Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Phân tích một tác phẩm văn học phương Tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.33 KB, 10 trang )

Đề bài:
Phân tâm học là một một lý thuyết ra đời ở phương Tây. Vậy áp dụng vào tác phẩm văn
chương của Việt Nam có phù hợp khơng. Có hoặc khơng? Tại sao ? Cho ví dụ để làm sáng rõ ý
kiến của mình.

Bài làm
Thuyết phân tâm học của S.Freud và về sau là C.G.Jung và các người kế nghiệp đã có ảnh
hưởng sâu rộng đến tư tưởng của con người hiện đại, bao gồm cả nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh
vực văn học nghệ thuật. Tuy vậy, ở ta, do nhiều lý do chủ quan và khách quan, chưa có cơng
trình nào đi sâu nghiên cứu về sự ảnh hưởng của phân tâm học trong văn học - nhất là văn học
hiện đại Việt . Và đặc biệt, từ 1975 đến 2005, các nhà văn Việt Nam - đặc biệt là các nhà văn trẻ
- đã có ý thức vận dụng những yếu tố tích cực của Phân tâm học (từ S.Freud đến C.G.Jung…)
như là một thủ pháp nghệ thuật độc đáo để xây dựng tác phẩm. Phải nói rằng, ở giai đoạn này,
việc vận dụng Phân tâm học của các nhà văn đã nhuần nhuyễn hơn, đa dạng hơn; có biến hố,
tích hợp và sáng tạo mới trên cơ sở nền tảng của lý thuyết Phân tâm học. Tác phẩm của họ thực
sự đem lại hiệu quả nghệ thuật mới mẻ và độc sáng. Tiêu biểu cho giai đoạn này là Nguyễn Huy
Thiệp, Xuân Thiều, Chu Lai, Bảo Ninh, Nguyễn Quang Lập, Phạm Thị Hoài, Võ Thị Hảo,
Nguyễn Thị Thu Huệ, Phạm Hoa, Tạ Duy Anh, Nguyễn Đình Chính, Hồ Anh Thái, Nguyễn
Bình Phương, Nguyễn Việt Hà, Võ Thị Xuân Hà…
Việc áp dụng phân tâm học vào sáng tác văn chuơng ở Việt Nam vẫn gây nhiều tranh cãi
và nhận được nhiều ý kiến trái chiều. Rất nhiều nhà phê bình cũng như độc giả khó tính cho rằng
phương pháp phân tâm học khi áp dụng vào văn chương Việt thì trở nên méo mó, làm mất những
giá trị tích cực và thẩm mỹ của tác phẩm. Nhưng tôi không đồng quan điểm với ý kiến trên. Với
tư cách là một người học nghề viết, tôi cho rằng vận dụng phân tâm học vào tác phẩm văn
chương Việt Nam là phù hợp theo xu thế chung của văn học thế giới nói chung. Ngồi ra, nhờ
vận dụng phân tâm học mà văn chương khơng cịn hời hợt, "cưỡi ngựa xem hoa" nữa mà xoáy
vào nội tại tâm lý con người. Thực chất của việc vận dụng những yếu tố phân tâm học vào sáng
tác, các nhà văn đã có ý thức học hỏi và đạt những thành tựu đáng kể, làm cho văn xi nước ta
có những cách tân quan trọng về thi pháp và hiệu quả nghệ thuật, nhằm thể hiện nội dung xã hội



và tâm lý con người một cách vi tế và đa dạng; đồng thời thể hiện sự cách tân thi pháp, phù hợp
với tầm đón nhận của độc giả thời hiện đại. Trong bài viết ngày hôm nay, tôi xin phép được phân
tích truyện ngắn " Đàn sẻ ri bay ngang rừng " của Võ Thị Xuân Hà. Đây là một truyện ngắn mà
theo tơi, có áp dụng lý thuyết phân tâm học. Qua đó, phần nào tơi muốn chứng minh hiệu quả
của viẹc áp dụng phân tâm học vào sáng tác.

Dostoyevsky đã từng viết : “"Con người là một điều bí ẩn , cần phải khám
phá con người... Tơi tìm hiểu điều bí ẩn ấy vì tơi muốn trở thành con người". Văn
học là một phương tiện quan trọng giúp con người trở thành con người vì nó mở ra
những bí mật của con người, giúp con người hiểu thêm về chính mình, trở nên
phong phú hơn và một phần từ chỗ hiểu mình, từ sự phong phú của chính mình,
con người hiểu thêm về thế giới, sự phong phú của thế giới.Ngày nay đối với văn
học không chỉ có vấn đề tốt xấu hay đúng sai mà cịn có vấn đề chiều sâu của nhận
thức. Giống như Lev Tolstoi đã từng nói: "Một trong những lầm lẫn vĩ đại nhất khi
xét đoán về con người là chúng ta hay gọi và xác định người này thông minh,
người kia ngu xuẩn, người này tốt, người kia ác, người thì mạnh mẽ, người thì yếu
đuối, trong khi con người là tất cả: tất cả các khả năng đó, là cái gì ln ln biến
đổi". Nghệ thuật phải làm cho con người lương thiện và thân ái hơn, nhưng nó
cũng phải làm cho con người đa dạng, phong phú, từng trải và hiểu biết hơn. Qua
dấu ấn Phân tâm học với những phức cảm và phức điệu của tâm hồn mỗi nhân vật, nhà văn
muốn đặt vấn đề và trình bày những trạng thái tình cảm cụ thể của mỗi người từ yêu thương,
giận hờn hay đau đớn, từ khao khát cho đến thoả mãn, khối cảm (tình u, tình dục), hay từ
những giấc mơ vô thức cho đến những động thái có tính bản ngã, bản năng của họ một cách chân
thật và kỳ diệu nhất. Truyện ngắn của Võ Thị Xn Hà được ví như một ngơi nhà

gương mà ở đó, con người được nhìn nhận ở mọi góc độ, và cũng ở đó, con người
có thể tự nhìn nhận được đủ thứ gương mặt của mình.


" Đàn sẻ ri bay ngang rừng " mô tả tình yêu của Diễm - một thiếu phụ trẻ - với Nẫm người anh chồng đã chết ngoài chiến trường mà cô chưa bao giờ gặp mặt. Tác phẩm của Võ Thị

Xn Hà đặc biệt mới vì tính phức tạp của nó: tình u của Diễm với Nẫm là sự chồng chéo của
hoang tưởng, hành xác, loạn luân, gian thi chứng - chứng thích giao cấu với người chết. Tơi xin
tạm phâ tích những khám phá mới mẻ về truyện ngắn này thơng qua góc phìn phân tâm học bằng
việc chụp cắt lớp tâm lý nhân vật chính ( người vợ trẻ) qua các khía cạnh khác nhau.

Người phụ nữ và quan niệm lễ tiết
Người phụ nữ theo quan niệm của Khổng Tử là phải có đầy đủ: “ Cơng,
Dung, Ngơn, Hạnh”. CƠNG là nữ cơng gia chánh. DUNG là dung nhan. NGƠN là
lời nói. HẠNH là hạnh kiểm, đức hạnh. Thế nhưng, người vợ- nàng dâu trong
truyện ngắn “ Đàn sẻ ri bay ngang rừng” lại chối bỏ sự áp đặt đã bao đời nay về
người phụ nữ. Cô chống đối, cô coi thường, dẫm đạp lên những cái gọi là định kiến
ấy. Với vai trò là nàng dâu, cô đi ngược lại với truyền thống: “ Đặt đâu ngồi đấy”
của cha mẹ đối với con cái trong xã hội cũ. Khi nghe bố chồng mắng chồng vì tội
để vợ ( tức là cô) đã dám hỗn láo cãi lại ông. Diễm – nhân vật nàng dâu- người vợ
dùng những lời lẽ có phần mỉa mai, giễu nhại khi nhắc đến hành động của người
cha chồng: “Ông bố chồng tôi gầm lên như tên đồ tể”. Và hành động của cơ thì coi
thường, thách thức: “Tơi ngồi đung đưa cặp đùi trần trong buồng, bĩu môi thách
thức”. Và suy nghĩ của cô đẩy lên một mức táo bạo hơn nữa khi “Tơi muốn nhảy
xổ ra, xỉa xói vào cái chức dâu trưởng.”. Cô gọi mẹ chồng là “ đần độn”. Khi
chồng nhắc nhở cô đừng cãi mẹ chồng. Cô lơ là, thản nhiên “ trần truồng đếm sao
trời”. Và khi sinh đứa con đầu lòng là con gái, khi nghe bố chồng cảu nhảu. Cô suy
nghĩ đắc ý: “ A! Cứ đợi đấy.” Cô xổ thẳng vào mặt chồng: “Bố anh muốn có con


trai nữa thì cưới vợ cho ơng ấy.”. Cơ khơng ngần ngại thừa nhận rằng mình “ thù
ghét nhà chồng”.
Cơ nhổ toẹt vào cái quan niệm cổ hủ trọng nam khinh nữ: “ Nhất nam viết
hữu, thập nữ viết vô”của xã hội Việt Nam tồn tại từ xa xưa cho đến bây giờ. Với vị
trí là dâu trưởng, áp lực sinh cháu đích tơn đè nặng lên vai cơ. Thế nhưng, cơ
khơng coi điều đó vào đâu cả. Cơ khơng cảm giác tội lỗi khi chỉ đẻ con gái. Cô cịn

bộc lộ nhân sinh quan của cơ về vấn đề này: “Đàn ông các anh cứ liệu hồn. Khéo
không lại tiệt nọc... Rồi anh xem, đàn bà chúng tôi dễ chịu hơn các anh nhiều, chỉ
cãi vã nỏ mồm chứ không súng ống máu me...”. Đối với cô, niềm vui sinh ra hai
đứa con trai trong lần sinh thứ hai không phải là niềm vui đẻ được con nối dỗi mà
đơn giản chỉ là sự đắc thắng cá nhân: “Chao ơi, hai đứa con trai, hai cuống rốn
lòng thòng. Hai ông bà già phen này tha hồ dọn cứt nhé”. Cô căm ghét cái quan
niệm trọng nam ấy đến gần như là tiêu cực. Cơ phủ nhận vai trị của người đàn ơng
trong việc duy trì nịi giống:
“- Vậy nhờ ai mà em thành đàn bà? Nhờ ai mà em có con?
- Chúng tơi sẽ uống nước sơng để chửa.”
Với vai trị làm vợ, khơng thể nói rằng cơ đã làm tròn nhiệm vụ. Người vợ
trong truyền thống phải là người biết chiều chồng, nghe lời chồng, hết mực chung
thủy. Thế nhưng, đọc trong truyện ngắn, ta lại thấy một loạt các hành động “ bất
tuân, bất phục” đầy phản kháng của người vợ. Khác với suy nghĩ của người phụ nữ
truyền thống “ chồng em áo rách em thương”. Cơ khơng ít lần tỏ thái độ chê bai
người chồng một cách thẳng thắn: “ Mặt Thản tai tái, cặp mơi bợn trơng đến ghét.
Khi hơn thì dữ dội thế, khi đáng phải hoạt thì lại lắp bắp” hay “ Thản ngu mới


tưởng thế”, “ Thản ngồi im, thộn mặt nghe tôi khùng”. Khơng ít lần chống đối
chồng qua một chuỗi các hành động: “ bắt đầu gây sự”, “ tôi nổi khùng”, “ tôi vẫn
không dịu”, “ tôi la lớn”, “ tơi cong mình chống trả”.
Qua những chi tiết nói trên, có mấy phần là cơ đã làm trịn được “ cơng, dung,
ngơn, hạnh”? Có chăng điều có ý nghĩa lớn lao nhất cơ làm được đối với gia đình
nhà chồng đó là sinh được hai cậu con trai nối dõi tơng đường. Nhưng xét một
cách sâu xa, đó khơng phải để làm tròn nghĩa vụ của một nàng dâu mà. Đó là kết
tinh của sự khấn nguyện, ước ao được kết nối với
người trong mộng của mình thơng qua việc vượt cạn. Việc mang thai rồi
chửa đẻ mục đích trước hết chỉ vì cơ, xuất phát từ mong muốn của riêng cơ mà
thơi.

Người phụ nữ và tình dục
Có lẽ ở truyện ngắn này, yếu tố tình dục khơng chiếm nhiều thời lượng
truyện. So với một số truyện theo xu hướng nữ quyền như “ Bóng đè” ( Đỗ Hồng
Diệu) hay “ Năm ngày” ( Phạm Thị Hồi) thì sex vẫn còn “ lành”. Thế nhưng ấn
tượng về người phụ nữ trong truyện để lại thì cũng mạnh bạo khơng kém. Đã là
con người thì ai cũng có những khát khao nhục cảm và mong muốn được giải
phóng nó. Thế nhưng phụ nữ Á Đơng nói chung, phụ nữ Việt Nam nói riêng, “ chủ
động” là chuyện quá xa vời. Xã hội, từ trước đến nay, nhiều người vẫn coi tính chủ
động của nam giới và tính thụ động của phụ nữ trong đời sống tình dục là quy luật
sinh học vĩnh cửu. Tình dục của phụ nữ chỉ tồn tại để phục vụ tình dục của đàn ơng
và vì mục đích sinh sản. Theo đó, đàn ơng được địi hỏi quyền và phụ nữ phải phục
tùng. Còn nhiều phụ nữ cũng vì "ngại", "xấu hổ" mà khơng dám địi hỏi. Họ cũng
cho rằng chỉ những người có nhu cầu tình dục cao hoặc gái mại dâm mới chủ động


chuyện tình dục, và rằng những phụ nữ bày tỏ ham muốn tình dục là "hèn", "khơng
đứng đắn"...
Người phụ nữ trong truyện “ Đàn sẻ ri bay ngang rừng” lại khác. Khát khao
nhục cảm luôn cháy bỏng trong con người cơ, trỗi dậy như một sinh vật đói khát.
Cơ ln muốn đi sâu tới tận cùng của nhục dục, chạm đến cái thâm sâu nhất của
chuyện nam nữ. “Tôi thèm khát được nhìn thấy, sờ thấy từng tế bào máu li ti chảy
rần rật trong từng mao mạch, tưới khắp cơ thể người đàn ông đang nằm cùng tôi.
Tôi thèm khát nhìn thấy tận mắt sức mạnh bí ẩn lơi cuốn người đàn ông và người
đàn bà ràng buộc với nhau”. Đối với cô, sự quan hệ xác thịt bên ngồi khơng làm
cơ đủ thỏa mãn. Cơ muốn động chạm tới những gì sâu kín nhất trong cơ thể con
người. Cô hệt như một động vật với nỗi thèm khát nuốt chửng bạn tình của mình
khi giao phối.
Người đàn bà thèm khát nhục cảm trong cô bùng lên không chỉ với chồng
mình. Cơ dường như chưa từng cảm thấy tình dục với chồng là đủ. Cô chủ động
phơi bày cái nhục cảm của mình đối với thằng đàn ơng khác,Tú- người yêu của cô

em chồng. Cô ý thức và tự hào với cơ thể hừng hực, quyến rũ của mình, và dùng
nó làm cơng cụ để khêu gợi ham muốn của một người khơng phải chồng mình:
“Tơi được thể chạy ra lau dọn, cúi xuống làm cho bầu vú chồi ra chọc vào mắt Tú.
Tôi nghe tiếng nuốt nước miếng khan nơi cổ họng Tú, tiếng máu réo sôi giận dữ
trong tim Phượng. Tôi nhếch miệng cười mỉm rồi lững thững bước ra cửa”. Khi bị
chồng giận dỗi, cô không chút hối lỗi về hành vi của mình. Trái lại, cô lại tưởng
tượng đến cảnh thằng Tú- và con Phượng ( cơ em chồng) làm tình với nhau đến độ
“ mồ hơi vã ra đầm đìa”.
Khơng những vậy, cơ khơng chỉ ham muốn tình dục với người sống mà cịn
cả với người chết. Đây còn gọi là chứng gian thi chứng - chứng thích giao cấu với
người chết. Trong đáy sâu tâm hồn cô, niềm khao khát không nguôi và khơng bao
giờ được thỏa mãn chính là niệm đam mê được giao cấu với Nẫm, người anh


chồng đã chết mà cô không hề biết mặt. “Trong giây phút, tôi quên hết, quên Thản,
quên những ngày nghỉ ở rừng. Tơi đắm đuối với hình ảnh người đàn ông kia đang
mân mê cái cuống rau, như thể anh ta đã thò vào sờ nắm được hết những mạch
máu li ti chảy trong cơ thể tơi mà tình u của Thản chỉ chạm tới chứ khơng nắm
được”.
Hình tượng một người đàn bà với bản năng tình dục mạnh mẽ thì trong xã
hội, trong văn chương khơng ít, nhưng điều đặc biệt ở đây là người phụ nữ trong
truyện đã vượt qua được “ mặc cảm tình dục”. Thứ mặc cảm mà hầu hết người phụ
nữ nào cũng mắc phải: mặc cảm tội lỗi khi ham muốn quan hệ với người khác
khơng phải là chồng, mặc cảm khi ngoại tình trong tư tưởng…Đó là điều mới mẻ
và đặc biệt trong người phụ nữ trong “ Đàn sẻ ri bay ngang rừng”.
Người phụ nữ với bản năng "yêu"
Người phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ Việt Nam vô cùng coi trọng sự chung thủy
trong tình yêu. Sự chung thủy trở thành thước đo đạo đức của người phụ nữ. Trong
xã hội cũ, người đàn ơng có quyền “ năm thê bảy thiếp”, cịn người phụ nữ thì chỉ
được phép tơn thờ, u thương một mình người chồng thơi. Xã hội ngày nay cũng

vậy, khi người đàn ông trốn vợ đi “ ăn chả” thì người ta cho rằng “ sa chân lỡ
bước”, là bị cám dỗ. Thế nhưng, khi người vợ cũng “ ăn nem” thì lại bị cho rằng là
thối tha, hư hỏng, bội bạc, lăng loàn…! Người phụ nữ của Võ Thị Xuân Hà trong “
Đàn sẻ ri bay ngang rừng” đã phạm lỗi không chung thủy. Thế nhưng, trớ trêu khi
đối tượng ngoại tình của cơ lại là một người đã…chết!
Võ Thị Xn Hà mơ tả tình u của Diễm - một thiếu phụ trẻ - với Nẫm người anh chồng đã chết ngồi chiến trường mà cơ chưa bao giờ gặp mặt. Chi tiết
này áp dụng yếu tố ẩn ức trong phân tâm học: mặc cảm loạn luân hay còn được gọi


là "mặc cảm odipe" và gian thi chứng.Tình cảm đó gần như độc chiếm tâm can
Diễm. Ngay từ ngày đầu yêu Thản, khi "săm soi" cái vỏ đạn, kỷ vật của Nẫm,
Diễm thấy “bóng dáng người anh chồng lấp ló". Khi yêu Thản, Diễm thường nghĩ
đến Nẫm: “Hai chúng tôi nằm trên đồi lau (…) Ecmơlin của anh! - Thản thầm thì
gọi. Nẫm vẫn biệt vơ âm tín, mặc tơi phụ Thản". Đêm trở dạ sinh con đầu lòng,
Diễm thấy Nẫm trở về: “một người đàn ơng (…) ngó tơi từ trên trần nhà. Hắn nhìn
khn mặt võ vàng của tơi, rồi nhìn lướt xuống bụng, nơi cái cuống rau vừa bị cắt
còn lòng thòng thò ra chỗ sinh nở (…) Tơi nhận ra Nẫm (…) Tơi thèm nhìn thấy
người đàn ơng đã rờ vào cuống rau thị ra ở chỗ sinh nở của tôi. Trong giây phút,
tôi quên hết, qn Thản (…) Tơi đắm đuối với hình ảnh người đàn ông kia đang
mân mê cái cuống rau, như thể anh ta đã thò vào sờ nắm những mạch máu ly ti
chảy trong cơ thể tơi mà tình u của Thản chỉ chạm tới chứ không nắm được".
Trước mắt Diễm, Nẫm hiện lên cụ thể, chính xác: “đeo một phù hiệu ở ve áo, đỏ
nhờ, khuy áo vỡ hai cái, một cái sứt chỉ sắp tuột“. Dường như Nẫm có mặt trong
cuộc sống hàng ngày của Diễm: “Anh ngồi trên cao, mắt cười u buồn ngó mơng
lung ra cửa, ra vườn". Tác phẩm của Võ Thị Xuân Hà đặc biệt mới vì tính phức
tạp của nó: tình u của Diễm với Nẫm là sự chồng chéo của hoang tưởng, hành
xác, loạn luân, gian thi chứng - chứng thích giao cấu với người chết.
Người phụ nữ trong truyện còn là một người hết sức tỉnh táo trong tình u.
Ở cơ khơng có sự bi lụy thường thấy đối những người đàn bà mù qng trong tình
u. Cơ u Nẫm, nhưng khơng ruồng rẫy chồng. Cô phân biệt được trách nhiệm

và vai trị của mình đối với người chồng hiện tại. Khi đi tìm hài cốt của người tình
trong mộng của mình, cô khấn: “Anh Nẫm ơi, anh sống khôn chết thiêng hãy báo
mộng cho em. Em là vợ Thản, là người yêu suốt đời của Thản. Hai cõi âm dương
cách biệt. Em muốn làm bạn cùng anh. Em sẽ chịu đựng, chăm sóc gia đình anh.
Anh hãy cùng chúng em trở về...”


Tình u của cơ là thứ tình u cao thượng. Cơ căm thù gia đình nhà chồng,
nhưng lại sẵn sàng chịu đựng, chăm sóc gia đình ấy vì tình u dành cho người đã
khuất, sẵn sàng cam tâm làm bạn và suốt đời n phận bên chồng mình và tơn thờ
tình u với anh chồng. Có lẽ tâm nguyện cuối cùng của cô là chi tiết nhân văn và
đậm chất hy sinh nhất trong truyện.

“Phân tâm học là phương pháp kinh nghiệm có mục đích phát hiện những ham muốn vơ
thức được che dấu đằng sau những hành vi có vẻ hợp lý, phải đạo của mỗi cá nhân” (Phạm Văn
Sỹ, Về tư tưởng và văn học phương Tây hiện đại, ĐH và THCN, 1986, trang 31). Văn học hiện
đại vận dụng nội dung lý thuyết của phân tâm học để xây dựng nhân vật ở chiều sâu tâm sinh lý,
nhằm thể hiện mối quan hệ tình yêu trong thời buổi “cơ chế thị trường”, khi mà “vai trò của đồng
tiền” trong xã hội tiêu dùng có khả năng làm cho những vấn đề bình thường lại trở thành mục
tiêu và cứu cánh của mọi trạng thái nhân thế. Võ Thị Xuân Hà mạnh dạn đưa ra những

nghịch lí của chiến tranh, của cái đa đoan hồng nhan qua mối tình tay ba: chồng vợ - bóng ma ám ảnh của người chồng liệt sĩ (Đàn sẻ ri bay ngang rừng). Từ góc
nhìn giới, dục vọng, bản năng trở thành những biểu hiện cho khát vọng sống, cho
quyền được làm trọn thiên chức. Khám phá mới mẻ về người phụ nữ trong xã hội
hiện đại của truyện ngắn “ Đàn sẻ ri bay ngang rừng” đã gây khơng ít tranh cãi.
Thứ ngoại tình của người vợ trong truyện là ngoại tình trong tư tưởng. Võ Thị
Xuân Hà đã đặt ra một vấn đề mới mẻ đối với xã hội Việt Nam. Người ta có quyền
lên án một người phụ nữ sống với chồng nhưng tình yêu lại dành cho một người đã
chết, lại chưa một lần gặp mặt, chưa một lần tiếp xúc ? Sẽ khơng ít người khơng trả
lời được câu hỏi này. Thế mới biết, để xét đoán về một con người không chỉ đơn

thuần sắp xếp vào dạng tốt hay xấu, ngoan hay hư. Bởi lẽ con người là tổng hịa
của những gì bí ẩn nhất, mơ hồ nhất. Chính con người cũng khơng thể hiểu nổi bản
thân mình. MiLan Kundra nói: “Con người là hiển minh của lưỡng lự”. Bên trong
mỗi bản thể nhỏ nhoi ấy bao giờ cũng tồn tại hai mặt đối lập: đẹp - xấu, thiện – ác,


cao cả - thấp hèn, trong sáng – tăm tối, hạnh phúc – khổ đau… Con người có lúc là
thần thánh song cũng có lúc là quỷ dữ. Ai dám bảo một người lương thiện khơng
có lúc suy nghĩ đê tiện? Ai dám bảo một người độc ác lại không có lúc lấp lánh
trong tâm hồn ánh sáng của thiên lương ?Người phụ nữ trong truyện ngắn là một
nhân vật lưỡng diện. Người đọc có quyền lên án cơ phản bội chồng trong tâm thức.
Nhưng họ cũng có quyền khen ngợi cơ khi tình u dành cho người anh chồng đã
chết xuất phát từ lịng cao thượng, sự cảm thơng, từ sự căm ghét chiến tranh…Đây
chính là thành cơng của Võ Thị Xuân Hà khi khám phá con người dưới một góc
nhìn đa diện. Võ Thị Xn Hà đã chạm được đến chỗ trung thực nhất trong bản
chất con người. Đã khám phá được con người ở chiều sâu nhân bản nhất. Thành
công của truyện ngắn " Đàn sẻ ri bay ngang rừng" đã chứng minh cho việc áp dụng
hợp lý phân tâm tâm học vào tác phẩm văn chương Việt Nam.



×