Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Sự ảnh hưởng của nho giáo ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124 KB, 15 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lời Mở đầu
Nho giáo sinh ra từ một xã hội chiếm hữu nô lệ trên đờng suy tàn, vì vậy,
Khổng tử đã luyến tiếc và cố sức duy trì chế độ ấy bằng đạo đức. Đạo theo Nho
gia là quy luật biến chuyển, tiến hoá của trời đất, muôn vật. Đối với con ngời, đạo
là con đờng đúng đắn phải noi theo để xây dựng quan hệ lành mạnh, tốt đẹp. Đạo
của con ngời, theo quan điểm của Nho gia là phải phù hợp với tính của con ngời
lập nên. Chính vì vậy, Nho giáo tác động mạnh mẽ đến nếp sống, thói quen, suy
nghĩ của con ngời và tác động vào các khu vực khác của đời sống xã hội cũng nh
đối với xã hội Việt Nam.
Trong công cuộc xây dựng đất nớc quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
Mác Lênin là t tởng chủ đạo, là vũ khí lý luận của chúng ta nhng bên cạnh đó,
bộ phận kiến trúc thợng tầng của xã hội cũ vẫn có sức sống dai dẳng. Việc xoá bỏ
hoàn toàn ảnh hởng của nó là không thể thực hiện nên chúng ta cần vận dụng nó
một cách hợp lý để góp phần đạt đợc mục đích của thời kỳ quá độ cũng nh sau
này. Vì vậy, việc nghiên cứu lịch sử, giáo lý và sự tác động của Nho giáo đến thế
giới quan, nhân sinh quan của con ngời là hết sức cần thiết. Việc đi sâu nghiên cứu
đánh giá những mặt hạn chế cũng nh tiến bộ, t tởng của Nho giáo đã giúp chúng ta
hiểu rõ tâm lý của ngời dân hơn và qua đó tìm đợc một phơng cách để hớng cho
họ một nhân cách chính và đúng đắn.
Tóm lại, nghiên cứu Nho giáo và ảnh hởng của nó đến xã hội, con ngời Việt
Nam là một nội dung quan trọng nhằm tìm hiểu lịch sử cũng nh định hớng phát
triển của nhân cách, t duy con ngời Việt Nam trong tơng lai.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
I. Khát quát chung về Nho gia.
1. Nho gia là gì.
Tại Trung hoa cổ đại, từ thế kỷ XIII đến thế kỷ III trớc Công nguyên, thời
kỳ Xuân Thu - Chiến quốc đã phát sinh ra các hệ thống, các dòng t tởng triết học
bao gồm: Nho giáo, Mặc gia, Đạo gia, Danh gia, Pháp gia, âm dơng gia. Trong đó
Nho giáo là học thuyết lớn nhất trong lịch sử chính trị, đạo đức của dân tộc Trung
hoa và có ảnh hởng rất lớn ở á Đông (Nhật bản, Triều tiên, Việt nam).


Nho giáo là một trờng phái do Khổng Tử, tên thật là Khâu, hay còn gọi là
Trọng Ni, ngời nớc Lỗ (551 - 479 trớc Công nguyên, thời Xuân Thu - Chiến quốc)
sáng lập. Khổng Tử là ngời mở đờng vĩ đại của lịch sử t tởng trung quốc cổ đại.
ông là nhà triết học, nhà chính trị và là nhà giáo dục nổi tiếng ở Trung quốc cổ
đại. Ông đã hệ thống những tri thức t tởng đời trớc và quan điểm của ông thành
học thuyết đạo đức chính trị riêng, gọi là Nho giáo. Học thuyết của ông đợc hai
nhà t tởng là Mạnh Tử và Tuân Tử hoàn thiện và phát triển. Mạnh Tử theo hớng
duy tâm, Tuân Tử theo hớng duy vật. Trong lịch sử sau này dòng Khổng Mạnh có
ảnh hởng lâu dài nhất. Từ nhà Hán trở đi, Nho giáo đợc nhiều nhà t tởng phát triển
và sử dụng theo môi trờng xã hội của nó.
Nho giáo đợc ra đời trong bối cảnh lịch sử sau:
Về kinh tế, lực lợng sản xuất đã có những bớc tiến lớn, nhiều ngành nghề
mới ra đời , cộng thêm sự suy yếu của thế lực chính trị nhà Chu đã làm cho chế độ
kinh tế "Tỉnh điền" tan rã. Trong xã hội xuất hiện sở hữu t nhân về đất đai và do
đó xuất hiện giai cấp mới là giai cấp địa chủ.
Về chính trị, suốt thời Xuân Thu, mệnh lệnh của "Thiên tử nhà Chu" không
còn đợc tuân thủ; trật tự lễ nghĩa, cơng thờng xã hội đảo lộn; đạo đức suy đồi. Đây
là thời mà "Vua không ra đạo vua, tôi chẳng ra đạo tôi". Triết học tại thời điểm
này trong xã hội nảy sinh ra hai mâu thuẫn lớn, đó là mâu thuẫn giữa giai cấp địa
chủ và tầng lớp thống trị quý tộc thị tộc nhà Chu và mâu thuẫn thứ hai gay gắt hơn
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhiều, là mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp địa chủ, mâu thuẫn thứ hai biểu hiện là
thế lực nào cũng muốn bá chủ Trung nguyên, dẫn tới cuộc chiến tranh giữa các
dòng họ, đẩy xã hội vào thời kỳ loạn lạc, thời "Đánh nhau tranh thành, thì giết ng-
ời thây chết đầy thành; đánh nhau giành đất thì giết ngời thây chết đầy đồng".
Về văn hoá, ngời Trung hoa đã sáng tạo ra tri thức về nhiều lĩnh vực, đạt đ-
ợc kiến thức vợt thời đại.
Chính trong thời đại lịch sử biến chuyển sôi động đó đã đặt ra một loạt
những vấn đề xã hội và triết học mới, buộc các nhà t tởng phải quan tâm lý giải và
làm nảy sinh một loạt các trờng phái triết học đa dạng. Các dòng t tởng triết học

thời này đều có chung một đặc trng là quan tâm giải quyết các vấn đề chính trị -
đạo đức - xã hội và không quan tâm tới tôn giáo.
Đứng trên lập trờng của bộ phận cấp tiến, trong tầng lớp quý tộc cũ nhà
Chu, Khổng Tử chủ trơng lập lại kỷ cơng nhà Chu. Với mục đích ấy, ông đã lập ra
học thuyết mở trờng dạy học, đi chu du khắp các nớc ch hầu làm thuyết khách
mong làm sáng đạo của mình trong thiên hạ. Ông chủ trơng xây dựng mẫu ngời
quân tử dùng "đức trị, lễ trị" để đa xã hội từ chỗ hỗn loạn trở nên ổn định.
T tởng trung tâm của Nho giáo là những vấn đề về chính trị, đạo đức của
con ngời và xã hội.
2. Một số t tởng chủ yếu của Nho gia.
2.1. Quan điểm về bản chất con ngời.
Nho giáo đặt vấn đề đi tìm một bản tính có sẵn và bất biến của con ngời.
Đức Khổng Tử và Mạnh Tử đều quan niệm bản tính con ngời ta sinh ra vốn thiện.
Bản tính "Thiện" ở đây là tập hợp các giá trị chính trị, đạo đức của con ngời. Vậy
"Thiện" là gì? Thiện là rộng lợng, những đức tính có sẵn mang tính chân thiện mỹ
nh: Ngời ta ai cũng có lòng nhân ái, yêu thơng con ngời (đức Nhân), ai cũng có
lòng biết ơn trong quan hệ (đức Nghĩa), ai cũng biết liêm sỉ, ai cũng có lòng cung
kính, tôn trọng bề trên, nhờng kẻ dới (đức Lễ), ai cũng hiểu và biết làm điều thiện,
biết xử lý công việc bằng kiến thức, lý trí của mình (đức Trí), ai cũng có sự tin t-
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ởng vào nhau (đức Tín). Ngũ thờng: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín là năm giá trị đạo
đức lớn của con ngời. Ngũ thờng là có sẵn và bất biến trong mỗi con ngời.
Xuất phát từ quan niệm cho rằng bản tính của con ngời là thiện, Khổng Tử đã
xây dựng phạm trù "Nhân" với t cách là phạm trù trung tâm trong triết học của
ông. Theo ông, một triều đại muốn thái bình thịnh trị thì ngời cầm quyền phải có
đức Nhân, một xã hội muốn hoà mục thì phải có nhiều ngời theo về điều Nhân.
Chữ Nhân đợc coi là nguyên lý đạo đức cơ bản quy định bản tính con ngời và
những quan hệ giữa ngời với ngời từ trong gia tộc đến ngoài xã hội. Ngời có đức
nhân là ngời làm đợc năm điều trong thiên hạ: "cung, khoan, tín, mẫn, tuệ". Cung
thì không khinh nhờn,khoan thì đợc lòng ngời, tín thì ngời tin cậy, mẫn thì có

công, huệ thì đủ khiến đợc ngời. Ngời có đức nhân phải là ngời "trớc làm điều
khó, sau đó mới nghĩ tới thu hoạch kết quả". Theo Khổng Tử, ngời muốn đạt đợc
đức nhân phải là ngời có "Trí" và "Dũng". Nhờ có Trí, con ngời mới có sự sáng
suốt minh mẫn để hiểu biết đợc đạo lý, xét đoán đợc sự việc, phân biệt đợc phải -
trái, thiện - ác, để trau dồi đạo đức và hành động hợp "thiên lý ". Ngời có Dũng ở
đây theo Khổng Tử không phải là kẻ ỷ vào sức mạnh, vì lợi mà suy nghĩ và hành
động bất chấp đạo lý. Ngời nhân có Dũng phải là ngời có thể tỏ rõ ý kiến của mình
một cách cao minh, có thể hành động một cách thanh cao khi vận nớc loạn lạc, khi
ngời đời gặp phải hoạn nạn. Ngời nhân có Dũng mới tự chủ đợc mình, mới quả
cảm xả thân vì nhân nghĩa. Với Khổng Tử, đạo sống của con ngời là phải "Trung
dung, trung thứ", nghĩa là sống đúng với mình và sống phải với ngời, thơng mình
nh thơng ngời, việc gì mình không muốn chớ đem cho ngời, mình muốn lập thân
thì cũng giúp ngời lập thân, mình muốn thành đạt thì cũng giúp ngời thành đạt.
Nếu Khổng Tử cho rằng chữ Nhân là cái gốc đạo đức của con ngời, thì theo
ông, để trở thành một con ngời hoàn thiện, một điều kiện tất yếu khác là phải
"hiểu biết mệnh trời" để sống "thuận mệnh". Ông viết: "Không biết mệnh trời thì
không lấy gì làm quân tử", nhng ông kêu gọi mọi ngời trớc hết phải tìm sức mạnh
vơn lên ở trong chính bản thân mỗi ngời, đừng trông chờ vào trời đất quỷ thần:
"Đạo ngời cha biết thì làm sao biết đợc đạo quỷ thần". Con ngời phải chú trọng
Website: Email : Tel : 0918.775.368
vào sự nỗ lực học tập, làm việc tận tâm, tận lực, còn việc thành bại nh thế nào, lúc
đó mới tại ý trời.
Tuy nhiên trong triết học Nho giáo, nếu Khổng Tử và Mạnh Tử cho rằng
con ngời vốn có bản tính thiện thì Tuân Tử đa ra lý luận bản tính con ngời là ác:
"Tính ngời là ác, thiện là do ngời làm ra"; nhng trong quan điểm sai lầm đó cũng
có nhân tố hợp lý nh: hành vi đạo đức của con ngời là do thói quen mà thành,
phẩm chất con ngời là sản phẩm của hoàn cảnh xã hội và kết quả của sự học tập,
giáo dục lâu ngày mà nên, từ đó ông cho rằng có thể giáo dục, cải hoá con ngời từ
ác thành thiện đợc. Nếu ra sức tu dỡng đạo đức thì bất cứ ngời nào cũng đều có thể
đạt đợc địa vị "ngời quân tử". Tuân Tử đề cao khả năng và vai trò của con ngời.

Ông khẳng định trời không thể quyết định đợc vận mệnh của con ngời. Việc trị
hay loạn, lành hay dữ là do con ngời làm ra chứ không phải tại trời. Nếu ý chí của
con ngời hành động thuận theo trật tự của giới tự nhiên thì sẽ đợc hạnh phúc, trái
lại thì sẽ gặp hoạ. Tiến lên một bớc nữa, ông đề ra học thuyết con ngời có thể cải
tạo đợc tự nhiên. Ông cho rằng con ngời không thể chờ đợi tự nhiên ban phát một
cách bị động mà phải vận dụng tài trí, khả năng của mình, dựa vào quy luật của tự
nhiên mà sáng tạo ra những của cải, sản vật để phục vụ cho đời sống con ngời.
Nh vậy, Nho giáo thể hiện là một học thuyết có tính nhân văn rất cao, nhìn
thấy nét đẹp của con ngời và rất tin tởng vào con ngời, tin tởng vào khả năng giáo
dục con ngời.
2.2. Quan điểm về xã hội học.
Nho giáo đứng trên quan điểm duy tâm để giải quyết những vấn đề xã hội
bởi vì khi giải quyết những vấn đề xã hội, Nho giáo không xuất phát từ việc phân
tích cơ sở kinh tế của xã hội nh triết học Mác, mà xuất phát từ những quan hệ
chính trị - đạo đức, coi đó là quan hệ nền tảng của đời sống xã hội. Nho giáo quy
tất cả những quan hệ xã hội về quan hệ chính trị - đạo đức. Nho giáo khái quát
Website: Email : Tel : 0918.775.368
những quan hệ chính trị - đạo đức ấy vào ba mối quan hệ rờng cột, gọi là tam c-
ơng, bao gồm:
- Quan hệ vua - tôi.
- Quan hệ cha - con.
- Quan hệ chồng - vợ.
Quan hệ thứ nhất thuộc quan hệ quốc gia, còn hai quan hệ sau thuộc quan
hệ gia đình. Điều này nói lên rằng trong quan niệm về xã hội, Nho giáo đặc biệt
quan tâm tới những quan hệ nền tảng của xã hội là quan hệ gia đình. Quan hệ gia
đình ở đây mang tính chất tông tộc, dòng họ. Xã hội trị hay loạn trớc hết thể hiện
ở chỗ có giữ vững đợc ba quan hệ ấy hay không.
Xã hội là tam cơng - tam cơng là quốc gia.
Mỗi cơng thay đổi xã hội loạn.
2.3. Quan điểm về giáo dục.

Trớc hết, Nho giáo có nêu quan điểm về một xã hội lý tởng. Lý tởng cao
nhất của đức Khổng Tử cũng nh các tác giả sau này của Nho giáo là xây dựng một
xã hội "Đại đồng". Khái niệm xã hội đại đồng của Nho giáo không phải là một xã
hội đặt trên nền tảng của một nền sản xuất phát triển cao mà là một xã hội "an
hoà", trong đó sự an hoà đợc đặt trên nền tảng của sự công bằng xã hội.
Xã hội an hoà ở đây là xã hội bao gồm nhiều quốc gia lớn nhỏ, mạnh yếu
khác nhau, trong đó quốc gia nhỏ yếu thờ phụng quốc gia lớn mạnh và ngợc lại,
quốc gia lớn mạnh che chở cho quốc gia nhỏ yếu. Xã hội mà mọi ngời sống hoà
thuận giữa trong ngoài, trên dới, trởng thứ,... trong đó ngời bề trên vui vẻ mà trị,
không ỷ thế quyền lực; ngời dới vui vẻ mà nhận sự trị, không oán hờn. Một xã hội
lấy hoà thuận, khoan thứ làm đầu; không cần có một nền kinh tế phát triển mà chỉ
cần công bằng xã hội. Khái niệm công bằng của Nho giáo không phải là thứ quan
niệm "cào bằng" tiểu nông mà là công bằng trên cơ sở địa vị xã hội của mỗi cá
nhân, mỗi dòng họ.

×