1
MỞ ĐẦU
I. LÝ DO NGHIÊN CỨU
Vùng ĐBSCL có diện tích tự nhiên khoảng 3,97 triệu ha (chiếm khoảng 12%
diện tích đất của cả nước), dân số trên 17,7 triệu người, chiếm hơn 20% dân số cả
nước, GDP của vùng chiếm khoảng 27% GDP của cả nước. Hàng năm toàn vùng sản
xuất hơn 50% sản lượng lúa và hơn 90% lượng gạo xuất khẩu của cả nước, thu về
nguồn ngoại tệ khoảng 2,7 tỉ USD/năm. Vì vậy, có thể khẳng định sản xuất và chế
biến lúa gạo là thế mạnh của vùng ĐBSCL. Sản xuất và chế biến lúa gạo đã góp phần
rất lớn vào việc đảm bảo an ninh lương thực cho đất nước, là tiền đề cho quá trình
công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước nói chung và thành phố Cần Thơ nói riêng.
Với vị trí là trung tâm của vùng ĐBSCL, thành phố Cần Thơ là nơi hội tụ của
nhiều tuyến giao thông thủy, bộ và hàng không quan trọng. Có hai con sông lớn là
sông Tiền và sông Hậu trải dài khắp các tỉnh, thành trong vùng, hệ thống các cảng
biển lớn nhất vùng như cảng Cái Cui, cảng Cần Thơ, đặc biệt là có kênh Quan Chánh
Bố cho tàu trọng tải lớn ra vào sông Hậu đã được khởi công vào năm 2009 và dự kiến
hoàn thành vào năm 2012. Quốc lộ 1A đi từ TP. HCM đến Cần Thơ và đến tỉnh Cà
Mau, nơi tận cùng của tổ quốc; các tuyến quốc lộ từ Cần Thơ đi đến các tỉnh Vĩnh
Long, Sóc Trăng, Đồng Tháp, Kiên Giang, An Giang hướng về Phnôm Pênh
(Campuchia); cùng với đó là sân bay Cần Thơ được đầu tư nâng cấp để trở thành sân
bay quốc tế, hoàn thành và đưa vào khai thác đầu năm 2011. Với những lợi thế trên,
thành phố Cần Thơ có đủ điều kiện để phát triển công nghiệp chế biến lúa gạo và trở
thành trung tâm chế biến lúa gạo của vùng ĐBSCL.
Trong thời gian qua các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của thành phố Cần Thơ
đã có những bước phát triển đáng khích lệ như: giá trị sản xuất kinh doanh của năm
sau đều tăng cao so với năm trước, kim ngạch xuất khẩu gạo tăng trưởng khá cao
trong nhiều năm liền, thị trường xuất khẩu được mở rộng, chất lượng và mẫu mã sản
2
phẩm ngày càng được cải tiến, qua đó đã góp phần làm nâng cao hiệu quả kinh doanh
của các doanh nghiệp và nâng cao đời sống cho người trồng lúa.
Tuy vậy, nếu so với những tiềm năng và yêu cầu của quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế thì các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của thành phố Cần Thơ còn rất nhiều
hạn chế như: quy mô của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo nhỏ, các doanh nghiệp
còn gặp khó khăn về vốn, chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, trong khi trình độ
công nghệ còn thấp; công tác nghiên cứu thị trường, quảng cáo, xây dựng thương
hiệu chưa được các doanh nghiệp quan tâm đúng mức, tình trạng tranh mua tranh bán
giữa các doanh nghiệp với nhau vẫn còn diễn ra; vấn đề ô nhiễm môi trường trong
sản xuất và chế biến đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sinh thái tự nhiên
và đời sống của người dân. Vì vậy, để hội nhập với kinh tế quốc tế, nhất là sau khi
Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), các doanh nghiệp chế
biến lúa gạo của thành phố Cần Thơ cần phải có chiến lược phát triển dài hạn, bền
vững, tận dụng tối đa những tiềm năng, lợi thế sẵn có, khắc phục những yếu kém, tồn
tại của mình nhằm nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, thúc đẩy kinh tế xã hội
phát triển và góp phần nâng cao thu nhập cho người dân, nhất là đối với người trồng
lúa. Đây chính là lý do thôi thúc tôi chọn đề tài “Giải pháp phát triển sản xuất kinh
doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của thành phố Cần Thơ đến năm 2020”
để làm luận án tiến sĩ nhằm góp phần phát triển bền vững các doanh nghiệp chế biến
lúa gạo trong thời gian tới và sự phát triển đó sẽ góp phần thúc đẩy quá trình công
nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn của thành phố.
II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Mục tiêu chung
Mục tiêu chung của luận án là khái quát tổng quan về hoạt động sản xuất kinh
doanh lúa gạo, cùng với hệ thống hóa các lý luận và thực tiễn để thấy được vai trò
của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo trong bối cảnh phát triển kinh tế của thành phố
Cần Thơ và toàn vùng ĐBSCL hiện nay. Thông qua những kết quả điều tra, luận án
đánh giá thực trạng sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của thành
phố Cần Thơ, từ đó đề xuất những định hướng, mục tiêu và xây dựng các giải pháp
3
nhằm phát triển sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của thành phố
Cần Thơ đến năm 2020.
2. Mục tiêu cụ thể
Để giải quyết mục tiêu chung, luận án nghiên cứu ba mục tiêu cụ thể sau:
Thứ nhất: Khái quát tổng quan về hoạt động sản xuất kinh doanh lúa gạo,
cùng với hệ thống hóa các lý luận và thực tiễn để khẳng định việc phát triển sản xuất
kinh doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo là phù hợp với tình hình thực tiễn và
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là sau khi Việt Nam đã là thành viên của Tổ
chức thương mại thế giới (WTO).
Thứ hai: Thông qua kết quả điều tra, phân tích thực trạng sản xuất kinh
doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo thành phố Cần Thơ. Từ đó, đánh giá những
thành công và hạn chế của các doanh nghiệp trong thời gian qua.
Thứ ba: Đề xuất các giải pháp để phát triển sản xuất kinh doanh các doanh
nghiệp chế biến lúa gạo của thành phố Cần Thơ đến năm 2020 nhằm góp phần vào
việc thúc đẩy kinh tế xã hội của thành phố và cả vùng phát triển một cách bền vững.
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu của luận án: Là quá trình hình thành và phát triển
của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo TP. Cần Thơ.
2. Phạm vi nghiên cứu của luận án: Là các doanh nghiệp chế biến lúa gạo
trên địa bàn TP. Cần Thơ. Số liệu nghiên cứu của luận án tập trung từ năm 2000 đến
năm 2009, các giải pháp đề xuất sẽ được áp dụng từ nay đến năm 2020, giai đoạn mà
nước ta đẩy mạnh phát triển công nghiệp để cơ bản trở thành một nước công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
IV. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Thời gian qua, việc nghiên cứu ngành hàng lúa gạo đã được nhiều tác giả quan
tâm. Do những hạn chế về thông tin và điều kiện nghiên cứu, dưới đây tác giả xin nêu
một số công trình nghiên cứu có liên quan đến luận án.
4
Tác giả Nguyễn Công Thành (2010), Viện lúa ĐBSCL, trong công trình
nghiên cứu “Đánh giá và phát triển sản xuất, xuất khẩu lúa gạo và tập huấn nâng
cao nhận thức cho các thành viên trong hoạt động này tại tỉnh Hậu Giang”, đã
phân tích, đánh giá tình hình sản xuất, xuất khẩu lúa gạo và thực trạng về nhận thức
của tất cả các thành viên có liên quan. Từ đó tập huấn nhằm nâng cao nhận thức và sự
hiểu biết của họ để đẩy mạnh hoạt động sản xuất, xuất khẩu lúa gạo của tỉnh Hậu
Giang trong thời gian tới.
Trong công trình nghiên cứu này, tác giả cũng đã điều tra và phân tích chiều
hướng phát triển, tốc độ tăng trưởng, sự ổn định trong sản xuất, xuất khẩu lúa gạo;
hiện trạng về sản xuất và xuất khẩu; thuận lợi và khó khăn của nông dân, cán bộ
khuyến nông, thương lái và nhà xuất khẩu; hiện trạng về sự nhận thức của cán bộ
khuyến nông, nông dân và các thành viên trong hệ thống thu mua, chế biến, xuất
khẩu lúa gạo.
Từ những nội dung nghiên cứu trên đề tài đã xây dựng các giải pháp thiết thực
nhằm tham mưu cho chính quyền địa phương trong việc điều chỉnh chính sách và
hoạt động để phục vụ tốt hơn cho sản xuất, xuất khẩu lúa gạo và cải thiện đời sống
người nông dân. Đây là đề tài nghiên cứu một cách tổng hợp từ sản xuất đến tiêu thụ
lúa gạo, đối tượng nghiên cứu bao gồm nông dân, cán bộ khuyến nông, thương lái và
nhà xuất khẩu. Tuy nhiên, đề tài nghiên cứu này không có phân tích và không có đưa
ra giải pháp nào đối với lĩnh vực chế biến lúa gạo [37].
Tác giả Cao Minh Nghĩa (2005), Viện Kinh tế TP.HCM, trong công trình
nghiên cứu “Đánh giá thực trạng và định hướng phát triển ngành công nghiệp chế
biến thực phẩm trên địa bàn TP.HCM”, đã đánh giá rõ thực trạng phát triển của
ngành công nghiệp chế biến thực phẩm trên địa bàn thành phố, phân tích sâu những
lợi thế và tồn tại trong phát triển của ngành, nguyên nhân của những tồn tại, đặc biệt
là các nguyên nhân làm giảm tốc độ tăng trưởng ngành chế biến thực phẩm và làm
giảm tỷ trọng của ngành so với tổng giá trị sản xuất công nghiệp trong các năm 2003
và 2004. Qua đó định hướng phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm trong
thời gian tới, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển ngành cho
5
tương xứng với vị trí của ngành trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh.
Các nội dung được đề cập đến trong đề tài này bao gồm: phân tích thực trạng
tăng trưởng ngành CNCB thực phẩm của TP. HCM giai đoạn 1995 2004 và đưa ra
các so sánh với cả nước và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; phân tích thực trạng
tăng trưởng bảy ngành chế biến thực phẩm trên địa bàn thành phố như: ngành chế
biến thịt, chế biến thủy hải sản, chế biến dầu thực vật, chế biến bơ, sữa, sản xuất sản
phẩm từ tinh bột (mì ăn liền), sản xuất bánh, kẹo, sản xuất rượu, bia, nước uống
không cồn.
Từ những phân tích đó, tác giả đã đề xuất hệ thống 9 giải pháp để nâng cao
năng lực cạnh tranh của sản phẩm và các kiến nghị với Chính phủ, Bộ, ngành để đẩy
mạnh tăng trưởng bảy ngành chế biến thực phẩm nêu trên. Tuy nhiên, đề tài đã không
sử dụng phương pháp phân tích SWOT và phương pháp chuyên gia để phân tích, để
trên cơ sở đó đưa ra các hệ thống giải pháp. Vì đây là đề tài nghiên cứu về ngành
CNCB thực phẩm nên trong đề tài không có nghiên cứu về chế biến lúa gạo [20].
Tác giả Lê Văn Gia Nhỏ (2005), trong công trình nghiên cứu “Phân tích
ngành hàng lúa gạo thơm tỉnh Long An và lúa gạo cao sản tỉnh An Giang”, đã
phân tích hiệu quả kinh doanh của các tác nhân tham gia ngành hàng lúa gạo, phân
tích tác động chính sách của Chính phủ đến ngành hàng lúa gạo xuất khẩu, đánh giá
lợi thế so sánh của bốn nhóm mặt hàng gạo xuất khẩu: gạo thơm đặc sản, gạo chất
lượng cao, gạo chất lượng trung bình và gạo chất lượng thấp, từ đó đề xuất các chính
sách hỗ trợ quá trình sản xuất, chế biến và xuất khẩu gạo.
Kết quả nghiên cứu đã chứng minh rằng, nông dân là đối tượng đạt được lợi
ích nhiều nhất trong các tác nhân tham gia ngành hàng lúa gạo. Bên cạnh đó, các
chính sách của Nhà nước liên quan đến sản xuất, chế biến và xuất khẩu gạo gần như
không ảnh hưởng đáng kể đến lợi nhuận của các tác nhân tham gia trong quá trình
sản xuất và xuất khẩu gạo. Ngoài ra, nghiên cứu cũng cho thấy, việc sản xuất và xuất
khẩu gạo của Việt Nam có lợi thế so sánh cao, đặc biệt là nhóm gạo thơm đặc sản và
nhóm gạo chất lượng cao.
6
Từ những phân tích đó, tác giả đã đề xuất ba chính sách đối với Chính phủ.
Một là, tập trung vào việc phát triển vùng nguyên liệu và chế biến xuất khẩu gạo đặc
sản và gạo chất lượng cao. Hai là, khuyến khích tư nhân tham gia xuất khẩu nhằm
làm tăng khả năng cạnh tranh trong thị trường thu mua lúa gạo và tăng khả năng tìm
kiếm thị trường xuất khẩu gạo trên thế giới. Ba là, các chính sách liên quan đến vấn
đề quota xuất khẩu, đó là: tổ chức đấu thầu quota xuất khẩu và Chính phủ sử dụng
khoản thu từ đấu thầu này để hỗ trợ nghiên cứu khoa học cho sản xuất, chế biến và
xuất khẩu, đồng thời cho phép các doanh nghiệp xuất khẩu trong trường hợp nhu cầu
xuất khẩu gạo lớn hơn hạn ngạch nhưng phần xuất khẩu vượt trội này phải chịu thuế
xuất khẩu. Tuy nhiên, trong đề tài này, tác giả đã không phân tích thực trạng và
không đưa ra giải pháp nào đối với lĩnh vực chế biến lúa gạo [21].
Tác giả Nguyễn Ngọc Châu (2008), trong công trình nghiên cứu “Phân tích
chuỗi giá trị gạo của thành phố Cần Thơ, đã phân tích về doanh thu, chi phí và hiệu
quả sản xuất, kinh doanh của các tác nhân tham gia trong chuỗi giá trị gạo, gồm có:
nông dân, thương lái, doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu gạo và nhà bán lẻ. Đồng thời,
tác giả đã phân tích kinh tế chuỗi giá trị gạo ở hai trường hợp: gạo tiêu thụ nội địa và
gạo xuất khẩu. Trong công trình nghiên cứu có sử dụng phương pháp phân tích
SWOT về tình hình sản xuất lúa của nông dân, phân tích mô hình năm áp lực cạnh
tranh của Michael Porter đối với các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu gạo, phân
tích lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh của sản phẩm gạo Cần Thơ cũng được tác
giả đề cập đến.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, dù gạo tiêu thụ nội địa hay xuất khẩu, lợi ích của
người nông dân đạt được trên mỗi kg gạo nhiều hơn so với những tác nhân còn lại.
Tuy nhiên, đời sống của bà con nông dân vẫn còn nghèo, nguyên nhân chủ yếu là do
diện tích đất canh tác ít (bình quân 0,5 ha/hộ). Trong khi đó, thương lái, doanh nghiệp
chế biến, xuất khẩu gạo và nhà bán lẻ có lợi ích đạt được trên mỗi kg gạo thấp hơn
nông dân nhưng do không bị giới hạn tự nhiên về sản lượng tiêu thụ, năng lực tốt thì
tiêu thụ nhiều, năng lực không tốt thì tiêu thụ ít cho nên tổng lợi nhuận họ có thể thu
về là rất lớn. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, trong tình hình hiện nay
7
chuỗi giá trị gạo xuất khẩu hiệu quả hơn chuỗi giá trị gạo tiêu thụ nội địa. Chính vì
vậy, các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu gạo quan tâm tìm kiếm hợp đồng xuất
khẩu nhiều hơn là khai thác thị trường nội địa.
Từ những phân tích trên, tác giả đã đề xuất các giải pháp nâng cao chuỗi giá trị
gạo của thành phố Cần Thơ, bao gồm: giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất lúa, giải
pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động chế biến, phân phối và giải pháp nâng cao giá
trị tăng thêm cho toàn chuỗi.
Do mục tiêu nghiên cứu của đề tài là phân tích chuỗi giá trị gạo của thành phố
Cần Thơ cho nên trong phần phân tích thực trạng tác giả không nghiên cứu sâu vào
hoạt động chế biến, mà chỉ trình bày khái quát làm cơ sở bổ sung để đề xuất một số
giải pháp nâng cao chuỗi giá trị gạo [6].
Tác giả Diệp Hoàng Sơn (2008), trong công trình nghiên cứu “Hoạch định
chiến lược marketing mặt hàng gạo xuất khẩu đồng bằng sông Cửu Long”, đã
phân tích, đánh giá các nội dung như: đánh giá tình hình sản xuất lúa gạo khu vực
ĐBSCL, phân tích hiện trạng chế biến và kinh doanh gạo xuất khẩu của các doanh
nghiệp đóng trên địa bàn, tìm hiểu tình hình sản xuất, tiêu thụ gạo trên thế giới và xây
dựng chiến lược marketing xuất khẩu gạo.
Kết quả của công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng ĐBSCL có nhiều tiềm năng
sản xuất lúa gạo, đủ cung cấp nhu cầu an ninh lương thực trong nước và có dư để
xuất khẩu từ 4 đến 4,5 triệu tấn gạo đến năm 2015, Việt Nam xếp hạng trên trung
bình so với các nước xuất khẩu gạo, nhu cầu tiêu thụ gạo của thế giới trong thời gian
tới rất cao nên sẽ thuận lợi cho việc xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp Việt Nam.
Tuy nhiên, sản xuất lúa ở đây vẫn còn manh mún, nguồn nguyên liệu mang tính thời
vụ cao, hệ thống kho bãi dự trữ thiếu, hoạt động marketing trong các doanh nghiệp
kinh doanh xuất khẩu gạo chưa được xây dựng hoàn chỉnh và nghiêm túc, hệ thống
thông tin chưa hoàn thiện.
Trên cơ sở của những đánh giá đó, tác giả tiến hành xây dựng chiến lược
marketing hỗn hợp, bao gồm: sản phẩm, giá cả, phân phối và chiêu thị. Đồng thời,
8
kiến nghị một số giải pháp cần phối hợp đồng bộ các thành phần: nông dân sản xuất
lúa, doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo, hệ thống tín dụng và Nhà nước [25].
Qua các công trình nghiên cứu trên, có thể thấy rằng chưa có một công trình
nào nghiên cứu một cách khoa học, có hệ thống và đề xuất các giải pháp có tính chiến
lược nhằm phát triển sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài sẽ được kết hợp giữa lý luận và thực tiễn dựa trên những quy luật phát
triển khách quan về kinh tế xã hội, các quan điểm và chính sách của Nhà nước về
lĩnh vực lúa gạo.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận án là phương pháp thống kê
mô tả, phân tích thống kê, so sánh tổng hợp, phương pháp điều tra và phương pháp
chuyên gia.
VI. NHỮNG ĐÓNG GÓP KHOA HỌC CỦA LUẬN ÁN
Luận án là một công trình nghiên cứu nghiêm túc của tác giả. Kết quả nghiên
cứu của luận án sẽ có những đóng góp khoa học sau:
Một là, rút ra được những bài học kinh nghiệm đối với sự phát triển sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo TP. Cần Thơ trong thời gian tới.
Hai là, góp phần đánh giá thực trạng phát triển của các doanh nghiệp chế
biến lúa gạo TP. Cần Thơ trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2009. Qua đó, rút ra
được những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp chế
biến lúa gạo trong bối cảnh phát triển kinh tế của đất nước nói chung và TP. Cần Thơ
nói riêng.
Ba là, đề xuất các giải pháp đồng bộ và khả thi để phát triển sản xuất kinh
doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo TP. Cần Thơ nhanh và bền vững; trên cơ sở
khai thác một cách hợp lý các nguồn nguyên liệu của địa phương và vùng ĐBSCL.
Bốn là, xác định được mức độ quan trọng của các giải pháp, nhằm giúp các
danh nghiệp chế biến lúa gạo của TP. Cần Thơ xây dựng chiến lược phát triển sản
9
xuất kinh doanh đến năm 2020. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu còn làm tài liệu tham
khảo bổ ích cho các nghiên cứu khoa học liên quan đến lĩnh vực chế biến của các
ngành hàng khác trong vùng ĐBSCL và cả nước.
VII. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN
Kết cấu của luận án gồm 03 chương ngoài phần mở đầu và kết luận:
Chương 1: Tổng quan về hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
chế biến lúa gạo.
Chương 2: Đánh giá thực trạng sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến
lúa gạo của thành phố Cần Thơ trong thời gian qua.
Chương 3: Giải pháp phát triển sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến
lúa gạo của thành phố Cần Thơ đến năm 2020.
Vì thời gian và trình độ của nghiên cứu sinh còn hạn chế nên luận án không
thể tránh được những thiếu sót nhất định, rất mong được sự góp ý của quý thầy cô và
các bạn.
10
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP CHẾ BIẾN LÚA GẠO
Với phương pháp nghiên cứu nêu ở phần mở đầu, chương 1 sẽ trình bày sự
hình thành và phát triển của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo, đặc điểm hoạt động
sản xuất kinh doanh, vai trò của các doanh nghiệp đối với nền kinh tế quốc dân, cũng
như những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp. Trong chương này, cũng sẽ nghiên cứu kinh nghiệm phát triển sản xuất kinh
doanh lúa gạo của một số doanh nghiệp trong nước và trên thế giới nhằm rút ra các
bài học kinh nghiệm để có thể vận dụng cho các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của
thành phố Cần Thơ trong thời gian tới.
1.1. KHÁI NIỆM VỀ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động sản xuất kinh doanh luôn gắn liền với
xã hội loài người; mỗi doanh nghiệp cần phải nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu của thị
trường và đưa ra những chiến lược đúng đắn nhằm đạt được những mục tiêu mà
doanh nghiệp đã đề ra.
Hoạt động sản xuất kinh doanh có các đặc điểm sau:
Do một chủ thể thực hiện và gọi là chủ thể kinh tế, chủ thể kinh tế có thể là
cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp.
Khác với hoạt động tự túc tự cấp phi kinh doanh, động cơ và mục đích của
hoạt động sản xuất kinh doanh là sản xuất sản phẩm vật chất hay dịch vụ không phải
để tự tiêu dùng mà để phục vụ cho nhu cầu của người khác nhằm thu lợi nhuận.
Sản phẩm của hoạt động sản xuất kinh doanh có thể cân, đong, đo đếm được,
đó là sản phẩm hàng hóa để trao đổi trên thị trường. Người chủ thể sản xuất phải chịu
trách nhiệm đối với sản phẩm của mình sản xuất ra.
11
Hoạt động sản xuất kinh doanh cần phải hướng tới thị trường. Trong đó, các
chủ thể kinh tế có mối quan hệ mật thiết với nhau, đó là: quan hệ với các bạn hàng,
với chủ thể cung cấp các yếu tố đầu vào, với khách hàng, với các đối thủ cạnh tranh
và với Nhà nước. Các mối quan hệ này giúp cho doanh nghiệp duy trì hoạt động sản
xuất kinh doanh và giúp doanh nghiệp ngày càng phát triển.
Hoạt động sản xuất kinh doanh phải luôn nắm được các thông tin về sản
phẩm của doanh nghiệp trên thị trường như các thông tin về số lượng, chất lượng, giá
cả sản phẩm, thông tin về xu hướng tiêu dùng của khách hàng, thông tin về kỹ thuật
công nghệ, về chính sách kinh tế tài chính, pháp luật Nhà nước có liên quan đến sản
phẩm của doanh nghiệp.
Hoạt động sản xuất kinh doanh phải có sự vận động của đồng vốn: Vốn là
yếu tố có vai trò quyết định rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh, là cơ sở đánh
giá tiềm lực của doanh nghiệp. Không có vốn thì không thể có hoạt động sản xuất
kinh doanh. Chủ thể kinh tế sử dụng vốn để mua nguyên liệu, thiết bị sản xuất, thuê
lao động,…
Hoạt động sản xuất kinh doanh luôn thúc đẩy mở rộng sản xuất và tiêu dùng
xã hội, tạo điều kiện cho tích lũy vốn phát triển sản xuất, phát triển kinh tế xã hội,
phát triển khoa học kỹ thuật, mở rộng quan hệ giao lưu hàng hóa, tạo ra sự phân công
lao động xã hội và cân bằng cơ cấu sản xuất trong nền kinh tế.
Mục đích chủ yếu và bao trùm của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đó là
lợi nhuận.
Từ những đặc điểm của hoạt động sản xuất kinh doanh nêu trên, có thể hiểu
khái niệm hoạt động sản xuất kinh doanh:
Hoạt động sản xuất kinh doanh là các hoạt động kinh tế trong điều kiện tồn
tại nền kinh tế thị trường, gồm tổng thể những phương pháp, hình thức và phương
tiện mà chủ thể kinh tế sử dụng để thực hiện các hoạt động kinh tế của mình (bao
gồm quá trình đầu tư, sản xuất, vận tải, thương mại, dịch vụ,...) trên cơ sở vận
dụng quy luật giá trị cùng với các quy luật khác, nhằm đạt mục tiêu vốn sinh lời
nhiều nhất [1].
12
1.2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP CHẾ
BIẾN LÚA GẠO
Theo chiều dài lịch sử, lúc đầu nền kinh tế của mỗi nước đều là nền kinh tế tự
nhiên, mang nặng tính tự cấp, tự túc, đa số sống bằng nghề nông. Ngoài việc trồng
trọt, chăn nuôi, đánh bắt, khai thác để có sản phẩm, người nông dân đã tự mình bảo
quản, chế biến, thậm chí tự mình chế tạo ra cả công cụ lao động. Trong dân cư hầu
như không có hoặc có rất ít sự phân công lao động xã hội và sự trao đổi sản phẩm.
Dần dần, lực lượng sản xuất và năng suất lao động tăng lên xuất hiện sản
phẩm thừa và do những yêu cầu của cuộc sống dẫn đến nhu cầu trao đổi sản phẩm
thừa đó với nhau. Trao đổi tác động trở lại sản xuất và thúc đẩy sự phân công xã hội.
Sự hình thành các loại lao động sản xuất đã làm cho sản phẩm của từng loại lao động
đó chuyển thành hàng hóa, thành những vật ngang giá với nhau, dùng làm vật phẩm
trao đổi với nhau và hình thành thị trường. Kinh tế hàng hóa phát triển, thị trường
từng bước mở rộng ra, đưa đến chỗ ngày tăng thêm những ngành công nghiệp riêng
biệt tách ra khỏi nông nghiệp. Theo đó, CNCB tách ra trở thành một ngành kinh tế
độc lập. Ngành này có mặt ở các hoạt động chế biến khác nhau, tạo ra nhiều loại sản
phẩm hàng hóa đáp ứng nhiều nhu cầu khác nhau và chính từ đây ngành CNCB các
sản phẩm từ nông nghiệp như: lúa gạo, lúa mì, ngũ cốc, hoa quả,… đã được hình
thành.
Như vậy, sự hình thành và phát triển của CNCB nói chung, CNCB lúa gạo nói
riêng là do quá trình phân công lao động xã hội dưới tác động của quá trình phát triển
lực lượng sản xuất được diễn ra ở một số quốc gia trên thế giới.
Ngày nay, trong điều kiện thế giới đã diễn ra cuộc cách mạng khoa học công
nghệ, xu hướng quốc tế hóa, khu vực hóa sản xuất và dịch vụ diễn ra mạnh mẽ; trình
độ lực lượng sản xuất và xã hội hóa lao động ở mức rất cao, mọi lĩnh vực trong nền
kinh tế của các nước đều chịu tác động sâu sắc bởi các nhân tố quốc tế, thì sự hình
thành và phát triển CNCB ở mỗi nước cũng không thể tách rời các tác động quốc tế
đó. Chính nhờ những tác động đó, các nước đi sau có điều kiện “đi tắt”, rút ngắn các
giai đoạn phát triển CNCB hơn so với các nước đi trước.
13
Ở Việt Nam, vào cuối thế kỷ XVIII, sản xuất nông nghiệp đã đạt được những
kết quả đáng kể. Lúa gạo làm ra không những đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của mỗi gia
đình, mỗi địa phương mà còn thừa một khối lượng lớn để bán đi nơi khác. Để phục
vụ cho việc sản xuất lúa gạo, nghề đóng cối xay ra đời ở khắp các vùng trong cả nước
và phát triển rất nhanh cho đến khi người Pháp nắm độc quyền ngành xay xát lúa gạo
với những nhà máy xay xát lúa gạo hiện đại ra đời vào nửa cuối thế kỷ XIX.
Ngày nay, dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ các nhà
máy xay xát lúa gạo phát triển rất nhanh, nó không dừng lại ở hoạt động xay xát mà
còn thêm vào đó các công đoạn khác như: đánh bóng gạo, phân loại hạt gạo, phân
loại gạo với tấm và cám, đóng gói, bảo quản,… Với sự bổ sung những công đoạn đó
thì các nhà máy xay xát lúa gạo trở thành các doanh nghiệp chế biến lúa gạo.
Hiện nay, Việt Nam là quốc gia đang phát triển, có nhiều ưu thế vượt trội so
với các quốc gia phát triển nông nghiệp trong khu vực để phát triển mặt hàng lúa gạo,
mở rộng thị trường, gia tăng tích lũy vốn phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Do đó, sản xuất và nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng lúa gạo trên thị trường
không chỉ có ý nghĩa kinh tế đơn thuần mà còn luôn gắn kết với sự ổn định kinh tế,
chính trị xã hội đối với sự phát triển của đất nước. Để nâng cao sức cạnh tranh của
mặt hàng lúa gạo, các doanh nghiệp chế biến lúa gạo đóng vai trò rất quan trọng. Có
thể nói sau hơn một thế kỷ hình thành và phát triển, thời gian tới sẽ là giai đoạn phát
triển nhanh chóng của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo, sự phát triển này sẽ theo
các xu hướng như:
Các doanh nghiệp chế biến lúa gạo sẽ phát triển theo mô hình khu liên hợp
chế biến lúa gạo để nâng cao chất lượng sản phẩm sau chế biến. Khu liên hợp sẽ thực
hiện tất cả các chức năng từ sấy lúa cho đến xay xát, chế biến và tồn trữ lúa gạo. Các
công nghệ được sử dụng trong khu liên hợp này là những công nghệ hiện đại, đáp
ứng được các yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm trong nước và quốc tế.
Các doanh nghiệp sẽ gắn kết với nông dân sản xuất lúa để xây dựng vùng
nguyên liệu cho doanh nghiệp nhằm ổn định sản xuất kinh doanh và hướng tới phát
triển một cách bền vững.
14
Các doanh nghiệp phát triển theo hình thức Công ty cổ phần; trong đó, nông
dân, các hợp tác xã nông nghiệp sẽ là những cổ đông của công ty nhằm góp phần làm
nâng cao chuỗi giá trị ngành hàng lúa gạo [28].
1.3. ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP CHẾ BIẾN LÚA GẠO
1.3.1. Quy trình chế biến lúa gạo
Quy trình chế biến lúa gạo hiện nay được thể hiện ở biểu đồ 1.1 dưới đây:
Lúa
nguyên liệu
Sàng tạp
chất
Bóc vỏ Thùng rê Sàng
phân ly
Sàng tách
đá
Cân,
Đóng gói
Máy
tách màu
Thùng chứa
thành phẩm
Trống
chọn hạt
Máy
đánh
bóng
Máy sát
trắng
Nguồn: Khảo sát của tác giả tại Công ty Nông nghiệp Sông Hậu, 2009
Biểu đồ 1.1: Sơ đồ quy trình chế biến lúa gạo
Lúa nguyên liệu sau khi qua sàng tạp chất để tách các tạp chất như rác, dây,
kim loại sẽ qua hệ thống bóc vỏ (vỏ lúa còn gọi là trấu), kế tiếp lúa sau khi bóc vỏ sẽ
được đưa qua thùng rê rồi đến sàng phân ly và sàng tách đá … Tiếp theo, qua công
đoạn xát trắng để tách bớt lượng cám trước khi vào hệ thống máy đánh bóng nước
kiểu phun sương nhằm cải thiện độ bóng bề mặt gạo. Kế tiếp, gạo được đưa vào hệ
thống trống phân loại hạt theo chiều dài để phân ly thành từng loại như: gạo thành
phẩm, tấm 1, tấm 2, tấm 3 và đưa vào các silo chứa riêng biệt. Tại đây, tùy theo yêu
cầu, gạo được đưa qua máy tách màu điện tử để loại ra các tạp chất màu lẫn trong gạo
như hạt đen, hạt đỏ, hạt vàng, hạt bạc bụng. Cuối cùng, gạo thành phẩm sẽ vào thiết
bị cân và đóng gói tự động theo yêu cầu trọng lượng cho trước để xuất kho.
Quy trình công nghệ nói trên là quy trình điển hình, tiên tiến. Đây là quy trình
khép kín từ khâu nguyên liệu đến khâu thành phẩm, mức độ tự động hóa cao, dễ vận
hành, thu được gạo thành phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng xuất khẩu và hoàn toàn có
khả năng cạnh tranh được với các sản phẩm gạo hiện có trên thị trường thế giới.
15
Hiện nay, một số doanh nghiệp chế biến lúa gạo trên địa bàn TP. Cần Thơ đã
đầu tư trang bị các thiết bị chế biến lúa gạo tiên tiến của các hãng sản xuất có uy tín
như Bùi Văn Ngọ, Sinco, Satake,... Thiết bị chế biến lúa gạo của các hãng này có độ
tin cậy cao, sản phẩm qua chế biến đạt những yêu cầu cơ bản như độ xát trắng, tỷ lệ
thóc, tỷ lệ tấm, độ ẩm, hạt màu, độ đồng đều, vệ sinh và hạn chế tối thiểu tạp chất
trước khi đóng gói.
1.3.2. Nguyên liệu sử dụng trong các doanh nghiệp chế biến lúa gạo
Nguyên liệu sử dụng trong các doanh nghiệp chế biến lúa gạo gồm có lúa
hàng hóa và gạo bán thành phẩm, do đó để đảm bảo nguồn nguyên liệu ổn định thì
vấn đề quy hoạch vùng sản xuất lúa và quy hoạch diện tích đất trồng lúa có ý nghĩa
rất quan trọng.
(1) Nguồn nguyên liệu là lúa hàng hóa: Lúa được người nông dân trồng ở
khắp các tỉnh, thành trong cả nước, với sản lượng hàng năm đạt gần 40 triệu tấn và
vùng ĐBSCL là nơi sản xuất lượng lúa hàng hóa lớn nhất của cả nước, với sản lượng
hàng năm đạt trên 20 triệu tấn.
Bảng 1.1: Sản lượng lúa cả năm vùng ĐBSCL và cả nước giai đoạn 2005 2009
ĐVT: Tấn
Nơi sản xuất 2005 2006 2007 2008 2009
1/ Vùng ĐBSCL
2/ Cả nước
19.385.620
35.832.900
18.075.036
35.849.500
19.221.771
35.942.700
21.166.627
38.729.800
20.483.400
38.895.500
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2010 [26]
(2) Nguồn nguyên liệu là gạo bán thành phẩm: Gạo bán thành phẩm được
cung cấp bởi các nhà máy xay xát lúa gạo có quy mô nhỏ. Lúa sau khi trãi qua các
công đoạn như sàng tạp chất và bóc vỏ thì được gọi là gạo bán thành phẩm (hay còn
gọi là gạo nguyên liệu). Từ gạo nguyên liệu, sẽ qua các nhà máy chế biến có quy mô
16
lớn hơn để thực hiện các công đoạn tiếp theo cho đến công đoạn cuối cùng là đóng
gói và được gọi là gạo thành phẩm để phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng.
1.3.3. Máy móc, thiết bị trong các doanh nghiệp chế biến lúa gạo
Các máy và móc thiết bị chủ yếu của doanh nghiệp chế biến lúa gạo bao gồm:
Máy làm sạch lúa: Đây là máy thực hiện công đoạn đầu tiên của quá trình chế
biến, nó có nhiệm vụ loại bỏ các tạp chất như: đá, rơm rạ, kim loại,... lẫn trong lúa để
làm sạch lúa trước khi đi vào chế biến.
Máy bóc vỏ: Lúa sau khi qua công đoạn làm sạch sẽ qua máy bóc vỏ để tách
lớp thóc bên ngoài của hạt lúa, đây là công đoạn rất quan trọng của quá trình chế biến,
nó có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng gạo như ảnh hưởng số lượng hạt bị gãy, số
lượng tấm sau khi bóc vỏ.
Máy xát trắng: Lúa sau khi bóc vỏ sẽ qua công đoạn xát trắng để tách bớt
lượng cám ở trong hạt gạo trước khi đánh bóng.
Máy đánh bóng: Máy đánh bóng có chức năng làm cho hạt gạo trắng bóng,
giúp nâng cao chất lượng và giá trị của hạt gạo.
Máy phân loại hạt: Máy phân loại hạt có chức năng phân loại gạo thành các
loại như gạo thành phẩm, tấm 1, tấm 2, tấm 3.
Máy tách màu: Sau khi phân loại gạo với các loại tấm, gạo được đưa qua
máy tách màu để loại ra các tạp chất màu còn lẫn trong gạo như: hạt đen, hạt đỏ, hạt
vàng, hạt bạc bụng.
Thiết bị cân và đóng gói: Sau các công đoạn nêu trên, cuối cùng gạo thành
phẩm sẽ qua thiết bị cân và đóng gói tự động theo yêu cầu trọng lượng để tiêu thụ
trên thị trường.
Như vậy, máy móc và thiết bị chính của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo gồm
có: máy sàng tạp chất, máy bóc vỏ, máy xát trắng, máy đánh bóng, máy phân loại hạt,
máy tách màu, thiết bị cân tự động và đóng gói.
Hiện nay, các máy móc và thiết bị này có trên thị trường khá đa dạng về mẫu
mã, tính năng sử dụng và trình độ về công nghệ là khá hiện đại. Do vậy, để tạo ra sản
17
phẩm gạo đạt chất lượng cao, các doanh nghiệp cần phải quan tâm đổi mới máy móc,
thiết bị và công nghệ một cách hợp lý.
1.3.4. Lao động trong các doanh nghiệp chế biến lúa gạo
Lao động trong các doanh nghiệp chế biến lúa gạo có thể chia làm 03 nhóm
chính:
(1) Nhóm cán bộ quản lý và kinh doanh: Do yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
ngày càng cao, do đó cán bộ quản lý và kinh doanh phải có trình trình quản lý của
người CEO, phải có hiểu biết về kinh doanh trong môi trường toàn cầu hóa. Vì vậy,
các doanh nghiệp phải thường xuyên quan tâm đến công tác đào tạo đội ngũ cán bộ
này mới đáp ứng được yêu cầu của công việc, chứ không thể tuyển dụng mới là có thể
sử dụng được ngay.
(2) Nhóm kỹ sư kỹ thuật và công nhân kỹ thuật bậc cao: Đây là các kỹ sư, công
nhân kỹ thuật bậc cao của các ngành cơ khí, điện, công nghệ,… những người này
thường đảm đương công tác tại bộ phận kỹ thuật, chuyên phụ trách các công việc về
cơ khí, điện, vận hành và sửa chữa các máy móc, thiết bị trong các phân xưởng chế
biến. Ngày nay, với yêu cầu đổi mới công nghệ theo hướng hiện đại, đòi hỏi lực
lượng lao động này phải thường xuyên được đào tạo để nâng cao trình độ tay nghề
nhằm theo kịp với xu hướng phát triển rất nhanh về khoa học công nghệ như hiện
nay.
(3) Nhóm công nhân lao động phổ thông: Những lao động này thường làm các
công việc liên quan nhiều đến chân tay như đóng gói, bốc xếp, quản lý kho tàng, bến
bãi,… các lao động này thường không đòi hỏi cao về trình độ chuyên môn, chỉ yêu
cầu có sức khỏe tốt, nhiệt tình trong công việc. Công tác đào cho lực lượng lao động
này khá đơn giản, chỉ là đào tạo nghiệp vụ cho các công việc thường làm hàng ngày
và trong thời gian ngắn hạn.
1.3.5. Vốn trong các doanh nghiệp chế biến lúa gạo
Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo phụ
thuộc vào thời vụ sản xuất lúa, trong năm có hai mùa vụ lúa chính, đó là: Đông Xuân
và Hè Thu. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn lưu động rất lớn để
18
thu mua lúa nguyên liệu nhằm giúp cho các doanh nghiệp chủ động hơn trong quá
trình sản xuất kinh doanh của mình. Mặt khác, rất nhiều doanh nghiệp có quy mô sản
xuất nhỏ, công nghệ lạc hậu, muốn mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và đổi mới
máy móc, thiết bị các doanh nghiệp này cần phải có một lượng vốn khá lớn (có thể
lên đến hàng chục tỷ đồng), nhưng hiện tại đa phần các doanh nghiệp đều gặp khó
khăn về vốn.
1.3.6. Thị trường của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo
Thị trường tiêu thụ của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo bao gồm thị trường
trong nước và nước ngoài.
1. Đối với thị trường trong nước: Việt Nam có dân số khoảng 87 triệu người,
hàng năm tiêu dùng ước khoảng 17 triệu tấn gạo, đây là thị trường rất rộng lớn và ổn
định của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo. Dự báo trong thời gian tới thị trường tiêu
thụ trong nước sẽ tăng lên rất nhanh, nguyên nhân là do dân số tăng (ước đạt khoảng
100 triệu người vào năm 2020) và do các ngành CNCB khác phát triển rất nhanh, mà
các ngành này sử dụng lúa gạo là nguyên liệu đầu vào của quá trình sản xuất.
Hiện nay, với sản lượng lúa hàng năm đạt khoảng 39 triệu tấn (tương đương 23
triệu tấn gạo), ngoài đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và đảm bảo an ninh lương
thực quốc gia thì chúng ta vẫn còn dư trên dưới 6 triệu tấn gạo cho xuất khẩu.
2. Đối với thị trường nước ngoài: Thị trường xuất khẩu gạo của các doanh
nghiệp Việt Nam gồm nhiều nước ở nhiều châu lục khác nhau như: Châu Á, Châu
Âu, Châu Phi, Trung Đông (xem bảng 1.2). Trong năm 2009, các doanh nghiệp của
Việt Nam đã xuất khẩu hơn 5,95 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch xuất khẩu gần 2,7 tỷ
USD, chiếm khoảng 15% thị phần của thị trường xuất khẩu gạo thế giới. Trong đó,
các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trên địa bàn thành phố Cần Thơ đã xuất khẩu được
557 ngàn tấn, đạt kim ngạch trên 240 triệu USD.
Dự báo trong thời gian tới thị trường xuất khẩu gạo chủ yếu của các doanh
nghiệp Việt Nam vẫn là các nước ở khu vực Châu Á, Châu Phi, Châu Âu và một số
nước ở khu vực Trung Đông.
19
Bảng 1.2: Cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo của doanh nghiệp Việt Nam giai
đoạn 2005 2009
ĐVT: %
Stt Thị trường
Năm
2005 2006 2007 2008 2009
1 Châu Á 49,8 48,9 56,9 74,4 55,2
2 Châu Phi 43,9 43,3 27,9 15,2 24,3
3 Châu Âu 5,2 0,7 5,1 6,3 13,1
4 Trung Đông 1,1 6,8 7,1 2,1 4,8
5 Châu Mỹ 0,0 0,0 2,9 0,1 1,4
6 Châu Đại Dương 0,0 0,2 0,1 1,8 1,2
Nguồn: Trung tâm Thông tin Phát triển Nông nghiệp Nông thôn, 2010 [29]
1.4. VAI TRÒ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP CHẾ BIẾN LÚA GẠO ĐỐI VỚI
NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
1.4.1. Cung cấp và đảm bảo an ninh lương thực
Tất cả người dân Việt Nam đều sử dụng lúa gạo làm lương thực chính, từ gạo
có thể chế biến thành các sản phẩm khác như bột, phở, bún và rất nhiều loại thực
phẩm khác được làm từ gạo. Vì vậy, lúa gạo đã trở thành nguồn lương thực chính
trong đời sống hàng ngày của mỗi người dân.
Việt Nam trong nhiều năm liền được xếp vào nhóm các nước dẫn đầu về xuất
khẩu gạo, luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và quốc
tế. Có thể nói, lúa gạo đóng vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp lương thực cho
người dân, ngoài ra còn là ngành kinh tế tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao
động, đặc biệt là lao động ở những vùng nông thôn, qua đó đã góp phần tích cực vào
việc xóa đói giảm nghèo. Trong những năm gần đây chính sách phát triển kinh tế
nông nghiệp, nông dân và nông thôn của Nhà nước luôn gắn liền với phát triển ngành
hàng lúa gạo.
20
1.4.2. Góp phần nâng cao thu nhập cho người nông dân và hiện đại hóa khu vực
nông thôn
Chế biến lúa gạo giúp cho giá trị sản phẩm của người nông dân sản xuất ra được
nâng lên, từ đó lợi nhuận từ sản xuất lúa đạt được cao hơn, người nông dân trồng lúa
sẽ chuyên tâm đầu tư cho sản xuất tốt hơn làm cho sản lượng và chất lượng lúa ngày
được nâng cao. Do thu nhập ngày được nâng lên, người dân có điều kiện cùng với
Nhà nước đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu vực nông thôn như hạ tầng về giao
thông, điện, nước, thủy lợi,... ngày càng tốt hơn để phục các yêu cầu của sản xuất và
đời sống người dân.
Bảng 1.3: Lợi nhuận từ sản xuất lúa của nông dân giai đoạn 2005 2009
ĐVT: Triệu đồng
Lợi nhuận
Năm
2005
Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
Năm
2009
Lợi nhuận thu được từ
01 ha lúa
19,37 22,47 24,86 26,50 28,26
Nguồn: Viện Nghiên cứu lúa ĐBSCL, 2010 [40]
Ghi chú: Lợi nhuận này được tính cho hai vụ lúa chính trong năm là Đông Xuân và Hè Thu.
1.4.3. Góp phần giải quyết việc làm ở khu vực nông thôn
Các doanh nghiệp chế biến lúa gạo đã góp phần giải quyết việc làm cho lao
động nhàn rỗi ở khu vực nông thôn. Năm 2009, số lao động đang làm việc trong các
doanh nghiệp chế biến lúa gạo trên địa bàn TP. Cần Thơ khoảng 22.000 ngàn người,
trong đó lao động có trình độ chuyên môn thấp chiếm khoảng 70% tổng số lao động
(lực lượng lao động này chủ yếu ở khu vực nông thôn), với mức thu nhập bình quân
khoảng 2,6 triệu đồng/tháng.
Ngoài ra, các doanh nghiệp còn góp phần làm tăng giá trị sản xuất công nghiệp,
qua đó thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở khu vực nông thôn và làm tăng tỷ trọng
của khu vực công nghiệp trong cơ cấu kinh tế ở địa phương.
21
1.4.4. Góp phần tạo nguồn thu ngoại tệ cho đất nước
Trong nhiều năm liền, sản phẩm lúa gạo Việt Nam luôn giữ vị trí cao trong
danh sách các mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn nhất đất nước, năm 2009 xuất khẩu
gạo đứng vị trí thứ 5 (sau dệt may, dầu khí, da giày, thủy sản) với kim ngạch xuất
khẩu đạt khoảng 2,7 tỷ USD. Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai
thế giới chỉ sau Thái Lan, đã góp phần tích cực vào việc đảm bảo an ninh lương thực
cho thế giới và làm cho vị thế của Việt Nam trên thế giới ngày càng được nâng cao.
Bảng 1.4: Số lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo Việt Nam giai đoạn 2005 2009
Chỉ tiêu ĐVT Năm
2005
Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
Năm
2009
1. Số lượng gạo xuất
khẩu
Triệu
tấn
5,25 4,50 4,56 4,83 5,95
2. Kim ngạch xuất
khẩu gạo
Triệu
USD
1.407 1.238 1.490 2.910 2.700
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2010 [26]
1.4.5. Thúc đẩy nhiều ngành kinh tế khác phát triển
Lúa gạo là nguồn nguyên liệu chính cho các ngành chế biến lương thực, thực
phẩm. Vì vậy, khi các doanh nghiệp chế biến lúa gạo phát triển một cách bền vững sẽ
tạo nguồn nguyên liệu ổn định cho các ngành chế biến này phát triển.
Bên cạnh đó, sự phát triển của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo sẽ tác động
dây chuyền tới sự phát triển của cơ sở vật chất phục vụ nó như: ngành cung ứng vật
tư, điện, nước, thương mại, dịch vụ,… Nó cũng thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát
triển như: xây dựng, vận tải, kho bãi, tài chính, tín dụng, bưu chính, viễn thông, khoa
học công nghệ,… Qua đó, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa hiện đại hóa.
1.4.6. Góp phần làm ổn định chính trị xã hội
22
Các doanh nghiệp chế biến lúa gạo phát triển đã thúc đẩy hoạt động sản xuất lúa
phát triển, một khi sản xuất lúa phát triển thì sẽ góp phần vào việc đảm bảo an ninh
lương thực quốc gia, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập của người nông dân.
Chính từ những đóng góp rất quan trọng nêu trên, có thể nói các doanh nghiệp
chế biến lúa gạo đã góp phần tích cực vào ổn định chính trị xã hội của đất nước.
1.5. NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA
CÁC DOANH NGHIỆP CHẾ BIẾN LÚA GẠO
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của các doanh nghiệp chế biến
lúa gạo, nhưng có thể phân thành hai nhóm yếu tố chủ yếu là: nhóm yếu tố bên ngoài
và nhóm yếu tố bên trong.
1.5.1. Nhóm yếu tố môi trường bên ngoài
1.5.1.1. Môi trường vĩ mô
Bất cứ hoạt động sản xuất nào trong quá trình hoạt động của mình cũng chịu
sự tác động nhất định của môi trường vĩ mô. Đối với các doanh nghiệp chế biến lúa
gạo, các yếu tố môi trường vĩ mô có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của doanh
nghiệp bao gồm các yếu tố cơ bản như sau:
(1) Đường lối, chủ trương phát triển công nghiệp: Chính phủ mỗi nước đều có
đường lối, chủ trương phát triển công nghiệp riêng phù hợp với bối cảnh kinh tế xã
hội và môi trường của mỗi nước, ví dụ như Singapore lúc đầu họ phát triển công
nghiệp nhẹ, sau đó phát triển các ngành công nghệ kỹ thuật cao; Nhật Bản, Hàn Quốc
ngay từ đầu công nghiệp hóa họ đã đi vào phát triển các ngành công nghiệp nặng, vì
thế họ đã có các ngành công nghiệp tầm cỡ quốc tế như sản xuất thép, công nghệ
đóng tàu, công nghệ ô tô, công nghệ điện tử…
Ở Việt Nam, đường lối phát triển công nghiệp được thực hiện và thay đổi qua
nhiều thời kỳ. Ở thời kỳ 1975 đến 1986 thực hiện chính sách ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng. Giai đoạn 1986 đến 1990 đã có sự điều chỉnh về đường lối phát triển
công nghiệp, ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến là chính. Từ năm 2001 đến nay,
đang thực hiện đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa theo Nghị quyết Đại hội IX
và Đại hội X, nhằm xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp phát triển theo
23
hướng hiện đại vào năm 2020 [13]; trong đó, chú trọng phát triển công nghiệp chế
biến nông lâm thủy sản, các ngành công nghiệp sử dụng hàm lượng công nghệ cao
như: điện tử, công nghệ phần mềm, công nghệ ô tô,…
(2) Các chính sách của Nhà nước đối với doanh nghiệp: Mỗi một quốc gia đều
có chính sách về phát triển kinh tế riêng của mình, trong đó có chính sách liên quan
đến doanh nghiệp. Một số nước trong thời kỳ đầu thực hiện đường lối công nghiệp
hóa, để thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế xã hội, họ đã thành lập nhiều tổng
công ty ở nhiều lĩnh vực, mà các lĩnh vực này có ảnh hưởng đến chính sách phát triển
kinh tế quốc gia như năng lượng, dầu khí, viễn thông,… Một số quốc gia khác thì
trong thời kỳ đầu, họ ưu tiên cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa để khai thác tốt các
nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước. Chính sách phát triển của Việt Nam hiện nay
bên cạnh tập trung phát triển các Tổng công ty, các Tập đoàn kinh tế lớn ở những lĩnh
vực kinh tế then chốt như điện, dầu khí, đóng tàu,… Việt Nam còn chú trọng phát
triển các doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa nhằm phát huy những lợi thế về nguồn
nguyên liệu, lao động ở các địa phương; trong đó, đặc biệt quan tâm đến phát triển
các doanh nghiệp chế biến nông lâm thủy sản, vì Việt Nam có thế mạnh về nguồn
nguyên liệu phục vụ cho các doanh nghiệp chế biến này.
(3) Mức độ hội nhập kinh tế quốc tế: Mức độ hội nhập kinh tế quốc tế của mỗi
nước có ảnh hưởng lớn đến việc phát triển của các doanh nghiệp. Với các quốc gia đã
trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thì chắc chắn sẽ gặp
nhiều thách thức trong cạnh tranh quốc tế, nhưng đồng thời cũng mở ra nhiều cơ hội
cho các doanh nghiệp vươn ra thị trường thế giới.
(4) Mức độ phát triển cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng là tổng thể các công trình
và là yếu tố rất quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội. Cơ sở hạ tầng bao gồm cơ
sở hạ tầng kỹ thuật cần thiết cho quá trình sản xuất như: nhà xưởng, hệ thống giao
thông, điện, nước, bưu chính, viễn thông,… và cơ sở hạ tầng xã hội phục vụ đời sống
dân cư như nhà ở, trường học, cơ sở y tế, cơ sở văn hóa, dịch vụ,…
Việt Nam là một nước đang phát triển, cơ sở hạ tầng còn yếu kém. Do đó, để
phát triển nhanh các ngành kinh tế, cơ sở hạ tầng cần đi trước một bước, cần đầu tư
hoàn chỉnh hệ thống cơ sở hạ tầng như: cảng biển, giao thông thủy, bộ, cảng hàng
24
không, năng lượng,… Trong thời gian qua, Nhà nước đã hết sức quan tâm đến đầu tư
phát triển cơ sở hạ tầng và bước đầu đã có những cải thiện rất đáng kể.
(5) Tác động của các khu vực kinh tế khác: Các khu vực kinh tế khác trong cơ
cấu kinh tế có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển của các ngành công nghiệp,
trong đó có các doanh nghiệp của ngành CNCB lúa gạo. Nông nghiệp giữ vai trò
quan trọng, là ngành cung cấp nguyên liệu chủ yếu cho các doanh nghiệp chế biến lúa
gạo. Các ngành khác như tài chính, viễn thông, điện,… có tác động lớn đến hoạt động
của các ngành kinh tế và hỗ trợ cho các ngành này phát triển. Ví dụ như nếu không có
ngành ngân hàng hay điện lực thì tất cả các ngành khác không thể phát triển.
1.5.1.2. Môi trường vi mô
Các yếu tố của môi trường vi mô được thể hiện theo mô hình năm tác lực của
Michael E. Porter dưới đây:
Biểu đồ 1.2: Mô hình năm tác lực của Michael E. Porter (1980) [42]
Nhà
cung cấp
Đối thủ
mới tiềm
năng
Những đối thủ cạnh
tranh trong ngành
Cạnh tranh giữa các
đối thủ hiện hữu
Sản phẩm
thay thế
Khách
hàng
25
Mô hình năm tác lực của Michael E. Porter được sử dụng để phân tích môi
trường vi mô của các doanh nghiệp. Riêng các doanh nghiệp chế biến lúa gạo năm
nguồn áp lực thể hiện như sau:
Quyền năng của nhà cung cấp: Nhà cung cấp thiết bị chính cho các doanh
nghiệp chế biến lúa gạo là các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, còn nhà cung
cấp nguyên liệu chính cho doanh nghiệp là nông dân, thương lái, các doanh nghiệp
trong nước, do có nhiều nhà cung cấp nên sự phụ thuộc không cao, vì thế quyền năng
của họ không lớn.
Khách hàng: Khách hàng của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo là các nhà
phân phối trong nước, các công ty trong nước và nước ngoài, thậm chí là Chính phủ
một số nước như Philippine, Indonesia,… Do có nhiều khách hàng trong và ngoài
nước nên áp lực từ khách hàng đối với doanh nghiệp cũng không quá lớn.
Đối thủ hiện tại: Đối thủ hiện tại là các doanh nghiệp của các tỉnh lân cận
trong vùng và các doanh nghiệp của các nước như: Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ,
Pakistan, nhưng chủ yếu vẫn là Thái Lan.
Đối thủ tiềm năng: Đối thủ tiềm năng của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo
là các doanh nghiệp có thể gia nhập ngành hàng lúa gạo ở các tỉnh trong vùng
ĐBSCL, trong đó đáng chú ý là các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp. Đối với
các doanh nghiệp nước ngoài đối thủ tiềm năng là các doanh nghiệp của Indonesia.
Sản phẩm thay thế: Không có nhiều sản phẩm thay thế chính, vì lúa gạo là
lương thực chính của nhiều quốc gia nên ít có sản phẩm nào thay thế được lúa gạo
trong tương lai.
1.5.2. Nhóm yếu tố bên trong
Nhóm yếu tố bên trong bao gồm các yếu tố sau:
1.5.2.1. Cơ cấu sản phẩm chủ lực
Sản phẩm chủ lực có vai trò quan trọng là thế mạnh của mỗi đơn vị để cạnh
tranh trong bối cảnh toàn cầu hóa. Việc xác định cơ cấu sản phẩm chủ lực tối ưu sẽ là
cơ sở giúp cho doanh nghiệp phát triển bền vững cũng như đạt được các mục tiêu đã
đề ra.