Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Anh huong phuong Tay den ly luan phe binh vanhoc do thi mien Nam 19541975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.25 KB, 8 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Ảnh hưởng phương Tây đến lý luận - phê bình văn học đô thị miền Nam 1954-1975
TS. Trần Hoài Anh


Sở Giáo dục và Đào tạo Quảng Ngãi


1. Khi nghiên cứu một nền văn học, không thể chỉ nói đến sáng tác mà khơng nói đến
hoạt động lý luận- phê bình. Bởi lẽ, tác phẩm văn học chỉ thật sự tồn sinh khi được người đọc
tiếp nhận. Hoạt động tiếp nhận là một phần quan trọng của đời sống lý luận - phê bình, góp
phần tạo nên sinh khí cho đời sống văn học. Như thế, lý luận - phê bình là sự tự thức của đời
sống văn học, là một phần không thể thiếu của lịch sử văn học.


Nước ta, sau ngày thống nhất, đặc biệt từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, khoa nghiên
cứu văn học đã có nhiều thành tựu trên các lĩnh vực nghiên cứu văn học dân tộc và văn học
thế giới. Tuy vậy, bộ phận văn học ở đô thị miền Nam trước 1975, trong đó có lý luận - phê
bình văn học, vẫn chưa được xem là một bộ phận của văn học dân tộc để nghiên cứu một cách
thoả đáng. Vì vậy, một trong những yêu cầu của quá trình đổi mới lý luận - phê bình văn học
nước nhà, ngoài việc tiếp biến các thành tựu lý luận - phê bình văn học hiện đại của thế giới,
nên chăng còn phải chọn lọc, kế thừa, phát triển các thành tựu của lý luận - phê bình văn học
dân tộc.


Giai đoạn 1954-1975, do hoàn cảnh đặc biệt của lịch sử, đất nước bị chia cắt thành hai
miền. Điều này đã tạo nên sự khác biệt trong tiến trình vận động và phát triển của văn học dân
tộc. Nếu ở miền Bắc, văn học phát triển thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng thì ở miền
Nam, văn học phát triển vô cùng phức tạp với nhiều khuynh hướng khác nhau. Bên cạnh bộ
phận văn học yêu nước và cách mạng lại có bộ phận văn học phản cách mạng. Bên cạnh văn
học trong lịng đơ thị miền Nam, lại có văn học cách mạng trong vùng giải phóng. Bức tranh
văn học miền Nam vùng tạm chiếm khơng thể thiếu vắng lí luận - phê bình văn học ở đô thị
miền Nam. Nền lý luận - phê bình ấy cũng đan xen những quan điểm, khuynh hướng khác
nhau, phản ánh trung thực tình hình văn học đô thị miền Nam. Bởi lẽ, lý luận - phê bình văn
học ở đô thị miền Nam 1954-1975, với sự tiếp biến nhiều giá trị lý luận - phê bình văn học của
dân tộc và thế giới, trong đó nổi bật là lý luận - phê bình văn học phương Tây hiện đại, bên


cạnh mặt hạn chế cịn có một số thành tựu nhất định. Do vậy, nó phải có vị trí tương xứng
trong nền lý luận - phê bình văn học dân tộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

phong trào Thơ Mới và tiểu thuyết Tự lực Văn đoàn thì theo Lý Hoàng Phong ở miền Nam
“nếu trào lưu hiện sinh, trào lưu siêu thực có tác động trong văn thơ chúng ta cũng là
thường”(1)<sub>. Tình hình này cho thấy sự đa phức trong đời sống lý luận - phê bình văn học ở đô</sub>


thị miền Nam với việc khám phá các hiện tượng văn học từ những điểm nhìn khác nhau giữa
các khuynh hướng lý luận - phê bình trên con đường tìm đến chân giá trị của văn chương.


Tuy nhiên, ở một phương diện nào đó, sự tiếp biến các khuynh hướng lý luận - phê
bình phương Tây không chỉ tạo nên sự đa dạng của lý luận - phê bình văn học ở đơ thị miền
Nam mà cịn góp phần làm phong phú và hiện đại hóa lý luận - phê bình văn học dân tộc vốn
còn nghèo nàn và lạc hậu so với lý luận - phê bình văn học hiện đại của thế giới. Nói như
Nguyên Sa: "Nhìn tổng quát cả một thế kỷ văn chương ta thấy sự giao tiếp với văn học nghệ
thuật Tây phương thúc đẩy ta tiếp nhận mau lẹ để tiếp nhận cái khác. Ta như bị thúc đẩy với
một tiếng nói khơng âm thanh: phải đổi thay thật nhanh, phải biến dịch thật mau, cho nên,
người này vừa làm xong cổ điển, không đợi những thế kỷ XVIII và XIX trôi qua, người kia
tiến ngay đến siêu thực, cùng một tác giả có thể nhảy từ tả chân sang siêu thực rồi đến hiện
sinh. Và cái sự thay đổi mau lẹ đó, nhìn ở mặt trái nó đáng buồn vì chưa thật là ta, vì còn
mang nặng dấu vết này, dấu vết nọ, nhưng nhìn ở mặt phải, nó nói lên sự khao khát đổi thay.
Và khi họ đổi thay để bắt kịp những đổi thay của văn học nghệ thuật thế giới, sự khao khát
đó sẽ đóng vai động lực của những sáng tạo lớn"(2)<sub>. </sub>


Việc tiếp nhận văn hóa phương Tây trong đó có các trường phái lý luận - phê bình văn
học đã tạo điều kiện cho sự phát triển của lý luận - phê bình văn học ở đô thị miền Nam với
những khát vọng đổi thay trên tinh thần sáng tạo. Đây chính là động lực, là tiền đề quan trọng
tạo những bước nhảy vọt trong tiến trình vận động và phát triển của tư duy lý luận - phê bình
văn học ở đô thị miền Nam.



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Lan... Vì vậy, nhận định về đội ngũ lý luận - phê bình văn học ở đô thị miền Nam, Võ Phiến
cho rằng “thời kì 1954-1975 gặp cái rủi ro hiếm thấy là trong suốt hai mươi năm trời khơng có
được lấy một nhà phê bình chun nghiệp. Trên báo chí vẫn có những bài điểm sách, giới
thiệu, phê bình; nhưng hầu hết là bài của giới sáng tác nhận xét lẫn nhau”(3)<sub>. Còn Lữ Phương </sub>
khi nói về thực trạng lý luận - phê bình văn học ở đô thị miền Nam cũng nhận xét "chúng ta
khơng có những nhà phê bình chuyên nghiệp đáng tin cậy và điều kiện sinh hoạt văn học hiện
tại của ta đã không đủ yếu tố để tạo nên những người như vậy"(4)<sub>. </sub>


Có thể nói, ở miền Nam trong thời kỳ này khơng có những nhà lý luận - phê bình chuyên
nghiệp, nghĩa là họ không thuần túy làm công việc lý luận - phê bình. Nhưng không vì thế
những công trình lý luận - phê bình của họ lại thiếu tính chuyên nghiệp. Ngược lại, với những
gì họ viết ra trong các công trình nghiên cứu của mình thật sự đó là những tác phẩm lý luận -
phê bình đúng nghĩa, có tính khoa học, có giá trị cả về lý luận lẫn thực tiễn. Bởi những tác
phẩm này được xây dựng trên một cơ sở lý thuyết rõ ràng, không phải là những suy luận chủ
quan, cảm tính theo kiểu phê bình nghiệp dư. Đó là các công trình của một số gương mặt lý
luận - phê bình tiêu biểu mà tác phẩm của họ thật sự giá trị, có ảnh hưởng đến đời sống lý luận
- phê bình văn học ở đô thị miền Nam như: Nguyễn Văn Trung với <i>Lược khảo Văn học </i>(3
tập); <i>Nhận định </i>(<i>6 tập</i>); <i>Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết</i>; <i>Ngôn ngữ và thân xác; Ca tụng thân </i>
<i>xác...</i> Thanh Lãng với <i>Bảng lược đồ Văn học Việt Nam</i>; <i>Phê bình văn học thế hệ 1932</i>; <i>Văn</i>
<i>học Việt Nam hai thế hệ dấn thân yêu đời... </i>Lê Tuyên với <i>Chinh phụ ngâm và tâm thức lãng </i>
<i>mạn của kẻ lưu đày</i>, <i>Thời gian hiện sinh trong Đoạn trường tân thanh</i>; Đỗ Long Vân với


<i>Nguồn nước ẩn của Hồ Xuân Hương, Vô Kỵ giữa chúng ta hay là hiện tượng Kim Dun</i>g; Đặng
Phùng Quân với <i>Triết học và văn chương</i>; Đặng Tiến với <i>Vũ trụ thơ;</i> Trần Bích Lan- Ngun
Sa với <i>Một bơng hồng cho văn nghệ</i>, <i>Quan điểm văn học và triết học</i>; Huỳnh Phan Anh với


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Chính vì vậy, chỉ trong hai mươi năm, lý luận - phê bình văn học ở đô thị miền Nam từ
những bước đi ban đầu mang tính khai phá ở giai đoạn 1954-1963 với những bài điểm sách,
điểm tình hình thời sự văn học và những cuộc trao đổi, thảo luận về một số vấn đề lý luận - phê
bình như: “Nhân vật trong tiểu thuyết”, “Nói chuyện về thơ bây giờ”, “Nhìn lại văn nghệ tiền


chiến ở Việt Nam” trên tạp chí <i>Sáng tạo</i> (1960); phỏng vấn các nhà văn quan niệm "về truyện
ngắn", "về sáng tác" trên tạp chí <i>Bách khoa</i> (1961) của Nguyễn Ngu Í... cũng như việc giới thiệu
một số trào lưu tư tưởng phương Tây mà chủ yếu là chủ nghĩa hiện sinh như: "Vấn đề giải thoát
con người trong Phật giáo và Tư tưởng J.P. Sartre" của Nguyễn Văn Trung (<i>Đại học</i> số 2/1958);
“Phật giáo và chủ nghĩa hiện sinh J.P. Sartre” của Quang Ninh (<i>Văn hóa Á Châu </i>số 9/1958);
“Khái niệm về chủ nghĩa hiện sinh” của Quang Ninh (<i>Sáng tạo số</i> 28/1959); “Vị trí trào lưu hiện
sinh trong lịch sử triết lý” của Trần Văn Toàn (<i>Đại học </i>số 12/1960); “Phác họa hiện tượng luận
về thẩm mỹ học của tiểu thuyết”của Nguyễn Văn Trung (<i>Đại học</i> số 2/1961); “Trình bày và phê
bình hai quan niệm nổi loạn của Albert Camus” của Thạch Chương (<i>Sáng tạo</i> số 9/1960);
“Nietzsche (1844-1900) Con người siêu Việt” của Nguyễn Anh Linh (<i>Bách khoa</i> số 92/1960);
“Bộ mặt của triết học hiện sinh” của Trần Hương Tử (<i>Bách khoa</i> số 114/ 1961); "Lược khảo
phong trào thi ca siêu thực Pháp" của Lê Huy Oanh (<i>Văn nghệ</i> số 4,5,6 /1961)...


Nhưng đến sau 1963, khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ kéo theo sự tan rã của chủ nghĩa
"<i>cần lạo nhân vị</i>" thì <i>chủ nghĩa hiện sinh</i> đã trở thành một trong những hệ tư tưởng chi phối
đời sống chính trị xã hội ở đơ thị miền Nam. Và từ đó lý luận - phê bình văn học ở đô thị miền
Nam đã bước sang một trang sử mới. Nhiều trường phái triết học, mỹ học, lý luận - phê bình
văn học khác của phương Tây cũng được giới thiệu khá rầm rộ như: Hiện tượng học, Cấu trúc
luận, Mỹ học tiếp nhận, Trường phái hình thức Nga, Phê bình mới... Và từ đây lý luận - phê
bình văn học ở đô thị miền Nam đã phát triển với nhịp độ khá nhanh trên cả bình diện phẩm
và lượng. Hàng loạt các bài viết về những trào lưu tư tưởng phương Tây được tập trung giới
thiệu như: "Quan niệm cơ cấu trong các khoa học nhân văn" (<i>Bách khoa</i> từ 126 - 271/1968);
"Thuyết cơ cấu và phê bình văn học" (<i>Bách khoa</i> số 289 - 294/1969) của Trần Thái Đỉnh;
"Tìm hiểu cơ cấu luận như một phương pháp, một tiểu thuyết và đặt vấn đề tiếp thu" (<i>Bách </i>
<i>khoa</i> số 293 - 294/1969) của Nguyễn Văn Trung; "Lịch sử của cảm giác buồn nôn trong văn
chương Tây phương hiện đại" của Hoàng Văn Đức (<i>Văn </i>số 2/1964); "J.P. Sartre thân thế và sự
nghiệp" của Trần Thiện Đạo (<i>Văn</i> số 31/1965); "Phấn đấu cho một nền tiểu thuyết mới" của
Alain Robbe - Grillet, do Trần Thiện Đạo dịch và giới thiệu (<i>Văn</i> số 33/1965); "Những vấn đề
của văn nghệ phương Tây hiện đại" của Triều Sơn (<i>Văn</i> số 34/1965); "Văn chương là gì?" của
J.P. Sartre, do Nguyễn Minh Hoàng dịch và giới thiệu (<i>Văn</i> số 56- 65/1966); “Tìm hiểu thuyết


cơ cấu” của Trần Thiện Đạo (<i>Văn học</i> số 2/ 1967); “Phân tâm học và thiền” của Chơn Hạnh
(<i>Tư tưởng</i> số 1/1967); “Thời gian qua Kant, Hegel và Husserl” (<i>Tư tưởng </i>số 4,5/1968); “Triết
học hiện sinh và chính trị” của Trần Thái Đỉnh (<i>Bách khoa</i> số 264/1968); “Sartre trong đời
sống” của Nguyễn Văn Trung (<i>Bách khoa </i>số 267-268/1968); “Samuel Beckett và thẩm quyền
của ngôn ngữ” của Huỳnh Phan Anh (<i>Khởi hành</i> số 29/1969); “Nietzsche và Mật Tông” của
Ngô Trọng Anh (<i>Tư tưởng</i> số 5/1970); “Phê bình mới, phê bình cũ” của Nguyễn Văn Trung
(<i>Bách khoa</i> số 381/1972)... Và rất nhiều công trình lý luận - phê bình văn học có giá trị như


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>Dung</i> (1967) của Đỗ Long Vân; <i>Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết </i>(1965), <i>Ngôn ngữ thân xác </i>


(1967),<i> Lược khảo văn học 2 </i>(1966), <i>Lược khảo văn học 3 </i>(1968) của Nguyễn Văn Trung;


<i>Một bông hồng cho văn nghệ</i> (1967) của Nguyên Sa; <i>Mấy vấn đề văn nghệ</i> (1967) của Lữ
Phương; <i>Ý Văn 1</i> (1967), <i>Văn nghệ và phê bình</i> (1969) của Tam Ích; <i>Tạp bút -tiểu luận</i>


(1969) của Võ Phiến; <i>Đọc lại truyện Kiều</i> (1966); <i>Tìm hiểu văn nghệ</i> (1970) của Vũ Hạnh;


<i>Vũ trụ thơ</i> (1972) của Đặng Tiến; <i>Văn chương và kinh nghiệm hư vơ</i> (1968), <i>Đi tìm tác </i>
<i>phẩm văn chương </i>(1972), <i>Duyên Anh tuổi trẻ mộng và thực</i> (1972) của Huỳnh Phan Anh; <i>Ý </i>
<i>thức mới trong văn nghệ và triết học</i> (1970) của Phạm Công Thiện; <i>Dư vang nghệ thuật</i>


(1971) của Trần Nhựt Tân<i>; Thơ Việt Nam hiện đại </i>(1969), các nhà văn nữ Việt Nam
1900-1970 (1973) của Uyên Thao; <i>Mười khuôn mặt văn nghệ</i> (1970), <i>Mười khuôn mặt văn nghệ </i>
<i>hôm nay</i> (1972) của Tạ Tỵ; <i>Văn học và tiểu thuyết</i> (1973) của Doãn Quốc Sỹ; <i>Thẩm mỹ học </i>
<i>thông khảo</i> (1974) của Nguyễn Văn Xung; <i>Văn học và ngữ học</i> (1974) của Bùi Đức Tịnh;


<i>Triết học và văn chương</i> (1974) của Đặng Phùng Quân...


Không chỉ dừng lại ở việc giới thiệu các học thuyết, các trào lưu tư tưởng nước ngoài, các
nhà lý luận - phê bình cịn ứng dụng các lý thút đó vào việc tìm hiểu giá trị của các hiện


tượng văn học và đã có một số tác phẩm khá thành cơng như: <i>Lược khảo văn học </i>(3 tập) của
Nguyễn Văn Trung; <i>Chinh phụ ngâm và tâm thức lãng mạn của kẻ lưu đày</i> của Lê Tuyên;


<i>Nguồn nước ẩn của Hồ Xuân Hương, Vô kỵ giữa chúng ta hay là hiện tượng Kim Dung</i> của
Đỗ Long Vân; <i>Vũ trụ thơ</i> của Đặng Tiến; <i>Văn chương và kinh nghiệm hư vơ</i>, <i>Đi tìm tác phẩm </i>
<i>văn chương</i> của Huỳnh Phan Anh... Hay một số bài đăng trên các báo như: “Nhân vị trong
Hồn bướm mơ tiên”của Đỗ Minh Vọng (<i>Đại học</i> số 4, 5/1958); “Thời gian hiện sinh trong
Đoạn trường tân thanh”(<i>Đại học</i> số 9/1959), "Biện chứng phản diện trong Cung oán ngâm
khúc" (<i>Đại học</i> số 3/1958) của Lê Tuyên; “Gặp gỡ giữa Ôn Như Hầu và Albert Camus” (<i>Văn</i>


số 2/1964) của Đặng Tiến; “Nỗi khắc khoải siêu hình trong thơ Hàn Mặc Tử” (<i>Văn </i>số 73-74 /
67) của Nguyễn Xuân Hoàng; "Thử phác họa một bản đồ địa ngục theo Chế Lan Viên" (<i>Văn </i>
<i>học giai phẩm</i> /1974) của Đỗ Long Vân...


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

lý thuyết nào mà luôn kết hợp nhiều lý thuyết khi đánh giá các hiện tượng văn học. Bởi
theo Tam Ích nếu "nhắm mắt lại mà áp dụng các giáo điều thì đều mắc phải bệnh ấu trĩ cho
nhà sáng tác. Rồi đến ấu trĩ cho nhà phê bình cũng theo những nguyên tắc có sẵn mà nói,
và ấu trĩ ln cho độc giả"(8)<sub>. </sub><sub>Và có lẽ đây cũng là một trong những vấn đề cần được nhận </sub>
thức lại trong việc đổi mới tư duy lý luận - phê bình văn học của chúng ta hôm nay.


Như vậy, với việc đa dạng hóa các hình thức sinh hoạt lý luận - phê bình, việc mở rộng
giới thiệu nhiều trường phái triết học, mỹ học, lý luận - phê bình văn học phương Tây, sự phát
triển của đội ngũ các nhà lý luận - phê bình, đời sống lý luận - phê bình văn học ở đô thị miền
Nam 1954-1975 đã có những bước phát triển nhanh chóng sinh động. Nhưng đồng thời cũng
có sự phân hóa sâu sắc với nhiều khuynh hướng đa phức. Đó là các khuynh hướng chủ yếu
như: khuynh hướng lý luận - phê bình chịu ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng phương Tây;
khuynh hướng lý luận - phê bình chịu ảnh hưởng quan điểm Mác-xít và khuynh hướng lý luận
- phê bình chịu ảnh hưởng tư tưởng các tôn giáo.


3. Lý luận - phê bình văn học ở đô thị miền Nam 1954-1975 là bức tranh lập thể nhiều sắc


màu, là dàn đồng ca nhiều giọng điệu, là bầu trời nhiều vì sao tuy linh động nhưng phức tạp và
có những giới hạn nhất định. Song, do chịu sự tác động sâu sắc bởi những biến động của đời
sống chính trị xã hội và văn hóa, đặc biệt là ảnh hưởng của lý luận - phê bình văn học phương
Tây và cuộc đấu tranh bảo vệ văn hóa dân tộc, lý luận - phê bình văn học ở đô thị miền Nam
1954-1975 đã phân hóa thành nhiều khuynh hướng khác nhau. Sự phân hóa này phản ánh khá
trung thực đời sống lý luận - phê bình văn học ở đô thị miền Nam. Mặt khác cũng thể hiện sự
đa dạng trong việc nhìn nhận, đánh giá các hiện tượng văn học tránh được căn bệnh giản đơn,
công thức và tính "đồng phục" trong lý luận - phê bình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Mở cửa ra nước ngoài là cần thiết. Nhưng mở cánh cửa quá khứ của nền lý luận - phê
bình văn học dân tộc, trong đó có bộ phận lý luận - phê bình văn học ở đô thị miền Nam vốn
chịu ảnh hưởng sâu sắc của lý luận - phê bình văn học phương Tây cũng là một việc làm có ý
nghĩa để đẩy nhanh tiến trình hội nhập của lý luận phê bình văn học dân tộc vào nền lý luận
-phê bình văn học thế giới.


4. Từ thực tiễn tình hình hoạt động của lý luận - phê bình văn học ở đô thị miền Nam
1954-1975 và yêu cầu hiện đại hoá nền lý luận - phê bình văn học dân tộc trong thời kỳ hội
nhập và phát triển, thiết nghĩ đã đến lúc chúng ta cần đổi mới tư duy trong việc xây dựng nền
lý luận - phê bình văn học dân tộc mà theo chúng tôi cần tập trung vào những vấn đề sau:


- Cần khảo sát và đánh giá lại nền lý luận - phê bình văn học ở đô thị miền Nam
1954-1975, nhất là quan tâm tìm hiểu việc tiếp nhận lý luận - phê bình văn học nước ngồi, chủ
<b>yếu là lý luận phê bình văn học phương Tây. Bởi, việc nghiên cứu sự tiếp nhận lý luận </b>
-phê bình văn học phương Tây của lý luận - -phê bình văn học ở đô thị miền Nam không những
chỉ ra giới hạn của một nền lý luận mà còn đem lại bài học kinh nghiệm đối với lý luận - phê
bình văn học hôm nay trong việc mở cửa tiếp nhận các trào lưu lý luận - phê bình hiện đại và
hậu hiện đại của thế giới để đổi mới tư duy lý luận - phê bình văn học dân tộc trong thời kỳ
hội nhập và phát triển.


- Muốn hiện đại hoá nền lý luận - phê bình văn học dân tộc, chúng ta không nên bảo thủ


hoặc dị ứng với các trào lưu lý luận - phê bình hiện đại của thế giới nhưng cũng khơng nên
q "nơ lệ" vào nó mà phải tỉnh táo tiếp nhận các giá trị lý luận - phê bình văn học này một
cách khoa học để vận dụng sáng tạo vào việc xây dựng nền lý luận - phê bình văn học dân tộc.
Phải chun mơn hố đội ngũ các nhà lý luận - phê bình. Nghĩa là, những người làm công
tác lý luận - phê bình dù chuyên nghiệp hay không cũng phải là những người có "tay nghề", có
kiến thức, có năng lực nghiên cứu độc lập và phải có cái tâm của người làm công tác khoa
học, phải khách quan trong việc đánh giá các hiện tượng văn học. Về vấn đề này thiết nghĩ qua
tìm hiểu đội ngũ các nhà lý luận - phê bình văn học ở đô thị miền Nam chúng ta cũng có được
những bài học kinh nghiệm.


- Phải chủ động giới thiệu và ứng dụng các trào lưu lý luận - phê bình nước ngồi vào
<b>việc nghiên cứu các hiện tượng văn học để có thể khám phá giá trị của các hiện tượng văn</b>
học từ nhiều điểm nhìn khác nhau. Bởi từ đây sẽ mở ra những khía cạnh mới của đối tượng
nghiên cứu và phê bình văn học, giúp người đọc cũng như các nhà nghiên cứu có thêm nhiều
cách tiếp nhận các giá trị văn học, làm cho nền lý luận - phê bình văn học ngày càng đa dạng
và phong phú. Điều này cũng thể hiện tinh thần dân chủ trong tiếp nhận văn học; một vấn đề
cho đến nay cũng chưa thật sự bình thường trong đời sống văn học của chúng ta. Mặc dù đây
là một vấn đề hoàn toàn bình thường trong đời sống văn học của thế giới...


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

từ những nền lý luận - phê bình hiện đại của nhân loại; có như thế mới đẩy nhanh quá trình hiện
đại hoá nền lý luận - phê bình văn học dân tộc trong thời kỳ hội nhập và phát triển theo tinh thần
nghị quyết 23 - NQ/TW của Bộ chính trị, khố X "về xây dựng và phát triển văn học nghệ thuật
trong thời kỳ mới" đó là: "Tổ chức nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc thành quả lý luận văn học,
nghệ thuật của ông cha và của thế giới, vận dụng sáng tạo, làm phong phú lý luận văn học Việt
Nam hiện đại"(11)<sub></sub>


______________


(1) Lý Hoàng Phong: "Có chăng một sự kỳ lạ trong văn nghệ mới", Văn nghệ số 12/1962, tr.13.
(2) Nguyên Sa: Một bông hồng cho Văn nghệ, Nxb. Trình Bày, Sài Gòn, 1967, tr.93-94.



(3), (5), (7) Võ Phiến: Hai mươi năm Văn học miền Nam (1954-1975), Nxb. Văn nghệ CA - USA 1987,
tr.17, 193, 240.


(4) Lữ Phương: Mấy vấn đề Văn nghệ, Nxb. Trình Bày, Sài Gòn 1967, tr.99.


(6) Nguyễn Trọng Văn: "Những người con hoang của Nguyễn Văn Trung", Bách Khoa số 264 /1968, tr.51.
(8) Tam Ích: Ý Văn1, Nxb. Lá Bối, Sài Gòn 1967, tr.29.


(9) Nguyễn Khoa Điềm: "Phát biểu kết luận hội nghị lý luận phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc", Tạp
chí Nhà văn số 4/2006, tr.62.


(10) Lộc Phương Thuỷ: "Tác động của lý luận văn học nước ngoài đối với lý luận văn học Việt Nam".
<i>Nghiên cứu Văn học, số 1-2005, tr.17.</i>


</div>

<!--links-->

×