Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

GIÁO TRÌNH ĐIỀU TRỊ TÂM THẦN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.15 KB, 58 trang )

Chương IV

ĐIỀU TRỊ TÂM THẦN
CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ BỆNH TÂM THẦN
1. Đại cương.
Từ những thế kỷ trước, dưới sự thống trị của nhà thờ và chế độ phong kiến,
bệnh nhân tâm thần hầu như không được điều trị mà chỉ được nhận các hình thức
cực hình tàn bạo. Từ năm 1793, bác sĩ người Pháp Philippe Pinel (1745 - 1826)
là người đầu tiên đã xố bỏ xiềng xích, cải tạo hồn cảnh, cải tiến chế độ săn sóc
cho bệnh nhân tâm thần, Ông đã đưa những bệnh nhân tâm thần về vị trí người
bệnh theo đúng nghĩa của nó.
Từ sau năm 1793 đến nay, việc điều trị bệnh nhân tâm thần có nhiều tiến bộ,
nhiều phương pháp điều trị khác nhau lần lượt ra đời. Đặc biệt là từ khi người ta
tìm ra các thuốc hướng tâm thần (psychotrop) thì Tâm thần học chuyển lên một
giai đoạn mới - giai đoạn xác định được vị trí của mình trong sự phát triển chung
của Y học.
Cho đến nay các phương pháp điều trị bệnh tâm thần có thể chia thành 2
nhóm liệu pháp chính.
1.1. Các liệu pháp sinh học:

+ Liệu pháp sinh học tác động trực tiếp lên cơ thể gọi là khách thể sinh học.
+ Liệu pháp sinh học tác động lên bệnh tật gọi là các quá trình sinh học bao gồm:
- Các liệu pháp chung.
- Các liệu pháp hoá dược.
- Các liệu pháp chuyên biệt.
1.2. Các liệu pháp tâm lí-xã hội:

Tác động lên nhân cách người bệnh, lên người bệnh với tư cách là một khách
thể xã hội nhằm hồi phục năng lực của người bệnh, sớm đưa người bệnh trở lại
với đời sống xã hội.
1.3. Những quan điểm tiến bộ về điều trị bệnh tâm thần:



Về phương diện điều trị bệnh tâm thần trong giai đoạn từ thế kỷ thứ XVIII
đến nửa đầu của thế kỷ thứ XIX đã đạt được nhiều tiến bộ có tính chất nhảy vọt
243


với nhiều phương pháp phong phú rất khác nhau đã làm cho Tâm thần học thay
đổi bộ mặt một cách cơ bản.
+ Năm 1917, W.V.Jauregg đề xuất gây cơn sốt rét điều trị bệnh liệt tuần tiến
do giang mai.
+ Năm 1934, Sakel (Áo) dùng phương pháp sốc insuline.
+ Năm 1935, V. Meduna (Hungari) gây cơn co giật bằng thuốc cardiazon.
+ Năm 1938, U. Cerletti. L. Bini (Ý) gây cơn co giật bằng điện.
+ Năm 1949, V.A.Giliarovsky dùng máy gõ nhịp gây ngủ.
+ Ngồi ra cịn có một số biện pháp khác được thực hiện để điều trị bệnh
nhân tâm thần như Cloetta gây ngủ bằng thuốc.
+ H.Laborit đề xuất phương pháp điều trị bệnh nhân tâm thần bằng đông
miên kết hợp với liều thuốc cocktailytique.
2. Liệu pháp hoá dược.
2.1. Lịch sử nghiên cứu thuốc hướng tâm thần:

Từ thời xa xưa, người Ấn Độ đã biết sử dụng cây "rắn cắn" để chữa các
chứng mất trí, mất ngủ, nghi bệnh,...
+ Vào năm 1582, Leonhard Rauwolfia - bác sĩ người Đức đã mơ tả cây "rắn
cắn" và gọi là rauwolfia serpentina bentami.
Ngồi tác dụng giảm đau, hạ huyết áp, thuốc này còn có tác dụng điều trị một
số trạng thái hưng phấn tâm thần.
+ Năm 1850, người ta sử dụng chloralhydrat chống các trạng thái kích động
tâm thần.
+ Năm 1903, sử dụng veronal.

+ Năm 1912, sử dụng phenobarbital để gây ngủ kéo dài.
Ở Việt Nam, dưới sự thống trị của chế độ phong kiến và thực dân, các bệnh
viện tâm thần hầu như khơng có, bệnh nhân tâm thần khơng được điều trị.
Theo các tài liệu của y học cổ truyền dân tộc, từ thế kỷ XVIII Hải Thượng
Lãn Ơng đã có những quan niệm bước đầu về các rối loạn chức năng tâm thần.
Ơng đã giải thích co giật động kinh là "âm thuộc thủy, thủy thuộc huyết, huyết
sinh ra cơ nhục, khi huyết bị hư thì khơng có tác dụng vinh nhuận cho gân,
xương do đó mà tay chân rời rạc" (trong Hải y cầu nguyện).

244


Ông đã có các bài thuốc chữa triệu chứng rối loạn tâm thần như bài thuốc
"Bá tử nhân thang" điều trị bệnh điên cuồng hậu sản; "Thanh tâm lương huyết
thang" điều trị chứng mất ngủ,...
Hiện nay, Tâm thần học nước ta đã kế thừa được di sản quí báu của ông cha
và tiếp thu được những kiến thức hiện đại của Tâm thần học thế giới, chúng ta đã
và đang từng bước áp dụng rộng rãi các thành tựu mà ngành Tâm thần học thế
giới đã đạt được trong các lĩnh vực nghiên cứu, điều trị và giảng dạy.
2.2. Sự ra đời của thuốc hướng tâm thần ở thế kỷ thứ XX:

+ Sự ra đời của thuốc an thần kinh lần đầu tiên đã đánh dấu một mốc son cho
sự phát triển của kỷ nguyên mới các thuốc hướng tâm thần.
Năm 1949, Charpentier đã tổng hợp thành công chlorpromazin.
Năm 1952, các nhà tâm thần học Pháp J. Delay và J. Deniker, lần đầu tiên sử
dụng chlorpromazin vào lâm sàng tâm thần cho kết quả tốt và đã mở ra một thời
kì mới cho việc dùng thuốc chữa bệnh tâm thần như các bệnh nội khoa khác.
Từ đó, người ta liên tiếp tổng hợp được nhiều loại thuốc hướng tâm thần khác
nhau.
+ Trên cơ sở tác dụng của thuốc hướng tâm thần nhiều phương pháp điều trị

khác nhau đã ra đời và phát huy tác dụng như liệu pháp tâm lí, liệu pháp lao động
và các liệu pháp tái thích ứng xã hội khác làm cho bệnh nhân tâm thần ngày càng
được điều trị tồn diện hơn.
+ Liệu pháp hố dược là một biện pháp chữa bệnh tâm thần có tầm quan
trọng đặc biệt. Nếu hành động "Phá xiềng cho người bệnh tâm thần" của P. Pinel
được xem là cuộc cách mạng thứ nhất trong tâm thần học thì sự xuất hiện
chlopromazin được xem là cuộc cách mạng thứ hai. Nó đã làm thay đổi hẳn bộ
mặt của tâm thần học.
Về kiến trúc bệnh viện tâm thần, hệ thống mở đã thay thế hệ thống kín, làm
mất ấn tượng bệnh viện tâm thần là nhà tù. Có thể xây dựng bệnh viện tâm thần
ngay giữa thành phố nơi dân cư đông đúc, gần gũi với cộng đồng.
+ Liệu pháp hoá dược cho phép giảm số bệnh nhân nội trú, giảm số ngày nằm
viện và đại đa số bệnh nhân có thể được điều trị ngoại trú với kết quả tốt.
+ Liệu pháp hoá dược đã thu hẹp phạm vi của liệu pháp sốc điện đến mức
thấp nhất.

245


+ Liệu pháp hoá dược đã cải thiện mối quan hệ thầy thuốc với bệnh nhân,
bệnh nhân với bệnh nhân, bệnh nhân với gia đình và láng giềng. Nhờ đó, bệnh
nhân tâm thần có thể được gia đình, cộng đồng chấp nhận và dung nạp ngày càng
nhiều hơn.
+ Liệu pháp hoá dược đã thật sự làm giảm được sự đau khổ cho người bệnh
tâm thần, duy trì được khả năng lao động, làm giảm được các hành vi nguy hại,
đỡ được một phần gánh nặng cho gia đình và xã hội.
3. Liệu pháp co giật bằng hoá dược.
+ Năm 1935, Meduna người Hungari dùng camphora 25% tiêm bắp thịt để
gây co giật. Nhưng phương pháp này có nhược điểm là khó xác định được liều
lượng, thời gian tiềm tàng khá lâu, có cơn co giật tái phát.

+ Do đó, chẳng bao lâu biện pháp này đã được thay thế bằng cardiazon 10% 
4 - 6 ml tiêm tĩnh mạch nhanh (1ml trong thời gian/1giây).
Liều gây co giật trung bình là 5 - 6 ml.
+ Esquibil (1958), dùng indoclon dạng khí có thể gây co giật.
Như vậy, rõ ràng là tác dụng của các cơn co giật chính là một liệu pháp điều
trị bệnh tâm thần.
4. Liệu pháp sốc điện.
+ Năm 1935, một bác sĩ người Ý là U. Cerletti tình cờ phát hiện hiện tượng
sốc điện và ứng dụng để xử trí những trường hợp kích động tâm thần vận động.
+ Năm 1938, cũng một bác sĩ người Ý là L. Bini nghiên cứu sáng chế ra máy
sốc điện cơ bản gồm một bộ tạo ra các dòng xung điện gọi là bộ tạo xung Trigơ.
+ Sốc điện (Electro-convulsive therapy - ECT) là đưa một dòng xung điện ngoại
lai gây cộng hưởng với dòng điện não, làm quá ngưỡng hoạt động của các tế bào
thần kinh thùy trán hoặc thùy thái dương, tạo ra cơn co giật kiểu ĐK và một tình
trạng hơn mê ngắn làm xố đi tồn bộ những chức năng hoạt động tâm thần được
hình thành trong quá trình sống, cũng như các rối loạn tâm thần được hình thành
trong quá trình bị bệnh. Sau một liệu trình gây sốc thì chỉ có các chức năng hoạt
động tâm thần bình thường được phục hồi trở lại vì đó là các định hình khó làm
thay đổi được trong quá trình sống.
+ Nhiều nhà tâm thần học cho rằng: ECT ít được sử dụng, lí do chính là do
việc sử dụng ECT khơng hợp lí. Liệu pháp sốc điện đòi hỏi sử dụng điện và gây
ra một cơn co giật, làm cho gia đình và bệnh nhân rất lo ngại, nhiều khi còn
hoang mang, thiếu tin tưởng vào phương pháp điều trị này.
246


+ Các tác giả đã dùng cura làm thuốc giãn cơ dự phòng gãy xương. Năm
1951, succinylcholine (là loại thuốc giãn cơ ngắn) đã chính thức được sử dụng
làm thuốc giãn cơ cho ECT.
+ Năm 1957, indokolon đã xuất hiện như một thuốc mới làm giảm co giật.

5. Liệu pháp sốc insuline.
Năm 1935, một bác sĩ người Áo là Sakel khi điều trị bệnh đái tháo đường bằng
insuline, Ông đã nhận thấy người bệnh giảm cả trạng thái hưng phấn tâm thần.
Từ đó ơng đã đi sâu nghiên cứu và áp dụng insuline vào lâm sàng tâm thần. Đến
nay việc điều trị bệnh tâm thần bằng sốc insuline cịn có nhiều ý kiến khác nhau,
nhất là về cơ chế tác dụng. Do đó cơ chế tác dụng của insuline trong lâm sàng
tâm thần vẫn còn là những giả thuyết.
+ Giả thuyết về phản ứng toàn thân: gây sốc là gây cho cơ thể một stress, bắt
buộc cơ thể phải huy động các cơ chế tự vệ chống lại các stress đó đồng thời
cũng điều chỉnh các rối loạn trong hoạt động tâm thần.
+ Giả thuyết về sự tiêu tan và tái tạo: gây sốc là làm tiêu tan các yếu tố bệnh
lí mới được hình thành, khơng bền vững, đồng thời tái tạo trở lại các chức năng
tâm thần bình thường được hình thành trong quá trình sống đã bị lấn át trong khi
bị rối loạn tâm thần.
+ Giả thuyết về sự tăng tiết các hormone: gây sốc là tạo ra các yếu tố tác
động đến vùng dưới đồi và tuyến yên, làm điều chỉnh hoạt động của toàn bộ các
tuyến nội tiết trong cơ thể, làm tăng cường các yếu tố bảo vệ, qua đó làm tăng sự
bảo vệ của tổ chức não chống được tác động của các yếu tố bệnh lí.
+ Insuline gây sốc là loại insuline tác dụng nhanh và đào thải nhanh. Insuline
khơng có tác dụng trực tiếp lên tế bào thần kinh mà tác dụng chủ yếu điều trị của
nó là tình trạng hơn mê do giảm glucose máu.
6. Liệu pháp bơm khí não.
Năm 1918, một nhà phẫu thuật người Anh là Dandy lần đầu tiên đề xuất
phương pháp chụp não bơm khí (Pneumoencephalography). Phương pháp này
nhanh chóng được áp dụng vào lâm sàng thần kinh - tâm thần với mục đích để
chẩn đốn bệnh.
Năm 1926, Fischer nhận thấy phương pháp chụp não bơm khí cịn có tác
dụng điều trị một số trạng thái rối loạn tâm thần.
247



Năm 1939, Paulian và Chilimal đã đưa ra thuật ngữ "Liệu pháp khí não"
(Pneumoencephalotherapy).
Năm 1964, Khoa Tâm thần - Bệnh viện 103 đã áp dụng phương pháp này để
điều trị cho một số trạng thái rối loạn tâm thần và thống nhất gọi là "Liệu pháp
bơm khí não".
Về cơ chế tác dụng: hiện nay chưa rõ ràng mà mới chỉ là những giả thuyết.
Một trong những giả thuyết được mọi người đồng ý là giả thuyết của Rey Ardid. Theo giả thuyết này thì tác dụng của bơm khí não là:
+ Dẫn lưu các chất độc có chứa trong DNT.
+ Bóc tách các chỗ dính trong màng não và trong hệ thống não thất.
+ Kích thích hệ thống dưới đồi - tuyến n và thơng qua đó điều chỉnh lại hệ
thống nội tiết trong cơ thể.
+ Với áp lực không khí cao thì oxy có thể thấm qua hàng rào máu - não, cải
thiện thêm cho các tổ chức não bị thiếu oxy.
+ Kích thích các trung khu thực vật ở thành não thất và gian não nhất là vùng
dưới đồi thị, điều chỉnh lại hoạt động của hệ thống thần kinh - thực vật, hệ thần
kinh - nội tiết.
Thông qua 5 tác dụng trên mà bơm khí não có khả năng làm ổn định trở lại
một số trạng thái rối loạn tâm thần.
7. Liệu pháp tâm lí.
Từ thời xa xưa, con người đã biết cách tác động lên tâm lí nhằm mục đích
chữa bệnh. Nhưng trong một thời gian dài, liệu pháp tâm lí lại khơng được thừa
nhận trong giới y học.
Liệu pháp tâm lí chỉ thực sự phát triển từ cuối thế kỷ thứ XIX trở lại đây. Cho
đến nay, liệu pháp tâm lí khơng chỉ dừng lại trong lĩnh vực tâm thần học mà nó
cịn thâm nhập vào tất cả các bộ môn lâm sàng khác.
Người ta đã thành lập các trung tâm liệu pháp tâm lí để tư vấn cho các hoạt
động tâm lí - xã hội khác nhau như tư vấn về hôn nhân, gia đình, giáo dục con cái,
người cao tuổi,...
Hiện nay, ở nước ta chưa có bác sĩ chuyên khoa liệu pháp tâm lí và việc tổ

chức các hoạt động liệu pháp tâm lí cũng chưa được chú ý đúng mức.

248


Dù có sự khác nhau, song ở tất cả các nước đều có những yêu cầu cao, nghiêm
ngặt về hành vi và đạo đức của người thực hiện liệu pháp tâm lí, khơng được phép
làm nặng thêm chấn thương tâm thần của bệnh nhân.
Một số liệu pháp tâm lí thường gặp như giải thích hợp lí, ám thị, thơi miên, tự
ám thị, tâm lí nhóm, tâm lí gia đình, liệu pháp nghệ thuật,... đã trở nên quen
thuộc với các bác sĩ chuyên ngành Tâm thần cũng như các bác sĩ đa khoa.
8. Liệu pháp phục hồi chức năng tâm thần.
Liệu pháp phục hồi chức năng tâm thần là một trong những liệu pháp vô cùng
quan trọng trong Tâm thần học cũng như trong các chuyên ngành Y học lâm sàng
khác. Đây là những liệu pháp nhằm phục hồi cả chức năng sức khoẻ thể chất lẫn
chức năng sức khoẻ tinh thần và tâm lí cho người bệnh.
Người bệnh có thể tham gia liệu pháp này một cách chủ động, tích cực hoặc
tham gia một cách bị động. Hiệu quả của liệu pháp phụ thuộc rất nhiều vào điều
kiện môi trường, vào kinh nghiệm của thầy thuốc, vào trang bị vật chất của mỗi cơ
sở phục hồi chức năng và nhất là phụ thuộc vào tình trạng bệnh tật của người
bệnh.
Liệu pháp phục hồi chức năng tâm thần gồm có nhiều loại, nhiều phương
pháp như lao động liệu pháp, văn hoá liệu pháp, nghỉ ngơi và giải trí, tập luyện
thân thể.
9. Những quan niệm mới trong điều trị bệnh tâm thần.
Từ những năm 60, Tâm thần học lại có một bước chuyển biến quan trọng về
xây dựng mơ hình tổ chức cứu chữa bệnh tâm thần và chăm sóc sức khoẻ tâm
thần (CSSKTT) trên cơ sở lồng ghép với Y tế cộng đồng.
Không xây dựng các bệnh viện tâm thần lớn và tập trung mà xây dựng các
bệnh viện tâm thần cỡ nhỏ và trung bình 100 - 500 giường bệnh ở gần các khu vực

dân cư.
Giải toả các cơ sở nội trú gị bó, đưa tối đa bệnh nhân tâm thần trở về với gia
đình, giảm giường bệnh nội trú, ...
9.1. Khu vực tâm thần học:

Ở Pháp năm 1960 qui định khu vực tâm thần học, tương ứng với một khu
vực địa lí và dân số là 67.000 dân.
+ Khu vực tâm thần học được xác định:
249


- Về địa lí, là khu vực quản lí một số dân cư nhất định.
- Về bệnh tật, các bệnh tâm thần, nghiện rượu, nghiện ma túy.
- Về chính sách y tế, phát hiện sớm, phịng bệnh và chăm sóc sau khi ra viện.
+ Thực hiện CSSKTT do nhiều bộ môn tham gia như bác sĩ tâm thần, cán bộ
tâm lí lâm sàng, cán sự xã hội, y tá điều dưỡng viên tâm thần.
+ Mỗi đơn vị tâm thần có một khoa nội trú 50 giường tại một bệnh viện tâm
thần gần nhất.
+ Các khu vực tâm thần nhằm 3 mục đích:
- Làm cho mọi cơng dân được chăm sóc có chất lượng ở gần nhà mình nhất.
- Tránh việc nằm viện hay tái nhập viện bằng cách tích cực phịng bệnh và
điều trị củng cố duy trì kết quả điều trị sau đợt nằm viện.
- Cải thiện các điều kiện nằm viện và nhất là chuyển các nhân viên canh giữ
bệnh nhân thành những y tá làm việc chuyên môn.
+ Tương đương với 2 khu vực tâm thần chung lại có một khu vực tâm thần
dành cho trẻ em.
9.2. Khu vực Dịch tễ học (ECA):

+ Được thành lập ở Mỹ năm 1963, quản lí một khu vực địa lí với 200.000
dân. Nhiệm vụ cũng tương tự như của khu vực tâm thần của Pháp.

+ Đây là mơ hình CSSKTT tiên tiến nhưng chỉ có thể áp dụng cho các nước
kinh tế phát triển.
9.3. Về tổ chức mạng lưới CSSKTT trong nhà trường phổ thông:

+ Theo tài liệu của Mỹ, các trường học đang nhận ra rằng: việc cộng tác với
các ngành khác trong cộng đồng là cần thiết trong việc CSSKTT cho học sinh
trong nhà trường.
+ Người ta cũng đề nghị tăng cường các dịch vụ CSSKTT trong nhà trường
và có thể tư nhân hố các dịch vụ này.
+ Có các cơ cấu của mơ hình mạng lưới như: đội CSSKTT gồm các thành
viên như nhà trường, gia đình và cộng đồng xã hội.
9.3.1. Đội chăm sóc sức khoẻ tâm thần:

+ Đội này phải đảm bảo chương trình, do các tư vấn lãnh đạo, gặp nhau đều
đặn để thực hiện các mục tiêu.
+ Đề xuất các kế hoạch mới.

250


+ Các nhóm phát triển chương trình: đây là mơ hình cơ cấu thứ 2 mà tư vấn
nhà trường chịu trách nhiệm thành lập và điều phối.
+ Nhóm phát triển chương trình là một phân ban của đội CSSKTT.
+ Đội CSSKTT mở rộng mục tiêu can thiệp từ học sinh đến các gia đình.
+ Nhóm phát triển chương trình lập kế hoạch cho đội CSSKTT.
+ Sau khi đánh giá những u cầu, nhóm phát triển chương trình sẽ đưa ra
những can thiệp để giúp đỡ các gia đình có vấn đề.
+ Trong mơ hình tổ chức này, đội CSSKTT sẽ giám sát tất cả mọi mặt của
nhóm phát triển chương trình.
9.3.2. Đội quản lí các trường hợp học sinh có vấn đề:


+ Đây là cơ cấu thứ 3 trong cấu trúc chương trình, đội quản lí bao gồm các
nhân viên quản lí của nhà trường.
+ Phụ huynh học sinh cũng tham gia vào đội quản lí này.
+ Đội quản lí học sinh đưa ra kế hoạch can thiệp đa dạng và can thiệp đối
với những học sinh có những vấn đề.
9.4. Ở Australia:

+ Nêu những dự án quốc gia mới được thử nghiệm về một số khu vực nhà
trường trong các cấp học ở những vùng nông thôn và thành phố khác nhau.
+ Mục đích của dự án là gắn kết sự tiếp cận của nhà trường để tăng cường
CSSKTT và phòng chống tự sát ở các nhà trường PTTH cơ sở.
+ Tổ chức này cũng thiết kế chương trình sức khoẻ ở trường tiểu học và trung
học cơ sở.
9.5. Ở Thái Lan:

+ Có hình thức hội CSSKTT học đường, bao gồm các thành phần tham gia:
- Bệnh viện, khoa tâm thần thanh thiếu niên, khoa tâm thần cộng đồng, có
nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu và phục vụ học sinh ở các trường học.
- Nhà trường, gồm hiệu trưởng, giáo viên tham vấn và giáo viên trực tiếp
hướng dẫn học sinh, đặc biệt là giáo viên giảng dạy cho các trẻ em có khuyết tật về
tâm thần.
+ Về nhà trường, để thực hiện những công việc cụ thể cho CSSKTT, họ
thành lập các đội công tác bao gồm giáo viên sư phạm, nhà Tâm thần học và cha
mẹ học sinh.

251


LIỆU PHÁP HOÁ DƯỢC TÂM THẦN

1. Khái niệm về điều trị trong Tâm thần học.
1.1. Về lí luận:

Người ta chia các phương pháp điều trị rối loạn tâm thần ra làm 2 nhóm:
1.1.1. Các liệu pháp sinh học:

Quan niệm cơ thể con người là một khách thể sinh học nên bệnh tật của con
người cũng là một quá trình sinh học. Vì vậy tất cả các phương pháp tác động
trực tiếp lên bệnh tật của con người đều được coi là liệu pháp sinh học (biological
therapy). Các liệu pháp sinh học rất đa dạng, nhưng trong Tâm thần học người ta
chỉ quan tâm đến 2 loại liệu pháp là liệu pháp hoá dược và liệu pháp chuyên biệt
như sốc điện, sốc insuline, bơm khí não,…
1.1.2. Các liệu pháp tâm lí - xã hội:

Con người sống thành xã hội, có nhiều mối liên hệ mật thiết với nhau. Vì vậy
ngồi khách thể sinh học, con người cũng là một khách thể xã hội. Các phương
pháp điều trị tác động lên nhân cách, phục hồi khả năng hoạt động xã hội, đưa
con người về với đời sống xã hội đều được coi là các liệu pháp tâm lí-xã hội
(psycho-sociological therapy). Các liệu pháp tâm lí-xã hội cũng rất đa dạng như
các liệu pháp tâm lí, liệu pháp phục hồi chức năng tâm thần,…
1.2. Về thực hành:

Người ta coi liệu pháp hoá dược là liệu pháp quan trọng bậc nhất, nó là nền
tảng vững chắc cho điều trị. Liệu pháp hoá dược làm thay đổi về "chất"của mối
quan hệ giữa bệnh nhân tâm thần với thầy thuốc, mang lại sự bình đẳng của bệnh
nhân tâm thần với các bệnh nhân khác và có nghĩa là bệnh phải được điều trị
bằng thuốc và phải được theo dõi, chăm sóc chu đáo như nhau.
Ngồi ra, liệu pháp hố dược cịn làm thay đổi bộ mặt của chuyên ngành Tâm
thần học, làm thay đổi quan niệm về bệnh tâm thần và nhiều khi còn gợi mở
những ý tưởng mới khi xem xét cơ chế bệnh sinh một số bệnh tâm thần. Liệu

pháp hoá dược tâm thần tuy đứng ở vị trí chủ đạo, nhưng vẫn chịu sự chi phối,
tác động của các liệu pháp điều trị khác trong mối liên hệ hữu cơ, hỗ trợ lẫn nhau
làm tăng thêm hiệu quả điều trị cho người bệnh.
2. Lịch sử phát triển liệu pháp hoá dược tâm thần.
252


Lịch sử phát triển liệu pháp hoá dược điều trị các bệnh tâm thần gắn liền với
lịch sử phát triển của chuyên ngành Tâm thần học. Đó là lịch sử của các cuộc đấu
tranh khơng ngừng để giải phóng người bệnh, cải tiến chế độ chăm sóc, cải thiện
hồn cảnh và điều kiện sinh hoạt, đồng thời hướng dẫn người bệnh sử dụng thuốc
hướng tâm thần ngày càng hợp lí và khoa học.
+ Năm 1952, Charpentier là người đầu tiên tổng hợp ra chất chlorpromazin
và 14 tháng sau thì H.Laborit đã nghiên cứu áp dụng thuốc này vào lâm sàng tâm
thần, dựa trên cơ sở kinh nghiệm sử dụng chlorpromazin trong ngoại khoa.
+ Sau khi J.Deley và P.Deniker công bố kết quả điều trị bệnh tâm thần bằng
chlorpromazin thì việc điều trị bệnh tâm thần mới chính thức trở thành một
phương pháp điều trị. Các tác giả khác đã lần lượt công bố hàng loạt thuốc hướng
tâm thần như:
- Năm 1958, Jansen (Bỉ) đã sản xuất thuốc haloperidol, T. Kuhn (Thụy Sĩ) đã
tổng hợp được imipramin và N. Kline công bố tác dụng của IMAO.
- Năm 1960, S. Bach tổng hợp được chlordiazepoxide.
+ Năm 1956, ngành Dược lí học tâm thần ra đời nhằm đáp ứng những yêu
cầu nghiên cứu cơ chế tác dụng và phân loại các thuốc hướng tâm thần. Cho đến
nay có hàng trăm loại thuốc hướng tâm thần được sử dụng. Việc sử dụng các
thuốc hướng tâm thần trong lâm sàng đã làm thay đổi hẳn bộ mặt của Tâm thần
học trên toàn cầu.
3. Cơ chế tác dụng của thuốc hướng tâm thần.
Hiện nay, chưa có cơ sở chắc chắn về lí thuyết cũng như thực nghiệm để giải
thích cơ chế tác dụng của các thuốc hướng tâm thần. Việc giải thích cơ chế tác

dụng của các thuốc cực kì phức tạp, có liên quan chặt chẽ với biến đổi các chức
năng sinh lí và hố sinh của các hoạt động tâm thần lúc bị bệnh. Sự hiểu biết
chưa đầy đủ về những vấn đề cơ chế của thuốc hướng tâm thần đã làm cho người
ta chưa thể hiểu được cơ chế bệnh sinh của nhiều bệnh tâm thần khác nhau. Các
giả thuyết về tác dụng các thuốc hướng tâm thần đã bổ sung cho nhau và từng
bước mở ra những hiểu biết mới. Nói chung, các thuốc hướng tâm thần đều có
tác dụng lên hệ thần kinh trung ương, điều đó được khẳng định. Song các thuốc
tác dụng đầu tiên vào vị trí nào của hệ thần kinh trung ương thì hiện nay vẫn cịn

253


đang là vấn đề phức tạp và chưa được làm sáng tỏ. Có thể khái quát bằng 3 nhóm
các giả thuyết sau:
+ Các giả thuyết về hoá sinh:
- Giả thuyết về catecholamin ở cấu trúc xinap.
- Giả thuyết của Brodi và Heath.
- Giả thuyết về receptor.
+ Các giả thuyết về phản xạ có điều kiện:
- Giả thuyết của Anokhin về neuroleptic ức chế vỏ não.
- Giả thuyết của Kamensky về neuroleptic ức chế vỏ não - dưới vỏ.
- Giả thuyết của Upensky về neuroleptic ức chế vỏ não - dưới vỏ - thân não.
+ Các giả thuyết về điện sinh lí não:
- Aminazin tác động lên thể lưới.
- Haloperidol tác động lên hồi hải mã và nhân amidal.
- Reserpin tác động lên đồi thị và hệ limbic.
4. Phân loại các thuốc hướng tâm thần.
Hiện nay, người ta đã tổng hợp được hàng ngàn loại thuốc hướng tâm thần
khác nhau, tùy thuộc vào các khuynh hướng và các trường phái khác nhau mà
người ta đưa ra cách phân loại các thuốc hướng tâm thần khác nhau. Mỗi cách

phân loại đều dựa trên cơ sở lí luận và thực tiễn nhất định.
4.1. Phân loại của các nhà tâm thần học Mỹ:

Trong dược điển của Mỹ, các thuốc hướng tâm thần được phân chia 3 nhóm
chính:
+ Các thuốc an thần bao gồm:
- Các thuốc an thần mạnh.
- Các thuốc an thần nhẹ hay thuốc giải lo âu.
+ Các thuốc kích thích bao gồm:
- Các thuốc kích thích thần kinh.
- Các thuốc chống trầm cảm.
+ Các thuốc gây loạn tâm thần:
4.2. Phân loại của Delay (1961):

Các thuốc hướng tâm thần được chia làm 3 nhóm chính:
254


+ Các thuốc an thần (psycholeptic):
- Các thuốc gây ngủ (hypnotic), cloral hydrat, barbiturate.
- Các thuốc trấn tĩnh (neuroleptic) như phenothiazin, reserpin, butyrophenon và
các thuốc khác.
- Các thuốc an tĩnh (tranquilisants) như meprobamate, benzodiazepam,...
+ Các thuốc hưng thần (psychoanaleptic):
- Các thuốc kích thích hoạt hố.
- Các thuốc kích thích khí sắc.
- Các thuốc kích thích khác.
+ Các thuốc gây loạn tâm thần (psychodysleptic):
Bao gồm, các thuốc gây ảo giác, các thuốc gây rối loạn ý thức,...
4.3. Phân loại của G.A. Burnazian (1985):


Chia thuốc hướng tâm thần thành 3 nhóm chính:
+ Các thuốc an thần (psycholeptic):
- Các thuốc trấn tĩnh (neuroleptic): có tác dụng làm giảm hưng phấn tâm thần
vận động và chống rối loạn tâm thần rõ rệt.
- Các thuốc an tĩnh (tranquilisants): có tác dụng yếu lên hệ thống thần kinh,
tác dụng chống rối loạn tâm thần thì rất yếu.
- Các thuốc điều chỉnh khí sắc.
+ Thuốc hưng thần (psychoanaleptic): bao gồm các thuốc chống trầm cảm,
thuốc điều hoà, thuốc kích thích tăng cường hoạt động và trương lực hệ thần kinh
trung ương.
- Các thuốc chống trầm cảm (antidepressants): có tác dụng chống các trạng
thái trầm cảm của bệnh tâm thần gây ra.
- Các thuốc kích thích tâm thần (psychostimulisator): có tác dụng giải toả ức
chế, tăng khí sắc, làm giảm cảm giác mệt mỏi.
+ Các thuốc gây loạn tâm thần (psychodysleptic): chính là các thuốc gây rối loạn
tâm thần thực nghiệm được biểu hiện bằng các ảo giác, hoang tưởng, mê mộng,
giống các rối loạn tâm thần nội sinh.
5. Tác dụng của thuốc hướng tâm thần.
5.1. Các phương thức sử dụng thuốc hướng tâm thần:

255


Thường bắt đầu bằng liều nhỏ thăm dò và tăng dần đến liều tối ưu, duy trì
đến khi các triệu chứng thuyên giảm thì giảm liều dần cho đến liều nhỏ duy trì và
điều trị củng cố kéo dài hoặc cắt hẳn.
5.1.1. Sử dụng một loại thuốc đạt liều tối ưu:

Tùy từng loại bệnh và tùy từng người bệnh mà liều tối ưu ở mức độ cao hay

thấp. Nhưng thông thường là liều tương đối cao, ưu điểm:
+ Có tác dụng chọn lọc trên một nhóm triệu chứng nào đó.
+ Ít kháng thuốc.
+ Dễ theo dõi các tác dụng không mong muốn.
+ Dễ phát hiện dị nguyên khi có dị ứng thuốc.
Nhưng cũng có nhược điểm:
+ Thường dùng ở liều cao, người bệnh dễ vào trạng thái ngấm thuốc.
+ Bệnh nhân và gia đình bệnh nhân sợ dùng thuốc nên việc điều trị củng cố,
kéo dài gặp khó khăn.
+ Khơng giải quyết được nhiều triệu chứng lâm sàng đa dạng cùng một lúc.
5.1.2. Sử dụng phối hợp nhiều loại thuốc:

+ Phối hợp các thuốc cùng nhóm hay các thuốc khác nhóm và phối hợp hai
hoặc ba loại thuốc trong một liệu trình điều trị có những ưu điểm:
- Ít gặp các tác dụng không mong muốn do thuốc gây ra.
- Ít gặp tình trạng ngấm thuốc hay ngộ độc thuốc.
- Giải quyết được nhiều triệu chứng cùng một lúc.
- Bệnh nhân và gia đình khơng cảm thấy lo lắng, dễ chấp nhận điều trị củng cố.
- Sớm đưa bệnh nhân vào hoạt động phục hồi chức năng tâm thần và tái thích
ứng xã hội.
+ Nhưng cũng có nhược điểm:
- Dễ kháng thuốc.
- Khó phát hiện dị nguyên khi có dị ứng thuốc.
5.2. Nguyên tắc sử dụng các thuốc hướng tâm thần:

Bao gồm 8 ngun tắc sau:
+ Phải có chẩn đốn quyết định bệnh đầy đủ.
+ Chỉ sử dụng thuốc khi cần và không được dùng thuốc như là phương tiện
thay thế thời gian nói chuyện với bệnh nhân.
256



+ Làm quen với các liệu pháp điều trị, hiểu sâu sắc và thực hành tốt với một
số loại thuốc nhất định, không nên nghiên cứu sơ sài về tác dụng của tất cả các
loại thuốc hướng tâm thần.
+ Nắm kiến thức chi tiết về dược lực và dược động học có liên quan đến các
loại thuốc khi kê đơn.
+ Sự dung nạp thuốc hướng tâm thần của bệnh nhân trong quá trình điều trị
trước đây như một phương hướng chỉ đạo cho công tác điều trị trong hiện tại và
trong tương lai.
+ Nâng cao khả năng đáp ứng của thuốc hướng tâm thần bằng cách sử dụng
những liều thuốc tối thiểu và đơn giản nhất để thầy thuốc dễ theo dõi và bệnh
nhân dễ sử dụng.
+ Nên sử dụng một loại thuốc hướng tâm thần và chỉ sử dụng hơn một loại
thuốc nếu thấy thực sự cần thiết cho bệnh nhân.
+ Điều chỉnh các phương pháp điều trị phải tùy thuộc vào từng bệnh nhân
như: trẻ con, người già, phụ nữ có thai, người bị các bệnh thực tổn, ...
5.3. Thuốc trấn tĩnh:
5.3.1. Các dẫn xuất của phenothiazine:

Các dẫn chất của phenothiazin có tác dụng an thần chiếm ưu thế, bao gồm
các thuốc sau:
* Aminazin (clopromazin, largactil, thorazin, megaphen, và 21 tên gọi khác):
Aminazin là một trong những thuốc hướng tâm thần phổ biến nhất.
+ Tác dụng: tác dụng an thần mạnh, phong bế giao cảm thần kinh, giảm khí
sắc mạnh, gây trầm cảm, giảm khả năng phản ứng với kích thích, ức chế phản xạ,
hủy adrenalin cả trung ương và ngoại vi, tăng cường tác dụng của các thuốc (ngủ,
giảm đau), giảm huyết áp, giảm nhiệt độ, chống nơn, tăng đồng hố và tăng trọng
lượng cơ thể.
+ Chỉ định: hội chứng hưng cảm, trạng thái kích động, các xung động tâm

thần, rối loạn cảm xúc ở bệnh nhân động kinh, rội chứng ám ảnh sợ và rối loạn
giấc ngủ.
+ Chống chỉ định:
- Các bệnh cơ thể: xơ gan, viêm gan, viêm thận, sỏi thận; rối loạn chức năng cơ
quan tạo máu, nghẽn tắc mạch, loạn dưỡng cơ tim, thấp tim; hôn mê, bệnh não và

257


tủy sống tiến triển, chấn thương sọ não cấp tính; bệnh giãn phế quản giai đoạn
cuối.
- Các bệnh tâm thần: TTPL thể đơn thuần; TTPL thể di chứng; hội chứng rối
loạn trầm cảm.
+ Cách sử dụng:
- Chuẩn bị: khám kỹ bệnh cơ thể, làm các xét nghiệm thường qui và cần thiết
để loại trừ các chống chỉ định. Sau mỗi lần dùng thuốc, bệnh nhân phải nằm yên
trên giường từ 1h30 - 2h, theo dõi mạch, huyết áp, nhiệt độ hàng ngày trong tuần
lễ đầu tiên và làm lại các xét nghiệm công thức máu, chức năng gan, thận 1 - 3
tháng/1 lần.
- Liều dùng: người lớn: 100 - 500 mg/ngày (uống sau bữa ăn 3 lần, sáng 1/4,
trưa 1/4, tối 1/2 liều trong ngày). Trẻ em: dưới 6 tuổi 2 mg/kg/24h và 6 - 15 tuổi
bằng 1/3 liều người lớn. Thời gian sử dụng mỗi liệu trình có thể kéo dài 2 tuần
đến 2 tháng. Khi kết thúc phải giảm liều dần, cần thiết có thể điều trị củng cố
25 - 50 mg/ngày  6 tháng - 12 tháng.
+ Tác dụng phụ và biến chứng:
- Rối loạn thần kinh thực vật: mạch nhanh, huyết áp hạ (10 - 30 mmHg), ra
nhiều mồ hơi, giảm nước bọt, mót tiểu tiện, giảm phản xạ đồng tử với ánh sáng.
- Rối loạn thần kinh và tâm thần: rối loạn ngoại tháp, mệt mỏi, buồn ngủ,
trầm cảm.
- Viêm gan nhiễm độc dị ứng; thiếu máu nhược sắc, giảm bạch cầu hạt.

- Rối loạn chuyển hoá và nội tiết: tăng cân, rối loạn kinh nguyệt, vú phát triển
to hơn và bài tiết sữa non.
- Các rối loạn khác: kích thích niêm mạc đường tiêu hoá, áp xe chỗ tiêm và
viêm tắc tĩnh mạch, viêm da dị ứng, eczema, viêm kết mạc, viêm thanh - khí
quản và thiếu vitamin.
+ Tác dụng lâm sàng: tăng khí sắc và kích động tâm thần vận động, ảo giác
và hoang tưởng cấp tính, rối loạn lo sợ, rối loạn trầm cảm, căng trương lực mộng
thức, hoang tưởng mạn tính, hội chứng căng trương lực và hội chứng thanh xuân
mạn tính.
* Propazin (ampazine, ampazin, centractil, frenyl, neuroleptil, promazine,
promazini, hydrocloridum, promazine, hydrochloride, promazinon, promazinum,
protactil, prazine, sediston, sinophenin, sparine, salofen, verophen,...): Propazin
258


tương tự aminazin, nhưng yếu hơn aminazin cả về an thần và chống loạn tâm
thần.
+ Liều dùng: với người lớn gấp 1,5 lần so với aminazin, liều khởi đầu uống
25 - 50 mg  2 - 3 lần/ngày (sau bữa ăn), có thể tăng dần tới 400 .-.600 .-.800
mg/ngày. Liều điều trị củng cố: 50 - 75mg/ngày  3 – 6 - 12 tháng.
+ Tác dụng phụ và biến chứng: ít độc hơn aminazin, người bệnh dễ chịu
đựng, tác dụng phụ và biến chứng nhẹ và ít hơn aminazin.
* Tisercin (dedoran, laevomepromazin, levomepromazini, hydrocloridum, neozine,
levomepromazine,levopromazin,levomepromazine,
hydrochloride,
methotrimeprazine, minozinan, neuractil, nozinan, sinogan, veractil,...):
Tisercin an thần mạnh, nhanh, tăng cường tác dụng của thuốc ngủ, thuốc
giảm đau lớn gấp 4 lần aminazin, hạ nhiệt mạnh hơn 3 lần aminazin, có cả tác
dụng của neuroleptic và antidepressve.
+ Liều dùng: người lớn liều khởi đầu uống 25 - 50 mg/ngày có thể tăng dần tới

100 – 300 mg/ngày. Liều tiêm bắp thịt: 50 - 150 mg/ngày. Trẻ em: từ 3 - 5 tuổi:
0,0125 - 0,025g, từ 5 - 7 tuổi: 0,025 - 0,05g, từ 7 - 10 tuổi: 0,05 - 0,075g và 10 14 tuổi: 0,05 - 0,1g.
+ Thời gian: thời gian điều trị nội trú từ 1 - 2 tháng và thời gian điều trị củng
cố từ 2 - 3 tháng, với liều 25 - 50 mg/ngày.
* Melleril (thioridazinum, malloril, malloryl, mellaril, thioridazine hydrocloride ,
thioridazini-hydrochloridum, sonapax):
Có tác dụng kết hợp cả 2 tính chất an thần và kích thích ở mức độ trung bình
tương tự như: frenolon, theralen, tác dụng an thần, chống loạn tâm thần yếu hơn
aminazin và tisercin.
+ Liều dùng: người lớn, khởi đầu 25 - 50 mg/ngày, những ngày sau có thể tăng
dần tới 150 - 300 mg/ngày. Trẻ em từ 3 - 5 tuổi: 0,005 g - 0,01g/ngày, từ 5 - 7 tuổi:
0,005 - 0,015 g/ngày, từ 10 - 14 tuổi: 0,015 - 0,03 g/ngày. Thời gian mỗi liệu trình
điều trị có thể kéo dài 2 - 6 tuần.
* Neuleptyl (periciazine, aolept, apamin, nemactil, periciazinum, pericyazine,
neulactil, propericiazine):
Neuleptil là loại an thần yếu, nhưng mạnh hơn theralen, melleril và yếu hơn
aminazin, tisercin.
259


+ Liều dùng: người lớn: khởi đầu bằng liều 5 - 10mg, những ngày sau có thể
tăng dần tới 30 - 50 mg/ngày. Trẻ em: liều dùng 1 mg/tuổi. Chú ý: thuốc uống
2 - 3 lần/ngày, liều buổi tối cao hơn liều ban ngày.
* Truxal (chloprothixen, chloprothixeni hydrochloride, chlothixen, minithixen,
tactaran, taraotan, taraxan, trictal, truxil, vetacalm):
Truxal là loại an thần mạnh và nhanh, ở vị trí trung gian giữa aminazin và
tisercin, liệt giao cảm như aminazin, liệt phó giao cảm mạnh hơn aminazin.
+ Liều dùng: khởi đầu bằng liều 25 - 50 mg/ngày, những ngày sau có thể tăng
tới 100 - 300 mg/ngày.
5.3.2. Các dẫn chất của phenithiazine:


Các dẫn chất của phenithiazine có tác dụng chống loạn thần chiếm ưu thế.
* Triphtazin (calmazine, clinazine, equazine, eskazine, fluazine, fluperin,
jatroneural, modalina, parstelin, stelazine, terfluzine, trifluoro-perazine hydrocloride,
trifluoperazine hydrocloride, trifluoro-perazine, trifluperazini, triflurin, triperazine,
trifluperazine, vespezine, yatroneural,...):
+ Tác dụng: an thần, hủy adrenalin, phong bế axetylcholin, hạ huyết áp, tăng
cường tác dụng của thuốc ngủ kém aminazin, chống ảo giác, hoang tưởng và tâm
thần tự động khá rõ rệt, kích thích nhẹ và có tác dụng đa năng, tác dụng của
thuốc phụ thuộc vào liều lượng: từ 1 - 15 mg/ngày tác dụng kích thích chiếm ưu
thế, từ 20 - 25 mg/ngày tác dụng chống ảo giác-hoang tưởng ưu thế, từ 60 - 100
mg/ngày có tác dụng chống ảo giác - hoang tưởng kèm theo tác dụng tăng an thần
và thường xuất hiện các tác dụng phụ.
+ Chỉ định: hội chứng ảo giác, hoang tưởng, TTPL thể paranoid và thể đơn
thuần, rối loạn ảo giác do rượu, trạng thái ám ảnh dai dẳng.
+ Chống chỉ định: bệnh gan cấp tính và mạn tính, bệnh tim mạch (rối loạn
dẫn truyền, cao huyết áp giai đoạn 3), đợt cấp của viêm loét dạ dày - tá tràng,
bệnh lao đang tiến triển, phụ nữ có thai trong 3 tháng đầu, tổn thương thực thể
não và trẻ em dưới 6 tuổi.
+ Liều dùng: người lớn uống liều khởi đầu 5mg/ngày, có thể tăng dần tới
15 - 40 mg/ngày, tiêm bắp thịt bằng 1/3 liều uống. Trẻ em từ 6 - 7 tuổi: 0,0025 0,01 g/ngày, từ 7 - 10 tuổi: 0,005 - 0,015 g/ngày, từ 10 - 14 tuổi: 0,01 - 0,03
g/ngày.
+ Tác dụng phụ và biến chứng: rối loạn ngoại tháp 60 - 78%, tổn thương gan,
giảm bạch cầu hạt.
260


+ Tác dụng lâm sàng: hiệu quả tốt với hội chứng ảo giác - hoang tưởng của
bệnh TTPL và của các rối loạn tâm thần khác, với hội chứng paranoid kèm theo
hưng cảm, nên khắc phục hưng cảm trước bằng tisercin, sau đó dùng triphtazin

sẽ đưa lại kết quả tốt. Hiệu quả rõ rệt với hội chứng paranoid dai dẳng đã kháng
với các thuốc neuroleptic khác, không gây trầm cảm và ít độc với gan hơn so
với aminazin. Viêm gan nhiễm độc dị ứng so với aminazin thì ít hơn nhiều lần
(aminazin là 3 - 14/1000 và triphtazin 1/3.000.000).
* Aethaperazin (chlorpiprazin, chlopiprozine, decentan, fentazin, neuropax,
perphenan, perphenazini hydrochloridum, perphenazine hydrochloride, trilafon,...):
+ Aethaperazin có tác dụng: chống loạn thần mạnh hơn aminazin, tương tự
triphtazin nhưng hoạt hoá mạnh hơn triphtazin, an thần yếu hơn aminazin, hủy
adrenalin, giảm huyết áp và nhiệt độ, tăng cường tác dụng của thuốc ngủ kém
hơn aminazin.
+ Liều dùng: người lớn, khởi đầu 4mg  2 - 3 lần/ngày, những ngày sau có
thể tăng dần tới 25 - 50 mg/ngày, trường hợp kháng điều trị, mạn tính có thể tăng
tới 60 - 80 mg/ngày. Thời gian duy trì liều tối ưu là 2 - 8 tuần, liều điều trị củng
cố là 4 - 8 mg/ngày  2 - 3 tháng.
*
Frenolon
(metophenazatum,
perphenazintri - methoxybenzoat, sylador):

metophenazate,

methophenazin,

+ Frenolon có tác dụng kích thích rõ, an thần và bình thần nhẹ, chống loạn
tâm thần yếu, huỷ adrenalin và kháng histamin, giảm thân nhiệt, tăng cường tác
dụng của thuốc ngủ.
+ Liều dùng: người lớn, khởi đầu 5 mg  1 - 2 lần/ngày, có thể tăng dần tới
20 - 30 mg/ngày, thời gian liều tối ưu điều trị nội trú có thể duy trì từ 5 - 30 ngày.
Thời gian điều trị củng cố với liều 5 – 10 mg/ngày  3 - 6 tháng. Trẻ em: uống
1 mg/kg/ngày.

* Metharazinum (chlomeprazine, chlorperazin, compazine, dicopal, nipodal,
novamin, prochlorperazine, maleas, maleate, sremetil, temetil,...):
+ Metharazinum có tác dụng: hoạt hoá kém frenolon, nhưng mạnh hơn triphtazin,
an thần kém aminazin, chống hoang tưởng có hệ thống, hoang tưởng cảm thụ
khơng có hưng cảm.
+ Liều dùng: người lớn liều khởi đầu 5 mg  1 – 2 - 3 lần/ngày, những ngày
sau, có thể tăng dần 50 - 100 mg/ngày.
261


* Florphenazinum (anatensol, dapotum, elinol, flumazine, flumezin, fluphenazini
hydrochloridum, lyogen, mirenil, moditen, pacinol, pacinone, permitil, prolixin,
sevinal, sevinon, siqualine, siqualone, tensofin, tevival, trancin, vespazin,...):
+ Florphenazinum có tác dụng hoạt hố như triphtazin, chống ảo giác hoang
tưởng kém triphtazin, an thần yếu.
+ Liều dùng: người lớn: uống sau ăn, liều khởi đầu 1 mg  2 - 3 lần/ngày,
những ngày sau có thể tăng dần tới 10 - 15 mg/ngày. Thời gian duy trì liều tối ưu
là 2 - 8 tuần. Liều điều trị củng cố: 1 - mg/ngày với thời gian 1 - 13 tháng.
* Majeptyl (thiopro-perazinum, caphalin, thioparazine, vontil):
+ Majeptyl có tác dụng đa năng mạnh, hoạt hoá mạnh.
+ Liều dùng với người lớn có 2 cách dùng:
- Tăng dần: khởi đầu 2 - 5 mg/ngày, những ngày sau có thể tăng dần tới 25 30mg/ngày và thời gian duy trì liều tối ưu là 1 - 1,5 tháng.
- Ngắt quãng (sốc hoá học): với những trường hợp kháng điều trị. Liều khởi
đầu 10 - 20 mg/ngày, những ngày sau tăng nhanh trong 4 - 7 ngày, tới khi xuất hiện
dấu hiệu ngoại tháp, thậm chí ở mức độ nặng (thường liều 50 - 150 mg/ngày).
Phương pháp ngắt quãng dựa vào quan niệm hiệu quả của thuốc phụ thuộc
vào mức độ rối loạn ngoại tháp. Sau khi xuất hiện rối loạn ngoại tháp điển hình
thì ngừng thuốc đột ngột. Sau 3 - 5 ngày kể từ khi rối loạn ngoại tháp thối lui
hồn tồn lại tiếp tục dùng majeptyl với liều tăng nhanh hơn trước tới khi xuất
hiện rối loạn ngoại tháp điển hình, sau đó lại ngừng thuốc đột ngột. Một liệu trình

4 - 6 - 8 tuần.
5.3.3. Dẫn chất butyrophenon:

* Haloperidol (aloperidin, haldol, halidol, haloperidin, haloperin, halophen,
halopidol, serenace, ...):
+ Haloperidol có tác dụng chống loạn tâm thần và an thần mạnh, ức chế receptor
alpha-noradrenalin và đặc biệt là ức chế dopamin trung ương, hủy adrenalin yếu,
chống nôn mạnh hơn aminazin.
+ Chỉ định: hội chứng paranoid, hội chứng hưng cảm, hội chứng Kandinsky –
Clerambault và hội chứng căng trương lực mộng thức.
+ Chống chỉ định:
- Các tổn thương thực thể ở hệ thần kinh trung ương, hệ tim mạch và tổn
thương ở gan, thận và thiên đầu thống.
262


- Rối loạn phân li.
- Thận trọng với người già, trẻ em và người cơ thể yếu.
+ Liều dùng: dùng được cả 3 đường: uống, tiêm bắp thịt và tĩnh mạch. Người
lớn uống sau ăn, liều khởi đầu 1,5 mg  1 - 3 lần/ngày, những ngày sau có thể
tăng tới 5 - 20 mg/ngày, có thể tăng tới liều đối đa 30 mg/ngày. Cần thiết có thể
tiêm bắp thịt 5 mg  1 - 2 lần/ngày hoặc tiêm tĩnh mạch chậm pha loãng với dung
dịch glucoza 5%. Tăng tới liều cho phép ở giới hạn dưới là phù hợp. Thời gian
duy trì liều tối ưu là 15 - 45 ngày. Điều trị củng cố 1,5 - 4,5 mg/ngày  3 - 6 tháng.
+ Tác dụng phụ và biến chứng: rối loạn ngoại tháp nặng, rối loạn thần kinh
thực vật (mạch nhanh, huyết áp tăng, nhịp thở nhanh, giảm tiết nước bọt, tăng tiết
mồ hôi và tăng nhiệt độ,...), rối loạn cảm xúc, bồn chồn, khó chịu, lo sợ và
thường phản ứng với việc sử dụng thuốc. Ngồi ra cịn rối loạn giấc ngủ, viêm
da, tăng tiết các tuyến bã, tăng tế bào limpho đơn nhân và đái tháo nhạt.
+ Tác dụng lâm sàng: ức chế hoạt động tâm thần nhưng không gây trầm cảm

do thuốc, tác dụng chọn lọc với các ảo giác và hoang tưởng, có hiệu quả cao với
những trường hợp ảo giác chiếm ưu thế hơn hoang tưởng, với những trường hợp
mạn tính, kháng với haldol, kết quả điều trị sẽ tốt nếu thay: haldol kết hợp với
triphtazin và haldol kết hợp với majeptyl, có tác dụng hoạt hố với trạng thái vơ
cảm-mất hoạt động và có kết quả tốt với hội chứng paranoid, paraphrenia,
paranoia, ảo thanh đa dạng, tâm thần tự động.
* Trisedyl (flumoperonum, psicoperidol, trifluperidol, triperidol):
+ Trisedyl có tác dụng ức chế mạnh receptor dopamin trung ương. Đây là
neuroleptic mạnh có cả tác dụng của haldol và majeptyl.
+ Liều dùng: người lớn liều khởi đầu 0,5 mg  1 lần/ngày, những ngày sau
tăng chậm dần có thể tới 1 - 5 mg/ngày, nếu thấy cần thiết có thể tiêm bắp thịt
1 mg/1 lần. Thời gian duy trì liều tối ưu nội trú 1 - 1,5 tháng, thời gian điều trị
ngoại trú với liều 0,5 mg/ngày  3 - 6 tháng. Trẻ em từ dưới 5 tuổi = 1/4 liều người
lớn và từ 6 - 15 tuổi = 1/2 liều người lớn.
5.3.4. Các neuroleptic khác:

* Fluphenazinum (lyogen - depo, lyogen - retard, modicat, moditen - depo):
+ Tác dụng: là neuroleptic mạnh và có tác dụng chậm, chống loạn tâm thần
mạnh và là thuốc có tác dụng gây hoạt hoá, tác dụng an thần yếu.

263


+ Chỉ định: bệnh TTPL thể đơn thuần, thể di chứng, thể căng trương lực, thể
paranoid (thường ở giai đoạn điều trị củng cố và điều trị ngoại trú).
+ Chống chỉ định: giống moditen.
+ Liều dùng: người lớn tiêm bắp thịt với liều 12,5 - 25 mg/1lần, trong thời
gian 2 - 3 tuần.
+ Tác dụng phụ và biến chứng: rối loạn ngoại tháp do thuốc.
+ Tác dụng lâm sàng: giống fluphenazin enantat nhưng nhanh hơn. Thời gian

tác dụng 25 - 26 ngày có hiệu quả cao đối với bệnh TTPL có các triệu chứng âm
tính chiếm ưu thế. Dùng để điều trị ngoại trú, điều trị củng cố cho những trường
hợp chống đối uống thuốc hàng ngày.
* Pimozide (ORAP-24, P-6238):
+ Tác dụng tương tự haldol, chống loạn tâm thần, tác dụng bình thần (chống
lo sợ), chống khuynh hướng hung bạo. Chỉ định chủ yếu cho thể bệnh TTPL thể
di chứng, đơn thuần, thanh xuân và để điều trị củng cố.
+ Liều dùng: người lớn: uống liều trung bình 2 - 4 mg/ngày.
5.4. Thuốc bình thần (tranquillisant):

* Meprobamat (andaxin, meprotan, aneural, biobamat, equanil, gadexyl,
harmonin, mepavion, meproban, meprospan, pertranquile, procalmadiol, quanil,
miltown, nephentine, pankalma, restenil, sedanyl, sedazil, sedral, tensonan,
tranquil, tranquilan, tranquiline, tranquisan,...):
+ Tác dụng chủ yếu là an dịu, bình thần và ức chế; giảm căng thẳng cảm xúc;
chống co giật; tăng cường tác dụng thuốc ngủ và thuốc giảm đau; giảm thân
nhiệt; nhược cơ xương; tác dụng yếu lên hoạt động của hệ thống tim mạch, hô
hấp, thần kinh thực vật và ít ảnh hưởng đến cơ trơn.
+ Chỉ định: căng thẳng cảm xúc, lo sợ, suy nhược thần kinh thể cường; rối
loạn tâm căn các loại; hội chứng cai rượu; rối loạn giấc ngủ; nhân cách bệnh có
khuynh hướng kích động; trầm cảm nhẹ và điều chỉnh các rối loạn ngoại tháp.
+ Chống chỉ định: nhược cơ, người điều khiển ô tơ, xe máy, người có nghề
cần sự tập trung chú ý cao độ.
+ Liều dùng: người lớn: liều trung bình 400 - 2000 mg/ngày. Trẻ em từ 3 - 8 tuổi:
0,1 - 0,2  2-3 lần/ngày, từ 8 - 14 tuổi: 0,2  2 - 3 lần/ngày. Thời gian 1 liệu trình
là 15 - 30 ngày.
264


+ Tác dụng phụ và biến chứng: dị ứng, thất điều vận động, buồn ngủ, rối loạn

tiêu hoá và phụ thuộc thuốc (nghiện).
+ Tác dụng lâm sàng: ít độc, có thể dùng cho người già và trẻ em, kết quả tốt
với trạng thái lo sợ, căng thẳng cảm xúc.
* Trioxazin (sedoxazin, trimetozinum, trimetozine):
+ Tác dụng an dịu, hoạt hố, khơng gây ức chế nên cịn gọi là tranquilisants
ban ngày, khơng gây nhược cơ và khơng ức chế hoạt động trí tuệ.
+ Liều dùng: người lớn: 600 - 900 mg/ngày và trẻ em: 20 - 40 mg/kg/ngày.
* Elinium (librium, ansiacal, benzodiazepin, chlordiazepoxidum, equinbral,
chlordiazepoxide, decadil, labiton, lixin, novosed, radepur, sonimen, timosin,
viansin,...):
+ Tác dụng an dịu, nhược cơ mạnh hơn meprobamat, chống động kinh và ít
ảnh hưởng tới hệ thống thần kinh thực vật.
+ Chỉ định: hội chứng ám ảnh nghi bệnh, lo sợ - căng thẳng cảm xúc và các
trạng thái kích thích nói chung.
+ Liều dùng: người lớn: 5 - 25 mg/ngày và trẻ em từ 5 - 7 tuổi: 5 mg/ngày, từ
7 - 10 tuổi: 10 mg/ngày và từ 10 - 14 tuổi: 25 mg/ngày.
* Seduxen (asiolin, apaurin, apozepam, eridan, lembrol, pacitrian, relanium,
quetinil, saromet, serenamin, serensin, sonacon, valitran, valium, vatran,
vival,...):
+ Tác dụng bình thần mạnh và kết hợp cả hai tác dụng bình thần và hoạt hố,
chống co giật và điều chỉnh các rối loạn thần kinh thực vật.
+ Chỉ định: hội chứng ám ảnh sợ và nghi bệnh, trầm cảm ngoại sinh nhẹ và
chống co giật của cơn động kinh.
+ Liều dùng: có thể dùng đường uống, tiêm bắp thịt và tiêm tĩnh mạch.
Người lớn: uống 5 – 30 mg/ngày và trẻ em từ 3 - 5 tuổi: 2 – 3 mg/ngày, từ 5 - 7
tuổi:
3 – 4 mg/ngày, từ 7 - 10 tuổi: 5 - 6 mg/ngày, từ 10 - 14 tuổi: 5 – 8
mg/ngày.
+ Tác dụng phụ và biến chứng: phụ thuộc thuốc (nghiện), giảm trương lực
cơ, thất điều vận động, mệt mỏi, đau đầu, nói khó, rối loạn cơ vòng, dị ứng và

giảm bạch cầu.

265


+ Tác dụng lâm sàng: bình thần mạnh, có thể so sánh mức độ bình thần theo
thứ tự: seduxen, elenium, meprobamat, trioxazin; liều nhỏ có tác dụng hoạt hố
và liều cao có tác dụng bình thần; chống động kinh và điều chỉnh rối loạn thần
kinh thực vật.
* Nitrazepam (eunovtin, neozepam, apodorm, benzalin, calsmin, dormicum,
dumolid, epibenzalin, epinelbon, hypnax, hypsal, nitrodiazepam, pacidrim, pacisyn,
radedorm, serenex, somitran, sonipam, sonnolin, livatan, mitidin, mogadan, mogadon,
nelbon, nitrenpax):
+ Tác dụng bình thần kém các dẫn chất benzodiazepin, tác dụng gây ngủ và
chống co giật ưu thế.
+ Liều dùng: người lớn, uống 5 - 15 mg/ngày và trẻ em từ 1 - 5 tuổi 2,5 5 mg/ngày và từ 6 - 14 tuổi 5 mg/ngày.
* Oxylidin (benzoclidinini hydrochloridum, benzoclidine hydrochloride):
+ Tác dụng bình thần và hạ huyết áp nên có thể chống trầm cảm-lo sợ trên
bệnh nhân rối loạn tuần hoàn não như cao huyết áp, xơ vữa mạch máu não và
chống cao huyết áp giai đoạn I và II.
+ Liều dùng: người lớn uống 20 - 100 mg/ngày, nếu khắc phục cơn cao huyết
áp kịch phát thì tiêm bắp thịt dung dịch 5%  1 - 2 ml/1 lần; điều chỉnh cơn nhịp
tim nhanh kịch phát, tiêm bắp thịt dung dịch 5%  1 ml/1 lần và thời gian điều trị
một liệu trình có thể kéo dài 15 - 30 ngày.
5.5. Tác dụng của các thuốc chống trầm cảm:
5.5.1. Các thuốc hưng thần có tác dụng an thần (êm dịu):

* Elavil (amitriptyline, triptyzol, adepril, adepress, amiprin, atrytal, damilen,
daprimen, elatral, lantron, laroxal, laroxyl, lentizol, novotriptyl, proheptadien,
redomex, saroten, sarotex, triptyl, tryptanol):

+ Elavil có cả 2 tác dụng hưng thần và an thần, phong bế axetylcholin và
kháng histamin mạnh, kháng serotonin.
+ Chỉ định: hội chứng trầm cảm paranoid, hội chứng suy nhược - trầm cảm,
hội chứng nghi bệnh-trầm cảm, trạng thái lo sợ-trầm cảm và trầm cảm tuổi già.
+ Chống chỉ định: bệnh gan, thận cấp tính và mạn tính, bệnh tim-mạch, cao
huyết áp, rối loạn tuần hoàn não, tổn thương thực thể não, bệnh nhiễm khuẩn nói
chung, đái tháo đường và glocom.

266


+ Liều dùng: người lớn uống tăng dần liều khởi đầu 25 - 50 mg/ngày, tăng
lên cứ từng nấc một với liều 25 mg/ngày, để đạt tới liều tối ưu (thường 120 –
180 mg/ngày). Liều tấn công bằng đường uống 75 - 150 mg/ngày và tiêm bắp thịt
50 - 75mg/ngày, thời gian duy trì liều tối ưu là 2 - 4 tuần.
+ Tác dụng phụ và biến chứng:
- Về thần kinh: nhức đầu, chóng mặt, buồn ngủ, rối loạn điều tiết, giãn đồng
tử, run, dị cảm.
- Về tiêu hoá: giảm tiết nước bọt, buồn nơn, nơn, ợ chua, ợ nóng, chán ăn,
táo bón.
- Các rối loạn khác: tăng tiết mồ hơi, dị ứng, mạch nhanh, bí tiểu tiện, bùng
phát cơn glocom.
+ Tác dụng lâm sàng: tác dụng tốt với trầm cảm hỗn hợp (kèm theo ảo giác,
hoang tưởng và lo sợ). Hiệu quả cao trong điều trị rối loạn cảm xúc ở bệnh nhân
động kinh.
* Azaphen (azaxazin, diaphenum, pipofezinum):
+ Azaphen có tác dụng với các triệu chứng rối loạn trầm cảm và an thần kém
hơn so với elavil, khơng có tác dụng phong bế acetylcholin và không độc với cơ
tim.
+ Liều dùng: người lớn bằng đường uống 75 - 100 mg/ngày (có thể tới

200 mg/ngày), thời gian một liệu trình là 1 - 1,5 tháng.
* Pyrazidol (pirlindolum, pirlindole): là loại thuốc hưng thần 4 vòng.
+ Tác dụng chủ yếu là kết hợp cả tác dụng an thần và kích thích, hoạt hoá với
các rối loạn trầm cảm và an thần với trạng thái lo sợ.
+ Liều dùng: người lớn uống 50 - 150 mg/ngày.
5.5.2. Các thuốc hưng thần có tác dụng kích thích:

* Melipramin (deprebil, eupramin, imipramin, imipramil, irmin, deprinol, dynaprin,
eupramin, surplix, tofranil,...):
+ Tác dụng hưng thần gây kích thích, tăng quá trình hưng phấn vỏ não và giảm
ức chế nội, hiện nay ít sử dụng.
+ Chỉ định:
- Rối loạn trầm cảm nặng (trầm cảm nội sinh đơn thuần).
- Rối loạn trầm cảm ức chế tâm thần - vận động.

267


×