiện nay.
2. M c đích và nhi m v n hiên c u của lu n án
.1. Mục đích
Mục đích của Luận án là đề xuất được những quan điểm, giải pháp xây
dựng và tăng cường pháp chế XHCN trong công tác đấu tranh phịng, chống
bn lậu qua biên giới của lực lượng Hải quan Việt Nam hiện nay.
Để đạt được mục đích đó, luận án từng bước giải quyết các mục tiêu cụ
thể sau:
Phân tích cơ sở lý luận về pháp chế XHCN trong đấu tranh phịng,
chống bn lậu qua biên giới của lực lượng Hải quan; Đánh giá thực trạng
pháp chế trong đấu tranh phịng, chống bn lậu qua biên giới của lực lượng Hải
quan hiện nay, bao gồm: thực trạng bất cập, hạn chế của hệ thống quy định pháp
luật hiện hành về phịng chống bn lậu qua biên giới của lực lượng Hải quan
Việt Nam; thực trạng thực hiện pháp luật của cơ quan Hải quan và cán bộ
công chức Hải quan trong công tác đấu tranh phịng, chống bn lậu.
Đề xuất hướng sửa đổi, bổ sung và hồn thiện hệ thống pháp luật về
phịng, chống bn lậu của Hải quan nói riêng và hồn thiện chính sách pháp
luật phịng, chống bn lậu của Nhà nước ta nói chung.
Đề xuất biện pháp tăng cường quản lý, nâng cao ý thức trách nhiệm,
tuân thủ chính sách pháp luật của cán bộ công chức Hải quan và các giải pháp
khác nhằm tăng cường pháp chế XHCN trong công tác đấu tranh phịng,
chống bn lậu qua biên giới của lực lượng Hải quan Việt Nam hiện nay.


5

. . Nhiệm vụ
Nhiệm vụ của Luận án là đi sâu nghiên cứu những nội dung chủ yếu sau:
- Khái quát chung về pháp chế XHCN, nội dung và yêu cầu của pháp
chế XHCN trong hoạt động phịng, chống bn lậu qua biên giới của Hải
quan; những điều kiện bảo đảm cho việc tăng cường pháp chế XHCN trong
hoạt động phịng, chống bn lậu qua biên giới của Hải quan;
- Khái qt chung về bn lậu và phịng, chống bn lậu qua biên giới;
khái quát chung về nhiệm vụ phòng, chống buôn lậu qua biên giới của Hải
quan, những đặc điểm, phương pháp, vai trò và bản chất nghiệp vụ hoạt động
phịng, chống bn lậu qua biên giới của Hải quan;
- Những vấn đề lý luận về pháp chế trong đấu tranh phịng, chống bn
lậu của Hải quan; pháp luật về phịng chống bn lậu qua biên giới của Hải
quan nước ta, so sánh với pháp luật và hoạt động phịng, chống bn lậu qua
biên giới của Hải quan một số nước trên thế giới;
- Thực trạng pháp chế XHCN trong cơng tác đấu tranh phịng, chống
bn lậu qua biên giới của lực lượng Hải quan Việt Nam từ khi triển khai
thực hiện Luật Hải quan sửa đổi bổ sung năm 2005 đến nay (2014);
- Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của các quan điểm và giải pháp tăng
cường pháp chế XHCN trong đấu tranh phòng, chống buôn lậu qua biên giới
của lực lượng Hải quan Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượn và phạm vi n hiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu là thực trạng pháp chế XHCN trong hoạt động
phịng, chống bn lậu qua biên giới của lực lượng Hải quan. Cụ thể: Nghiên
cứu về hệ thống các quy định chung của pháp luật nước ta về phịng, chống
bn lậu, trong đó tập trung phân tích kỹ các quy định pháp luật về phịng,
chống buôn lậu qua biên giới của Hải quan; Nghiên cứu quy định pháp luật
về phịng chống bn lậu qua biên giới của Hải quan một số nước khác trên
thế giới làm cơ sở so sánh với pháp luật nước ta; Nghiên cứu thực trạng
buôn lậu và thực tiễn công tác phịng, chống bn lậu qua biên giới của lực
lượng Hải quan từ khi triển khai thực hiện Luật Hải quan sửa đổi, bổ sung



6
năm 2005 đến nay (2014); đánh giá những bất cập trong các quy định pháp
luật hiện hành về phòng, chống buôn lậu qua biên giới của Hải quan;
nghiên cứu và đánh giá thực trạng pháp chế XHCN, năng lực công tác, ý
thức trách nhiệm của cán bộ công chức Hải quan trong đấu tranh phịng,
chống bn lậu qua biên giới.
Phạm vi nghiên cứu: Pháp chế XHCN trong hoạt động phòng, chống
buôn lậu qua biên giới của lực lượng Hải quan Việt Nam từ 2005 đến 2014
(Năm 2005 là năm Luật Hải quan được sửa đổi và ngành Hải quan bắt đầu
triển khai thực hiện các biện pháp nghiệp vụ chống buôn lậu theo Quyết định
65/2004/QD - TTg của Thủ tướng Chính phủ).
4. Cơ s lý lu n và phươn pháp n hiên cứu
. C sở lý luận
Luận án dựa trên quan điểm nhận thức của chủ nghĩa Mác- Lênin về vấn
đề pháp chế XHCN; Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân; về tăng cường
pháp chế XHCN trong các lĩnh vực quản lý xã hội; về tổ chức xây dựng chính
quyền, đội ngũ cán bộ cơng chức và đấu tranh phịng chống các hiện tượng tiêu
cực sách nhiễu, phiền hà, quan liêu, lãng phí, trong đó có quan điểm về xây dựng
và tổ chức hoạt động của lực lượng Hải quan làm cơ sở lý luận để nghiên cứu.
. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng các phương pháp: phân tích và tổng hợp để tìm hiểu các
khái niệm và quan điểm về pháp chế; phương pháp so sánh; phương pháp thống
kê để đánh giá thực trạng pháp chế trong quá trình nghiên cứu giải quyết những
vấn đề mà mục đích và nhiệm vụ của luận án đặt ra.
Trong quá trình nghiên cứu tác giả có tham khảo, chọn lọc kế thừa các
cơng trình nghiên cứu, bài viết có liên quan đến lĩnh vực luận án đề cập.
5. Những đóng góp về hoa học của Luận án

Luận án có những đóng góp mới sau đây:
- Dựa trên cơ sở phân tích những quan điểm về pháp chế, tăng cường
pháp chế XHCN; mối quan hệ giữa tăng cường pháp chế với việc xây dựng


7
Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam, Luận án đã làm rõ được quan điểm
và những vấn đề về tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động đấu
tranh phịng, chống bn lậu qua biên giới của lực lượng Hải quan trong giai
đoạn hiện nay;
- Luận án đã tổng hợp những nghiên cứu lý luận và thực tiễn về bn
lậu, phịng chống bn lậu; phân tích có hệ thống các quy định pháp luật hiện
hành về phòng, chống buôn lậu qua biên giới của lực lượng Hải quan Việt
Nam; so sánh, đối chiếu các quy định pháp luật đó với quy định pháp luật
tương ứng của các nước khác trên thế giới;
- Trên cơ sở chỉ ra những quan điểm mới, những nhận thức tiến bộ của
thế giới về vai trị, vị trí của lực lượng Hải quan đối với cơng tác phịng,
chống bn lậu; đồng thời chỉ ra những điểm còn hạn chế của pháp luật nước
ta, Luận án đã đề xuất được giải pháp hoàn thiện hệ thống quy định pháp luật
về phịng, chống bn lậu qua biên giới, tăng cường pháp chế XHCN trong
phòng, chống buôn lậu qua biên giới của lực lượng Hải quan như: Xây dựng
Luật về phịng, chống bn lậu; xác định đúng vị trí và nâng cao vai trị của
cơ quan Hải quan trong hệ thống các lực lượng chức năng phịng, chống bn
lậu qua biên giới; nâng cao quyền hạn của cơ quan Hải quan trong điều tra, xử lý
các hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép qua biên giới; tăng thêm thẩm quyền
và mở rộng các biện pháp đấu tranh chống buôn lậu qua biên giới của cơ quan
Hải quan; đổi mới cơ cấu, tổ chức, xây dựng lực lượng kiểm sốt Hải quan; cơ
chế chính sách ngăn chặn tiêu cực và nâng cao ý thức trách nhiệm cho cán bộ
công chức Hải quan trong thực thi nhiệm vụ phịng, chống bn lậu…
6. Ý n


a lý lu n và thực tiễn của Luận án

- Luận án góp phần làm rõ lý luận về pháp chế XHCN, làm sáng tỏ mối
quan hệ giữa vấn đề tăng cường pháp chế XHCN trong từng lĩnh vực quản lý
cụ thể với việc củng cố nền pháp chế XHCN chung của Nhà nước ta trong
giai đoạn hiện nay;
- Luận án bổ sung những nhận thức tồn diện về pháp luật phịng, chống
bn lậu qua biên giới, về pháp chế trong hoạt động phịng, chống bn lậu


8
qua biên giới của Hải quan, Luận án có thể là tài liệu tham khảo cho các cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền trong việc hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật
có liên quan đến cơng tác đấu tranh phịng, chống bn lậu qua biên giới;
- Luận án góp phần phân tích đánh giá đúng mức về thực trạng của tình
hình bn lậu qua biên giới hiện nay tại nước ta, giúp cho các cấp chính
quyền và cơ quan chức năng có được những nhận thức tồn diện về tình hình
bn lậu; từ đó xây dựng được phương hướng, giải pháp đấu tranh chống
buôn lậu qua biên giới phù hợp, đạt hiệu quả cao;
- Luận án có thể sử dụng làm tài liệu giảng dạy và nghiên cứu về pháp
luật Hải quan nói chung và pháp luật về phịng, chống bn lậu qua biên giới
của Hải quan nói riêng; các giải pháp Luận án đưa ra có thể được tham khảo
trực tiếp để ngành Hải quan sử dụng trong quá trình chỉ đạo, triển khai tổ
chức lực lượng và thực hiện cơng tác đấu tranh phịng, chống bn lậu.
7. K t c u c a lu n án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận án
được kết cấu thành 4 chương, 11 tiết.



9
Chươn 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CĨ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CĨ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN

1.1.1. Tình hình n hiên cứu tron nước
Củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN) có một ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc đề cao vai trò và phát huy hiệu lực quản
lý của Nhà nước; giữ vững trật tự, kỷ cương; ngăn ngừa và đấu tranh phòng,
chống vi phạm pháp luật trong xã hội. Đảng ta, tại Nghị quyết Đại hội lần thứ
VI đã nhấn mạnh: “…Phải dùng sức mạnh của pháp chế XHCN kết hợp với
sức mạnh của dư luận quần chúng để đấu tranh chống vi phạm pháp luật. Các
cấp Uỷ Đảng từ trên xuống dưới phải thường xuyên lãnh đạo công tác pháp
chế... kiểm tra chặt chẽ hoạt động của các cơ quan pháp chế” [22, tr.121]. Đại
hội lần thứ VII, Đảng tiếp tục khẳng định: “Điều kiện quan trọng để phát huy
dân chủ là xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa, nâng cao dân trí, trình độ hiểu biết pháp luật và ý thức pháp
luật của nhân dân” [23, tr.91]. Đến Đại hội Đảng lần thứ VIII, quan điểm về
tăng cường pháp chế XHCN đã được nâng lên thành một quan điểm cơ bản
khi đề cập đến nhiệm vụ và phương hướng cải cách bộ máy nhà nước: “Tăng
cường pháp chế, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Quản lý
xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức” [24,
tr.189]. Do tính chất quan trọng của vấn đề này mà Đại hội lần thứ IX, Đảng
ta tiếp tục ghi nhận: “Phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ luật, kỷ cương,
tăng cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền giáo dục
toàn dân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật” [26, tr.135].
Thể chế quan điểm của Đảng, Hiến pháp năm 1992 của Nhà nước ta đã
ghi rõ tại Điều 12 như sau:



10
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường
pháp chế XHCN. Các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ
trang nhân dân và mọi công dân phải chấp hành nghiêm chỉnh Hiến
pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm,
các vi phạm Hiến pháp và pháp luật [68].
Hiến pháp năm 2013, tư tưởng về tăng cường pháp chế XHCN tiếp tục
được khẳng định bằng một nguyên tắc tối cao trong tổ chức và hoạt động của
Nhà nước ta. Điều 8 Hiến pháp năm 2013 quy định:
Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật,
quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên
chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ
chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của
Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi
biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền [68].
Như vậy, có thể nói, vấn đề tăng cường pháp chế XHCN đã trở thành
một chủ trương nhất quán, xuyên suốt qua các kỳ Đại hội của Đảng và ngày
càng được chú trọng phát triển nâng cao. Với chủ trương này Đảng ta đã
khẳng định rõ: Tăng cường pháp chế XHCN vừa là nguyên tắc, vừa là công
cụ để xây dựng lên một nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay.
Vì pháp chế xã hội chủ nghĩa là một phạm trù pháp lý cơ bản, có nội
dung phong phú bao qt tồn bộ đời sống chính trị, kinh tế, xã hội; tăng
cường pháp chế XHCN là chủ trương nhất quán của Đảng, là nguyên tắc Hiến
định của Nhà nước ta, cho nên pháp chế XHCN đã trở thành một nội dung
khoa học quan trọng trong các giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp
luật của các cơ sở đào tạo Chính trị - Pháp lý của Đảng, Nhà nước, như: Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Đại học Quốc gia Hà Nội

(khoa Luật), Đại học Luật Hà Nội… đồng thời, đó cũng là vấn đề thu hút
được đơng đảo các học giả trong nước quan tâm nghiên cứu.


11
1.1.1.1. Nh ng cơng trình nghiên cứu lý luận chung v pháp chế xã
hội chủ nghĩa
Những cơng trình khoa học nghiên cứu lý luận chung về pháp chế
XHCN đề cập đến những vấn đề như: khái niệm, nguyên tắc, nội dung, bản
chất, các mối quan hệ của pháp chế XHCN, các yêu cầu, bảo đảm để xây
dựng và củng cố nền pháp chế XHCN ở nước ta; hoặc phân tích pháp chế
XHCN trên các khía cạnh, góc độ khác nhau để làm rõ hơn những luận điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin về mục tiêu, vai trò, cơ sở, bản chất, các thuộc tính
của pháp chế XHCN. Tiêu biểu là một số cơng trình sau:
- Đào Trí Úc trong "Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp
đổi mới" [95] đã đề cập đến các vấn đề cơ bản của nhà nước và pháp luật;
Làm rõ bản chất nhà nước và pháp luật của nhà nước ta, vai trò của nhà nước
và pháp luật trong sự nghiệp đổi mới của đất nước; Chỉ rõ các quan điểm và
yêu cầu về xây dựng nhà nước và pháp luật trong thời kỳ mới. Trong đó có
nội dung về tăng cường pháp chế XHCN, coi đó là một trong những vấn đề
quan trọng, có ý nghĩa thể hiện bản chất sâu sắc của pháp luật nước ta.
- "Hồ Chủ tịch và pháp chế" [62] giới thiệu những nội dung tư tưởng và
yêu cầu của pháp chế của Hồ Chí Minh. Trong đó, làm nổi bật tư tưởng dân
chủ trong xây dựng pháp luật, đi đôi với việc thi hành pháp luật phải đầy đủ
và nghiêm minh. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì: “Khơng nên hiểu lầm dân
chủ. Khi chưa quyết định thì tha hồ bàn cãi. Nhưng khi đã quyết định rồi thì
khơng được bàn cãi nữa, có bàn cãi cũng chỉ là để bàn cách thi hành cho
được, cho nhanh, không phải để đề nghị không thực hiện. Phải cấm chỉ những
hành động tự do quá trớn ấy”. Quan điểm về pháp chế của Hồ Chí Minh rất rõ
ràng và dễ hiểu: Pháp luật của ta là pháp luật dân chủ; mọi công dân của nước

Việt Nam dân chủ cộng hịa đều bình đẳng trước pháp luật cả về quyền lợi và
nghĩa vụ; ai vi phạm pháp luật đều phải xử lý nghiêm khắc, cho dù người đó ở
vị trí nào trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước. Theo Người,
hiệu lực của pháp luật chỉ có được khi mọi người đều nghiêm chỉnh chấp
hành pháp luật; pháp chế chỉ bảo đảm khi các quy phạm pháp luật được thực


12
thi trong các quan hệ xã hội; mọi hành vi vi phạm pháp luật phải bị xử lý.
Như vậy, trong thực thi luật pháp, việc thưởng phạt phải nghiêm minh. Vì nếu
thưởng phạt khơng nghiêm minh thì người cúc cung tận tụy lâu ngày cũng
thấy chán nản, còn người hư hỏng, vi phạm pháp luật, kỷ luật sẽ ngày càng
lún sâu vào tội lỗi, làm thiệt hại cho nhân dân.
- Hồng Cơng trong "Tính thống nhất của pháp chế XHCN" [17] đã
khẳng định bản chất pháp chế XHCN là thống nhất; tính thống nhất là yêu cầu
quan trọng nhất của pháp chế XHCN và phải được đảm bảo trong cả hệ thống
pháp luật cũng như trong việc thực hiện, chấp hành pháp luật.
- Võ Khánh Vinh trong "Pháp chế xã hội chủ nghĩa - một phương thức
thể hiện và thực hiện quyền lực của nhân dân" [99] đã phân tích sâu sắc các
nguyên tắc của pháp chế XHCN, để từ đó làm nổi bật vai trị của pháp chế xã
hội chủ nghĩa đối với vấn đề xây dựng nền dân chủ nhân dân. Khẳng định pháp
chế XHCN chính là phương thức quan trọng nhất để thể hiện và thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân trên các mặt xây dựng và thi hành pháp luật.
- Hoàng Văn Hảo trong "Vấn đề giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa
dân chủ và pháp chế trong quá trình đổi mới ở nước ta" [45] đi sâu vào phân
tích mối quan hệ giữa dân chủ và pháp chế. Theo đó, pháp chế XHCN khơng
làm hạn chế dân chủ, mà trái lại chính là điều kiện quan trọng để thực hành và
pháp huy dân chủ.
- Đào Trí Úc trong "Tăng cường tính thống nhất của pháp chế, nghiêm
chỉnh tuân theo và chấp hành pháp luật" [94] đặc biệt nhấn mạnh đến tính

thống nhất của pháp chế trong việc tổ chức thực hiện và chấp hành pháp luật.
Xác định vấn đề tăng cường tính thống nhất của pháp chế là một yêu cầu
khách quan và cấp thiết. Từ đó, đưa ra quan điểm về tăng cường tính thống
nhất của pháp chế.
- Trần Ngọc Đường trong "Suy nghĩ về một trong những luận điểm của
V.I.Lênin" [39] khẳng định, trong sự nghiệp của mình, V.I.Lênin đã đưa ra rất
nhiều những luận điểm về xây dựng nhà nước và pháp luật XHCN. Trong đó,


13
luận điểm về pháp chế XHCN được coi là một trong những luận điểm quan
trọng nhất. Bài viết đã đi sâu phân tích, phát triển và làm sáng rõ những luận
điểm ấy của V.I.Lênin.
- Đỗ Ngọc Hải trong "Bàn về pháp chế XHCN trong điều kiện xây dựng
và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam" [44] đã đề cập đến các
vấn đề về bản chất của pháp chế XHCN; phân tích mối quan hệ của pháp chế
trong một nhà nước pháp quyền; từ đó cho rằng, pháp chế XHCN chính là
cơng cụ chủ yếu để xây dựng nên nhà nước pháp quyền XHCN trong giai
đoạn hiện nay.
- Hoàng Thị Kim Quế trong "Chế độ pháp chế thống nhất, hợp lý và áp
dụng chung" [64] đặc biệt nhấn mạnh đến tính hợp lý của chế độ pháp chế.
Hợp lý trong các quy định của pháp luật và trong cả quá trình thực hiện pháp
luật. Tác giả nêu quan điểm về xây dựng pháp luật cần có sự kế thừa truyền
thống, đặc biệt là truyền thống nhân văn của dân tộc, kết hợp học hỏi tiến bộ
pháp lý của thế giới, và phù hợp với đặc điểm, tình hình của đất nước.
- Nguyễn Minh Đoan trong "Bàn về khái niệm và những yêu cầu của pháp
chế xã hội chủ nghĩa" [32] đã phân tích tồn diện về pháp chế; tổng hợp các
quan điểm, các nghiên cứu về khái niệm pháp chế; Tác giả đưa ra khái niệm đầy
đủ về pháp chế và phân tích những yêu cầu của pháp chế XHCN...
Hầu hết các tác phẩm trên đây đều nghiên cứu, phân tích những khía

cạnh, thuộc tính khác nhau của pháp chế XHCN và thường nhấn mạnh đến
một tính chất, đặc điểm cơ bản nào đó của phạm trù này. Trên cơ sở đó các
nhà luật học đã tổng kết đưa ra những khái niệm khác nhau về pháp chế
XHCN. Trong số đó, dựa trên cơ sở và bản chất của pháp chế XHCN, tác giả
Đào Trí Úc quan niệm: “Pháp chế là sự hiện diện của một hệ thống pháp luật
cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội, làm cơ sở cho sự tồn tại một trật
tự pháp luật và kỷ luật, là sự tuân thủ và thực hiện đầy đủ pháp luật trong tổ
chức và hoạt động của Nhà nước, của cơ quan, đơn vị, tổ chức và đối với
công dân” [94, tr.680]. Xem xét trên phương diện quản lý xã hội, tác giả


14
Hồng Cơng cho rằng: “Pháp chế XHCN là sự thể hiện quyền uy của Nhà
nước trên phương diện pháp luật và bằng pháp luật, là ý chí của nhà nước bắt
buộc mọi thành viên trong xã hội phải tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh
toàn bộ những pháp luật ấy” [97, tr.28]. Cịn dưới góc độ nghiên cứu về
ngun tắc pháp chế, tác giả Nguyễn Minh Đoan quan niệm:
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là sự địi hỏi phải tơn trọng, thực hiện
pháp luật hiện hành một cách chính xác, thường xuyên và thống
nhất bởi nhà nước và xã hội, nhằm xây dựng một xã hội có trật tự,
kỷ cương, bảo đảm cho hoạt động của toàn xã hội thống nhất, đồng
bộ, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, văn minh [32, tr.25].
Từ nguyên tắc này kết hợp với việc xem xét về cơ sở, bản chất và mục
tiêu của pháp chế XHCN, tác giả Nguyễn Minh Đoan đưa ra định nghĩa:
Pháp chế là sự hiện diện của một hệ thống pháp luật và sự địi hỏi
phải tơn trọng, thực hiện pháp luật hiện hành một cách chính xác,
thường xuyên và thống nhất bởi nhà nước và xã hội, nhằm xây dựng
một xã hội có trật tự, kỷ cương, bảo đảm cho hoạt động của toàn xã
hội thống nhất, đồng bộ, vì xã hội cơng bằng, văn minh [32, tr.26].
Bằng sự phân tích sâu sắc về pháp chế XHCN ở các khía cạnh khác

nhau các nhà luật học đã đi đến kết luận làm nổi bật vai trò của pháp chế
XHCN đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta, qua đó
đề ra những phương hướng, mục tiêu xây dựng, củng cố, tăng cường pháp chế
XHCN. Tác giả Đỗ Ngọc Hải cho rằng: "pháp chế XHCN là công cụ cơ bản,
chủ yếu để đưa pháp luật vào cuộc sống nhằm xây dựng, hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền XHCN trong điều kiện hiện nay và lâu dài" [44, tr.22]. Vì thế
muốn xây dựng thành cơng nhà nước pháp quyền XHCN thì phải tăng cường
pháp chế trên tất cả các mặt xây dựng, hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực
hiện pháp luật, cũng như nâng cao trình độ văn hóa pháp lý của các tầng lớp
nhân dân, đồng thời tăng cường phòng, chống tham nhũng trong bộ máy nhà
nước và tiêu cực trong xã hội. Cũng bàn về mối liên hệ giữa nhà nước pháp
quyền và pháp chế XHCN, tác giả Nguyễn Minh Đoan kết luận:


15
Nhà nước pháp quyền là một nhà nước có pháp chế, có nghĩa là
trong nhà nước đó pháp luật được tôn trọng và thực hiện đầy đủ,
nghiêm chỉnh và thống nhất. Pháp chế và nhà nước pháp quyền
quan hệ gắn bó với nhau, hỗ trợ tác động lẫn nhau: sự tôn trọng và
thực hiện tốt pháp luật trong bộ máy nhà nước sẽ thúc đẩy và tạo
điều kiện cho việc tơn trọng và thực hiện pháp luật ở ngồi xã hội;
ngược lại, sự tôn trọng và thực hiện pháp luật ở ngoài xã hội cũng
là tiền đề, điều kiện quan trọng để bảo đảm cho pháp luật được tôn
trọng và thực hiện trong bộ máy nhà nước. Do đó, chúng ta vừa
phải xây dựng nhà nước pháp quyền, vừa áp dụng mọi biện pháp để
pháp luật được tôn trọng và thực hiện ở ngồi xã hội. Có như vậy
mới tạo ra được một nền pháp chế hoàn chỉnh [32, tr.26].
1.1.1. . Nh ng cơng trình nghiên cứu pháp chế xã hội chủ nghĩa
trong t ng lĩnh vực
Hiện nay ngoài hướng nghiên cứu chung, nghiên cứu pháp chế dưới góc

độ là một phạm trù cơ bản của lý luận Nhà nước và pháp luật, thì hướng
nghiên cứu chuyên sâu về Pháp chế XHCN trong từng lĩnh vực cụ thể của
quản lý nhà nước đang ngày càng được chú trọng. Những nghiên cứu này đã
làm phong phú và sâu sắc hơn về khái niệm và bản chất của pháp chế XHCN.
Qua đó, làm rõ mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa cái phổ biến và
cái đặc thù của phạm trù này. Đồng thời những nghiên cứu đó cịn có ý nghĩa
thiết thực, đáp ứng kịp thời với những đòi hỏi cấp bách về cả lý luận và thực
tiến xây dựng, củng cố nền pháp chế XHCN của Nhà nước ta hiện nay.
Những cơng trình nghiên cứu thuộc nhóm hai, dựa trên lý luận chung về pháp
chế XHCN, để từ đó xây dựng khái niệm, nội dung cụ thể của pháp chế
XHCN trong từng lĩnh vực. Bằng cách đó các cơng trình nghiên cứu thuộc
nhóm này đã làm cho quan niệm về pháp chế XHCN thêm phong phú, thể
hiện sinh động trong từng lĩnh vực của đời sống xã hội.
Nghiên cứu pháp chế XHCN trong từng lĩnh vực cụ thể đang rất cấp
thiết, nhằm đáp ứng kịp thời với những đòi hỏi mà thực tiễn đang đặt ra đối


16
với việc tăng cường, củng cố nền pháp chế XHCN, hướng đến mục tiêu xây
dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. Có thể kể đến các
cơng trình nghiên cứu, Luận án, Luận văn tiêu biểu sau đây:
- Trần Văn Sơn trong "Tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động
giải quyết khiếu nại, tố cáo" [72] đã phân tích nội dung của pháp chế XHCN
được thể hiện cụ thể trong hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo; đánh giá
đầy đủ, toàn diện về thực trạng pháp chế XHCN trong hoạt động giải quyết
khiếu nại, tố cáo giai đoạn từ khi có luật giải quyết khiếu nại, tố cáo (năm
1998) đến năm 2007; nêu những thành tựu, đồng thời phân tích làm rõ nguyên
nhân của những hạn chế, tồn tại; từ đó đưa ra các quan điểm và giải pháp tăng
cường pháp chế XHCN trong hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo. Tác giả
đã đặt vấn đề về xây dựng luật khiếu nại và luật tố cáo thành các luật riêng, và

nêu rõ nội dung cơ bản của các luật này.
- Đỗ Ngọc Hải trong "Pháp chế XHCN trong hoạt động ban hành văn
bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND các cấp ở nước ta hiện nay"
[43] đã phân tích nội dung pháp chế trong hoạt động ban hành văn bản quy
phạm pháp luật của HĐND và UBND các cấp, thể hiện ở những yếu tố,
những yêu cầu đòi hỏi đối với hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp
luật của các chủ thể này; và từ đánh giá thực trạng, Đề tài đã đưa ra các
giải pháp tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động ban hành văn bản
quy phạm pháp luật của HĐND và UBND các cấp ở nước ta hiện nay.
Ngồi ra, cịn có một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ cũng quan tâm
nghiên cứu vấn đề này, chẳng hạn:
Luận án Tiến sĩ Luật học của Nguyễn Phùng Hồng "Tăng cường pháp
chế XHCN trong hoạt động của lực lượng công an nhân dân trên lĩnh vực
bảo vệ an ninh quốc gia ở nước ta hiện nay" [49]; Luận án Tiến sĩ Luật học
của Quách Sỹ Hùng "Tăng cường pháp chế về kinh tế trong quản lý nhà
nước nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay" [52]; Luận án Tiến sĩ Luật học của Nguyễn Nhật Hùng "Tăng cường


17
pháp chế XHCN trong lĩnh vực bảo vệ sức khỏe nhân dân ở nước ta hiện
nay" [51]; Luận văn thạc sĩ Luật học của Nguyễn Huy Bằng "Tăng cường
pháp chế trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở nước ta hiện nay" [9]; Luận
văn thạc sĩ Luật học của Nguyễn Chí Dũng "Tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội" [21]; Luận
văn thạc sĩ Luật học của Trần Thị Minh Hiền "Pháp chế XHCN trong kiểm
sát điều tra các vụ án kinh tế của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh"
[46]; Luận văn thạc sĩ Luật học của Trần Thị Hồng Thanh "Pháp chế
XHCN trong hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

của UBND tỉnh Ninh Bình" [75]...
Các luận án, luận văn trên đây đã đi sâu phân tích những yêu cầu, đòi
hỏi của pháp chế XHCN được thể hiện trong từng lĩnh vực hoạt động thi hành
pháp luật cụ thể; đánh giá thực trạng pháp chế của các lĩnh vực hoạt động đó;
đồng thời nêu các quan điểm và giải pháp tăng cường pháp chế XHCN đối
với lĩnh vực nghiên cứu. Trong số các cơng trình nghiên cứu pháp chế XHCN
trong từng lĩnh vực, hiện tại vẫn chưa có cơng trình nào nghiên cứu chuyên
sâu về pháp chế XHCN trong lĩnh vực đấu tranh phịng, chống bn lậu qua
biên giới của lực lượng Hải quan.
1.1.1.

Nh ng cơng trình nghiên cứu v phịng, chống bn lậu và

đấu tranh phịng, chống bn lậu qua biên giới của lực lượng Hải quan
Mặc dù bn lậu và đấu tranh phịng, chống bn lậu là một vấn đề
được quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu khoa học xã hội. Tuy nhiên phần
lớn các nhà nghiên cứu mới chỉ tập trung đề cập về mặt lý luận, khái quát
những vấn đề chung về buôn lậu và đấu tranh phịng, chống bn lậu. Trong
số đó cũng có cơng trình đề cập một số vấn đề có liên quan đến đấu tranh
phịng, chống bn lậu qua biên giới của lực lượng Hải quan. Một số cơng
trình khác, cụ thể hơn thì đề cập đến các giải pháp đấu tranh phịng, chống
bn lậu qua biên giới của Hải quan ở từng địa phương. Tuy không nghiên


18
cứu trực tiếp về pháp chế XHCN trong lĩnh vực đấu tranh phịng, chống bn
lậu, nhưng các tác giả đó ít nhiều đã đề cập đến giải pháp hoàn thiện chính
sách pháp luật có liên quan và việc nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật trong
hoạt động phòng, chống buôn lậu của các cơ quan chức năng.
- Tác giả Lê Thanh Bình trong "Chống bn lậu và gian lận thương

mại" [10] đã dự báo tình hình phát triển, gia tăng tất yếu, khách quan của
hoạt động buôn lậu; những khó khăn trong cơng tác phịng, chống bn
lậu; từ đó nêu các quan điểm, giải pháp phịng, chống bn lậu, gian lận
thương mại cần thực hiện.
- Tác giả Lê Văn Tới trong "Buôn lậu và chống buôn lậu, nhận diện và
giải pháp" [82] đã phân tích hiện tượng bn lậu dưới góc độ tội phạm học;
làm rõ những nguyên nhân khách quan, chủ quan dẫn đến sự phát triển, gia
tăng hoạt động bn lậu; tác giả cũng phân tích về các thủ đoạn buôn lậu; đưa
ra các giải pháp đấu tranh nhằm ngăn chặn hoạt động buôn lậu.
- Các tác giả Nguyễn Xn m và Nguyễn Hịa Bình trong "Tội phạm
kinh tế thời mở cử" [102] cho thấy một cách nhìn tồn diện về sự thay đổi,
phát triển của các tội phạm trong thời kinh tế mở cửa; dự báo những xu hướng
phát triển của các loại tội phạm này, trong đó có tội phạm bn lậu.
- Tác giả Vũ Ngọc Anh trong "Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về Hải
quan ở nước ta hiện nay" [1] đã đi sâu phân tích về chế độ pháp luật Hải quan
tại thời điểm nghiên cứu; so sánh với pháp luật Hải quan của các nước trên
thế giới; phân tích xu hướng phát triển hội nhập của Hải quan; từ đó nêu quan
điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật Hải quan của nước ta trong giai đoạn
đó. Tác giả đã đưa ra giải pháp xây dựng Luật Hải quan với các nội dung đổi
mới, phù hợp với sự phát triển hội nhập kinh tế của đất nước để thay thế cho
Pháp lệnh Hải quan năm 1990. Trong đó, đặc biệt là có một số nội dung liên
quan đến phịng, chống bn lậu của Hải quan.
- Tác giả Trần Tấn Linh trong "Đấu tranh phịng chống bn lậu của
Cục Hải quan Bình Định - Thực trạng và giải pháp" [55] tập trung đánh giá
thực trạng tình hình bn lậu ở địa phương, tình hình triển khai cơng tác


19
phịng, chống bn lậu của Cục Hải quan Bình định; nêu những giải pháp
cần thiết để tăng cường đấu tranh phịng, chống bn lậu của Cục Hải quan

Bình Định.
- Tác giả Vũ Văn Khánh trong "Đấu tranh phòng chống tội phạm vận
chuyển, mua bán trái phép chất ma túy của lực lượng Cơng an, Bộ đội biên
phịng và Hải quan trên tuyến biên giới Thanh Hoá - Hủa Phăn (CHDCND
Lào)" [53] nghiên cứu về thực trạng công tác đấu tranh phịng, chống tội
phạm bn lậu ma túy qua tuyến biên giới Thanh Hóa - Hủa phăn của các cơ
quan chức năng trên địa bàn; đưa ra các giải pháp tăng cường cơng tác này
nhằm đấu tranh có hiệu quả với tội phạm buôn bán ma túy qua tuyến biên giới
tại địa phương.
- Tác giả Nguyễn Văn Nghiên trong "Cơ sở lý luận và thực tiễn đấu
tranh phịng, chống bn lậu qua biên giới Việt - Trung của Hải quan Quảng
Ninh" [60] đã phân tích thực trạng bn lậu qua tuyến biên giới Việt - Trung
tại địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2001 đến 2009; đánh giá kết quả và
thực trạng triển khai cơng tác đấu tranh phịng, chống bn lậu của Hải quan
Quảng ninh; Đưa ra quan điểm và giải pháp tăng cường, nâng cao hiệu quả
công tác chống buôn lậu; đề xuất sửa đổi các quy định pháp luật cịn bất cập
và hồn thiện các chính sách pháp luật có liên quan để ngăn ngừa và đấu tranh
ngăn chặn có hiệu quả hoạt động bn lậu trên địa bàn...
Có thể thấy rằng, cũng nghiên cứu về vấn đề bn lậu, nhưng các cơng
trình trên đây chủ yếu xem xét theo phương diện tội phạm học. Các tác giả đi
sâu phân tích điều kiện và nguyên nhân của sự gia tăng hoạt động bn lậu
trong tình hình mới với sự chuyển đổi của tình hình kinh tế - xã hội thời mở
cửa. Đồng thời các tác giả cũng đã dự báo về những hình thức, thủ đoạn, quy
mơ và diễn biến của hoạt động buôn lậu trong giai đoạn tới. Qua đó nhấn
mạnh đến sự cần thiết phải có các giải pháp mạnh mẽ, chủ động tăng cường
công tác đấu tranh phịng, chống bn lậu của Nhà nước ta. Tuy không
nghiên cứu về vấn đề tăng cường pháp chế XHCN trong phịng, chống bn
lậu qua biên giới của lực lượng Hải quan, nhưng một số nội dung trong các



20
cơng trình trên đã đề cập đến mối quan hệ giữa tình hình bn lậu với mức độ
hồn thiện của pháp luật Hải quan và năng lực thực hiện nhiệm vụ của lực
lượng Hải quan Việt Nam. Khẳng định pháp luật Hải quan, pháp luật về
phịng, chống bn lậu chưa được hồn thiện chính là một trong những điều
kiện để các đối tượng buôn lậu lợi dụng, mở rộng hoạt động. Ngoài ra, việc
lực lượng Hải quan hoạt động thiếu chuyên nghiệp, minh bạch, hiệu quả và
bản lĩnh không vững vàng trước những cám dỗ vật chất cũng là một trong
những ngun nhân chủ yếu khiến cho tình hình bn lậu thêm phức tạp, bức
xúc trong xã hội.
1.1.2. Tình hình n hiên cứu n ồi nước
1.1. .1. Tình hình nghiên cứu v pháp chế xã hội chủ nghĩa
Xuất hiện sau sự kiện cách mạng tháng mười Nga và sự ra đời của nhà
nước Xô - Viết, nên pháp chế XHCN là một sản phẩm đặc biệt của nền khoa
học pháp lý XHCN. Chính vì vậy nghiên cứu về pháp chế XHCN chủ yếu chỉ
có ở các nhà nước XHCN và nhiều nhất là ở Liên Xô trước đây. Trong các tác
phẩm viết về pháp chế XHCN, các nhà nghiên cứu hầu hết đều lấy hạt nhân,
cốt lõi của tư tưởng về sự đòi hỏi phải tuân thủ, chấp hành nghiêm pháp luật
của tất cả các chủ thể trong xã hội từ Nhà nước đến từng cá thể công dân để
tập trung vào việc phân tích, làm sáng tỏ các luận điểm của Lênin về pháp chế
XHCN, coi đó như là một cách để phát triển lý luận về phạm trù này. Tiêu
biểu là các tác giả: N.G. Alekxanđrop; V.V. Borixop; V.N Kyđriaxep; A.B
Nixiukin... với các tác phẩm nghiên cứu về pháp chế XHCN một số nhà luật
học Xô - Viết quan niệm rằng:
Pháp chế là nguyên tắc dân chủ của chính quyền Xơ - Viết. Nó
thể hiện ở sự địi hỏi tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức sự
nghiệp, tổ chức xã hội và mọi công dân phải chấp hành nghiêm
chỉnh các đạo luật của chính quyền Xơ - Viết; các quyền và tự do
của công dân, các tổ chức của cơng dân, các lợi ích của họ vốn
đã được tuyên bố phải được bảo đảm….Việc tuân thủ một cách

thường xuyên, chính xác các văn bản quy phạm pháp luật và các


21
văn bản áp dụng pháp luật được bảo đảm bởi các biện pháp nhà
nước và xã hội [Trích theo 72, tr.66].
Trong quan niệm này, pháp chế XHCN được nhấn mạnh ở khía cạnh là
nguyên tắc dân chủ cơ bản của chính quyền Xơ - Viết, tức là pháp chế đã
được gắn liền với đời sống chính trị - xã hội, vượt ra khỏi quan niệm pháp lý
thông thường. Một số khác lại nhấn mạnh hơn đến vai trò của pháp chế như
là một phương thức lãnh đạo, phương pháp quản lý xã hội:“Pháp chế là
một chế độ nhất định của đời sống xã hội, là phương thức lãnh đạo của Nhà
nước trong việc tổ chức các quan hệ xã hội bằng phương thức ban hành và
không ngừng thực hiện các đạo luật và các văn bản pháp luật khác” [Trích
theo 72, tr.67]. Còn khi đề cập đến mục tiêu của pháp chế, pháp chế XHCN
lại được quan niệm: “Pháp chế là hiện tượng chính trị - pháp lý, đặc trưng
cho q trình hồn thiện hình thức nhà nước - pháp luật của việc tổ chức xã
hội bằng con đường tuân thủ, chấp hành nghiêm chỉnh, thường xuyên luật
pháp hiện hành” [Trích theo 72, tr.68]. Ở quan niệm này thì pháp chế có
mục tiêu là hồn thiện hình thức nhà nước và pháp luật trong việc tổ chức
đời sống xã hội. Cũng có quan niệm gắn pháp chế với pháp luật nhiều hơn
khi cho rằng: “pháp chế là hệ thống các quy tắc, quy phạm, phương tiện và
các bảo đảm pháp lý tương ứng với chúng mà các cơ quan nhà nước thừa
nhận đảm bảo thực hiện thực tế các đạo luật và các văn bản dưới luật”
[Trích theo 72, tr.73] …
Như vậy, từ hạt nhân tư tưởng về sự tuân thủ, chấp hành nghiêm pháp
luật, các nhà luật học Xô - Viết đã phát triển khái niệm pháp chế XHCN thành
một phạm trù cơ bản, với nội hàm rộng và có tính chất bao qt nhiều mặt
trong khoa học lý luận về Nhà nước và pháp luật XHCN.
Từ khi Liên Xô tan rã và hệ thống các nước XHCN ở Đông Âu sụp đổ,

việc nghiên cứu pháp chế XHCN không cịn được quan tâm. Ngồi một số
nước XHCN cịn lại, cho đến nay trên thế giới khơng có cơng trình nghiên
cứu mới đáng chú ý nào về pháp chế XHCN, việc nghiên cứu pháp chế
XHCN trong từng lĩnh vực cụ thể của quản lý nhà nước lại càng hiếm hơn.


×