Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Phat trien ben vungnhin tu goc do XHV Hoa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.04 KB, 6 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>“Phát triển bền vững”</b>



<b>nhìn từ góc độ xã hội và văn hoá</b>



<b>Trần Hữu Dũng</b>


Từ giữa thập niên 80 đến nay, “phát triển bền vững” đã trở thành một ý niệm thời
thượng. Nó là khẩu hiệu của hàng trăm tổ chức quốc tế, đề tài của mấy chục hội nghị,
hội thảo toàn cầu, và một tiêu chuẩn quan trọng trong chiến lược phát triển của hầu hết
mọi nước. Nguyên thủy, nó phản ảnh sự quan ngại đối với một số quốc gia muốn tăng
trưởng kinh tế vội vã, chọn cách phát triển thiển cận, miễn sao tăng thu nhập hiện tại cho
nhanh, mà không để ý đến những nguy hại dài lâu của lối phát triển ấy đến môi trường
sinh thái (tàn phá rừng, sa mạc hoá...), đến trữ lượng hữu hạn của tài nguyên thiên nhiên
(quặng mõ, dầu hoả, khí đốt).


Ý niệm “phát triển bền vững” nhấn mạnh đến khả năng phát triển kinh tế liên tục lâu
dài, không gây ra những hậu quả tai hại khó khơi phục ở những lãnh vực khác, nhất là
thiên nhiên. Phát triển mà làm hủy hoại môi trường là một phát triển không bền vững,
phát triển mà chỉ dựa vào những loại tài nguyên có thể cạn kiệt (mà không lo trước đến
ngày chúng cạn kiệt thì phải làm sao) là một phát triển khơng bền vững. Có người cịn
thêm rằng lối phát triển tùy thuộc quá nhiều vào ngoại lực (như FDI) cũng là khó bền
vững, vì nguồn ấy có nhiều rủi ro, khơng chắc chắn. Nói ngắn gọn, phát triển là khơng
bền vững nếu nó thật “nóng” trong một thời kỳ, song cái “nóng” đó khơng thể giữ lâu,
nền kinh tế chóng rơi vào khủng hoảng, hay ít nhất cũng chậm lại trong tương lai.


Không thể chối cãi: “phát triển bền vững” là một ý niệm hữu ích, đáng lưu tâm.
Nhưng chỉ để ý đến liên hệ giữa môi trường sinh thái, tài nguyên thiên nhiên, và tăng
trưởng kinh tế là chưa khai thác hết sự quan trọng của ý niệm “bền vững”. Ý niệm ấy sẽ
hữu ích hơn nếu được áp dụng vào hai thành tố nịng cốt khác của phát triển, đó là <b>văn </b>
<b>hoá</b> và <b>xã hội. </b>



Để rõ ràng, cần khẳng định một điều ai cũng biết, là văn hố và xã hội phải nằm
trong <b>tiêu đích</b> phát triển: một quốc gia thật sự phát triển không chỉ là quốc gia trong đó
người dân có thu nhập cao, mà cịn là một quốc gia có đời sống văn hoá sung mãn, một
quốc gia mà cộng đồng có những đức tính làm “ấm lịng” thành viên xã hội đó. Điều
khó thấy hơn là chính sự phát triển <i>kinh tế</i> bền vững đòi hỏi sự bền vững trong phát triển


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

■<b> Phát triển xã hội bền vững</b>


Nhà xã hội học người Mỹ James Coleman (1926-1995) phân biệt ba loại vốn:<b> vốn </b>
<b>vật thể</b> là kết quả của những biến đổi vật thể để tạo thành những công cụ sản xuất, <b>vốn </b>
<b>con người</b> là kết quả những biến đổi trong con người để cấu thành tài nghệ và khả năng
thao tác, và <b>vốn xã hội</b>.


Theo Coleman, "vốn xã hội" có ba đặc tính<b>: </b><i>Thứ nhất</i>, nó tùy thuộc vào mức độ mà
người trong xã hội tin cậy nhau. Nói cách khác, nó tùy thuộc vào nghĩa vụ mà mỗi
người tự ý thức, và kỳ vọng của người này ở người khác. <i>Thứ hai</i>, nó có giá trị vì là gói
ghém những liên hệ xã hội, và những liên hệ này mang đặc tính của <b>kênh truyền </b>


<b>thơng</b>. Nói rõ hơn: qua liên hệ tiếp xúc với hàng xóm, bạn bè, mỗi người có thể thu thập
nhiều thơng tin hữu ích cho cuộc sống, thay thế phần nào những phương tiện truyền
thông tân thời như sách báo, truyền thanh, truyền hình. <i>Thứ ba</i>, vốn xã hội càng lớn nếu
xã hội càng có nhiều lề thói (nhất là những lề thói mà người khơng tn theo sẽ bị trừng
phạt).


Chi tiết hơn, Coleman phân biệt vốn xã hội trong gia đình và vốn xã hội trong cộng
đồn<i>g. </i>Trong mỗi gia đình, con cái có thể lĩnh hội vốn tài chính, vốn con người, và <b>vốn </b>
<b>xã hội trong gia đình</b>. <i>Vốn tài chính</i> là do của cải và thu nhập gia đình. Loại vốn này
là một nguồn lực vật chất cho các em: sách vở cần thiết, nơi ngồi học thoải mái, và tiền
bạc để ứng phó những nhu cầu thường nhật. <i>Vốn con người</i> là phản ảnh trình độ văn hố
của cha mẹ, cho con cái một môi trường hiểu biết trong sự học hành. <i>Vốn xã hội </i>(trong


gia đình) thì khác, nó tùy thuộc vào mức quan tâm, thời giờ mà cha mẹ dành cho con cái
trong những sinh hoạt trí tuệ. Một gia đình dù giàu có (vốn tài chính là sung túc), cha
mẹ có học vấn cao (vốn con người nhiều), nhưng nếu thờ ơ với con cái (vì quá bận mưu
sinh chẳng hạn) thì sẽ nghèo vốn xã hội trong gia đình. Nói gọn, vốn xã hội trong gia
đình tùy thuộc vào sự có mặt của phụ huynh, và sự quan tâm của họ đến con cái.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Đi xa hơn Coleman, Francis Fukuyama (tác giả quyển “Điểm Tận của Lịch Sử” nổi
tiếng)cho rằng vốn con người và vốn xã hội có ảnh hưởng lẫn nhau. Cụ thể, theo ông,
vốn con người có thể làm tăng vốn xã hội (người có học sẽ ý thức hơn tầm quan trọng
của sự lưu tâm đến con cái, và ngược lại, khi con cái được quan tâm thì sẽ cố gắng học
hành, trau giồi vốn con người). Song Fukuyama đưa thêm nhận định: không phải loại
vốn nào cũng là tốt. <i>Vốn xã hội</i> có thể xấu (băng đảng tội phạm chẳng hạn), <i>vốn vật thể</i>


có thể xấu (vũ khí để làm tội ác), <i>vốn con người</i> có thể là xấu (trí tuệ dùng để nghĩ ra
những phương pháp hành hạ, tra tấn, chí đến diệt chủng)


Như vậy, áp dụng ý niệm vốn xã hội của Coleman và Fukuyama (và nhiều người
khác nữa, xin xem bài của Trần Hữu Dũng, <i>Thời Đại </i>số 8), một sự phát triển không
đồng thời vun quén vốn xã hội là một <i>phát triển không bền vững</i>. Dù rằng, như nhà kinh
tế Kenneth Arrow (Nobel 1972) đã chỉ rõ, ưu điểm của vốn xã hội là nó khơng cạn kiệt
qua sử dụng, song cái nguy hiểm là loại vốn này dễ bị suy mịn nếu đường lối phát triển
là khơng đúng, và không thể một sớm một chiều tái tạo hay vay mượn nó được. Chính
sách phát triển mà chỉ hơ hào làm giàu (thậm chí có người cho rằng phải chấp nhận mức
độ tham ơ nào đó trong giai đoạn gia tốc phát triển) sẽ hủy hoại tính cộng đồng, làm mất
sự tin cẩn lẫn nhau, và do đó làm suy giảm vốn xã hội. Khó nghĩ hơn, hầu như bất cứ
phát triển kinh tế nào cũng cần những luồng chảy lao động (dân vùng này đi làm vùng
khác) thơng thống, tuy nhiên sự di cư này sẽ ảnh hưởng trực tiếp (có phần tiêu cực) đến
gắn bó gia đình, và do đó vốn xã hội. “Phát triển bền vững” đòi hỏi sự đánh đổi tối ưu,
ăn khớp, giữa nhiều diễn biến xã hội và kinh tế khác nhau.



Thiếu vốn xã hội (hoặc nếu vốn xã hội không được kịp thời thay thế bởi những loại
vốn khác) thì phát triển sẽ khơng bền vững.<i> </i>Một quốc gia thiếu tính cộng đồng, thiếu
tình tự dân tộc là một quốc gia không phục vụ những nhu cầu cơ bản của con người (dù
thu nhập vật chất có là cao), tức là một quốc gia không phát trỉển.


■ <b>Phát triển</b> <b>văn hoá bền vững</b>


Phát triển bền vững cũng địi hỏi một <b>phát triển văn hố</b>. Một nền văn hố tốt đẹp
là cần thiết vì đời sống chúng ta không thể gọi là “khá hơn” (theo bất cứ định nghĩa nào,
miễn là nhất quán và trung thực) nếu văn hố khơng khá hơn, hoặc ít nhất cũng là không
tệ đi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

đời sống kinh tế, và nhất là muốn đánh giá vai trò của nó trong tiến trình phát triển, thì
nên nhìn nó như một loại vốn -- tương tự như ba loại vốn thường biết khác. (Đó là: <i>vốn </i>
<i>vật thể</i>, như máy móc, thiết bị; <i>vốn con người</i>, như kỹ năng, kiến thức; và <i>vốn thiên </i>
<i>nhiên</i>, gồm những tài nguyên do thiên nhiên cống hiến và môi trường sinh thái.)


Thêm một bước, có thể phân biệt hai dạng vốn văn hoá: vật thể và phi vật thể. (Một
phần đoạn sau đây đã đăng trên <i>Tia Sáng</i> số xuân 2003.) <i>Vốn văn hoá vật thể </i>là gồm
những cơng trình kiến trúc, đền đài cung miếu, di tích lịch sử, những địa điểm có ý nghĩa
văn hố. Loại vốn này cung cấp một luồng dịch vụ có thể hưởng thụ ngay (chẳng hạn
như du lịch), hoặc là “đầu vào” cho sản xuất những sản phẩm và dịch vụ (văn hoá cũng
như ngoại văn hoá) trong tương lai, Dạng kia, <i>vốn văn hoá phi vật thể</i>, là những tập
quán, phong tục, tín ngưỡng, và các giá trị khác của xã hội. Loại vốn văn hố này (cùng
những nghệ phẩm cơng cộng như văn chương và âm nhạc) là một loại dây, một thứ keo
gắn kết cộng đồng. Nó cũng cung cấp một luồng dịch vụ có thể hưởng thụ ngay, họăc
dùng trong sản xuất những sản phẩm văn hoá trong tương lai.


Những nhận xét trên cho thấy vài hai liên hệ giữa văn hoá, kinh tế, và phát triển.



<i>Một là</i>, giá trị kinh tế có thể tăng lên nhờ giá trị văn hố. Lấy ví dụ một ngơi nhà có
tính di tích lịch sử. Ngơi nhà ấy có giá trị kinh tế như một kiến trúc (ngụ cư hoặc thương
mại), biệt lập với giá trị văn hoá. Song nhiều người sẽ sẳn sàng mua ngơi nhà đó một
giá cao hơn giá trị vật thể thuần tuý của nó. Hầu như mọi loại vốn văn hố vật thể đều
có thể được nghĩ đến như ngơi nhà lịch sử trong ví dụ, tức là chúng bơm tiêm giá trị văn
hoá vào giá trị kinh tế của vật thể, làm tăng thêm, có thể gấp nhiều lần, giá trị của vật thể
ấy.


<i>Hai là</i>, vốn văn hoá giúp ta hiểu sâu hơn về ý niệm <i>tính bền vững của phát triển</i>.
Đóng góp của nó vào khả năng phát triển dài hạn khơng khác gì đóng góp của vốn thiên
nhiên. Vì mơi trường sinh thái là thiết yếu cho hầu hết hoạt động sản xuất cũng như tiêu
dùng, bỏ bê mơi trường đó qua sự khai thác q đáng tài nguyên sẽ làm giảm sản năng
và phúc lợi kinh tế. Khơng bảo dưỡng vốn văn hố (để di sản đồi trụy, làm mất bản sắc
văn hố dân tộc) cũng có những hậu quả tai hại như vậy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

hình văn hố nghệ thuật sẽ làm ơ uế những văn hố khác, hoặc những mơi trường khác,
thì phát triển đó là khơng bền vững.


Văn hố cần phát triển khơng chỉ vì giá trị tự tại của nó, nhưng cịn bởi sự quan trọng
của nó trong phát triển xã hội và kinh tế, và giá trị của những phát triển này. Nói khác
đi, phát triển kinh tế mà khơng phát triển văn hố là một phát triển què quặt, không cân
đối. Tất nhiên. Nhưng ít người để ý thêm rằng chính sự vơi cạn vốn văn hố (nếu xảy
ra) sẽ làm đổ vỡ phát triển kinh tế (và xã hội), nghĩa là một sự <b>phát triển kinh tế không </b>
<b>bền vững</b>,


Hãy nhìn kĩ xem đường lối phát triển đương hành là có hại gì đến văn hóa khơng. Sự
hủy hoại này có thể dễ thấy như sự suy đồi các di tích lịch sữ, những cảnh quan thu hút
khách du lịch, nhưng nó cũng có thể gián tiếp, như sự suy thối văn chương, nghệ thuật,
ngơn ngữ bản xứ. Sự tràn lan của tiếng Anh ngày nay là một thí dụ nổi bật: hiển nhiên
sự phổ cập tiếng Anh sẽ có lợi cho thương mại và công nghiệp cần thiết để phát triển,


nhưng nó cũng hút đi phần nào sinh lực phát triển của ngôn ngữ và văn chương bản xứ,
làm giảm đi một loại vốn văn hoá.


Cái nguy hiểm là, trong cuộc chạy đua phát triển, ta quên đi những giá trị văn hoá
dân tộc, và đến một lúc nào đó, nhìn lại thì đã mất nó từ lâu. Nên nói rõ rằng đây khơng
phải chỉ là bảo tồn văn hố vì cái hay, cái đẹp của nó, nhưng mà giữ gìn tính kế thừa của
văn hố từ thế hệ này sang thế hệ khác, bảo tồn vai trị của nó trong những giai đoạn
phát triển về sau. Khơng có nó thì sự phát triển hơm nay chẳng những là q quặt,
nhưng cịn là một phát triển khơng bền vững.


Lấy một ví dụ: lối phát triển (trên hầu hết thế giới) hiện nay là nhằm vào tiện nghi,
nhưng theo đuổi tiện nghi thường làm mòn đi sự tinh tế thẩm mỹ (“sao cũng đưọc, miển
là tiện lợi” như nhà phê bình mỹ học Virginia Postrel đã nhận xét). Một khi cảm quan
thẩm mỹ bị “tầm tầm hố” thì tính sáng tạo cũng sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực, và khơng ai
có thể nghi ngờ rằng sự kiện này sẽ làm tốc độ phát triển chậm lại. Nói khác đi, lối phát
triển chỉ nhằm tăng tiện nghi sinh hoạt, bất chấp thẩm quan văn hố, là khơng bền vững.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b>Trần Hữu Dũng</b>
Dayton


</div>

<!--links-->

×