Tải bản đầy đủ (.pdf) (218 trang)

Sự tiếp biến nho giáo ở việt nam qua tục ngữ, ca dao dân ca người việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.1 MB, 218 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------

Nguyễn Thị Kim Phƣợng

SỰ TIẾP BIẾN NHO GIÁO Ở VIỆT NAM
QUA TỤC NGỮ, CA DAO – DÂN CA
NGƢỜI VIỆT

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------

Nguyễn Thị Kim Phƣợng

SỰ TIẾP BIẾN NHO GIÁO Ở VIỆT NAM
QUA TỤC NGỮ, CA DAO – DÂN CA
NGƢỜI VIỆT
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 62.22.34.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS. TS. Lê Giang
Phản biện độc lập:


1. PGS. TS. Nguyễn Hữu Sơn
2. PGS. TS. Nguyễn Thành Thi

Phản biện 1: PGS. TS. Đoàn Thị Thu Vân
Phản biện 2: PGS. TS. Nguyễn Công Lý
Phản biện 3: TS. Hồ Quốc Hùng

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án Sự tiếp biến Nho giáo ở Việt Nam qua tục ngữ,
ca dao – dân ca người Việt là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi, khơng có sự
trùng lắp, sao chép của bất cứ đề tài luận án hay cơng trình nghiên cứu nào của các
tác giả khác.

Tác giả luận án

Nguyễn Thị Kim Phƣợng


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành được cơng trình khoa học này, ngồi sự nỗ lực của bản thân
chúng tơi cịn nhận được sự giúp đỡ, những góp ý khoa học, những lời chia sẻ,
động viên chân thành của quý vị Giáo sư, Tiến sĩ, Thầy cô giáo, đồng nghiệp và bạn
hữu…
Chúng tôi xin trân trọng gởi lời cảm ơn đến:
-

PGS. TS. Lê Giang, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, động viên chúng


tôi trong suốt sáu năm qua.
-

Quý vị GS, PGS, TS trong tiểu ban chấm chuyên đề, Hội đồng chấm luận án

cấp Đơn vị chuyên môn, cán bộ phản biện độc lập và Hội đồng chấm luận án tiến
sĩ cấp Cơ sở đào tạo, Quý vị đã có những góp ý khoa học thẳng thắn và đầy trách
nhiệm, giúp chúng tôi nhận diện nhiều vấn đề, đưa công trình đạt đến kết quả
khoa học nhất định.
-

Ban chủ nhiệm, quý Thầy, Cô, bạn bè, đồng nghiệp Khoa Việt Nam học,

trường ĐHKHXH & NV TPHCM, những người đã tạo mọi điều kiện, sẵn sàng giúp
đỡ, chia sẻ, động viên chúng tơi khi chúng tơi gặp khó khăn.
-

Ban giám đốc, anh chị em nhân viên thư viện Khoa học Tổng hợp TPHCM,

thư viện trường ĐHKHXH & NV TPHCM, những người đã giúp đỡ chúng tơi rất
nhiều trong việc tra cứu, tìm kiếm tài liệu để hồn thành cơng trình này.


MỤC LỤC
-----Trang
DẪN NHẬP
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI……………………………..…………………...……….1
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ…………………………………..…………………………...3
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU……………………………….12

4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU……………………………………………14
5. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN………………………………15
6. CẤU TRÚC LUẬN ÁN…………………………………………………..15
NỘI DUNG
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG…………………………………………18
1.1. Vấn đề tiếp biến văn hóa………………………………………….………18
1.2. Nguyên nhân dẫn đến sự thâm nhập của Nho giáo vào đời sống văn hóa
tầng lớp bình dân Việt……………………………………………………..25
1.2.1. Tổ chức nhà nước………………………………………………………….27
1.2.2. Luật pháp………………………………………………………………….31
1.2.3. Giáo dục……………………………………………………………….…39
1.2.4. Văn học – Nghệ thuật……………………………………………………46
1.3. Nho giáo và tục ngữ, ca dao – dân ca ngƣời Việt……………………….51
Chƣơng 2: SỰ TIẾP BIẾN CÁC PHẠM TRÙ ĐẠO VÀ THIÊN MỆNH
TRONG TỤC NGỮ, CA DAO – DÂN CA NGƢỜI VIỆT……………..64
2.1. Phạm trù Đạo…………………………………………………………….…64
2.1.1. Đạo trong kinh điển……………………………………………………….64
2.1.2. Đạo Nho giáo…………………………………………………………..…66
2.1.3. Đạo trong tục ngữ, ca dao – dân ca người Việt…………………………68
2.2. Phạm trù Thiên mệnh…………………………………………….……….79
2.2.1. Thiên mệnh trong kinh điển………………………………………………79
2.2.2. Thiên mệnh trong tục ngữ, ca dao – dân ca người Việt…………………86


Chƣơng 3: SỰ TIẾP BIẾN CÁC PHẠM TRÙ TRUNG – HIẾU, NHÂN –
NGHĨA TRONG TỤC NGỮ, CA DAO – DÂN CA NGƢỜI VIỆT………….100
3.1. Cặp phạm trù Trung – Hiếu…………………………………………..….100
3.1.1. Trung………………………………………………………………..……100
3.1.2. Hiếu……………………………………………………………………….109
3.1.3. Sự kết hợp Trung Hiếu (Hiếu Trung)…………………………………… 130

3.1.4. Trung, Hiếu đối sánh với Tình……………………………………….….134
3.2. Cặp phạm trù Nhân – Nghĩa (Nghĩa – Nhân) ………………….………137
3.2.1. Nhân………………………………………………………………………137
3.2.2. Nghĩa………………………………………………………………….…145
3.2.3. Sự kết hợp Nhân Nghĩa (Nghĩa Nhân) …………………………………163
Chƣơng 4: SỰ TIẾP BIẾN CÁC PHẠM TRÙ TIẾT TRINH, TAM TÒNG
TRONG TỤC NGỮ, CA DAO – DÂN CA NGƢỜI VIỆT…………….…...…167
4.1. Phạm trù Tiết trinh …………………………………………………….…167
4.2. Phạm trù Tam tịng………………………………………………………..182
KẾT LUẬN……………………………………………………………………..196
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………….….201
DANH MỤC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
PHỤ LỤC


1

DẪN NHẬP
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nhìn vào diện mạo văn hóa ngƣời Việt, chúng ta thấy có sự khác biệt rất lớn
so với các dân tộc khác trong khu vực. Những khác biệt đó một phần do ngƣời Việt
trải qua nhiều thế kỷ chịu ảnh hƣởng tƣ tƣởng Nho giáo. Tuy nhiên, để thừa nhận
thực tế đó, cũng nhƣ đánh giá đúng mức vai trò của Nho giáo đối với đời sống tinh
thần, tâm thức ngƣời Việt rất phức tạp và khơng phải bao giờ cũng chỉ có ý kiến
thuận chiều.
Trƣớc đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận xét về đức tin: “Tín đồ Phật giáo tin ở
Phật; tín đồ Gia Tô tin ở đức Chúa Trời; cũng nhƣ chúng ta tin ở đạo Khổng. Đó là
những vị chí tôn nên chúng ta tin tƣởng” [104, tr. 175]. Câu nhận xét của Ngƣời
không chỉ khẳng định sự tiếp nhận Nho giáo mà cịn cho thấy sự trân trọng, tơn
sùng một phần tƣ tƣởng Nho giáo – “đạo Khổng” của ngƣời Việt. Theo cách dùng

từ của Ngƣời, chúng ta hiểu ngƣời dân Việt chỉ tôn sùng những giá trị nhân văn vì
ngƣời, vì một lý tƣởng sống nhƣ Khổng Tử đã tâm niệm: “Ngƣời già thì đƣợc yên
vui; bạn bè tin yêu; lớp trẻ thì đƣợc bảo ban, đùm bọc” [29, tr. 80]. Đó cũng chính
là mục tiêu xã hội lớn nhất mà bao thế hệ ngƣời Việt hƣớng đến. Điều đó gợi mở
cho chúng tơi những trăn trở: phải chăng ngƣời Việt đã tiếp nhận “loại” Nho giáo
mà tính nhân văn và dân chủ là nền tảng, nhằm xây dựng một xã hội hịa bình, ổn
định, trong đó mọi ngƣời lấy Nhân mà đối đãi nhau? Tuy nhiên, với Hồ Chủ tịch,
Ngƣời có thể định danh đó là “đạo Khổng”; còn đối với ngƣời dân lao động, tất
nhiên họ không thể khái quát các nội dung Nho giáo mà họ tiếp nhận trong nội hàm
một từ, một tên gọi, nên “đạo Khổng” của họ phải thể hiện cụ thể ở một số dạng
thức nào đó. Hình thức nào, nội dung gì là những vấn đề khơng đơn giản nhƣng cần
phải làm rõ để có những đánh giá đúng về vai trị của đạo đức Nho giáo nói chung,
Khổng giáo nói riêng đối với đời sống tinh thần và tâm thức của ngƣời dân Việt.
Thiết nghĩ văn học dân gian là một trong những nguồn tƣ liệu có thể giúp chúng tơi
tìm hiểu vấn đề một cách khách quan và cũng là nơi có các trả lời thấu đáo cho


2

những câu hỏi trên, vì vốn dĩ đó là một trong những nguồn tƣ liệu phản ánh đầy đủ,
rõ nét đời sống tình cảm, tƣ tƣởng của tầng lớp bình dân Việt Nam. Bƣớc đầu chúng
tôi khảo sát nguồn tƣ liệu văn vần, tục ngữ và ca dao – dân ca ngƣời Việt.
Mặt khác, qua nguồn tƣ liệu này cũng cho thấy tinh thần học hỏi, tiếp thu và
thái độ ứng xử của cha ông ta trƣớc những hiện tƣợng tích cực, tiêu cực do các
luồng tƣ tƣởng bên ngồi mang đến. Chúng ta có thể hiểu rõ hơn nguyên nhân
phong phú và trƣờng tồn của di sản văn hóa tinh thần mà các thế hệ trƣớc để lại,
trong đó có những giá trị làm ngƣời tiếp biến từ Nho giáo. Điều mà trong một
khoảng thời gian khá dài chúng ta đã có những định kiến, hành xử thiên lệch nhƣ lời
của nguyên Thứ trƣởng Bộ Văn hóa Hà Huy Giáp nhận xét về tình hình sƣu tập, lƣu
giữ văn học dân gian trong những năm đầu sau khi giành đƣợc độc lập. Vì vậy, sau

những lời phê phán, ơng đã yêu cầu: “Chúng ta tôn trọng cả vốn cổ điển của các nhà
nho lẫn vốn cổ dân gian, không coi thƣờng mặt nào, nhƣng cũng không nên mù
quáng nhắm mắt theo cái cổ mà phải kiên quyết chống chủ nghĩa phục cổ” [145, tr.
58]. Theo quan điểm duy vật biện chứng và lịch sử, với cƣơng vị là một nhà lãnh
đạo trong lĩnh vực văn hóa – văn nghệ, Hà Huy Giáp vừa lên tiếng cảnh báo vừa đặt
ra yêu cầu chỉnh đốn từ trong nhận thức của xã hội đối với những giá trị truyền
thống văn hóa dân tộc, trong đó có đạo đức Nho giáo. Thế nhƣng, trên thực tế do
một số nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan, những giá trị đó đã bị dịng xốy tẩy
trừ tệ nạn lạc hậu, tàn dƣ của chế độ phong kiến vùi lấp, chỉ cịn đâu đó lác đác một
vài cá nhân, số ít gia đình vốn đã “tiêm nhiễm” những giá trị đạo đức, lễ nghi “cổ
hủ” cố gắng bảo lƣu, nhƣng khơng chắc họ có thể giữ đƣợc bao lâu nữa trong sự ồ
ạt lan tràn những luồng văn hóa hiện đại nặng về vật chất, hối hả vì ganh đua nhƣng
lại đƣợc sự ủng hộ của số đơng. Những luồng văn hóa đó có sức lơi cuốn mãnh liệt
đang dần thay đổi những chuẩn mực đạo đức cơ bản truyền thống của ngƣời Việt.
Chúng tôi, với trách nhiệm của một công dân tự nhận thức rằng: bản thân cần phải
có những hành động đóng góp vào việc bảo lƣu vốn cổ của dân tộc.


3

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Tìm hiểu về Nho giáo trong mảng văn vần dân gian từ trƣớc đến nay đã có
một số cơng trình đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp trong nội dung nghiên cứu chung
về tục ngữ, ca dao – dân ca ngƣời Việt, đặc biệt là những cơng trình sƣu tầm tục
ngữ, ca dao – dân ca sau năm 1945. Theo xu hƣớng vừa sƣu tập vừa tiến hành khảo
lƣợc lịch sử, nguồn gốc, nội dung… của tục ngữ, ca dao – dân ca ngƣời Việt, các
tác giả chia cơng trình thành hai phần: tiểu luận và sƣu tập. Phần tiểu luận ln có
những kiến giải, nhận định liên quan đến Nho giáo, chúng tôi xin giới thiệu một số
cơng trình tiêu biểu.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Vƣơng Duy Trinh trong bài tựa của tập sách

Thanh Hóa quan phong có lời: “Hoặc có khi ngƣời ta tiếp xúc với cảnh vật mà sinh
tình có khi nhân sự việc xảy ra mà ngƣời ta cảm hứng; hoặc ngƣời ta truy niệm luân
thƣờng mà nảy sinh lòng hiếu hữu; ngƣời ta khen ngợi Thần Phật quá đáng mà tấu
thành chƣơng” [152, tr. 9]. Lời này cho chúng ta một định nghĩa về ca dao – dân ca,
đồng thời cho thấy mục đích sáng tác cũng nhƣ đã giới thiệu khái quát nội dung
phản ánh của ca dao – dân ca. Trong đó hé mở một vấn đề: cùng với mục đích phục
vụ cho tín ngƣỡng Phật giáo, dân ca cịn là tâm tình của những trắc ẩn về thế sự, về
cách hành xử ở đời mà triết lý Nho giáo đƣợc lấy làm chuẩn mực. Bƣớc đầu cơng
trình đã xác định sự tiếp biến đạo đức Nho giáo trong ca dao – dân ca.
Năm 1914, Nguyễn Văn Mại với Việt Nam phong sử đã sƣu tập và lý giải ca
dao theo tinh thần: “Lấy phong dao làm gƣơng sáng mà chiếu tinh thần quốc sử” và
“lấy quốc sử làm căn bản” [100, tr.115 ]. Ông đã phân tích, lý giải một số sự kiện
lịch sử thơng qua ca dao. Nói cách khác, theo ơng, ca dao – dân ca đã phản ánh, ghi
lại nhiều sự kiện lịch sử. Tuy trong q trình lý giải, ơng đã chủ quan suy diễn một
số bài ca dao không liên quan gì đến lịch sử gắn với sự kiện lịch sử, nhƣng việc làm
của ông đã cho thấy ca dao – dân ca là văn bản phản ánh lịch sử. Lịch sử nƣớc nhà,
xét về lĩnh vực tƣ tƣởng, hẳn khơng thể khơng có dấu ấn Nho giáo.
Năm 1941, Dƣơng Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu, khi chia tục
ngữ ra làm bốn loại, ông đã dùng cụm từ “Những câu tục ngữ thuộc về luân lý” đặt


4

tên cho nhóm một. Trong nhóm đó, ơng lại tiếp tục chia thành hai tiểu mục a và b,
tiểu mục a là những câu tục ngữ “dạy đạo làm ngƣời” đƣợc hình thành từ triết lý
sống của Nho giáo. Khơng đi sâu phân tích ví dụ đƣợc dẫn nhƣng qua cách nêu vấn
đề của Dƣơng Quảng Hàm, chúng ta thấy ông đã thừa nhận ngƣời dân Việt từng
tiếp nhận nội dung đạo đức Nho giáo, biến chúng thành phƣơng châm sống và phổ
biến rộng rãi trong cộng đồng dƣới hình thức những câu từ cơ đọng, dễ nhớ, dễ
thuộc. Cịn về ca dao, ơng cũng tiến hành phân nhóm tƣơng tự, trong đó có những

bài đề cập đến luân lý truyền thống. Tuy nhiên, do giới hạn dung lƣợng nên vấn đề
chỉ mang tính điểm lƣợc.
Năm 1956, Vũ Ngọc Phan cho ra đời cơng trình Tục ngữ và dân ca Việt Nam,
sau đó đƣợc tái bản nhiều lần, đến lần thứ bảy (năm 1971) đổi tên thành Tục ngữ, ca
dao, dân ca Việt Nam. Ở phần tiểu luận của công trình, ơng đã xác định: tục ngữ, ca
dao, dân ca là sản phẩm tinh thần của tầng lớp bình dân nhƣng có sự can thiệp của
tầng lớp trí thức nho sĩ. Họ là những ngƣời tuy không thuộc tầng lớp bình dân
nhƣng có cuộc sống, tâm tƣ gần gũi với ngƣời dân lao động nên những sáng tác của
họ phần lớn đƣợc ngƣời dân trân trọng. Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố tích cực,
các yếu tố tiêu cực cũng len lỏi vào đời sống ngƣời dân, chúng bị xem là những tàn
dƣ của tƣ tƣởng phong kiến hủ bại và ơng đã có lời phê phán gay gắt. Thái độ khen,
chê một cách khách quan của ông không chỉ cho thấy tính khoa học của cơng trình
mà cịn bƣớc đầu xác định tính đa dạng, nhiều mặt của các yếu tố Nho giáo trong
văn bản tục ngữ, ca dao – dân ca, qua đó phản ánh tình hình tiếp nhận tƣ tƣởng Nho
giáo của tầng lớp bình dân khá phức tạp.
Năm 1962, tập thể tác giả cơng trình Dân ca quan họ Bắc Ninh đã có hƣớng
tiếp cận nhiều mặt. Trƣớc khi giới thiệu phần sƣu tập, các tác giả đã phân tích một
cách tỉ mỉ, tồn diện về những vấn đề có liên quan đến q trình hình thành cũng
nhƣ phát triển của dân ca quan họ Bắc Ninh, đi từ việc tìm hiểu cơ sở hạ tầng, vị trí
địa lý đến những phong tục tập quán, lề lối hát quan họ, giọng hát đến nội dung, quá
trình hình thành và phát triển của dân ca quan họ… Trong q trình tìm hiểu, phân
tích những yếu tố có liên quan, nhóm tác giả đã đƣa ra nhận định về hình thức cho


5

thấy sự ảnh hƣởng của phép tắc, lễ nghi Nho giáo qua các hành vi giao tế của ngƣời
dân quan họ. Các tác giả cơng trình viết: “Trong xã giao của những quan họ bạn, ta
thấy nổi bật khía cạnh q mến kính trọng nhau, nhƣng cũng khơng sao tránh khỏi
ảnh hƣởng lối phép tắc xã giao của luân lý đạo đức phong kiến” [159, tr. 26]. Thông

qua nhận định mang tính cục bộ của nhóm tác giả, chúng ta thấy đạo đức, lễ nghi
Nho giáo không những ảnh hƣởng trên bình diện chung về chuẩn mực hành vi xã
hội mà cịn chi phối đến cả loại hình ca hát dân gian, một sinh hoạt mang tính văn
hóa bản địa của riêng tầng lớp lao động. Sự ảnh hƣởng đó khơng dừng ở hình thức
ứng xử mà đi vào cả tâm hồn ngƣời nghệ sĩ, thể hiện qua nội dung lời hát của các
liền anh, liền chị. Tuy nhiên, theo nhóm tác giả, những ảnh hƣởng này mang tính
tiêu cực, do đó là sản phẩm của giai cấp phong kiến thống trị. Họ đƣa ra nhận định:
“Nhƣ ở trên đã trình bày, cũng nhƣ mọi hình thức văn học nghệ thuật dân gian khác,
ngồi những phần tiến bộ, cịn có những mặt hạn chế của nó, tức là những ảnh
hƣởng về luân lý, đạo đức, luật lệ phong kiến…” [159, tr. 109]. Trên quan điểm giai
cấp, nhóm tác giả đã chỉ ra những khía cạnh tiêu cực do sự ảnh hƣởng từ đạo đức
luân lý Nho giáo, cả về hình thức ứng xử lẫn quan niệm sống của ngƣời dân quan
họ, thể hiện qua loại hình dân ca quan họ. Đây là hiện tƣợng tƣơng tác giữa các biểu
tƣợng văn hóa (interculturality) xảy ra trong một cộng đồng có sự tồn tại đa dạng
văn hóa (cultural diversity) vì thế, vấn đề khơng thể nhận xét theo một khía cạnh.
Nguyễn Đăng Thục, trong bộ sách Lịch sử tư tưởng Việt Nam (xuất bản lần
đầu từ những năm 1967 đến 1973), tập 1 (1967), đã vận dụng ca dao – dân ca để
chứng minh cho hệ tƣ tƣởng dân gian Việt Nam. Ông ghi nhận lịch sử tƣ tƣởng Việt
Nam có sự tiếp thu hệ thống tƣ tƣởng Nho, Phật, Đạo, điều đó đƣợc phản ánh trong
ca dao – dân ca. Ơng trích ca dao để chứng minh: “Tam tùng tích hãy cịn ghi/ Bé
nƣơng cha mẹ, già thì theo con” [134, tr. 450] và ông kết luận: “Trên đây là tƣ
tƣởng Nho giáo đã phổ cập xuống bình dân một cách đầy đủ…” [134, tr. 451]. Tuy
nhiên, với mục đích nghiên cứu lịch sử tƣ tƣởng, căn cứ vào ca dao – dân ca để tìm
hiểu nội dung tƣ tƣởng của tầng lớp bình dân Việt Nam nên ca dao – dân ca chỉ là
tài liệu dùng làm dẫn chứng, minh họa, không phải là đối tƣợng nghiên cứu.


6

Nguyễn Thị Huế (1986), khi tiến hành tìm hiểu vai trò của ngƣời phụ nữ trong

ca dao – dân ca cũng ghi nhận: “Những chữ, những câu, những điển tích, những ý
nghĩa của kinh truyện, những lời giáo huấn của thánh hiền, sau này lúc đi ví đi hát
đã đƣợc cơ vận dụng vào câu ví, câu hát của mình khá tài tình” [60, tr. 129]. Thơng
qua sự khẳng định tài năng của cô Nhẫn cũng nhƣ những cô gái khác, tác giả đã
gián tiếp chứng minh tính bác học mà các yếu tố văn hóa phi bình dân, trong đó có
các điển, các biểu tƣợng văn học có nguồn gốc từ Nho giáo, đƣợc đƣa vào ca dao –
dân ca. Bài viết đã phản ánh phần nào tình hình tiếp nhận Nho giáo của tầng lớp
bình dân, đặc biệt là phụ nữ – những ngƣời không đƣợc trực tiếp tiếp xúc với kinh
sách thánh hiền.
Năm 1987, Nguyễn Đức Dân, trong bài viết “Đạo lý trong tục ngữ” đăng trên
Tạp chí Nghiên cứu Văn học, theo hƣớng tiếp cận cấu trúc câu để đi vào nội dung
đạo lý của các câu tục ngữ. Cùng với khái niệm “biểu trƣng”, hƣớng tiếp cận này
nhằm đƣa ra một cách nắm bắt ý nghĩa thâm sâu của các câu tục ngữ, giới hạn trong
bài viết là triết lý đối nhân xử thế giữa ngƣời với ngƣời, giữa ngƣời với các hiện
tƣợng tự nhiên và xã hội. Qua q trình phân tích và kiến giải tác giả đã gợi mở
hƣớng tiếp cận nội dung tục ngữ theo phạm trù.
Đinh Gia Khánh và Chu Xuân Diên trong tổng tập lịch sử văn học Việt Nam,
tập 1, phần giới thiệu Văn học dân gian (1991) đã đi sâu hơn trong việc tìm hiểu
từng bƣớc quá trình hình thành và phát triển cũng nhƣ tình hình nghiên cứu văn học
dân gian. Khi khẳng định vai trò của tầng lớp nho sĩ, đặc biệt là nho sĩ bình dân,
trong sáng tác văn học dân gian, hai ông đã kết luận: “Nếu nhƣ những ngƣời này
(nho sĩ bình dân) có đem vào nội dung và hình thức của tác phẩm dân gian ảnh
hƣởng của Hán học thì đó là lẽ tự nhiên” [66, tr. 293]. Hai tác giả đã khách quan
khẳng định sự có mặt của các yếu tố Hán học, văn hóa bác học trong ca dao – dân
ca là điều tất yếu, bởi vì một phần các sáng tác dân gian nói chung là tác phẩm của
các bậc túc nho. Riêng đối với ca dao – dân ca, nếu khơng sáng tác trực tiếp thì họ
cũng can thiệp bằng hình thức mớm lời trong các cuộc hát đối đáp. Dƣới cái nhìn
khách quan và cởi mở, hai nhà nghiên cứu đã khẳng định một số nội dung Nho giáo



7

có mặt trong văn học dân gian: “... Họ đã đem vào nội dung của văn học dân gian
những quan niệm trung, hiếu, tiết, nghĩa... ”; cịn về hình thức thì: “... Họ đã đem
vào hình thức văn học dân gian, đặc biệt là vào các loại dân ca, những từ ngữ và
điển cố, Nho học, Phật học...” [66, tr. 293]. Sau đó, hai tác giả đã dẫn chứng, phân
tích một số tƣ liệu về sự tham gia sinh hoạt, sáng tác ca dao – dân ca của các bậc túc
nho để cho thấy sự xuất hiện tất yếu của các yếu tố phi bình dân trong ca dao – dân
ca. Nhƣ vậy, hai tác giả một lần nữa khẳng định nguồn gốc của các yếu tố Nho giáo
trong ca dao – dân ca và xem ca dao – dân ca nhƣ là một phƣơng tiện phổ biến Nho
giáo đến ngƣời dân.
Năm 1996, Ninh Viết Giao trong phần tiểu luận của bộ sách Kho tàng ca dao
xứ Nghệ và phần tiểu luận của tập sách Hát phường vải – dân ca Nghệ Tĩnh xuất
bản năm 2001, cũng với mục đích tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của ca
dao – dân ca, tác giả đã nhấn mạnh thành phần sáng tác ca dao – dân ca có tầng lớp
nho sĩ hoặc những ngƣời chịu ảnh hƣởng nền học vấn Nho gia. Ninh Viết Giao đã
đƣa ra những dẫn chứng cụ thể về việc tham gia sáng tác ca dao – dân ca của các
học trò cửa Khổng sân Trình. Thành phần nghệ nhân này rất đa dạng: ngƣời cịn
đang tại vị, ngƣời đang hoạt động vì dân vì nƣớc hoặc ngƣời đã vãng thời và có cả
những ngƣời học lóm chữ Nho… Ơng đã cất cơng đi tìm, sƣu tập những bài ca dao
– dân ca còn tên tác giả để chứng minh cho sự can thiệp sâu sắc của các nhà nho
vào sự “thay đổi chất” của hát phƣờng vải. Ơng kết luận: “Nhìn chung, loại nghệ
nhân dân gian có bƣớc qua “cửa Khổng sân Trình” ở Nghệ Tĩnh đã từng tham gia
sinh họat hát phƣờng vải với nhân dân có thể đƣợc xem là cái cầu sống nối liền giữa
văn học dân gian và văn học bác học” [49, tr.132]. Tuy kết luận giới hạn trong mối
quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết nhƣng trong q trình phân tích về
nội dung, cách thức trau dồi kiến thức để đi hát của các nghệ nhân, ông đã gián tiếp
cho biết sự ảnh hƣởng của văn học Trung Quốc, văn học Việt Nam qua việc xuất
hiện của các điển cố, điển tích từ văn học Trung Quốc, văn học Việt Nam trong Hát
phường vải – dân ca Nghệ Tĩnh và cả những bài ca dao ngƣời Việt trong Kho tàng

ca dao xứ Nghệ. Ông cũng đã tập trung phân tích những dẫn chứng để chứng minh


8

nền tảng kiến thức phục vụ cho việc sáng tác câu hát của các nghệ nhân xứ Nghệ là
từ sách vở Nho gia. Qua phân tích, tác giả đã xác lập con đƣờng cơ bản và trực tiếp
đƣa các yếu tố Nho giáo vào ca dao – dân ca. Đó cũng chính là một trong số những
phƣơng tiện hữu hiệu mang đạo đức, luân lý Nho giáo vào đời sống ngƣời dân lao
động. Những phƣơng tiện khác sẽ đƣợc chúng tôi giới thiệu trong phần nội dung
của luận án.
Năm 1998, Huỳnh Ngọc Trảng trong Ca dao dân ca Nam kỳ lục tỉnh, phần
tiểu luận, sau những kiến giải, phân tích, chứng minh quá trình hình thành và biến
đổi về hình thức của các câu hị, câu hát Nam bộ, ơng dùng kết cấu nghịch nhân quả
để khẳng định tính cố hữu của những nội dung có liên quan đến đạo đức Nho giáo.
Ông viết: “Tuy nhiên, mặc dù những biến đổi có phần mới mẻ nhƣ vậy, song nội
dung của câu hị, lời hát h tình ấy vẫn cịn đặt cơ sở trên căn bản đạo lý truyền
thống Khổng Mạnh” [151, tr. 13]. Cách lập luận của tác giả cho thấy nội dung mang
tính chi phối câu hị, câu hát của ngƣời dân Nam bộ là đạo lý Nho giáo, mà ở đây
tác giả cho là Nho giáo Khổng Mạnh. Chính cách xác định “loại” Nho giáo của tác
giả đã thể hiện sự chủ động chọn lọc, tiếp nhận Nho giáo của ngƣời dân Nam bộ.
Tuy nhiên, vấn đề chỉ đƣợc gợi mở trong một nhận định tổng quan, còn nhiều khía
cạnh khá phức tạp cần làm rõ để nhận định này mang tính thuyết phục hơn.
Nguyễn Nghĩa Dân trong cơng trình Đạo làm người trong tục ngữ, ca dao Việt
Nam, xuất bản năm 2000, theo phƣơng pháp nghiên cứu lịch sử đã tìm thấy sự ảnh
hƣởng của các tƣ tƣởng Nho, Phật, Đạo trong tiến trình phát triển của ca dao – dân
ca. Nguyễn Nghĩa Dân cho rằng: “Những nhân tố tích cực tiến bộ của tƣ tƣởng Nho
giáo, Phật giáo có thể do từng tầng lớp nho sĩ, sƣ tăng gián tiếp tác động hoặc trực
tiếp tiếp nhận, đƣợc phản ánh khá nhiều với số lƣợng lớn trong tục ngữ, ca dao Việt
Nam về đạo làm ngƣời” [37, tr. 10]. Điều đặc biệt là tác giả đã khách quan nhìn

nhận những ảnh hƣởng tích cực của các hệ tƣ tƣởng trên đối với những chuẩn mực
đạo đức của ngƣời dân thơng qua tục ngữ, ca dao. Nói cách khác, các tƣ tƣởng này
đã ảnh hƣởng lớn đến nội dung về “đạo làm ngƣời” trong tục ngữ, ca dao. Những
quan niệm về đạo đức của các hệ tƣ tƣởng trên đã hòa vào những chuẩn mực đạo


9

đức dân gian và trở thành những nội dung riêng có của ngƣời dân Việt Nam. Tác
giả cũng có những ý kiến đánh giá cao sự tiếp thu linh hoạt, chủ động, khả năng
sáng tạo của ngƣời dân. Ngƣợc lại, hầu nhƣ bỏ qua những giá trị nhân bản mà tự
thân các tƣ tƣởng trên hàm chứa, nên cũng không thể thấy đƣợc những đóng góp
thực sự của các tƣ tƣởng trên trong nội dung “đạo làm ngƣời” của tục ngữ, ca dao
cũng nhƣ hệ thống đạo đức tốt đẹp của ngƣời Việt.
Lê Huy Thực đã khẳng định tinh thần trọng Đạo của ngƣời dân Việt thông qua
bài viết “Đạo đức – một giá trị đƣợc tôn vinh trong kho tàng tục ngữ, thơ ca dân
gian Việt Nam” đăng trên Tạp chí Khoa học chính trị, số 6, năm 2003. Tác giả đi
vào một khía cạnh nội dung của tục ngữ, ca dao – dân ca ngƣời Việt bằng cách xốy
sâu vào quan niệm đạo đức của ơng cha ta qua các tình huống biểu đạt. Điểm nổi
bật của bài viết là tác giả đã cho thấy mối quan hệ giữa đạo đức và lợi ích vật chất.
Theo tác giả, đây là một trong những lý do tại sao đạo đức đƣợc “tôn vinh” trong
tục ngữ và thơ ca dân gian. Qua bài viết chúng tôi nhận thấy một sự tâm huyết, say
mê đeo đuổi mục đích khẳng định giá trị cổ điển thuộc về nhân cách mà ông cha ta
đã để lại cho chúng ta qua kho tàng tục ngữ, ca dao của tác giả. Chính sự nhiệt
huyết và say mê ấy đã thúc đẩy tác giả tiến thêm một bƣớc trong việc tìm hiểu về
quan niệm đạo đức của ông cha ta qua bài viết với tiêu đề rất hiện đại: “Tiêu chí
kiểm định đạo đức con ngƣời qua tục ngữ, thơ ca dân gian Việt Nam” đăng trên Tạp
chí Triết học, số 09, năm 2005. Theo tác giả, ông cha ta xƣa đã dựa vào một số tiêu
chí cụ thể để đánh giá đạo đức của một cá nhân nhƣ “hiện thực khác quan”, “cảm
nhận trực quan”. Tuy nhiên, tác giả cũng phải thừa nhận trong nhiều trƣờng hợp

không thể đo lƣờng đƣợc phẩm chất, đạo đức của một ngƣời khi sự thể hiện quá
khôn khéo, vƣợt khỏi khả năng đoán định của mọi ngƣời. Mặc dù không trực tiếp đề
cập đến Nho giáo, “đạo làm ngƣời” nhƣng trong q trình phân tích, dẫn chứng
nhiều lần tác giả căn cứ vào những biểu tƣợng đạo đức Nho giáo nhƣ Trung, Hiếu,
Nhân, Nghĩa… để luận giải vấn đề và đƣa ra quan điểm của mình. Vì vậy, có thể
nói bài viết đã gián tiếp xác định tính chuẩn mực của các phạm trù đạo đức Nho


10

giáo và sự đóng góp mang tính “cơ sở lý thuyết” của chúng trong quy chuẩn đạo
đức của ngƣời dân Việt.
Trên Tạp chí Văn hóa dân gian số 04 năm 2006 có đăng một bài viết ngắn của
tác giả Phan Hoa Lý đề cập đến “Quan hệ thầy – trò qua tục ngữ ngƣời Việt”. Tìm
hiểu về mối quan hệ thầy trò nghĩa là tác giả đã chạm tới một đề tài quan trọng mà
ngƣời dân Việt đã tiếp nhận từ học thuyết Nho giáo. Tác giả đã tiến hành một cách
công phu khi khảo sát 16.098 câu tục ngữ trong Kho tàng ca dao người Việt do
Nguyễn Xuân Kính chủ biên để rút ra con số 0,12% là tỉ lệ có mặt của những câu
tục ngữ đề cập đến mối quan hệ thầy – trò. Qua con số tác giả đã đặt vấn đề: có sự
mâu thuẫn giữa một dân tộc vốn coi trọng đạo lý nhƣng lại rất ít quan tâm đến giáo
dục thông qua sự thể hiện “quá kiệm lời”. Đặt ra một vấn đề thâm sâu nhƣng ở phần
cuối tác giả đã kết luận một cách suy diễn, thiếu cơ sở khoa học khi cho rằng:
“Dƣới thời phong kiến, số ngƣời đƣợc đi học rất ít. Việc học hành là mối quan tâm
của thiểu số, bởi vậy, tục ngữ ít đề cập đến đề tài này” [98, tr. 67]. Với kết luận nhƣ
vậy, cho thấy tác giả chƣa thật sự tìm hiểu thấu đáo ngọn ngành vấn đề. Trong phần
xác định những nguyên nhân dẫn đến sự thâm nhập của Nho giáo vào đời sống văn
hóa ngƣời dân, chúng tôi sẽ giới thiệu những con số cụ thể về tình hình học tập thi
cử của nƣớc ta trong thời kỳ phong kiến làm cơ sở để đối chiếu với nhận định của
tác giả.
Gần đây, hai tham luận của Nguyễn Xuân Diện và Nguyễn Duy Hinh tại hội

thảo quốc tế do Viện nghiên cứu Hán - Nôm Việt Nam và Viện Harvard – Yenching
Hoa Kỳ tổ chức năm 2007 cũng đã đặt ra một số vấn đề liên quan đến mối quan hệ
của Nho giáo và văn hóa dân gian. Cả hai một lần nữa khẳng định sự can thiệp của
tầng lớp trí thức nho sĩ Việt Nam vào q trình hình thành nên những cơng trình sƣu
tầm tục ngữ, ca dao. Tham luận của Nguyễn Xuân Diện với nhan đề “Trí thức Nho
giáo với việc Nho giáo hóa xã hội (làng xã: từ góc nhìn tƣ liệu học - foklore)” cho
thấy những hoạt động cụ thể của nho sĩ trong việc truyền bá Nho giáo, trong đó có
hoạt động sƣu tập, lƣu giữ và sáng tác văn học dân gian cũng nhƣ nghệ thuật sân
khấu dân gian. Còn Nguyễn Duy Hinh trong tham luận “Nho giáo với văn hóa dân


11

gian, đôi điều suy nghĩ”, theo cách giới thiệu và tái khẳng định sự có mặt của Tam
giáo trong tục ngữ, đã điểm lƣợc một số câu mang nội dung Tam giáo, cũng nhƣ
điển tích Bắc sử… đƣợc các thầy đồ dẫn dụng vào tục ngữ, trong đó có một số câu
“thể hiện tƣ tƣởng Khổng giáo” [161, tr. 723].
Năm 2007, với đề tài luận văn thạc sĩ: Ảnh hưởng của văn hóa bác học trong
ca dao dân ca người Việt, chúng tôi đã tiến hành khảo sát, thống kê sơ bộ về sự có
mặt của các yếu tố Nho giáo trong ca dao – dân ca ngƣời Việt cùng với các yếu tố
khác: Phật, Đạo, văn học viết… Ở góc nhìn văn hóa, xem sự ảnh hƣởng của Nho
giáo vào ca dao – dân ca vào hệ thống giá trị đạo đức ngƣời Việt là kết quả của sự
tiếp xúc, giao lƣu văn hóa, chúng tơi đã chỉ ra những ảnh hƣởng tích cực và tiêu cực
của Nho giáo vào đời sống tinh thần ngƣời dân Việt thông qua ca dao – dân ca. Tuy
nhiên, chúng tôi nhận thấy những phân tích, kiến giải về Nho giáo trong luận văn
chƣa đủ độ sâu vì phải chia sẻ dung lƣợng với những nội dung khác để đáp ứng yêu
cầu của đề tài. Hơn nữa, khảo sát chỉ giới hạn trong thể loại ca dao, chƣa bao hàm
cả tục ngữ, nên vấn đề cịn nhiều khía cạnh cần bổ sung. Quan trọng hơn là trong
q trình phân tích, chúng tơi chƣa tiến hành truy nguyên nguồn gốc của các biểu
tƣợng đạo đức Nho giáo trong ca dao – dân ca ngƣời Việt, nhằm đối chiếu, làm rõ

những giá trị đạo đức cốt lõi mà Nho giáo đóng góp vào tâm thức, vào truyền thống
dân tộc Việt, cũng nhƣ phân tích nguyên nhân dẫn đến những ảnh hƣởng tiêu cực
của Nho giáo đối với hệ tƣ tƣởng bình dân. Kết quả của sự so sánh, đối chiếu cịn có
thể làm nổi bật tinh thần chủ động, sự tinh nhạy, khả năng sáng tạo tuyệt vời của
bao thế hệ ngƣời Việt xƣa trong q trình tiếp nhận và biến đổi văn hóa ngoại sinh,
làm nên bản sắc ngƣời Việt hôm nay nhƣng chúng tơi chƣa có đủ điều kiện để tiến
hành. Giải quyết những gì cịn tồn tại ở luận văn thạc sĩ là mục tiêu mà luận án tiến
sĩ chúng tôi đặt ra.
Nhƣ vậy, dấu ấn của Nho giáo trong tục ngữ, ca dao – dân ca ngƣời Việt đã
đƣợc nhận diện từ rất lâu. Tuy nhiên, vấn đề chỉ đƣợc điểm qua để nội dung nghiên
cứu có tính khái qt và toàn vẹn hay nhằm phục vụ cho nội dung nghiên cứu khác.
Trong khi tìm hiểu sự ra đời của tục ngữ, ca dao – dân ca, các nhà nghiên cứu đã


12

khẳng định sự tham gia sáng tác của các bậc túc nho, tầng lớp sĩ dân hoặc những
ngƣời đƣợc tiếp nhận hệ thống giáo dục Nho giáo. Các nhà nghiên cứu đi trƣớc có
xu hƣớng xem đó là nguyên nhân, là cái gốc để lý giải sự xuất hiện của các yếu tố
có liên quan đến Nho giáo nên hầu hết các cơng trình chỉ dừng lại ở việc chỉ ra sự
có mặt và nguyên nhân xuất hiện của Nho giáo trong tục ngữ, ca dao – dân ca.
Thậm chí nếu đƣợc khẳng định là nội dung tƣ tƣởng nền tảng của tục ngữ, ca dao –
dân ca thì đạo đức Nho giáo, các yếu tố liên quan đến Nho giáo cũng chỉ là một
phần trong nghiên cứu chung về những ảnh hƣởng của văn hóa bác học trong tục
ngữ, ca dao – dân ca. Đồng thời, theo quan điểm giai cấp, các nhà nghiên cứu
thƣờng cho rằng Nho giáo mang đến cho đời sống tinh thần ngƣời Việt những quan
niệm đạo đức phong kiến hủ bại. Một số công trình thể hiện sự khách quan trong
những đánh giá tích cực về hệ thống giá trị đạo đức Nho giáo thì lại nghiêng về sự
tiếp biến chủ động và sáng tạo của chủ thể văn hóa bình dân, khơng quan tâm đến
giá trị cốt lõi mang tính nhân văn của Nho giáo, mà chính yếu tố này là một trong

những nguyên nhân quan trọng để Nho giáo đƣợc chào đón trong ngơi nhà văn hóa
chung của ngƣời Việt. Nhiệm vụ chúng tơi đặt ra cho cơng trình này là giải quyết
thấu đáo những vấn đề trên. Đối chiếu với tƣ tƣởng bản địa, chúng tôi muốn phác
họa một bức tranh tổng thể về thực tế biến đổi diện mạo văn hoá của dân tộc Việt
do những đƣờng nét tiếp biến Nho giáo khắc họa trên nền tƣ liệu tục ngữ, ca dao –
dân ca.
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Trong cơng trình này chúng tơi tập trung vào các phạm trù Nho giáo, những
biểu tƣợng văn học có nguồn gốc Nho giáo trong tục ngữ, ca dao – dân ca và tiến
hành khảo sát, nhận dạng chúng để làm rõ đâu là yếu tố bản địa, đâu là yếu tố tiếp
nhận và biến đổi từ Nho giáo trong nội dung “đạo làm ngƣời” của tục ngữ, ca dao –
dân ca. Đồng thời qua đó xác định vị trí của đạo đức Nho giáo trong quan niệm
truyền thống của ngƣời dân Việt, chứng minh tính hiện đại của đạo đức Nho giáo
đối với xã hội hiện nay.


13

Hiện nay có rất nhiều cơng trình sƣu tập tục ngữ, ca dao – dân ca ngƣời Việt,
bên cạnh những phần tinh tuyển tục ngữ, ca dao – dân ca trong các bộ tổng tập văn
học, các nhà nghiên cứu đã tiến hành thu thập, tổng hợp tục ngữ, ca dao – dân ca
đầy đủ, bao quát hơn trong những bộ sách riêng, trong đó nổi bật nhất là hai bộ sƣu
tập ca dao và tục ngữ riêng biệt của nhóm tác giả, do Nguyễn Xn Kính chủ biên.
Bộ ca dao có tên Kho tàng ca dao người Việt, gồm hai tập với 12.487 câu, nhà xuất
bản Văn hóa – Thông tin ấn hành năm 2001 và bộ Kho tàng tục ngữ người Việt, nhà
xuất bản Văn hóa – Thơng tin ấn hành năm 2002. Trong bộ Kho tàng tục ngữ người
Việt có một số câu đã đƣợc đƣa vào Kho tàng ca dao người Việt, vì vậy, khi chọn
hai bộ sách làm tài liệu khảo cứu cơ bản, chúng tôi phải kiểm đếm lại, loại bỏ
những câu trùng lặp (có hình thức là một bài ca dao, một câu 6 và một câu 8), xác
định con số thực tế, để có những kết quả thống kê chính xác.

Có thể nói cho đến nay, đây là hai cơng trình có số lƣợng sƣu tập về tục ngữ,
ca dao lớn nhất, dựa vào nguồn tƣ liệu đa dạng và bao quát nhất so với một cơng
trình khác là Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam của Trung tâm Khoa học Xã hội
và Nhân văn thuộc Viện Văn học. Tập IV của cơng trình này đƣợc chia làm hai
quyển: quyển 1 về tục ngữ, ca dao; quyển 2 về dân ca. Vì đặc tính tuyển chọn nên
số lƣợng tục ngữ, ca dao trong cơng trình này hạn chế hơn so với cơng trình của
nhóm tác giả Nguyễn Xn Kính. Trong lời nói đầu, nhóm tác giả Nguyễn Xn
Kính đã cho thấy một khối lƣợng tài liệu đƣợc tập hợp rất lớn, gồm 40 cuốn (với 49
tập) đã đƣợc biên soạn từ cuối thế kỷ XVIII đến năm 1975. Cơng trình đƣợc chỉnh
lý bổ sung liên tục trong suốt 25 năm (từ 1974 đến 1999), cuối cùng nhóm tác giả
đã cho ra đời một tổng tập ca dao đồ sộ với mục đích “đem đến cho bạn đọc một
cơng cụ giúp cho việc tìm hiểu, thƣởng thức ca dao, dân ca ở nhiều góc độ, với
nhiều yêu cầu khác nhau” [74, tr. 49]. Cũng với tinh thần, phƣơng pháp và mục đích
nhƣ vậy, nhóm cũng đã hồn chỉnh bộ tổng tập về tục ngữ, đƣợc Hội đồng khoa học
Viện Nghiên cứu văn hóa dân gian xếp loại xuất sắc. Cơng trình đã lập nhiều kỷ lục:
Lần đầu tiên có một cơng trình giới thiệu với số câu tục ngữ nhiều nhất
(16. 098 câu, số liệu tác giả đƣa ra. Sau khi chúng tôi loại bỏ một số câu


14

đã đƣợc giới thiệu trong Kho tàng ca dao người Việt, con số còn lại phục
vụ cho việc thống kê của chúng tơi là 15.331).
Lần đầu tiên có một cơng trình chú giải đƣợc nhiều câu tục ngữ nhất.
Lần đầu tiên có một cơng trình giới thiệu tục ngữ theo nhiều hệ thống [76,
tr. 7].
Vì những lý do trên, chúng tơi chọn hai cơng trình này làm tài liệu khảo sát
chính, kết hợp đối chiếu bổ sung với một số tài liệu khác có liên quan.
4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
-


Phƣơng pháp liên ngành là phƣơng pháp nổi bật trong công trình này vì đối

tƣợng, phạm vi nghiên cứu và cách tiếp cận vấn đề địi hỏi phải có sự hỗ trợ tƣ liệu
từ nhiều lĩnh vực: triết học, lịch sử, văn hóa, văn học, văn hóa dân gian, pháp luật…
Phƣơng pháp này giúp chúng tôi tiếp cận đối tƣợng ở nhiều góc độ, để có vái nhìn
tồn diện và khách quan, đồng thời có đủ cơ sở để cọ sát, đối chiếu và cả tổng hợp
kiến thức nền nhằm phục vụ cho việc phân tích, chứng minh, kiến giải đƣa đến kết
luận trong cơng trình.
-

Phân tích là phƣơng pháp đƣợc ƣu tiên để phục vụ cho việc tìm và lý giải các

phạm trù Nho giáo trong tục ngữ, ca dao – dân ca ngƣời Việt, xác định đâu là Nho
giáo trong nội dung tƣ tƣởng chung của mảng văn vần. Phƣơng pháp này cũng
nhằm mục đích chỉ ra những giá trị về nội dung mà Nho giáo mang đến cho tục
ngữ, ca dao – dân ca ngƣời Việt. Trong quá trình phân tích, chúng tơi phải vận dụng
phƣơng pháp so sánh.
-

So sánh đối chiếu là phƣơng pháp quan trọng trong cơng trình của chúng tơi,

đƣợc thực hiện để xem xét, đối chiếu nghĩa gốc các phạm trù Nho giáo và sự xuất
hiện của chúng trong văn bản tục ngữ, ca dao – dân ca ngƣời Việt. Từ cơ sở này sẽ
làm rõ đâu là yếu tố tiếp nhận, đâu là thành quả của sự tiếp nhận, đồng thời có thể
chứng minh sự vận dụng biến chuyển linh hoạt và đầy sáng tạo của các tác giả dân
gian khi khai thác những yếu tố phi dân gian.
-

Để minh chứng xác thực cho những nhận định, chúng tôi tiến hành thống kê


đối tƣợng, đƣa ra những con số cụ thể, chính xác, tiến tới quy nạp, cho thấy mức độ


15

và khả năng ảnh hƣởng của từng phạm trù Nho giáo. Từ đó rút ra những kết luận
mang tính khái quát, đảm bảo tính chính xác và khách quan.
-

Phƣơng pháp lịch sử cũng đƣợc chúng tôi vận dụng trong công trình nhƣng

chủ yếu là để xác định nguyên nhân thâm nhập của Nho giáo vào đời sống ngƣời
dân và sự xuất hiện của các biểu tƣợng đạo đức Nho giáo trong văn bản tục ngữ, ca
dao – dân ca. Vận dụng phƣơng pháp này vào việc tìm hiểu, phân tích các câu tục
ngữ, ca dao – dân ca để nắm bắt ý nghĩa là một điều rất khó vì hầu hết hoàn cảnh ra
đời của các câu tục ngữ, ca dao – dân ca đã bị lu mờ.
5. NHỮNG ĐÓNG GĨP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Luận án của chúng tơi là cơng trình nghiên cứu bao qt, hệ thống đầu tiên về
Nho giáo trong tục ngữ, ca dao – dân ca ngƣời Việt. Tập trung vào các phạm trù
Nho giáo xuất hiện nổi bật trong mảng văn vần dân gian, công trình xác định nội
hàm Nho giáo của từng phạm trù, chỉ ra đâu là tiếp, đâu là biến qua đó xác định cụ
thể giá trị tích cực và tiêu cực mà tƣ tƣởng Nho giáo tác động vào đời sống văn hóa
ngƣời Việt, đồng thời làm rõ thái độ của ngƣời Việt đối với tƣ tƣởng Nho giáo nói
riêng, văn hóa ngoại lai nói chung. Mặt khác, những phân tích và đối chiếu với văn
hóa bản địa trong cơng trình sẽ làm rõ tính bền vững của những giá trị tinh thần
truyền thống của dân tộc, từ đó có thể tham khảo để làm cơ sở xây dựng khung
chuẩn mực đạo đức ở thời hiện đại. Qua cơng trình này, chúng tơi hy vọng mang lại
một cái nhìn khách quan và cơng bằng về vai trị của tƣ tƣởng Nho giáo khi giữ vị
trí chủ đạo, chi phối hệ tƣ tƣởng dân tộc Việt.

Mặt khác, với phạm vi nghiên cứu mảng văn vần dân gian của ngƣời Việt,
luận án đƣa ra cái nhìn tổng quan về sự ảnh hƣởng của Nho giáo trong tục ngữ, ca
dao – dân ca ngƣời Việt, góp phần vào việc nghiên cứu nội dung tƣ tƣởng của tục
ngữ, ca dao – dân ca nói riêng và văn học dân gian nói chung.
6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN
Xem Nho giáo thuộc hệ thống giá trị tƣ tƣởng, đạo đức văn hóa, chúng tơi vận
dụng các ngun lý tiếp nhận văn hóa để xác định mối tƣơng quan nhiều mặt giữa
Nho giáo và đời sống tƣ tƣởng bình dân Việt Nam. Đồng thời để thấy đƣợc nguyên


16

nhân và mối quan hệ giữa hai hệ tƣ tƣởng, chúng tôi giới thiệu một cách tập trung
những lý do khách quan thúc đẩy sự thâm nhập của học thuyết Nho giáo vào đời
sống tƣ tƣởng ngƣời dân và sự có mặt của các phạm trù Nho giáo trong lời ăn tiếng
nói của họ.

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
Chúng tơi đƣa ra những vấn đề mang tính tiền đề làm cơ sở cho những luận
điểm trong phân tích, kiến giải sự tiếp nhận và biến đổi các phạm trù Nho giáo ở
những chƣơng sau.

Chƣơng 2
SỰ TIẾP BIẾN CÁC PHẠM TRÙ ĐẠO VÀ THIÊN MỆNH
TRONG TỤC NGỮ, CA DAO – DÂN CA NGƢỜI VIỆT
Sau những nội dung mang tính đề dẫn, chúng tơi đi vào phân tích sự tiếp biến
cụ thể của từng phạm trù Nho giáo. Các phạm trù ở đây đƣợc chia theo từng mục
với nội dung hƣớng đến từng lĩnh vực khác nhau của Nho giáo. Về vũ trụ, chúng tôi
khảo sát hai phạm trù Đạo và Thiên mệnh. Đây là hai phạm trù đƣợc vận dụng phổ

biến, xuất hiện một cách rõ nét trong tục ngữ, ca dao – dân ca ngƣời Việt.

Chƣơng 3
SỰ TIẾP BIẾN CÁC PHẠM TRÙ TRUNG – HIẾU, NHÂN – NGHĨA
TRONG TỤC NGỮ, CA DAO – DÂN CA NGƢỜI VIỆT
Về đạo đức nhân văn, chúng tôi đi sâu vào các triết lý làm ngƣời đặc trƣng
Nho giáo: tam cƣơng, ngũ thƣờng nhƣng chỉ tập trung vào những biểu tƣợng nổi bật,
xuất hiện tần suất cao trong tục ngữ, ca dao – dân ca ngƣời Việt nhƣ Trung, Hiếu,
Nhân, Nghĩa. Những biểu tƣợng khác nhƣ Lễ, Tín… xuất hiện với tầng xuất thấp
hoặc đã đƣợc lồng ghép, hòa tan vào các biểu tƣợng trên khi xuất hiện trong mảng
văn vần của ngƣời Việt (Phụ lục, tr.194 – 195), vì vậy, chúng tơi khơng phân tích
sâu nhƣng sẽ đƣợc đề cập khi có liên quan.

Chƣơng 4
SỰ TIẾP BIẾN CÁC PHẠM TRÙ TIẾT TRINH, TAM TÒNG


17

TRONG TỤC NGỮ, CA DAO – DÂN CA NGƢỜI VIỆT
Ngƣời phụ nữ Việt có những chuẩn mực đạo đức riêng, đó là phẩm hạnh Tiết
trinh, đạo Tam tịng, vì thế chúng tôi tách thành một mục riêng để khảo sát. Tứ đức

là bốn phẩm hạnh cơ bản Nho giáo tập trung giáo dục ngƣời phụ nữ nhƣng lại
xuất hiện rất ít trong tục ngữ, ca dao – dân ca ngƣời Việt (Phụ lục, tr.194) nên
không đủ điều kiện để chúng tôi tách riêng thành một mục, nhƣng sẽ đề cập
trong phần Tam tịng vì có liên quan.


18


NỘI DUNG
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Vấn đề tiếp biến văn hóa
“Tiếp biến văn hóa” là cụm từ chỉ sự tiếp nhận và biến đổi đối tƣợng văn hóa
đƣợc tiếp nhận thành những biểu tƣợng văn hóa của chủ thể tiếp nhận. Đây là quá
trình đƣợc tiến hành theo một trình tự nhất định, biểu hiện qua các hiện tƣợng: “tiếp
xúc”, “giao lƣu”, “trao đổi”, “biến đổi”… Theo Trần Quốc Vƣợng, những thuật ngữ
này đƣợc các nhà nghiên cứu Việt Nam dịch từ tiếng nƣớc ngoài: Cultural contacts,
cultural exchanges, acculturation. Riêng acculturation mang sắc thái bao quát đƣợc
hiểu theo nghĩa “tiếp biến văn hóa” nhƣ cách hiểu của Giáo sƣ Hà Văn Tấn từ định
nghĩa của các nhà nghiên cứu nƣớc ngồi. Giáo sƣ viết trong Giao lưu văn hóa ở
người Việt cổ: “Dƣới từ acculturation, ta hiểu là hiện tƣợng xảy ra khi những nhóm
ngƣời có văn hóa khác nhau, tiếp xúc lâu dài và trực tiếp, gây ra sự biến đổi mơ
thức (pattern) văn hóa ban đầu của một hay hai nhóm” [dẫn lại 165, tr. 50]. Sự diễn
dịch này đã hàm ý tiến trình của “tiếp biến văn hóa” qua hai giai đoạn: tiếp xúc và
biến đổi. “Tiếp xúc” chỉ sự gặp gỡ giữa các nền văn hóa khác nhau của các nhóm
ngƣời khác nhau, tạo điều kiện cho sự giao lƣu, trao đổi và hòa hợp giữa các nền
văn hóa để tạo nên những biểu tƣợng văn hóa mới. Q trình tạo ra biểu tƣợng văn
hóa mới thơng qua sự tiếp xúc, giao lƣu chính là quá trình biến đổi theo xu hƣớng
“Những nét lạc hậu, lỗi thời mất dần đi để thay thế bằng những gì đƣợc khẳng định
là văn minh, hiện đại” [165, tr. 51]. Vì mục đích vƣơn tới sự văn minh, hiện đại,
nhu cầu tiếp xúc, giao lƣu, biến đổi văn hóa ln thƣờng trực, mang tính tự nhiên
tất yếu của mỗi nền văn hóa.
Phan Ngọc cho rằng: “Khơng có văn hóa tự túc, văn hóa nào cũng cần đến sự
giao tiếp để phát triển” [108, tr. 16]. Trần Quốc Vƣợng khẳng định: “Cần phải nói
ngay là khơng có một nền văn hóa nào gọi là “thuần túy”, “trinh nguyên vẹn sạch”;
trên một ý nghĩa nào đó, nền văn hóa nào cũng “lai” (métise), nghĩa là đã vay mƣợn



19

một số nét, đặc điểm của nền văn hóa láng giềng hay xa hơn nữa” [166, tr. 99].
Dominique Wolton trong Tồn cầu hóa văn hóa cũng hàm ý tƣơng tự: “Và đồng
thời khơng có nền văn hóa nào khơng có mối quan hệ, không mở cửa và đôi khi
giao tiếp” [41, tr. 37]. Chính vì thế, thực tế hoạt động giao lƣu văn hóa đã có từ thời
xa xƣa, khi con ngƣời bắt đầu ý thức đƣợc vai trò quan trọng của những sản phẩm
tinh thần, vật chất mà họ tạo ra đối với sự phát triển, vƣơn tới sự văn minh của cộng
đồng, dân tộc hay quốc gia.
Thời cổ đại, các quốc gia hùng mạnh ở phƣơng Tây nhƣ Hy Lạp, La Mã... đã
có những cuộc trao đổi, học hỏi lẫn nhau trên mọi lĩnh vực để xây dựng và phát
triển đất nƣớc. Trong lĩnh vực kinh tế: “Ngƣời Do Thái và ngƣời Hy Lạp cũng đã
học ở ngƣời Ai Cập những thực nghề nhƣ nghề thợ nề, đạc điền, kế toán, luyện kim,
dệt vải, làm đồ gốm, nấu nƣớng và giải phẫu qua cách ƣớp xác” [34, tr. 20]. Trong
lĩnh vực khoa học và triết học, ngƣời Hy Lạp nhờ làm quen với khoa học Ai Cập
nên đã thốt khỏi tƣ duy mê tín dị đoan khi giải thích các hiện tƣợng tự nhiên [34, tr.
52]. Ngay cả La Mã, sau khi thơn tính châu Âu và một phần châu Á, trở thành quốc
gia hùng mạnh nhất về quân sự, chính trị nhƣng về văn học, nghệ thuật ngƣời La
Mã vẫn phải học hỏi ở ngƣời Hy Lạp. Tác giả của Lịch sử văn minh thế giới, phần
nói về phƣơng Tây, nhận xét: “Trong địa hạt văn chƣơng, triết lý và mỹ thuật, ngƣời
La Mã không sáng tác đƣợc bao nhiêu; họ thích nghiên cứu, bảo tồn và bắt chƣớc
những tác phẩm của ngƣời Hy Lạp” [34, tr. 80]. Điều đó cho thấy văn hóa có sức
mạnh riêng của nó. Văn hóa khơng những hồn tồn độc lập với qn sự, chính trị...
mà ngƣợc lại, nó cịn tạo nên lực ly tâm, thu hút, định hƣớng cho các hoạt động xã
hội khác để đƣa con ngƣời tiến tới sự văn minh, điều mà qn sự, chính trị khơng
làm đƣợc.
Ở phƣơng Đơng, Trung Quốc với nền văn hóa của dân tộc Hán đã thu hút,
chinh phục những dân tộc lớn mạnh nhƣ Mông Cổ, Mãn Châu... dù những dân tộc
này đã thơn tính lãnh thổ của họ, thống trị về chính trị nhƣng vẫn bị cuốn theo văn

hóa của ngƣời Hán, dùng chữ của họ, theo một số phong tục của họ... Phan Ngọc
viết trong Bản sắc văn hóa Việt Nam: “Đế chế Mông Cổ sau này, tuy làm chủ Trung


×