Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Đề tài (DƯỢC HỌC) Thực trạng của vấn đề quản lý giá thuốc ở nước ta giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.28 KB, 32 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Quản lý giá thuốc chữa bệnh ở nước ta hiện nay là một vấn đề rất bức xúc,
được tồn xã hội quan tâm, vì nó liên quan tới sức khoẻ con người; là vấn đề trăn
trở trong chi tiêu của mỗi gia đình, nhất là với đại bộ phận nhân dân có thu nhập
thấp.
Chỉ rõ nguyên nhân của những biến động giá cả, có lúc đã thành “cơn sốt”
của thị trường tân dược, thật không đơn giản và đang cịn nhiều ý kiến khác
nhau. Nhưng có thể kể đến một vài ngun nhân chính: đó là sự yếu kém trong
quản lý của các cơ quan chức năng, là sự tác động của mặt trái cơ chế thị trường
và cuối cùng là sự xuống cấp của một bộ phận không nhỏ những người thầy
thuốc, những nhà nhập khẩu, bán buôn, bán lẻ thuốc hiện nay.
Quản lý giá thuốc như thế nào để vừa đảm bảo quyền lợi của người bệnh,
lại vừa phù hợp quy luật không làm triệt tiêu quyền chủ động và động lực phát
triển của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường, đang một là vần đề cấp thiết
từ các nhà lãnh đạo cao nhất, Quốc hội và cơ quan quản lý phải xem xét.
Với ý nghĩa đó tơi xin đề cập tới một số vấn đề trong bài viết này:
1. Vai trò, tầm quan trọng của vấn đề quản lý giá thuốc ở nước ta
giai đoạn hiện nay.
2. Thực trạng của vấn đề quản lý giá thuốc ở nước ta giai đoạn
hiện nay.
3. Một số kiến nghị và giải pháp quản lý giá thuốc ở nước ta.
Vì phạm vi của vấn đề rất rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực, thời gian và
khả năng có hạn, chắc chắn bài viết này cịn nhiều thiếu sót, tơi rất mong sự đóng
góp ý kiến của các thầy cô và các bạn.

1


Chương I
VAI TRÒ, TẦM QUAN TRỌNG CỦA VẤN ĐỀ
QUẢN LÝ GIÁ THUỐC Ở NƯỚC TA


GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
I. Vai trò, tầm quan trọng của vấn đề
Ngành y tế Quảng Trị đã tổ chức một hội thảo bàn về việc quản lý thuốc
và tiền thuốc trong bệnh viện. Ở hội thảo này, các đại biểu phát hiện ra những bất
cập tồn tại; thuốc dùng trong bệnh viện nhiều (chiếm khoảng 60% tổng kinh phí
chung) phức tạp về chủng loại (khoảng 300 ở tuyến huyện và 800 ở tuyến tỉnh),
giá cả luôn ln biến động. Quản lý thuốc và tiền thuốc vì thế trở thành một vấn
đề quản lý chuyên môn và tài chính lớn. Mặt tích cực hay tiêu cực trên lĩnh vực
này sẽ ảnh hưởng đến chất lượng điều trị. Tuy nhiên đến nay chưa có một mơ
hình quản lý thống nhất. Vì thế, tổ chức và biên chế khoa dược (khoa làm chính
việc này) ở các bệnh viện khơng giống nhau (tính trên số giường bệnh hay trên
khối lượng tiền thuốc cụ thể). Mối quan hệ giữa khoa dược và phịng kế tốn tài
chính chưa được phân định rõ. Khoa dược làm nhiệm vụ cung ứng quản lý hàng
và phịng tài chính kế tốn quản lý tiền và đúng ra phải là người giám sát các
hoạt động hàng hoá ở khoa dược. Thế nhưng trong đa số cơ sở hiện nay, mọi
việc quản lý hàng hoá và tiền tệ do khoa dược làm, phịng kế tốn tài chính đơi
khi chỉ ký vào bảng cân đối mà không thực hiện đầy đủ chức năng giám sát. Với
cách làm này, khoa dược chỉ lao vào việc quản lý hàng hoá, tiền long mà khơng
cịn thời gian làm được đầy đủ các chức năng chuyên môn (kiểm tra việc thực
hiện quy chế và tham vấn việc dùng thuốc).
Vấn đề quản lý thuốc và tiền thuốc tại bệnh viện nếu không được đặt đúng
tầm, cách quản lý thuốc và tiền thuốc nếu thiếu mơ hình thống nhất, ranh giới
giữa việc quản lý, giám sát hàng và tiền nếu không được xác định thật rõ thì sẽ
đẻ ra nhiêu khê, chồng chéo, vất vả, tốn kém giấy tờ, công sức cho cả bệnh viện
và người bệnh. Điều này cần được quan tâm giải quyết.
Vấn đề phục vụ chăm lo sức khoẻ cho xã hội
Nhiều tháng nay, các phương tiện thông tin đại chúng đồng loạt lên án sự
biến động theo chiều hướng xấu của thị trường tân dược. Đây là ”cơn sốt” giá
thứ hai (sau cơn sốt hồi tháng 3 vừa rồi) khiến người tiêu dùng vơ cùng khó
khăn, gây bức xúc trong đời sống xã hội. Thêm nữa việc ra đời Thông tư 08

tưởng như nhắm mục tiêu bình ổn thị trường thì hiệu ứng của nó lại có lại có tác
dụng ngược lại. Trước sự phản ứng dữ dội của người tiêu dùng về việc quy định
niêm yết giá thuốc từ 1/10 Liên Bộ Y tế – Tài chính hỗn lại đến thời điểm
1/1/2004 mới thực hiện. Giải pháp cho “cơn sốt tân dược” dường như vẫn đang

2


còn nhiều bất cập. Sự phẫn lộ của dư luận đang địi hỏi cần phải có những biện
pháp hữu hiệu mạnh hơn.
Trở lại sự bức xúc từ đợt sốt giá thuốc hồi tháng 3, người tiêu dùng dường
như đã phải nén quá nhiều sự chịu đựng bởi việc tăng giá thuốc vơ tội vạ. Báo
chí đã vạch trần các thủ đoạn kinh doanh trên sức khoẻ con người, đồng thời cấp
báo về một tình trạng đạo đức y dược đang có nguy cơ xuống cấp nghiêm trọng.
Giá thuốc quá đắt có phải vì “cầu” lớn hơn “cung”? Trong bối cảnh thị trường
thuốc tây đều đang ế ẩm, có thể nói nguyên nhân cơ bản và sâu xa nhất làm rối
loạn thị trường tân dược trong nước chính là sự dễ dãi, tràn lan bởi hệ quả của
việc cung cấp visa nhập khẩu tân dược của Bộ Y tế, gây sự mất cân đối trầm
trọng giữa thuốc nội và thuốc ngoại. Theo số liệu của cơ quan chức năng, hiện
thuốc ngoại chiếm tới 80% và đó chính là tiền đề làm đảo điên thị trường tân
dược. Hậu quả phải gánh chịu khơng ai khác chính là người bệnh. Các nhà chức
tránh bằng mọi lý lẽ biện minh. Nhưng dù gì thì vai trị, trách nhiệm quản lý
cũng khơng thể phủ nhận được. Vậy trách nhiệm thuộc về ai? Bộ Y tế cho rằng
“quản lý giá thuốc thuộc nhiệm vụ của Bộ Tài chính”. Và Bộ Tài chính thì khẳng
định “ khơng thể ai hơn Bộ Y tế trong việc quản lý giá thuốc”. Sự tranh luận
thiếu tính thuyết phục này cùng với sự đùn đẩy trách nhiệm lẫn nhau đã mang lại
một Thông tư vội vàng không hợp quy luật kinh tế và kết quả là càng làm tổn
hại lợi ích của người tiêu dùng. Cùng với sự bất an của thị trường tân dược là sự
cảnh báo về tình trạng xuống cấp nghiêm trọng của đạo đức y dược. Nhân lúc thị
trường hỗn loạn , những người kinh doanh nghề dược mặc sức “chém” người

bệnh. Mục tiêu kinh doanh tìm kiếm siêu lợi nhuận trên cơ thể người bệnh đã trở
thành một thực tế nhức nhối khiến dư luận hết sức phẫn lộ và không ngớt lên án.
Trước sự yếu kém của năng lực quản lý và sự xuống cấp nhức nhối của
đạo đức y dược, hy vọng những biện pháp mạnh của Chính phủ sớm được ban
hành để nhanh chóng tạo sự bình ổn cho thị trường tân dược.
Quản lý giá thuốc trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
một quá trình phức tạp vì nó vừa phải bảo đảm quyền lợi cho người tiêu dùng
đồng thời không làm triệt tiêu quyền chủ động và động lực phát triển của doanh
nghiệp trong cơ chế thị trường. Các mức quy định thặng số phải thể hiện được đủ
bù đắp các yếu tố của chi phí sản xuất kinh doanh và có lợi nhuận hợp lý để
doanh nghiệp có thể tái đầu tư mở rộng sản xuất. Chỉ khi nào đáp ứng được yêu
cầu nói trên các quy định này mới thực sự đi vào cuộc sống và được các nhà sản
xuất kinh doanh tự giác chấp hành.
II. Thực hiện chiến lược ngành dược nước ta
Ngày 15-8-2002, Chính Phủ đã phê duyệt “ Chiến lược phát triển ngành
dược giai đoạn đến 2010”. Đó là thuận lợi lớn và cơ bản để ngành dược có điều
kiện phát triển tồn diện theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố, nâng cao
3


sức cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước để hội nhập với khu vực và thế
giới, đảm bảo cung ứng thuốc có chất lượng tốt, phục vụ chăm sóc sức khoẻ cho
nhân dân.
Thực trạng:
Hiện nay số lượng các doanh nghiệp tuy nhiều song qui mô không lớn, lại phân
tán, manh mún. Tổng số các doanh nghiệp sản xuất tân dược trong nước tính đến
năm 2002 là 577 doanh nghiệp. Trong đó: doanh nghiệp nhà nước: 82; cơng ty
cổ phần: 45; công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH): 450.
Sức cạnh tranh của thuốc sản xuất trong nước còn yếu. Thuốc có cùng hoạt chất,
hàm lượng, nồng độ, kể cả quy cách đóng gói, nếu mang nhãn thuốc nước ngồi

thì giá bán gấp nhiều lần thuốc nội địa. Một trong những khâu yếu nhất hiện nay
là các doanh nghiệp sản xuất trong nước chưa đánh giá được sinh khả dụng của
thuốc.
Một vấn đề rất đáng quan tâm là sản xuất trong nước có nhiều sản phẩm
với khoảng 6.000 số đăng ký lưu hành trên thị trường, nhưng số lượng hoạt chất
chỉ có ngót 400, nên cơng nghiệp bào chế chậm phát triển. Sản phẩm trùng lặp
tạo ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp sản xuất trong nước, bán phá
giá dẫn tới tình trạng thua lỗ. Hiện tượng bắt chước, nhái mẫu mã còn tương đối
phổ biến ở nhiều doanh nghiệp trong khi thuốc nước ngoài nhập vào Việt Nam
có hơn 4.700 số đăng ký nhưng có tới 860 hoạt chất. Do vậy, để có đủ thuốc,
hàng năm, ngành dược vẫn phải nhập khẩu hơn 60% (tính theo giá trị tuyệt đối
khoảng 5.500 tỷ đồng).
Các doanh nghiệp trong nước, các cơ sở viện, trường cũng chưa tập trung
nhiều cho nghiên cứu sản phẩm thuốc mới, đặc biệt là nghiên cứu cơ bản. Một
phần do thiếu cơ sở vật chất, tiền vốn và đội ngũ, năng lực cán bộ, song phần
quan trọng là nhận thức, trước hết là đội ngũ lãnh đạo, quản lý. Tuy có một số
sản phẩm mới (đa phần là đông dược) được đưa vào sản xuất, tăng thêm doanh
thu và có hiệu quả kinh tế, nhưng tác dụng chữa bệnh, bồi dưỡng sức khoẻ chưa
thực sự rõ nét.
Công tác xuất khẩu dược ở nước ta quy mơ cịn nhỏ. Nguồn hàng hố xuất
khẩu ít, khơng ổn định, khơng vững chắc. Nếu chỉ tính riêng giá trị xuất khẩu về
dược phẩm, dược liệu thì năm cao nhất cũng chỉ đạt 15 triệu USD. Thị trường
xuất khẩu cịn hạn hẹp, một số thị trường cịn mang tính rủi ro, thủ tục thanh tốn
khó khăn…
Về giá thuốc chưa quản lý, nhất là thuốc thông thường, thuốc thiết yếu.
Giá thuốc bán lẻ mỗi nơi một khác, đặc biệt là biệt dược nhập ngoại, độc quyền
có thể bán với bất cứ giá nào, rất khó khăn cho người bệnh nhất là người nghèo.
Những giải pháp:
Trong khi chưa mở rộng được thị trường xuất khẩu thì thị trường trong
nước được coi là nơi tiêu dùng thuốc chính. Cần khảo sát, đánh giá nhu cầu xu

4


thế phát triển của từng nhóm thuốc để đầu tư cho phù hợp, tránh lãng phí. Cần
phải quy hoạch lại tổng thể ngành dược nhằm tập trung phát huy các nguồn lực,
thế mạnh của toàn ngành và từng địa phương. Ngành kinh tế kỹ thuật dược tập
chung vào một lĩnh vực chủ yếu như ưu tiên phát triển công nghiệp bào chế, đầu
tư cho nghiên cứu phát triển các sản phẩm mới, nâng cao chất lượng, nâng cao
sức cạnh tranh và tiến tới thay thế hàng nhập khẩu, tăng tỷ trọng của thuốc sản
xuất trong nước, từng bước phân công, phân cấp trong sản xuất. Tuy nhiên cần
phải xác định rõ cần bao nhiêu nhà máy sản xuất thuốc viên, thuốc tiêm ống,
dịch truyền trên cơ sở cung, cầu. Xác định các cây, con dược liệu, nhu cầu sử
dụng để quy hoạch và tập trung đầu tư một cách đồng bộ, kể cả việc tạo điều
kiện hỗ trợ của cơ quan nhà nước về vật tư, tiền vốn và chính sách ưu đãi.
Việc xây dựng công nghiệp sản xuất nguyên liệu trước hết là kháng sinh,
hố dược cũng cịn rất nhiều ý kiến khác nhau, nên có sự thống nhất sớm.
Xây dựng công nghiệp phân phối theo tiêu chuẩn thực hành tốt phân phối thuốc
(Good Distribution Practice: GDP) là rất cần thiết theo hướng hiện đại hố mạng
lưới lưu thơng từ người cung ứng đến người tiêu dùng đảm bảo nhanh chóng,
thuận tiện, tiết kiệm và hiệu quả. Nó vừa là trách nhiệm của người quản lý vừa là
lợi ích của người tiêu dùng. Hiện nay một số doanh nghiệp kinh doanh mới làm
được công đoạn đầu của đầu của GDP là xây dựng kho đạt tiêu chuẩn DSP (tiêu
chuẩn thực hành tốt tồn trữ thuốc).
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, nghiên cứu đánh giá chất lượng
thuốc, nghiên cứu đánh giá các sản phẩm mới. Ở nhiều nước, ngồi các cơ sở
chun nghiên cứu như viện, trường thì nhiều công ty, nhất là các công ty lớn đa
quốc gia hoặc xuyên quốc gia đều có những cơ sở nghiên cứu phát triển lớn. Đây
là vấn đề sống còn của các doanh nghiệp vừa đáp ứng được nhu cầu trước mắt
vừa đảm bảo cho sự tồn tại phát triển lâu dài của doanh nghiệp.
Đối với chúng ta hiện nay nghiên cứu các sản phẩm mới còn bất cập về

nhiều mặt: thiếu đội ngũ cán bộ có năng lực, thiếu tiền vốn, phương tiện, cơ sở
vật chất kỹ thuật và thiếu cả đường lối chiến lược và phương án sản phẩm. Khi
các luật về sở hữu trí tuệ được thực hiện một cách nghiêm túc thì buộc các cơ sở
nghiên cứu, phát triển khơng cịn con đường nào khác là phải tập trung cho
nghiên cứu sản phẩm mới. Tuỳ từng điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp mà
có thể đề ra những chương trình cụ thể thiết thực và có hiệu quả theo hướng phát
huy thế mạnh của từng doanh nghiệp.
Tiếp tục mở rộng việc hợp tác kinh tế, khoa học cơng nghệ, đào tạo cán bộ
với nước ngồi… dưới nhiều hình thức: liên doanh, hợp đồng hợp tác liên doanh,
doanh nghiệp có vốn 100% của nước ngồi, sản xuất nhượng quyền, mua công
nghệ tiên tiến, hiện đại, mua sản phẩm mới. Hiện nay trong nước đã có 17 dự án
hợp tác kinh tế trong lĩnh vực dược đang được triển khai. Nói chung quy mơ cịn
nhỏ, sản phẩm cịn nghèo nàn. Thậm chí cịn nhiều sản phẩm trùng lặp với sản
5


xuất trong nước. Vì vậy chỉ nên hợp tác với nước ngồi những sản phẩm mà
trong nước khơng thể sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng chất lượng thấp.
Chẳng hạn như các nhà máy kháng sinh, hố dược, có thể 100% vốn nước ngoài
hoặc liên doanh nhưng vốn của nước ngồi là chủ yếu.
Đối với cơng nghiệp bào chế chỉ hợp tác những sản phẩm như các biệt
dược, sản phẩm đơng dược có tác dụng chữa bệnh tốt, sản phẩm có cơng nghệ
cao, những sản phẩm có thể trùng với sản phẩm trong nước nhưng xuất khẩu
sang nước thứ ba…
Vấn đề quan trọng hơn nữa là làm thế nào có được đội ngũ cán bộ dược
đầu đàn trong từng lĩnh vực. Hiện nay đào tạo còn nặng về số lượng. Những
chun gia giỏi là rất ít. Vì thế cần có chiến lược về đào tạo, đặc biệt là cán bộ
chun mơn giỏi. Có thể đào tạo trong nước hoặc ngồi nước. Đồng thời có
chính sách ưu đãi thu hút nguồn nhân lực, đặc biệt là cán bộ, chuyên gia giỏi
trong từng lĩnh vực.

III. Chống độc quyền, phá giá thuốc chữa bệnh
Nội - phá giá, ngoại - độc quyền
Các doanh nghiệp trong nước do trình độ kỹ thuật- cơng nghệ và chi phí sản xuất
khơng đồng đều nên có tình trạng giá cả của cùng một loại dược phẩm sản xuất
trong nước rất khác nhau. Do cạnh tranh không lành mạnh, có một tình trạng
đáng báo động là các doanh nghiệp trong nước đua nhau bán phá giá. Có thể coi
việc bán phá giá chẳng khác gì hàng ngày uống thuốc độc để... sống cầm hơi.
Trái lại, một số công ty dược phẩm nước ngoài hoạt động tại Việt Nam , đặc biệt
là các công ty đa quốc gia nắm giữ quyền sở hữu trí tuệ đối với các loại thuốc
mới phát minh, các thuốc chuyên khoa, biệt dược đang có xu hướng liên kết độc
quyền. Độc quyền về nhãn hiệu và giá cả loại thuốc mới đã làm giá thuốc vượt
gấp nhiều lần giá trị sử dụng của thuốc, gây thiệt hại cho ngân sách, cho các cơ
sở y tế và cho cuộc sống của nhân dân đặc biệt là người bệnh có thu nhập thấp.
Mặt khác siêu lợi nhuận do độc quyền giá thuốc đưa lại đã làm cho các cơng ty
đa quốc gia ngày càng có nhiều vũ khí cạnh tranh thơng qua quảng cáo, khuyến
mại, chia hoa hồng (từ 30-50%) cho đội ngũ thầy thuốc và tỷ lệ tiền thưởng cao
cho trình dược viên. Lợi nhuận siêu ngạch của các công ty dược phẩm đa quốc
gia cũng đã biến một bộ phận thầy thuốc bị công ty nước ngoài cầm tay kê đơn
để đổi lại một số quyền lợi vật chất. Một thực tế nữa là các cơ sở tư nhân trở
thành người bán thuốc đầy quyền lực làm cho bệnh nhân phải lệ thuộc vào chủng
loại, giá cả các thuốc do cơ sở hành nghề khám chữa bệnh bán trực tiếp cho bệnh
nhân.
IV. Tham khảo một số mơ hình quản lý thuốc

6


Trước tình hình biến động giá thuốc của nước ta, các cơ quan quản lý nhà
nước đang nghiên cứu ban hành các văn bản pháp quy về quản lý giá thuốc ở
nước ta nhằm thực hiện Pháp lệnh về giá do Quốc hội ban hành và có hiệu lực

từ 1-7-2002. Để góp phần tìm hiểu các nước trên thế giới xử lý vấn đề giá thuốc
như thế nào, chúng ta sẽ tham khảo một số mơ hình quản lý giá thuốc ở các
nước châu Mỹ và một số nước SNG (Nga, Belarus, Ucraina) và Đông Âu
(Rumani, Bungri).
Quản lý giá thuốc ở Châu Mỹ
Ở các nước Châu Mỹ, từ giữa thập kỷ 90, có 4 mơ hình quản lý giá thuốc,
chia thành các loại sau đây:
- Kiểm sốt hồn tồn: Ecuador, Honduras, Panama, Paraguay.
- Tự do hoàn toàn: Argentina, Bolivia, Chile, Cộng hoà Dominican, El Salvador,
Guatemala, Peru, Hoa Kỳ.
- Kết hợp kiểm soát và tự do: Brazil, Costa Rica, Mexico, Uruguay.
- Hỗn hợp tự do và kiểm soát: Canada, Columbia, Venezuela.
Tất cả các mơ hình quản lý giá trên đây đều có ưu và nhược điểm của nó.
Vấn đề là khơng thể áp dụng một mơ hình chung cho tất cả các nước.
* Mơ hình Nhà nước kiểm sốt hồn tồn
Theo mơ hình này, giá thuốc được xác định bởi một cơ quan của Chính
phủ. Các nhà sản xuất phải trình cơ quan của Chính phủ, có thể là Bộ y tế hoặc
Bộ kinh tế, các tài liệu làm cơ sở để hình thành giá thuốc. Sau khi nghiên cứu hồ
sơ, các cơ quan quản lý quyết định cho phép nhà sản suất cộng thêm vào giá
thành một thặng số từ 20 đến 30% để hình thành giá bán bn. Trên cơ sở giá
bán buôn, nhà thuốc bán lẻ được cộng thêm một thặng số từ 25 đến 30% để hình
thành giá bán lẻ. Nhà nước cũng quy định thặng số cộng thêm vào giá CIF cho
thuốc nhập khẩu (Xem bảng 1).
Bảng 1
Cơ quan quản lý giá

Thặng số của nhà sản suất

Thặng số của hiệu thuốc


Ecuador (Bộ y tế)

+25%

Honduras (Bộ kinh tế )

Thuốc nội: +20%
Thuốc nhập: Giá CIF+ phí+ 20%
Thuốc nhập: Giá CIF+ phí +4%

Panama (Văn phịng kiểm
sốt giá của Chính phủ)

Thuốc kê đơn: +30%
Thuốc OTC: +25%

Thuốc kê đơn: +33%
Thuốc OTC: +30%

+27%

Các quốc gia quản lý giá thuốc theo mô hình này cho rằng
các chính sách quản lý nh vậy có tác động tích cực, đảm bảo
giá cả tơng đối đồng nhất, chống đợc đầu cơ và đảm bảo
7


việc cung ứng diễn ra bình thờng. Tuy nhiên, Honduras cho
rằng cơ chế này sẽ làm giá thuốc có thể cao lên do các nhà cung
cấp ghi tăng giá trên hoá đơn. Mặt khác nguồn thuốc cũng rất

khác nhau: thuốc sản xuất trong nớc, trong khu vực (giá rẻ), tại
châu Âu (đắt hơn) và thuốc buôn lậu... Mặc dù vậy, Honduras
không ban hành chính sách để kìm hÃm giá.
* Các mô hình trung gian:
Châu Mỹ có 7 nớc áp dụng các mô hình trung gian (hỗn
hợp) kết hợp giữa cơ chế tự do và có kiểm soát. Nhìn chung
các nớc này xây dựng những quy định quản lý giá riêng phù hợp
với điều kiện cụ thể của môĩ nớc. (Xem b¶ng 2).
B¶ng 2
Cơ quan quản lý giá

Thặng số của nhà sản xuất

Brazil

Chiết khấu (discount) tối đa cho nhà bán lẻ:
10,5%

Canada

Chính quyền địa phương quyết định: kiểm
soát giá thuốc hết hạn bảo hộ sáng chế.

Columbia (Bộ phát triển kinh Chính sách tự do cho 80% các loại thuốc.
tế )
Thuốc cho hộ gia đình: tự do có kiểm sốt.

Costa Rita (Bộ kinh tế )
Mexico


Uruguay

Vênêzla

Thặng số của hiệu
thuốc
Khơng kiểm sốt
Khơng kiểm sốt

+25%

Kiểm sốt thặng số
Nhập khẩu: CIF+30% (CIF +25% cho thuốc
thiết yếu- TTY)

+30%
+25% cho TTY

Các nhà sản xuất tự quy định giá .
Chính phủ quy định chỉ số tăng giá

Không quy định

Nhà sản xuất quy định giá bán: chi
phí + thặng số + cạnh tranh CP giám sát
việc tăng giá
Chiết khấu cho bán lẻ: 40,5%
Chính phủ giám sát
Bán hạ giá phải được thoả thuận
Kiểm sốt giá các thuốc thiết yếu


Khơng quy định

Chiết khấu: 37%

8


Mơ hình trung gian là sự kết hợp hai kiểu quản lý:
- Kết hợp sự giám sát của Chính phủ để xác định giá đối với một số thuốc
( thường là thuốc thiết yếu) với mơ hình như đã mơ tả ở nhóm “kiểm sốt tồn
bộ”, trong khi giá các dược phẩm khác được tự do.
- Các nhà sản xuất được tự định giá và Nhà nước giám sát. Giá thuốc có thể tăng
mà khơng hồn tồn chứng minh.
Hệ quả:
- Mơ hình quản lý này được các nước ưa chuộng vì nó giúp ổn định thị trường
thuốc và cho phép cung ứng đầy đủ các thuốc biệt dược nhưng quy trình quản lý
thì đơn giản đối với nhà quản lý và cho phép các công ty dược cạnh tranh với
nhau.
- Tuy nhiên, trong một số trường hợp, cách quản lý và “tự do kiểm sốt” có thể
dẫn đến tăng giá cao hơn so với khi áp dụng các phương thức “quản lý hỗn hợp”.
Cũng có thể thấy cho cùng loại thuốc sản xuất trong nước và nhập khẩu có thể có
giá cả rất khác biệt.
Nước
Argentina

Thặng số của nhà sản xuất
Thặng số cho bán buôn: +60%
Cho nhà sản xuất hoặc nhập khẩu:
+30%

Dược phẩm trong nước: +35%
Thị trường quyết định
Thặng số cho nhập khẩu: +40%
Thị trường quyết định
Thị trường quyết định

Thị trường quyết định
+30%
Thị trường quyết định

Peru

Nhà nhập khẩu và bán lẻ tự quyết
định

Bộ y tế định giá thuốc tại bệnh viện
& trạm y tế

Hoa Kỳ

Thị trường quyết định

Thị trường quyết định

Bolivia
Chile
Dominican
El Salvador
Guatamela


Thng s ca hiu thuc
+25%

Mô hình cơ chế thị trờng tự do:
Có 8 nớc châu Mỹ cho phép nhà sản xuất chủ động xác
định giá thuốc và thực hiện thặng số hoặc theo quy luật cung
cầu.
Hệ quả:
- Giá thuốc tăng hơn so với tỉ giá hối đoái và chỉ số tiêu dùng
tăng
9


- Giá cả biến động thất thờng và không rõ ràng
- Khuyến khích nhân dân tự điều trị do quảng cáo thái quá
do quy luật cạnh tranh
- Buôn lậu thuốc
- Ở Mỹ 97% tăng chi tiêu y tế là do giá thuốc tăng. Bill Clinton chủ trương
khuyến khích dùng thuốc generic. Đến nay ở Mỹ có 33% số đơn thuốc được kê
toàn bộ bằng thuốc generic, nhưng chỉ chiếm 8% giá trị các thuốc được kê đơn.
Một số nước Liên Xô cũ và Đông Âu
Một cuộc tham khảo cơ chế quản lý giá thuốc ở Nga, Belarus, Ucraina, Rumani
và Bungari cho thấy các nước xã hội chủ nghĩa này sau khi chuyển sang cơ chế
thị trường đều áp dụng các nguyên tắc sau đây:
- Nhà sản xuất tự quyết định giá thành sản phẩm
- Các cơ quan quản lý nhà nước quy định thặng số cho các khâu của quá trình
lưu hàng hố.
Nước

Thặng số bán bn


Thặng số cho hiệu thuốc

Nga
Belarus
Ucraina
Rumani

+20%
+10%
Thị trường quy định
Không quy định

Bungari

+12%

+20%
+40%
Thị trường quy định
+19%
Mỹ phẩm: +30%
Chia làm 4 nhóm theo giá trị mặt
hàng

§èi víi thc nhËp khẩu giá bán buôn đợc tính bằng: giá CIF +
20%
Một số nớc đặc biệt là Bungari, thặng số khâu bán lẻ đợc quy
định 4 loại phụ thuộc vào giá cụ thể của dợc phẩm theo nguyên
tắc những mặt hàng giá cao sẽ có thặng số thấp nhằm bảo

đảm lợi nhuận ở mức độ hợp lý.

10


Chương II
THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ QUẢN LÝ
GIÁ THUỐC Ở NƯỚC TA GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
I. Thực trạng quản lý thuốc trong bệnh viện
Có khoa dược ít người, làm nhiều việc chun mơn, nhưng thư thái. Có khoa
dược đơng người, hầu như chỉ lo việc tính tốn đã tất bật. Có sự trái ngược này là
do cách quản lý thuốc và tiền thuốc khác nhau ở mỗi đơn vị .
Trung tâm y tế H. chỉ có 50 giường bệnh. Mỗi khoa, mỗi ngày chỉ có ít
nhất 4 phiếu lĩnh chính, 4 phiếu lĩnh phụ cho từng đối tượng (viện phí, miễn viện
phí, bảo hiểm y tế, trẻ em dưới 6 tuổi). Nếu có dùng các loại thuốc độc, thuốc
gây nghiện còn phải tách ra các phiếu lĩnh riêng theo đúng quy chế thì số phiếu
lĩnh cịn nhiều hơn nữa. Như thế mỗi khoa, mỗi ngày có 10-12 phiếu lĩnh. Phiếu
lĩnh thường có nhiều dịng, in cỡ lớn, đóng thành sổ nặng. Tờ phiếu lĩnh phụ chỉ
có một hai khoản thuốc, với số lượng rất nhỏ. Các phiếu này khi về khoa dược,
lại được thống kê, tính thành tiền, tách riêng cho từng loại, sau đó cuối mỗi
tháng, quý, năm, lại cộng từng loại đã tách riêng ấy thành tổng xuất để lên bảng
cân đối. Nhìn vào bảng cân đối có thể biết rõ một loại thuốc có bao nhiêu viên,
bao nhiêu ống dùng cho mỗi loại đối tượng, rất công phu, chi tiết, đẹp mắt. Song
Sở y tế, trưởng phòng quản lý dược cho hay phịng chỉ có chức năng quản lý
chuyên môn nên chỉ cần biết tổng thể xuất, nhận, tồn để biết mức độ dùng thuốc
( dùng lập kế hoạch), có thuốc gì ứ đọng hư hỏng (để xử lý) là được, cịn trưởng
phịng tài chính kế tốn nhiều lần đi duyệt quyết toán cũng chỉ biết tổng thể đối
tượng dùng bao nhiêu tiền thuốc chứ cũng không cần biết chi tiết đối tượng dùng
loại thuốc cụ thể gì. Ngay bảo hiểm y tế có hẳn một bộ phận thẩm kê thì việc
thanh tốn cũng chỉ cần biết đối tượng mình quản lý đã dùng thuốc theo đúng tỷ

11


lệ phân bổ chưa, khi cần thiết thì xem một số hồ sơ điều trị điển hình để biết
được liều dùng có phù hợp hay khơng (theo danh mục quy định, có gì bất hợp lý)
chứ cũng khơng cần biết tồn thể đối tượng của mình trong tháng, năm đã dùng
bao nhiêu ống, bao nhiêu viên thuốc gì. Theo cách quản lý thuốc và tiền thuốc
này, chúng ta tốn nhiều công sức (cả của y lẫn dược mà trước hết là của người
phụ trách hành chính ở khoa lâm sàng, người cấp phát thống kê ở khoa dược),
tốn nhiều giấy tờ mà không nhằm vào mục tiêu thiết thực nào?
Bệnh viện T.có cả trăm giường bệnh, thuộc tuyến trên, nên có nhiều khoa,
nhiều đơn nguyên điều trị. Mỗi khoa mỗi ngày chỉ có một phiếu lĩnh chính, một
phiếu lĩnh bổ sung chung cho tất cả các đối tượng (viện phí, miễn viện phí, bảo
hiểm y tế, trẻ em dưới 6 tuổi). Số lượng phiếu lĩnh tại bệnh viện này chỉ bằng
một phần ba số lượng phiếu lĩnh tại trung tâm y tế H. Trên cơ sở các phiếu lĩnh
này, cuối tháng, quý, năm khoa dược chỉ cần làm bảng cân đối tổng thể. Mỗi
tháng khoa dược phát ra cho khoa lâm sàng tổng cộng bao nhiêu tiền thuốc thì
khoa đó phải thu lại (qua bộ phận thu viện phí) chừng ấy (của tất cả mọi đối
tượng). Bệnh viện quy định thống nhất ngày cuối tháng là ngày thanh toán dứt
điểm viện phí ( nếu người bệnh cịn tiếp tục điều trị qua tháng thì thanh tốn vào
dịp khác). Nhờ quy định ngày “khoá sổ” thống nhất mà việc đối chiếu thu chi
tiền thuốc giữa khoa dược, khoa lâm sàng, bộ phận thu viện phí thuận lợi, phát
hiện kịp thời những sai sót. Có sai sót nhỏ như bỏ quên hồ sơ, cộng sai tiền khi
thanh tốn, có tiêu cực nhỏ như cố ý tính viện phí nhẹ tay cho người quen sẽ bị
phát hiện khi đối chiếu. Quản lý thuốc và tiền thuốc theo cách này ít tốn cơng
sức, giấy tờ mà thiết thực.
II. Giá thuốc nội giảm mạnh, thuốc ngoại tăng
Theo thông tin từ các công ty xuất nhập khẩu y tế, giá một số nguyên liệu
sản xuất tân dược đã giảm mạnh. Chẳng hạn như vitamin C, từ 3-4 USD/kg (giữa
năm 2002), tăng vọt lên 14-15 USD/kg (tháng2-3.2003) nhưng đến thời điểm

này đang ở mức 4,5-5 USD/kg. Các vitamin khác cũng giảm đáng kể: vitamin
B1 từ 17-18 USD/kg xuống còn 14 USD/kg; B6 từ 19,5 USD/kg xuống còn 1112 USD/kg. Một số mặt hàng ở nhóm kháng sinh có mức giảm trung bình 1030%. Ampicyclin từ 33-35 USD/kg xuống 28-29 USD/kg; Tetracyclin từ 12,5
USD/kg xuống 11,3 USD/kg... Nguyên liệu thuộc nhóm giảm đau, hạ nhiệt cũng
giảm như Paracetamol từ 2,4 USD/kg xuống 1,8-1,9 USD/kg.
Các công ty bán buôn hiện đang giảm cầu, chỉ lo bán hết số hàng đã nhập,
đồng thời vừa mua cầm chừng vừa “ nghe ngóng thị trường”. Cịn phía sản xuất
khơng chỉ khó khăn do hàng tiêu thụ chậm mà còn lỗ vốn. Một giám đốc cho biết
chỉ riêng với mặt hàng vitamin , cơng ty của ơng có thể đã lỗ 40-50 triệu đồng.
Sau cơn sốt giá, việc tiêu thụ đã chững lại. Các doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn
12


DMP cịn gặp khó khăn hơn do chi phí sản xuất quá cao. Tại một số đơn vị, công
nhân chỉ làm việc 4 ngày/tuần. Riêng thuốc nội, các doanh nghiệp cho biết tại
thời điểm giá nguyên liệu tăng đột biến, các chi phí sản xuất: điện, xăng dầu, bao
bì... cũng tăng. Giá thuốc nội cũng tăng nhưng không theo kịp bởi thường trong
tình trạng cạnh tranh giá, chỉ cần nhích một chút là không bán được hàng. Theo
phản ánh của các nhà thuốc, giá một số mặt hàng thuốc nội giảm nhẹ hoặc ổn
định trong những tháng gần đây. Trong khi đó khá nhiều thuốc ngoại lại lên giá.
Biến động về giá càng khiến các doanh nghiệp khó khăn trong việc thực
hiện thông tư liên tịch y tế - tài chính quy định về niêm yết giá thuốc bán lẻ. Một
số cơng ty, xí nghiệp chi phí cho việc gián tem lượng hàng tồn kho lên tới cả
trăm triệu đồng. Thêm vào đó là các thao tác cho việc dỡ ra, xếp vào cũng có thể
ảnh hưởng đến chất lượng thuốc do yêu cầu bảo quản rất khắt khe. Vì vậy niêm
yết giá thuốc nào cho hợp lý khi giá thuốc biến động hàng ngày là một vấn đề rất
khó khăn cho các doanh nghiệp.
III. Những đơn thuốc vì lợi nhuận của lương y
Tại một bệnh viện trung ương đóng trên địa bàn Hà Nội, chị H đến khám
bệnh vì sốt cao. Bác sỹ khám nghi chị bị sốt xuất huyết và kê đơn nói là cho về
uống thử vài hơm nếu thấy khơng đỡ thì đến khám lại . Trước khi ra khỏi phịng

khám bác sỹ khơng qn nhắc vợ chồng chị ra hiệu thuốc ngoài cổng bệnh viện
mà mua. Ra đúng hiệu thuốc ở cổng bệnh viện, chồng chị H đưa đơn cho người
bán tính tiền và được biết phải trả gần 200.000 đ tiền thuốc. Kinh tế gia đình
khơng dư dật gì vả lại số tiền mang theo không đủ, chồng chị H đành lấy lại đơn
thuốc để mua sau. Về nhà cầm đơn thuốc đi mua ở mấy hiệu ở gần, chồng chị H
đành phải quay về vì trong đơn có một loại thuốc tên là Thymomodulin của
Pháp, giá 6.500 đ/một viên là thuốc mới và đắt tiền nên các cửa hiệu chưa nhập.
Trở về bàn bạc, vợ chồng chị H quyết định quay lại hiệu thuốc của bệnh viện để
mua thuốc còn thuốc bổ trong đơn bác sĩ kê cho một lọ Enirvon C 100 viên
nhưng chỉ dám mua 10 viên vì giá 1.000 đ/viên nhưng dù chỉ là mua thuốc bệnh
số tiền thanh toán cũng hết gần trăm ngàn đồng, sau mấy ngày sốt cao, chị H hạ
huyết áp và mệt sỉu nên gia đình lại vội vàng đưa chị vào bệnh viện. Lần này chị
nhập viện để điều trị. Vào nằm viện chị H được bác sĩ trưởng khoa tới khám và
hỏi đã điều trị thuốc gì. Vợ chồng chị đưa thuốc cùng sổ khám bệnh ra cho bác
sỹ xem. Xem xong, bác sỹ lắc đầu và đi ra cửa. Thấy lạ, vợ chồng chị H chú ý
xem các bác sỹ nói gì với nhau và mặc dù nói nhỏ với một bác sỹ khác ở ngoài
cửa nhưng anh chị vẫn nghe được bác sĩ trưởng khoa nói: ai lại kê cho người ta
toàn loại thuốc nặng và đắt tiền như vậy.
Sau mấy ngày điều trị, chị H khỏi bệnh và ra viện nhưng trong nhà bà mẹ
cũng bị sốt. Lần này vẫn là chồng chị H đưa mẹ đi khám và vẫn ở phòng khám
13


của bệnh viện ấy, chỉ có người khám là khác. Khi nhận đơn thuốc, chồng chị H
thấy rất ngạc nhiên vì bác sĩ cũng nói với anh là nghi cụ bị sốt xuất huyết nhưng
hai đơn thuốc của hai bác sĩ lại khác nhau và cũng mua thuốc ở cổng bệnh viện
ấy mà số tiền chỉ hết có 7.500 đ. Về nhà điều trị một thời gian theo đơn, mẹ chị
H cũng qua khỏi bệnh.
Như vậy việc kê đơn của hai bác sĩ trên là khơng có gì sai. Điều khác nhau là
một bên kê tồn thuốc thơng dụng sản xuất trong nước, rẻ tiền một bên kê toàn

thuốc ngoại hoặc thuốc liên doanh đắt tiền lại có những loại thuốc hiếm như
thuốc Thymomodulin của Pháp mà chỉ có bác sĩ kê đơn mới biết hiệu thuốc nào
đang bán.
Vì sao lại có chuyện kê đơn khác nhau như thế ? Có hai ngun nhân chính:
- Xuất phát từ một số bệnh nhân và gia đình bệnh nhân do kinh tế khá giả
nhưng khơng có chun mơn về ngành y nên mỗi khi có bệnh dù đi khám
ở phịng khám tư hay bệnh viện thường hay đòi bác sĩ kê đơn cho loại
thuốc mạnh độ nhất và tất nhiên là đắt tiền nhất. Tâm lý này lâu dần làm
cho một số bác sĩ ở các phịng khám có vẻ có tiền là kê ngay cho một toa
thuốc ngoại đắt tiền.
- Nguyên nhân thứ 2 nguy hiểm vì nó ăn mịn và huỷ hoại lương tâm người
thầy thuốc. Đó là một số khơng ít bác sỹ ở các phịng khám kể cả phòng
khám tư hoặc tự bán thuốc hoặc commang với một hiệu thuốc tây nào đó ở
cổng bệnh viện hay bất cứ nơi nào để kê đơn và chỉ dẫn bệnh nhân mua
thuốc nhằm ăn phần trăm của các hiệu thuốc trích cho theo giá trị của
từng đơn thuốc. Vì lợi ích cá nhân, các bác sĩ kiểu này không cần biết
người bệnh có tiền hay khơng, cứ khám xong là phóng tay kê những loại
thuốc ngoại lại có cả những loại thuốc đắt tiền để mong hưởng được số
phần trăm cao nhất.
Trước tình trạng này các giáo sư ở Học viện Quân y trong khi giảng bài cho
học sinh vẫn thường nhắc tới và họ gọi đó là những đơn thuốc của các bác sĩ vơ
lương tâm vì nó nhằm phục vụ lợi nhuận của các bác sĩ hơn là vì bệnh nhân và
lại càng khơng phải để phục vụ đất nước.
Sự vô lương tâm của họ là ở chỗ ngồi việc buộc bệnh nhân nhất là những
bệnh nhân có hồn cảnh gia đình khó khăn phải trả một số tiền nhiều hơn cho
một lần chữa bệnh, đặc biệt khi bệnh nhân là trẻ em do ngay từ đầu đã điều trị
thuốc nặng nên dễ quen thuốc và bắt buộc lần điều trị sau phải dùng thuốc nặng
tương tự hoặc nặng hơn. Đó chính là điều vơ lương tâm của các bác sĩ khi kê
đơn mà lại đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của bệnh nhân.
Ngày nay trong sự tiến bộ của ngành dược trong nước, chúng ta đã sản xuất

được rất nhiều loại thuốc đảm bảo chất lượng cao, chủng loại phong phú, đáp
ứng được việc phục vụ chữa nhiều loại bệnh cho nhân dân, mà giá cả lại rẻ hơn
nhiều so với thuốc ngoại. Nếu tất cả các bác sỹ trong khi khám và điều trị cho
14


bệnh nhân đều hướng về thuốc ngoại thì hỏi rằng ngành dược Việt Nam sẽ đi đến
đâu?
Không chỉ người dân mà các bác sỹ điều trị, nhà quản lý đều mong muốn
việc kê đơn, kiểm duyệt kê đơn được thực hiện nghiêm túc hơn. Điều này không
chỉ nhằm tăng cường hiệu quả khám chữa bệnh , mà còn là tài liệu bảo vệ cho cả
bệnh nhân và bệnh viện khi xảy ra sự cố: Thuốc – “Con dao hai lưỡi” sẽ phát
huy hiệu quả tích cực và hạn chế được tác dụng phụ.
Việc kê và lưu đơn thuốc nghiêm túc chắc chắn sẽ giảm tỷ lệ ngộ độc tân
dược. Taị khoa Chống độc thường cấp cứu rất nhiều trường hợp ngộ độc thuốc,
đặc biệt là thuốc tân dược. Việc yêu cầu lưu đơn thuốc nghiêm túc sẽ nâng cao
hiệu quả quản lý thuốc, chính bác sĩ cũng có trách nhiệm hơn khi kê toa với
những hướng dẫn cụ thể, chi tiết cho người bệnh.
Việc lưu đơn làm liền mạch, tăng hiệu quả điều trị. Có những loại thuốc dễ
“bẫy” thầy thuốc như hormon - nội tiết, liều dùng chỉ cần sai số 1 ml đã có thể
phản tác dụng, thuốc chữa lùn tuyến giáp trạng lại làm cho đứa trẻ thấp hơn so
với trẻ bình thường, thuốc nội tiết dùng trong sản khoa thai nhi dùng quá nhiều
cũng gây xẩy thai, già tháng. Thế nên, đơn thuốc phải được ghi rõ ràng và lưu
đầy đủ, để việc sử dụng thuốc được tiện theo dõi liên tục, tránh những sai sót
đáng tiếc, khó “sửa chữa”.
Đơn thuốc chính là tài liệu pháp lý. Tỷ lệ dị ứng thuốc tại các nước tiên
tiến như Mỹ, Pháp, Canada chỉ khoảng 2%. Việt Nam những năm 80, cũng ở tỷ
lệ tương đương. Chỉ 20 năm sau, 2001, ở nước ta, tỷ lệ người bị dị ứng đã trở
nên rất đáng lo ngại, chiếm khoảng 7 – 8% dân số, riêng Hà Nội và TPHCM là
8,5 – 9%. Tai biến dị ứng do thuốc kháng sinh vẫn chiếm hàng đầu: 80,3%. Bệnh

cảnh lâm sàng dị ứng cũng ngày càng phong phú, đa dạng. Khơng ít việc kiện
tụng xảy ra khi có tai biến trong điều trị. Ngun nhân chính của tình trạng đáng
lo ngại này khơng chỉ do bệnh nhân tự điều trị, chưa quản lý chặt chẽ việc nhập
và kinh doanh thuốc mà còn bởi cán bộ y tế thiếu kiến thức và thiếu ý thức.
Trong khi đó, bất cứ loại thuốc nào đưa vào cơ thể cũng có thể gây nên những
tác hại nhất định. Đơn thuốc thể hiện trình độ chun mơn và trách nhiệm của
bác sĩ, vì vậy cần phải lưu nghiêm túc. Khi gặp tai biến, những đơn thuốc chính
là tài liệu pháp lý, là cơng cụ bảo vệ cho chính người hành nghề trước pháp luật.
Thị trường dược phẩm Việt Nam đang dồi dào thuốc đảm bảo chất lượng,
nhưng cũng không thiếu thuốc nhập lậu, hàng sách tay, thuốc quá “date”, kém
phẩm chất. Các cơ quan chức năng đã nhiều lần cảnh báo tình trạng y bác sĩ
thiếu cập nhật về thơng tin dược phẩm; tình trạng mua bán thuốc có độc tính,
thuốc bán theo toa dễ dàng; những chiến dịch quảng cáo dược phẩm kèm theo
quà biếu và tỷ lệ hoa hồng đang chi phối mạnh mẽ việc kê đơn đối với một số
thầy thuốc ý thức kém về nghề nghiệp. Chương trình quốc gia về thuốc đã được
triển khai hơn 10 năm, với 2 nội dung: Cung cấp đầy đủ các thuốc thiết yếu và
15


Sử dụng thuốc an toàn hợp lý. Nhưng theo những báo cáo mới nhất của bộ phận
theo dõi về thuốc và điều trị của Bộ Y tế thì nguyên nhân đầu tiên là trình độ
thầy thuốc (2%), do khâu chuẩn đoán (28%), do vấn đề bán thuốc và cuối cùng
là do sử dụng thuốc.
Trong thời điểm này, nếu kê đơn và bán thuốc theo đơn không được siết
chặt, mục tiêu của “Chương trình sử dụng thuốc an tồn, hợp lý” càng khó đến
đích. Quy chế được nới lỏng, bác sĩ có thể “tháo khốn” kê đơn, thì những hậu
quả do sử dụng thuốc sai lầm sẽ còn tiếp tục gia tăng.
IV. Sính thuốc ngoại
Hiện nay ở các nhà thuốc tư nhân cũng như nhà nước, mặt hàng thuốc
chữa bệnh sản xuất trong nước chỉ chiếm một con số khiêm tốn .Người đến mua

thuốc thường hỏi mua những loại thuốc ngoại, chỉ những người “hiếm tiền” mới
xài thuốc nội. Tai sao lại có hiện tượng đó?
Trước hết phải kể đến sự “cho phép” của các cơ quan quản lý dược. Có thể
nói đó là sự “ mở cửa” rất ồ ạt. Có trường hợp các xí nghiệp dược phẩm trong
nước đã sản xuất được một số mặt hàng kháng sinh, nhưng vẫn cứ nhập. Hậu
quả của việc này đã đưa đến một quan niệm tai hại: thuốc ngoại mới tốt, còn
thuốc nội “chất lượng kém”. Phải nói rằng quan niệm này khơng phải xuất phát
từ người bệnh mà chính từ những người thầy thuốc kê đơn cho bệnh nhân. Một
bằng chứng rõ rệt nhất đang xảy ra, đó là Quỹ BHYT bị “thủng” chỉ vì lý do
dùng thuốc ngoại quá nhiều. Một điều cần nói nữa là các cơ sở y tế “thích” dùng
thuốc của các hãng dược phẩm nước ngồi đến tiếp thị, vì có “phần trăm” trong
đó... Người thày thuốc, người bán thuốc đã “làm khổ” túi tiền của người bệnh
với một lời khuyên “mua thuốc ngoại, đắt tiền mới tốt”. Trong khi đó thuốc được
sản xuất ở Việt Nam được chế biến bằng nguyên liệu ngoại, giá thành chỉ bằng
1/3 thuốc ngoại nhưng vẫn khơng được đối hồi tới.
V. Cơng nghiệp dược phẩm đang cần hồi sinh
Nhìn nhận thực trạng các ngành công nghiệp của nước ta những năm vừa
qua, có thể thấy cơng nghiệp dược phẩm là một trong những lĩnh vực đang gặp
rất nhiều khó khăn vướng mắc. Mặc dù phát triển rất sớm và phát triển mạnh mẽ
nhất là những năm 70, phân bố rộng khắp mọi vùng đất nước, nhưng giờ đây sức
lực của ngành dược cứ yếu dần. Sở dĩ có tình trạng đó là vì nhìn chung các nhà
máy xí nghiệp sản xuất dược phẩm trong nước về trang thiết bị kỹ thuật, máy
móc đều cũ kỹ lạc hậu, nhiều năm nay khơng được đầu tư, nâng cấp. Thậm chí
cịn khơng ít các cơ sở đang sử dụng những thiết bị của những năm 60, dùng
cơng nghệ đóng chân khơng của thập kỷ 40, 50. Các đồng chí ở vụ quản lý dược
16


phẩm thuộc Bộ Y tế cho biết, toàn ngành chỉ có khoảng 10% nhà máy xí nghiệp
được trang bị máy móc thiết bị hiện đại của thập kỷ 90. Chủ yếu các thiết bị này

nằm ở doanh nghiệp thuộc tổng cơng ty dược Việt Nam (VINAPHARM). Tuy có
thiết bị hiện đại nhưng lại thiếu sự đồng bộ, do đó ảnh hưởng đến hiệu quả sản
xuất kinh doanh...
Bên cạnh đó, muốn sản xuất dược phẩm phải có cơ sở cơng nghiệp sản
xuất nguyên liệu, nhưng lĩnh vực này hầu như chưa có. Vì vậy các ngun liệu,
hố chất, hố dược tá dược, bao bì đóng gói sản phẩm... cũng phải nhập ngoại.
Việc sản xuất dược liệu kể từ khâu quy hoạch cho đến nuôi trồng, nghiên cứu
chế biến chưa được quan tâm đầu tư đúng mức nên dược liệu trong nước bị mai
một dần. Về công nghệ phân phối mang nặng tính chất thủ cơng và lạc hậu. Chủ
yếu là do các đơn vị sản xuất thiếu vốn, hoặc không nắm bắt nhu cầu thị trường.
Có thể nói những yếu tố trên đây là một “gánh nặng” đối với ngành dược
phẩm trong nước làm cho sản xuất bấp bênh, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp,
chất lượng sản phẩm yếu kém. Chính vì số lượng hoạt chất ít các xí nghiệp dược
phẩm trong nước sản xuất các chủng loại thuốc luôn luôn ở mức “nghèo nàn”.
Về chất lượng thuốc do công nghệ lạc hậu, lại phải nhập vật tư nguyên liệu của
nước ngồi, cũng như trình độ hạn chế về quản lý sản xuất kinh doanh, bảo quản
sản phẩm nên nhiều loại thuốc chất lượng kém. Tỷ lệ thuốc chất lượng kém tập
trung khá cao ở các loại thuốc kháng sinh, thuốc hạ nhiệt giảm đau, thuốc đơng
dược. Có đợt kiểm nghiệm thực tế ở 850 loại thuốc đã có tới 120 loại thuốc kém
chất lượng phải đình chỉ sản xuất.
Cái yếu nhất của ngành dược Việt Nam là chưa xác định hướng đi phù
hợp. Sản xuất rất bấp bênh do không tạo ra được thế mạnh riêng và mặt hàng
mũi nhọn của mình.
Điểm mặt các sản phẩm dược của nước ta trên thị trường cũng thấy rõ
điều đó. Có thể nói hầu như các loại thuốc quan trọng như kháng sinh các loại,
thuốc biệt dược... đều là của nước ngoài. Cịn của ta chủ yếu là các loại thuốc
thơng thường, thuốc đông dược, rượu thuốc... Bộ Y tế đã thống kê các dược
phẩm sản xuất trong nước để đưa ra một con số khá khiêm tốn: tỷ trọng chiếm
khoảng 20% trong thị trường nội địa. Rõ ràng ngành công nghiệp dược phẩm của
chúng ta đang cần “hồi sinh”, Nếu cứ để tình trạng yếu kém do những nguyên

nhân khách quan, chủ quan như đã nêu trên, thì nguy cơ tụt hậu sẽ cận kề bên
cạnh, đồng thời tỷ trọng “ ngoại hoá” thị trường thuốc ở Việt Nam càng cao.
Theo ý kiến của các chuyên gia y tế, để “hồi sinh” ngành dược cần có các
biện pháp cấp bách và đồng bộ kể từ quy hoạch chiến lược phát triển đến công
tác đầu tư chiều sâu vào nghiên cứu, sản xuất thuốc và thâm nhập thị trường.
Bên cạnh đó là việc khai thác phát huy nội lực của toàn ngành để khẳng định vị
trí là một lĩnh vực cơng nghiệp quan trọng trong ngành y tế nước ta.

17


VI. Giá thuốc tăng: Cả bệnh viện và ngưòi bệnh đều lao đao
Chưa khi nào các cơ sở khám chữa bệnh trong toàn quốc lại phải đối mặt
với một thực tế hết sức đáng lo ngại như hiện nay: Giá thuốc ngày càng tăng và
khơng hề có chiều hướng giảm. Về phía người bệnh sự lo âu của họ càng thể
hiện rất rõ ràng. Đa số người bệnh đều cho rằng: Nhà nước cần kiểm soát và
kiềm chế giá thuốc , bởi vì với những người bệnh có hồn cảnh khó khăn về kinh
tế thì việc tăng giá thuốc càng làm cho tình cảnh của họ thêm trầm trọng. Trong
khi đó ngày 26.9.2003, Bộ Y tế và Bộ Tài chính mới có một cuộc họp quan trọng
để bàn về việc kiềm chế giá thuốc. Khi giá thuốc tăng cao, người chịu ảnh hưởng
nhiều nhất là những bệnh nhân nghèo, đặc biệt là những bệnh nhân mắc bệnh
mãn tính phải dùng thuốc đặc hiệu và điều trị dài ngày. Một câu hỏi đặt ra cho
các nhà quản lý dược, là phải nắm được bản chất của việc tăng giá này: Do giá
thành vật liệu tăng cao, hay do sự “nổi hứng” tuỳ tiện của những nhà kinh doanh
tân dược, thấy giá vàng tăng cũng tăng giá thuốc, thì các nhà quản lý tài chính và
quản lý dược phải có những biện pháp điều chỉnh kịp thời, không thể để giá
thuốc tăng tuỳ tiện, khiến những người nghèo chỉ vì khơng có tiền phải “chung
sống” với bệnh tật.
Hiện nay có những bệnh nhân mắc bệnh bẩm sinh rất nặng, chi phí cho
tiền thuốc rất lớn. Đó là những bệnh nhân bị ung thư máu, rối loạn nội tiết, rối

loạn chuyển hoá... mà tiền điều trị mỗi đợt lên đến cả chục triệu đồng. Có những
bệnh nhân nghèo đến mức, tiền ăn khơng có nói gì đến tiền thuốc, khiến bệnh
viện phải miễn chi phí khám chữa bệnh 100%. Thế nhưng, khi giá thuốc tăng,
chắc chắn chi phí khám chữa bệnh vốn đã cao sẽ còn tăng cao hơn nữa, khiến
bệnh viện cũng phải lao đao vì khơng đủ kinh phí để “gánh vác” giúp bệnh nhân.
Vậy nên, có những bệnh cần biệt dược đắt tiền mới chóng khỏi bệnh thì lại phải
kê những thuốc tác dụng kém có giá rẻ hơn, nhưng lại kéo dài quá trình điều trị.
Vậy nên, nếu giá thuốc tiếp tục tăng mà nhà nước không kịp thời kiểm soát và
điều chỉnh, những bệnh nhân nghèo sẽ chết.
Chỉ tính riêng 8 tháng đầu năm 2003, chi phí khám chữa bệnh cho bệnh
nhân có thẻ BHYT đã lên tới 941 tỉ đồng, bằng chi phí khám chữa bệnh cả năm
2002. Nguyên nhân của sự tăng vọt chi phí khám chữa bệnh, một phần do sự
tăng giá của nhiều loại thuốc trên thị trường. Tuy hiện tại, chi phí khám chữa
bệnh tăng 30% so với năm ngoái, chưa làm mất an toàn quỹ, nhưng đến năm
2004 nếu giá thuốc vẫn tiếp tục tăng mà Nhà nước khơng có sự điều chỉnh thị
trường thuốc tân dược và tăng mức đóng BHYT, thì chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến
sự an tồn quỹ.

18


VII. Tác động của Thông tư 08 Liên Bộ Y tế và Tài chính về niêm yết giá
thuốc
Thị trường tân dược đã và đang nóng lên từng ngày, đặc biệt tân dược
ngoại nhập đang tăng giá mạnh, điều này đã dẫn đến nhiều bất ổn trên thị trường
dược phẩm. Bệnh nhân đã và đang có nguy cơ bị “móc túi” nhiều hơn.
Tại thị trường Hà Nội, giá thuốc tân dược đã nhích lên từ cuối tháng trước, đặc
biệt là các loại biệt dược nhập khẩu. Đến thời điểm cuối tháng 9, giá bán lẻ các
mặt hàng thuốc tây đã tăng từ 15-25% so với thời điểm tháng 7/2003. Thậm chí
các loại thuốc tân dược thuộc nhóm vitamin ngoại nhập hoặc có nguyên liệu

ngoại nhập... đã tăng lên xấp xỉ 25% so với tháng 6. Cịn các loại thuốc thuộc
nhóm kháng sinh tăng phổ biến ở mức 20-30%. Riêng tại một số tỉnh, thành
khác, mức độ tăng giá có vẻ ít hơn nhưng các mặt hàng thuộc danh mục nhập
khẩu đều đã tăng giá mạnh. Ví dụ như Augmentin của Singapore đã được niêm
yết tăng thêm lên khoảng 380.000-385.000đ, Amoxinlie nhập khẩu từ các nước
châu Âu cũng đã tăng lên khoảng 500đ/viên, Notrpin tiêm (1g) từ 9.000đ/ống lên
11.000đ/ống. Thuốc Siedon 2mg của Hàn Quốc giá vốn là 31.000đ, bán ra
142.000đ (lãi 382%), Diabctmin 500mg của Malaysia gía vốn 13.000đ, được bán
với giá 66.000đ(lãi 390%), Vitamin C sủi từ 19.000đ/lọ nay bán ra 22-23.000đ
và trên bao bì niêm yết giá 25.000đ... Bên cạnh đó một số thuốc thuộc dịng đặc
chủng thường hay khan hàng như: Pulmall, Heparin, Voltaren... đều đã được bán
với giá cao hơn tạo nên những biểu hiện bất thường trên thị trường thuốc tân
dược nước ta.
Còn nhớ trong đợt sốt giá lần trước (3/2003), các công ty đã giải thích chủ
yếu là do đồng EURO tăng giá, khiến những mặt hàng thuốc có nguồn gốc nhập
khẩu từ các nước châu Âu tăng cao. Tuy nhiên theo giới phân tích nhận định, đợt
tăng giá lần này chủ yếu không phải là do giá nguyên liệu cao, mà do tâm lý
niêm yết thuốc tăng giá để “đón đầu” của các cửa hàng thuốc chứ giá nhập khẩu
thuốc cũng như nguyên liệu là biến động không đáng kể. Với tâm lý chung của
các doanh nghiệp là khi buộc phải thực hiện việc niêm yết giá bán, chắc chắn sẽ
khơng có việc mặc cả giá thuốc. Vì thế hầu như khi niêm yết họ đều niêm yết giá
cao hơn giá thực tế. Chính điều này đã tạo nên một tình trạng giá ảo trên thị
trường. Tuy niêm yết giá cao nhưng giá bán thì nhiều khi cũng tuỳ... thậm chí
nhiều cửa hàng nếu gặp khách quen họ vẫn bán theo giá cũ thấp hơn 10-15% so
với niêm yết. Điều này tạo ra trên thị trường thuốc tân dược một tình trạng bất
bình thường, giá thật giá giả lẫn lộn khó kiểm sốt. Người bệnh quen thân còn đỡ
chứ người lạ mua thuốc chắc chắn phải trả cao hơn thực tế.
Theo số liệu thống kê của Bộ Y tế, dù đã có nhiều cố gắng nhưng số tiền
chi cho việc sử dụng thuốc theo bình qn đầu người ở nước ta cịn thấp trong
khu vực. Năm 2002, số tiền bình quân chi cho thuốc của nước ta là vào khoảng

19


6,2 USD/người, trong khi đó bình qn của thế giới là khoảng 40 USD/người,
còn chỉ số này tại các nước phát triển như: Mỹ khoảng 220 USD/người, Nhật
Bản khoảng 400 USD, của Tây Âu khoảng trên 200 USD/người... Thế nhưng với
số tiền bình qn ít ỏi đó, người bệnh vẫn đang bị móc túi bởi khá nhiều hình
thức.
Theo nhận xét của nhiều người, trước việc niêm yết giá thuốc chữa bệnh,
đã xảy ra nhiều tình trạng về việc chung chi hoa hồng, liên minh nâng giá nhằm
móc túi người bệnh. Tình trạng thứ nhất khá phổ biến là việc liên minh ngầm
giữa bác sĩ kê đơn và các nhà thuốc. Bất cứ người bệnh nào khi được kê đơn, bác
sĩ đều chỉ bảo tận tình ra mua ở hiệu thuốc nào. Và cứ thế, những nhà thuốc dù
trong hay ngoài bệnh viện dĩ nhiên sẽ bán với giá cao hơn cho người mua. Phần
chênh lệch này sẽ chung chi giữa nhà thuốc với bác sĩ kê đơn. Điều đau lòng hơn
là người bệnh chẳng bao giờ biết mình đang uống thuốc gì, giá bao nhiêu vỉ tất
cả đã được “phi tang” bao bì, vỉ nhãn nên những kiểu móc túi này thường ít bị
phát hiện tạo nên một tình trạng nâng giá thuốc một cách khá hợp lý. Trường hợp
thứ hai, cũng khơng phải là khơng có khả năng xảy ra chính là việc các nhà nhập
khẩu liên minh với nhà xuất khẩu nước ngoài đẩy giá lên ngay từ khâu nhập
khẩu. Việc đẩy giá lên sẽ bằng cách khai khống giá nhập khẩu theo hướng tăng
lên, sau đó phần chênh lệch sẽ được chuyển cho bên phân phối tại Việt Nam
theo kênh chuyển về văn phòng đại diện của nhà xuất khẩu thuốc tại Việt Nam
hoặc thông qua một số con đường khác. Như vậy khi bán ra thị trường, các nhà
nhập khẩu mặc nhiên hợp pháp hoá việc tăng giá thuốc trong khi đó về bản chất
giá nhập khẩu là không thay đổi đáng kể, nguồn chênh lệch có được từ... người
bệnh thì cả hai đều được lợi, chỉ có người bệnh là thiệt đơn, thiệt kép.
Nước ta có tới 75% dân số sống trong vùng nơng nghiệp và nông thôn và
đại bộ phận trong số này được coi là nghèo. Thu nhập không tăng là bao nhiêu
trong khi đó người dân liên tục chứng kiến sự gia tăng của giá điện, giá nước, giá

viện phí... Đặc biệt, từ đầu năm đến nay, người dân đã phải chứng kiến sự “sốt
giá” của: Xăng dầu, thép, phân đạm, gương xe máy... nay lại đến lượt giá thuốc
tăng mạnh, tăng lần thứ hai chỉ trong vòng sáu tháng. Việc niêm yết giá thuốc là
cần thiết tránh người bệnh phải mua thuốc với giá quá cao. Tuy nhiên, việc lợi
dụng nó để bán giá cao hơn giá thực móc túi người bệnh là một điều khó có thể
chấp nhận, nhất là trong tình trạng đa số bệnh nhân nghèo như hiện nay. Có lẽ đã
đến lúc phải có một cơ chế kiểm soát giá thành hợp lý nhằm bảo vệ quyền lợi
của người bệnh.
VIII. Giá thuốc: Ai niêm yết, ai kiểm tra?
Từ quan sát thực tế

20


Sau ngày có pháp lệnh giá, Đà Nẵng là một trong những địa phương thực
hiện kịp thời việc niêm yết giá. Trong bối cảnh chung đó, UBND thành phố Đà
Nẵng cũng ra quyết định qui định khung giá bán lẻ thuốc. Hầu hết các điểm bán
hàng của công ty nhà nước và tư nhân đều có bản quyết định đó. Nhưng quyết
định của UBND cũng chỉ để người bán đọc. Một vài loại thuốc thông thường
(thuốc hạ nhiệt, giảm đau, chống viêm) cũng như vài loại kháng sinh nội, ngoại (
amoxicilin, clamoxyl, ofloxacin, cephalexin), với các loại thuốc thông thường
các điểm bán khác nhau thường vượt giá khung ( nhưng không lớn). Với các loại
kháng sinh, nhất là các loại kháng sinh ngoại thì các điểm bán có giá khác nhau,
khó có thể đem giá khung ra so sánh.
Trong khi chờ đợi quyết định của UBND tỉnh, Sở y tế Quảng Trị có văn
bản cho các cơng ty dược được cộng thêm 15% vào giá mua gốc để hình thành
giá lẻ. Phần lớn các công ty tuân thủ “công thức” này trừ một số mặt hàng đặc
biệt. Tuy nhiên , việc thực hiện rất khó. Với mức chiết khấu 6% trên giá lẻ, mậu
dịch viên có doanh số thấp (10 triệu đồng trở xuống) thường không trang trải nổi
các khoản chi nên họ hoặc tăng giá lên hoặc đẩy thuốc ấy cho tuyến dưới, lấy

thuốc khác bán thay vào. Điều kiện cơ sở chật chội cũng không cho phép các
mậu dịch viên niêm yết công văn của Sở cũng như giá bán.
Quanh Bệnh viện trung ương Huế có hàng chục điểm bán thuốc của Nhà
nước và tư nhân. Giá ở đây không những thay đổi theo từng điểm bán mà còn
thay đổi tuỳ “mức khẩn cấp” của người dùng và thời điểm bán thuốc. Có người
bệnh nằm ở phịng cấp cứu người nhà phải mua một lọ sefotaxim 1g khi thì
20.000 đồng, khi thì 25.000 đồng, mà với 20.000 đồng cũng đã vượt giá thông
thường 13.000 đồng.
Ra Hà Nội, các điểm bán thuốc quanh khu vực Giảng Võ, Văn Miếu
Quốc Tử Giám, những điểm bán ở đây mặt bằng phần lớn hẹp, có nơi cịn bị che
lấp bởi những mặt hàng tạp hố khác. Bởi thế khó tìm thấy bảng niêm yết giá.
Cơ quan quản lý nhà nước về giá thuốc cần làm tốt công tác kiểm tra các
cơ sở bán lẻ để làm tốt công tác quản lý giá thuốc.
IX. Những biến động trên thị trường Đông dược
Đến nay, công tác quản lý, phát triển đông dược ở nước ta đã có những kết
quả đáng khích lệ. Theo thống kê của Vụ y học cổ truyền – Bộ y tế, đến năm
2002, chúng ta đã sưu tầm được 1.863 loài cây thuốc của 238 loài thực vật; thu
thập gần 8.000 tiêu bản của 1.296 loài; đã nhập hàng trăm lồi cây thuốc của
nước ngồi và nghiên cứu thuần hố trong nhiều năm. Có khoảng 70 lồi đã
thích nghi và sinh trưởng, phát triển ổn định trong điều kiện khí hậu Việt Nam;
1.760 thành phần thuốc đông dược được phép sản xuất và lưu hành... Đặc biệt,
có một số đơn vị đã từng bước đầu tư trang thiết bị, nâng cao kỹ thuật, thay đổi
21


cơng nghệ nhằm tạo ra những sản phẩm tốt, có uy tín, chất lượng cao chiếm lĩnh
được thị trường.
Tuy nhiên, trong công tác quản lý dược liệu, vẫn bộc lộ những mặt trì trệ,
yếu kém như: Dược liệu ni trồng chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng trong
nước, mà vẫn phải nhập một số lượng lớn dược liệu từ Trung Quốc (nguồn này

chủ yếu là nhập lậu do tư nhân điều tiết) vượt ngồi tầm kiểm sốt của ngành y
tế; hoạt động xuất khẩu dược liệu nói chung chưa được thống nhất quản lý. Mọi
ngành, mọi cá nhân đều có thể tuỳ tiện tham gia xuất khẩu; chế độ chính sách và
cơng tác quản lý cịn nhiều bất cập, thiếu tập trung. Việc phối kết hợp với các cán
bộ, ngành chưa được chặt chẽ, thống nhất, thường xuyên.
Thời gian vừa qua dược liệu thuốc Bắc tăng liên tục là do tình hình thu mua,
sử dụng bên Trung Quốc tăng để phục vụ nhu cầu phòng chống SARS. Thời
điểm SARS hồnh hành tại Trung Quốc, Viện Nghiên cứu Đơng y Trung Quốc
cơng bố 3 bài thuốc Đơng dược giúp phịng chống căn bệnh này vận dụng
nguyên tắc phù chính khu tà trong đó các vị xương truật, kim ngân hoa và sâm
được dùng phổ biến. Dân sở tại đổ xô đi mua thuốc Đông y gây nên cơn sốt.
Cơn sốt Đông dược ở Trung Quốc ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường Đông dược
Việt nam dù ở nước ta, dân khơng q sùng bái đề phịng SARS. Ngồi nhu cầu
sử dụng thuốc Đông y của Trung Quốc tăng, nguyên nhân nữa khiến giá Đông
dược ở nước ta tăng là do việc thông thương giữa hai nước bị hạn chế, khiến việc
vận chuyển mặt hàng thuốc Bắc vào nước ta hạn chế. Nhân cơ hội này các chủ
hàng tăng giá. Rất nhiều vị thuốc tự túc được, nhưng các cửa hàng vẫn tăng giá
đồng loạt.
Hiện đã tạm thời qua thời điểm kịch trần của cơn sốt dược liệu. Giá Đông
dược đang có chiều hướng giảm xuống, tuy vẫn chưa trở lại mức bình thường.
Tình hình thị trường Đơng dược vẫn tiềm ẩn nhiều bất ổn khi giá cả dược liệu
hoàn toàn do dân buôn hàng định giá, lên xuống tuỳ hứng. Người tiêu dùng chưa
có cơ sở nào xác định được giá Đơng dược cũng như chất lượng của chúng.
Ngồi giá cả biến động tự do, chất lượng của dược liệu đang được thả nổi.
Khơng ai có thể đảm bảo khi giá lên cơn sốt những người buôn hàng không làm
thủ thuật đối với các vị thuốc Bắc để kiếm lời. Vì lợi nhuận, dược liệu giả, dược
liệu kém chất lượng không được tung ra.
Chúng ta chưa làm được việc quy hoạch và phân vùng sản xuất dược liệu,
việc chế biến sau thu hoạch còn tuỳ tiện ảnh hưởng đến chất lượng dược liệu,
bên cạnh đó việc khai thác cây thuốc mọc tự nhiên chưa gắn liền với việc bảo vệ

và tái sinh cây thuốc khiến cho nguồn tài nguyên dược liệu ngày càng suy giảm.
Mặt khác là sự thả nổi thị trường Đơng dược cho tư nhân khiến khó kiểm soát
được số lượng và chất lượng dược liệu. Hàng ngày hàng giờ, hàng tấn dược liệu
trơi nổi ngồi thị trường không được kiểm định chất lượng vẫn đến tay người
tiêu dùng.
22


X. Trình dược viên vào bệnh viện
Trình dược viên là một nghề mới chỉ xuất hiện ở nước ta vào khoảng chục
năm trở lại đây, nhất là khi thị trường thuốc trở nên sơi động bởi sự góp mặt của
nhiều hãng thuốc liên doanh và các công ty dược phẩm tư nhân.
Thời bao cấp, các xí nghiệp dược phẩm sản xuất theo kế hoạch, thuốc ra
đến đâu, nhà nước bao tiêu đến đó, khơng lo ế nên hầu như khơng có khái niệm
tiếp thị thuốc. Trong nền kinh tế thị trường, mặt hàng nào cũng cần có đội ngũ
tiếp thị, thông qua mọi kênh để thông tin, quảng bá đến người tiêu dùng. Người
tiếp thị thuốc chữa bệnh được gọi là trình dược viên.
Kể từ khi có mặt các trình dược viên, nguồn thuốc sử dụng trong bệnh
viện ở nhiều nơi khơng phải chỉ cịn do khoa dược cung cấp. Thuốc sử dụng tại
bệnh viện do các trình dược viên giới thiệu chiếm một tỷ lệ khơng nhỏ trong hố
đơn thanh tốn của nhiều bệnh nhân. Có rất nhiều cách để trình dược viên đưa
thuốc vào bệnh viện. Cách thứ nhất là ký gửi hàng của mình cho các cơng ty
dược phẩm lớn của nhà nước. Các bệnh viện được “xi nhan” trước sẽ lập dự trù
có tên biệt dược của cơng ty đó và mua về như các loại thuốc thông thường khác.
Cách này là mục tiêu của nhiều cơng ty, vì khi đã có sự thơng đồng, họ thường
thu được lợi nhuận cao vì bán được thuốc với số lượng lớn, thanh tốn nhanh, vì
phần lớn các bệnh viện đều mua thuốc bằng tiền theo kinh phí được cấp. Cách
thứ hai là thông qua các nhà thuốc ở cổng bệnh viện. Trình dược viên ký gửi sản
phẩm của cơng ty vào các nhà thuốc này và thanh tốn theo thực tế doanh số bán
được có trích tỷ lệ phần trăm hoa hồng cho người bán hàng. Cách này cũng bán

được thuốc, nhưng số lượng không nhiều và thanh tốn chậm. Cách thứ ba là
thơng qua các bác sĩ khám bệnh, kê đơn điều trị. Đây là một cách bất hợp pháp,
bởi quy chế bệnh viện không cho phép các thầy thuốc làm việc đó. Song trong
thực tế, có rất nhiều bệnh viện vẫn cịn tình trạng bệnh nhân phải mua thuốc biệt
dược theo kiểu này. Thuốc của trình dược viên được trao trực tiếp đến thày thuốc
để giới thiệu kê đơn. Các thầy thuốc chẳng mất gì mà lại có thuốc bán nên cũng
tiêu thụ khá nhiều sản phẩm cho các trình dược viên.
Tất nhiên, bằng mọi kênh khác nhau, cuối cùng thuốc vẫn đến tay người
tiêu dùng. Và khi họ đang nằm trong bệnh viện thì những thuốc này được coi
(hay phải coi) là thuốc sử dụng trong bệnh viện. Việc sử dụng thuốc có nhiều
nguồn khác nhau như thế đã khiến cho công tác quản lý trở nên khó khăn và khó
lường hết những tai biến do thuốc gây ra. Tình trạng bệnh nhân phải mua thuốc
của nhà thuốc bệnh viện, của tư nhân gần cổng bệnh viện và thậm chí của chính
các thầy thuốc là rất phổ biến. Giá thuốc thường cao hơn bình thường 20-25%.
Thuốc do các trình dược viên bán và giới thiệu có thể là các thuốc truyền thống,
nhưng với một số tên biệt dược khác (loại này có quá nhiều) hoặc là các thuốc
23


lần đầu tiên xuất hiện trên thị trường. Để tiêu thụ được nhiều thuốc, những thủ
thuật marketing được tung ra. Trình dược viên có thể mời cả giám đốc và trưởng
khoa dược của một bệnh viện đi du ngoạn nước ngồi dưới hình thức đi tham
quan, trao đổi khoa học... Họ sẵn sàng chi ra một khoản tiền để làm qùa cáp, biếu
xén..., miễn là tiếp cận được các thầy thuốc kê đơn. Tại nhiều bệnh viện, sổ sách,
lôgô, tờ rơi, bảng biểu quảng cáo các loại thuốc xuất hiện ở nhiều nơi. Bàn của
giám đốc, bảng treo ở phòng khám bệnh, nhà thuốc, cho đến các lịch treo tường,
bút bi, cửa kính nhà vệ sinh... đều trở thành nơi quảng cáo. Nhiều lô thuốc hàng
mẫu được họ biếu không cho thầy thuốc kê đơn và tất nhiên, số thuốc này chỉ
được đến tay người bệnh khi họ phải bỏ tiền mua với giá khá cao. Nhiều hãng
dược phẩm phải dành cho trình dược viên của mình một khoản tiền để giao dịch.

Những khoản này, cộng thêm tiền hoa hồng cho bác sĩ kê đơn sẽ thêm vào việc
đẩy giá thuốc lên cao. Với các biệt dược truyền thống, người bệnh phải gồng
mình lên để gánh tiền thuốc. Với những biệt dược mới, nhiều khi người bệnh
phải gánh chịu rủi ro trong quá trình dùng thuốc.
Rõ ràng là khi các trình dược viên đã đưa guồng máy “ thầy thuốc kê đơn
– nhà thuốc cổng bệnh viện” vào vòng tay của họ thì họ có rất nhiều mánh kh
để bắt buộc người bệnh phải dùng loại thuốc mà họ đang có, đang muốn bán,
chứ khơng phải loại thuốc mà con bệnh thực sự tìm đến. Tình trạng kê đơn bằng
ký hiệu riêng cũng bắt nguồn từ đây.
Cơng bằng mà nói thì các trình dược viên cũng góp nhiều cơng sức làm
cho thị trường thuốc trở nên sôi động. Thầy thuốc, thơng qua các trình dược
viên, cũng nắm bắt thêm nhiều thông tin về các loại thuốc mới trong khi công tác
dược lâm sàng ở bệnh viện còn chưa làm tốt. Nhưng khi họ vào bệnh viện hoạt
động rầm rộ để quảng bá cho một sản phẩm nào đó, gây ra những chiến dịch
quảng cáo và nảy sinh khơng ít tiêu cực để hàng của họ bán chạy thì họ đã làm
cho mục đích sử dụng thuốc an tồn, hiệu quả, tiết kiệm không thực hiện được.
XI. Giá thuốc tây tăng ảo vì phải niêm yết
Trái ngược với mục đích tốt đẹp ban đầu là bảo vệ quyền lợi người bệnh,
không phải mua thuốc giá cao quá mức, TT 08 với nhiều bất hợp lý lại khiến giá
thuốc tăng.
Sau khi Thông tư 08 (của Liên bộ Y tế – Tài chính) được công bố, phản
ứng của thị trường tân dược đã không diễn ra như mong đợi. Giá thuốc chẳng
những không bình ổn, mà cịn tăng cao hơn trước. Từ mấy tuần nay, đã có hàng
trăm mặt hàng thuốc tăng giá, tăng mạnh nhất là các loại thuốc nhập của Pháp,
Đức, Mỹ, Hàn Quốc, Áo... Giá thuốc tăng trung bình từ 10 – 30% riêng các
nhóm biệt dược tăng mạnh nhất, tới 80%. Đơn cử, thuốc chữa viêm gan, chữa
gút... tăng từ 32.000đ/viên lên 54.000đ/viên. Thuốc nội cũng tăng đôi chút.
24



Thuốc Camphona của Công ty cổ phần dược phẩm 2-9 tăng từ 45.000đ/hộp lên
60.000đ/hộp, một số loại thuốc của Công ty dược Bảo Long tăng 10%...
Việc TT 08 buộc các doanh nghiệp sản xuất, phân phối thuốc phải niêm
yết giá bán lẻ trên bao bì, vơ hình trung đã tạo ra một thị trường tân dược luôn
diễn biến bất thường với toàn là giá ảo. Nguyên do là, để tránh bị “thiệt thòi”,
các doanh nghiệp đã đưa ra giá bán lẻ duy nhất, tương ứng với mức chi phí cao
nhất. Thậm chí, để phịng khi thị trường tăng giá bất thường, các doanh nghiệp
còn “chủ động” cộng thêm một khoản chi phí “dự phịng rủi ro” vào giá bán lẻ,
khiến giá thuốc bị đội cao lên.
Các cơ sở bán lẻ cứ theo đúng cái giá ảo được niêm yết thì chỉ có người
bệnh bị “lãnh đủ”. Thế nhưng, trên thị trường, gía niêm yết là một chuyện, giá
bán thực lại là chuyện khác. Thực tế, một số cơ sở bán lẻ đã bán thuốc với giá
thấp hơn giá niêm yết trên bao bì.
Mục đích của TT 08 là bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, để họ không
phải mua thuốc với giá quá đắt. Nhưng thông tư này chỉ yêu cầu các cơ sở sản
xuất kinh doanh thuốc khi nộp hồ sơ đăng ký lưu hành thuốc phải kê khai giá
bán buôn, giá bán lẻ thuốc tại Việt Nam , giá bán lẻ thuốc (nhập khẩu) ở nước sở
tại, giá nhập khẩu thuốc đó đến Việt Nam và giá bán lẻ thuốc đó tại Việt Nam,
mà khơng quy định khung lãi xuất trần, thì xem như mới chỉ “chạm” vào cái
ngọn là giá bán, chứ chưa đào đến cái gốc là nguyên tắc hình thành giá.
Một bất cập khác, Pháp lệnh giá đã đưa mặt hàng tân dược vào diện mặt
hàng do Nhà nước quản lý. Song cho đến nay, Chính phủ vẫn chưa giao cho cơ
quan nào chịu trách nhiệm quản lý giá thuốc. Còn theo tinh thần của TT 08,
“quyền” định giá thuộc tổ chức, cá nhân sản xuất và nhập khẩu thuốc.
Trong TT 08 cũng chưa đề cập vấn đề cốt lõi là giá gốc thật sự và tỷ lệ lãi
cho từng khâu phân phối. Mà như thế , sẽ chưa giải quyết được vấn đề thực sự
bức xúc là làm thế nào để bình ổn giá thuốc.
Chương III
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP
QUẢN LÝ GIÁ THUỐC Ở NƯỚC TA GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

I. Để quản lý tốt giá thuốc, cần quan tâm đến các vấn đề sau
- Đối với thuốc sản xuất trong nước, Nhà nước tôn trọng quyền tự định giá và
cạnh tranh về giá trong khuôn khổ pháp luật. Mặt khác, Nhà nước cần nghiêm
cấm hành vi bán phá giá làm thiệt hại đến các doanh nghiệp khác, lãng phí của
cải xã hội và ảnh hưởng đến quyền lợi người tiêu dùng.

25


×