Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Dat nuoc Nguyen Khoa Diem

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.08 KB, 6 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

ĐẤT NƯỚC NGUYỄN KHOA ĐIỀM- NGUYỄN ĐÌNH THI


Phân tích và so sánh hình tượng đất nước trong đoạn trích Đất nước (trong trường ca
Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm) và bài thơ đất nước của Nguyễn Đình Thi.


Cảm hứng về đất nước là ngùôn cảm hứng lơn, xuyên suốt trong thơ ca Việt Nam. Có
rất nhiều trường h ợp cảm hứng đất nước quyện chặt với cảm hứng của nhân dân. Nhưng có
điều cách nhìn và cảm xúc đất nước và nhân dân ở mỗi tác phẩm đặc sắc đều khơng lặp lại,
nó mang đậm dấu ấn của thời đại và cảm xúc của nhà thơ. Đoạn thơ Đất nước (trích trường
ca Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm là một thành công xuất sắc trên phương
diện cảm hứng về đất nước của thơ ca thời kháng chiến chống Mỹ.


Gần cuối đoạn thơ tác giả có viết... “Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân - Đất
Nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại”. Có thể nói hai câu thơ đã thể hiện
được tư tưởng và cảm hứng chủ đạo của nhà thơ - Cảm hứng đất nước của nhân dân. Căn cứ
vào đâu mà ta nói như thế ? Và tư tưởng, cảm hứng ấy thể hiện cụ thể ở những phương diện
nào?


Thơ tự do có khả năng chuyển tải tài cảm nhiều nhất, phóng túng nhất, chân thành, tha thiết
nhât. Đoạn thơ Đất nước được tác giả viết theo kiểu ấy nên dễ truyền cảm hứng cho người
đọc, dễ lay động những điều thầm kín nhất của lịng người. Đoạn thơ lập luận chặt chẽ, lơ
gích, thể hiện cảm hứng chủ đạo trên ba bình diện. Đó là cảm hứng về chiều dài thời gian –
lịch sử, ciều rộng không gian-địa lý và trong chiều sâu của văn hoá phong tục, của lối sống
thể hiện tâm hồn và tính cách dân tộc. Trên mỗi bình diện, tác giả đã thể hiện một cách sâu
sắc tư tưởng cốt lõi “Đất Nước Nhân dân”.


Để diễn đạt sự hình thành đất nước trong chiều sâu lịch sử, nhà thơ không dùng những
sử liệu, mà bằng những gì thân thuộc nhất trong đời sống của nhân dân:


<i>Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể</i>
<i>Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn</i>



<i>Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc</i>


<i>Nhận thức về đát nước bốn nghìn năm đã trở nên thật cụ thể, sống động, gần </i>
<i>gũi.</i>


<i>Cái kèo cái cột thành tên</i>


<i>Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng</i>
<i>Đất Nước có từ ngày đó.</i>


Làm nên đất nước bốn nghìn năm chính là những con người bình dị đso là nhân dân
vơ tận. Vì vậy khi nhớ đến “thời gian đằng đẵng” của lịch sử đất nước, tác giả khơng chỉ nhớ
đến anh ùng có tên tủơi mà nhấn mạn đến những con người bình dị:


<i>Có biết bao người con gái con trai</i>


<i>Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi</i>
<i>Họ đã sống và chết</i>


<i>Giản dị và bình tâm</i>
<i>Không ai nhớ mặt đặt tên</i>
<i>Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i>Họ truyền lửa qua mỗi nhà từ hịn than qua con cúi</i>
<i>Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói.</i>


<i>Họ cũng là những người đem xương máu giữ gìn non sơng đất nước:</i>
<i>Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm</i>



<i>Có nội thù thì vùng lên đánh bại</i>


Cùng với thời gian “đằng đẵng” đất nước cịn là khơng gian mênh mơng, đó là non
sơng gấm vóc, là rừng biển quê hương. Tất cả được dựng lên từ mồ hôi, máu thịt của bao lớp
người. Từ quan niệm đất nước của nhân dân, tác giả đã có cái nhìn mới mẻ, có chiều sâu về
những phong cảnh thiên nhiên.


<i>Từ những người vợ nhớ chồng cịn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu</i>
<i>Cặp vợ chồng yêu nhau góp cho Đất Nước Hịn Trống Mái</i>


<i>Người học trị nghèo góp cho Đất Nước núi Bút non Nghiên</i>


Điều đáng quý là tác giả đã phát hiện trong những địa danh bình dị ở mọi miền đất
nước để ẩn giấu chứa đựng cuộc đời của người dân


<i>Những ngừoi dân nào đã góp tên ơng Đốc, ơng Trang, bà Đen, bà Điểm</i>
<i>Với những phát hiện trên, tác giả đã đi đến một cảm nhận thấm thía:</i>
<i>Ơi đất nước bốn nghìn năm sau đi đâu ta cũng thấy</i>


<i>Những cuộc đời đã hoá núi sơng ta.</i>


Đất nước cịn là chiều sâu văn hố, phong tục của tâm hồn tính cách dân tộc Việt
Nam. Thật ra cách nói thế này khơng phải là mới, trong Bình Ngơ đại cáo Nguyễn Trãi cũng
đã đề cao truyền thống, phong tục tính cách niềm tự hào,tư tưởng lấy nhân dân là gốc.Nhưng
chỗ độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm là đã thể hiện sâu đậm tâm hồn nhân dân khơng ở đâu
khác ngồi văn hố dân gian. Nên “Đất Nước của Nhân dân” cũng chính là đất nước của ca
dao cổ tích. Tác giả đã sử dụng sâu rộng chất liệu của văn hoá dân gian, từ ca dao dân ca tục
ngữ, đến truyền thuyết cổ tích, các phong tục tập quán sinh hoạt... Vì lẽ đó đoạn thơ đã đưa
người đọc phiêu diêu về thế giới nghệ thuật của nhân dân với những nét tâm hồn và tính cách
của dân tộc vốn gắn bó với máu thịt vơi smọi người. Việc sử dụng chất liệu văn hố dân gian


ở đây khơng chỉ là một thủ phép trong nghệ thuật mà đã là sự thấm nhuần quan niệm đất
nước của nhân dân trong cảm hứng sáng tạo, trong tâm hồn nhà thơ. Đó chính là thể hiện tư
tưởng cốt lõi của bài thơ trong việc lựa chọn chất liệu, thi tứ, xây dựng hình ảnh và ngơn ngữ
nghệ thuật, khi nói đến tâm hồn nhân dân trong ca dao, dân ca...nói chung là văn hố dân
gian nhà thơ dâng trào một cảm xúc dạt dào:


<i>Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại</i>
<i>Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi</i>


<i>Biết quý công cầm vàng trong những ngày lặn lội</i>
<i>Biết trồng tre mà đợi ngày thành gậy</i>


<i>Đi trả thù mà không sợ dài lâu.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

ĐẤT NƯỚC- NGUYỄN KHOA ĐIỀM
1971, chiến trường Bình Trị Thiên hừng hực bão lửa của bom đạn, chiến tranh báo hiệu của
một mùa hè 1972 đỏ lửa. Trong khơng khí sơi sục của thời đại đánh Mỹ trường ca Mặt
đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm đã nung nấu và ra đời nó thểhiện những suy ngẫm,
những nhận thức vừa rất mới mẻ vừa rất thực tiễn đối với đất nước, nhân dân mình. Chương
V – ta quen gọi nó là bài thơ Đất Nước – có lẽ là chương hay nhất. Nó là nhận thức chín mùi
của thế hệ trẻ Việt Nam về “Đất nước”. Nó là điểm tựa để họ xây dựng vai trị vị trí của mình
trong cuộc đấu tranh vĩ đại chung của dân tộc


Điều dễ nhận thấy đầu tiên là tác giả nhìn đất nước ở tầm gần vậy mà khuôn mặt đất
nước rất gần gũi thân quen. Nó bình dân, lam lũ nhưng khơng kém phần cao cả. Cả nhà thơ
đâu đó nói về Đất Nước dường như đồng nhất cảm xúc nói tới q hương mình, Hồng Cầm
bao lần thốt lên trìu mến : “Quê hương ta lúa nếp thơm nồng; ruộng ta khô; nhà ta cháy; quê
hương ta từ ngày khủng khiếp”. Nguyễn Đình Thi và Tố Hữu nhìn đất nước trong khơng
gian Việt Bắc. Có những câu thơ quan tâm đến nét hồnh tráng, kì vĩ của đất nước:



<i>Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi !</i>
<i>Rừng cọ đồi chè đồng xanh ngào ngạt</i>


<i>(Tố Hữu)</i>
Hoặc Nguyễn Đình Thi:


<i>Nước Việt Nam từ máu lửa</i>
<i>Rũ bùn đứng dậy sáng loà.</i>


Thế nhưng Nguyễn Khoa Điềm lại nói chuyện với người yêu của mình bằng giọng
tâm tình thủ thỉ:


<i>Khi ta lớn lên....đánh giặc.</i>


Nhà thơ đã nhìn Đất nước theo quan hệ ruộ rà thân thiết ta gặp mẹ cha ta, bà mình,
dân mình, ta gặp những câu chuyệ cổ tích, nhìn phong tục ăn trầu của bà, nhìn những bờ tre
và sự yêu thương nhau bằng “gừng cay muối mặn”, thậm chí: “cái cột, cái kèo, hạt gạo...” tất
cả đó là Đất nước. Vậy là, những giá trị truyền thống về văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần
đã có từ ngày xửa ngày xưa khởi đầu của nó vẫn duy trì đến bây giờ.


“Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”, nghe qua rất vơ lí nhưng ngẫm suy
thì nó lại nói lên được đặc trưng văn hố nước Việt có thể nói là văn hố trầu cau. Nó đã có
một câu chuyện cổ tích, là phong tục được vị vua tổ Hùng Vương ban truyền, nó là vật để
người ta giao đãi tình cảm... Miếng trầu là biểu tượng đặc trưng nhất của văn hố trọng
nghĩa, trọng tình của người Việt. Có cách nhìn về Đất nước như vậy nên tác giả đặc biệt
nhấn mạnh đến tình cảm, ân nghĩa, thuỷ chung. Hình ảnh “cha mẹ thương nhau bằng gừng
cay muối mặn”, câu thơ biết q cơng “cầm vàng lặn lội” muốn nói chính là chữ tình sâu
thẳm của người Việt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i>Đất là nơi... em tắm.</i>


<i>Đất nước... hò hẹn.</i>


Và một áng văn tương tự đã bay qua nỗi nhớ để dịnh nghĩa Đất nước đầy e ấp và tình
tứ:


<i>Đất nước... nhớ thầm.</i>


Chỉ có hai thành tố là đất và nước thế nhưng mỗi lúc tháo rời nó ra, nó dẫn ta vào mê cung
huyền bí, vừa thân thuộc, vừa lạ lẫm vơ tận y như một đứa trẻ cứ tháo ra rồi lắp lại mà vẫn
chưa hết nỗi đam mê, nhà thơ của chúng ta cũng hồn nhiên làm cái điều ngộ nghĩnh ấy để
cho thoả cái điều mình muốn nói. Càng suy ngẫm đầy trách nhiệm đầy tư duy sắc sảo, đầy
khám phá mới mẻ gây hứng thú cho người đọc. Định nghĩa Đất nước tác giả quan tâm đến
khơng gian văn hóa nhưng cũng khơng qn cái thời gian văn háo đã làm nên một lịch sử dài
đằng đẵng của cha ông. Lịch sử ấy gắn bó với địa danh, địa lí cụ thể những chi tiết rất đời
thường bình dị đã cát lên thành lời thơ đầy xao xuyến tâm linh con người Việt Nam.


<i>Những ai đã khuất</i>
<i>...</i>


<i>Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.</i>


Hai tiấng “cúi đầu” đã gợi lên ấn tượng sâu đậm trong văn hố tâm linh người Việt,
đó là sự thầm kín, ngưỡng vọng thiêng liêng đối với cội nguồn, đối với sức mạnh tinh thần
cưu mang và chở che con cháu của Tổ: Chính là cộng đồng từ bọc trứng Âu Cơ, là dân tộc là
đất nước, nó là dịng họ gia đình, sợi khói nhang trên bàn thờ gia tiên có năng lực đánh thức
tâm linh người Việt hơn tất cả. Nói về 4.000 năm lịch sử của cha ông chúng ta Chế Lan Viên
rất tự hào với nữhng anh hùng, với những người con ưu tú của dân tộc.


<i>Hỡi dân tộc tiếng hát 4.000 năm</i>



<i>Tổ quốc bao giừo đẹp thế này chăng? (...)</i>
<i>Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc</i>


<i>Nguyễn Du viết Kiều đất nước hoá thành văn</i>
<i>Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc</i>


<i>Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng.</i>


<i>Riêng Nguyễn Khoa Điềm, nhà thơ muốn nói nhiều hơn về:</i>
<i>Có biết bao người con gái con trai</i>


<i>...</i>


<i>Nhưng họ đã làm ra đất nước.</i>


Vậy là sau khi giải đáp hai câu hỏi: Đất nước bắt nguồn từ đâu? Đất nước là gì?
Nguyễn Khoa Điềm đã đi vào phần hạt nhân của bài thơ: Ai đã làm ra Đất nước? tương tự
như nói về địa danh, địa lí, nàh thưo khơng ca ngợi cái đẹp, cái trù phú như Hoàng Cầm:


<i>Quê hương ta lúa nếp thơm nồng...</i>
ở Nguyễn Đình Thi:


<i>Những cánh đồng thơm mát...</i>


Nguyễn Khao Điềm chú ý nhiều đen snhững miền đất, những thắng cảnh mà tên gọi
của chúng rát nơm na đậm đà chúng nói với ta nhiều điều vê cuộc sống cần lao:


<i>Những người vợ nhớ chồng</i>
<i>...</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Tiếp theo là những câu thơ có tầm khái quát:
<i>Và ở đâu... núi sông ta.</i>


Với cách dẫn dắt câu chuyện như vậy, nhà thơ đã phát biểu trực tiếp tư tưởng “Đất
nước của Nhân dân”.


Nhân dân đông đảo, nhân dân bao dung làm nên dáng vẻ, tầm vóc của đất nước. Họ là
những người chân đất sáng suốt đã đúc kết những triết lý cao cả mà ta hằng tâm niệm mà ta
thuộc về nhân dân nên ca ngợi dất nước có quyền nói về đời riêng của mình. Hàng loại các
đại từ họ đã nói lên vai trị của nhân dân. Những người sáng tạo văn hoá vật chất và tinh thần
: “Họ giữ, họ truyền lửa, họ truyền giọng điệu, họ gánh theo, họ đắp đập”. Hàng loạt những
từ “giữ” và “truyền” rồi “gánh, đắp đập, be bờ” đã tạo nên độ dày của bề mặt văn hoá , đã
nổi lên hình tượng nhân dân sáng tạo ra đất nước bằng cuộc lao động lớn, một cuộc chạy tiếp
sức để lưu truyền mãi ngọn lửa văn hoá qua các thế hệ. Các nhà thơ khác nhau thời kháng
chiến chống Mỹ có khuynh hướng ca tụng đất nước ở tầm vóc quốc tế


<i>Ta vì ta ba chục triệu người</i>
<i>Cũng vì ba ngàn triệu trên đời</i>
<i>Vui gì hơn làm người lính đi đầu</i>
<i>Trong đêm tối ta làm ngọn lửa</i>


<i>(Tố Hữu)</i>


Tư tưởng đất nước của nhân dân được rất nhiều nhà thơ nói tới. Tuy nhiên các tư
tưởng không phải lạ lẫm gì này được Nguyễn Khoa Điềm nói bằng tất cả sự trải nghiệm và
xúc động thật sự của chính mình. Ơng đã đưa vốn trí thức về văn hố dân gian cộng với suy
ngẫm nghiêm túc tạo cho bài thơ vừa thuyết phục lí trí lại da diết trữ tình. Đất nước này
chính là của nhân dân, trong nhân dân có anh và em vì thế tác giả nghiêm trang đề nghị:
Em ơi em...muôn đời



Rất tự nhiên khơng hề bị lên gân giả tạo, văn hố trọng chữ tình sẽ là lối cư xử uống
nước nhớ nguồn


Chưa bao giờ thơ ca Việt Nam lại nở rộ những vần thơ đất nước như thời chống Mỹ
Đất nước của những người con gái con trai


Đẹp như hoa hồng, cứng hơn sắt thép
Khi xa nhau không hề rơi nước mắt
Nước mắt dành cho ngày gặp mặt


(Nam Hà)
Đó là đất nước của những đoàn quân:
Quân đến, quân đi cỏ tranh ùa giá rét
Dãy Trường Sơn trùng điệp những sư đoàn


(Bằng Việt)
Và :


Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu
Nghe nặng nỗi đau của mẹ


Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ
(Tạ Hữu n)


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

được lịng độc giả từ khi nó ra đời. Và nó có lẽ sẽ chịu đựng được những thử thách của thời
gian. Chúng ta ai chẳng có một tình u Tổ Quốc và có lúc ta phải thốt lên lời của Nguyễn
Khoa Điểm


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×