Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Quan điểm lịch sử cụ thể với công cuộc đối mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.3 KB, 16 trang )

Mục lục

A. Đặt vấn đề
Nội dung
I. Quan điểm lịch sử cụ thể
1- Cơ sở khách quan của quan điểm lịch sử cụ thể
2- Yêu cầu của quan điểm lịch sử cụ thể.
3- Tại sao phải vận dụng quan điểm lịch sử vào quá trình
xây dựng nền KTTT định hướng xhcn ở Việt Nam.
II.Quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN dưới
góc nhìn của quan điểm lịch sử cụ thể.
1-Những điều kiện cụ thể ảnh hưởng đến quá trình xây dựng
nền KTTT định hướng XHCN.
2- Thực trạng xây dựng nền KTTT
III. Một số giải pháp nhằm xây dựng nền KTTT theo định
hướng XHCN.
Kết luận
Tài liệu tham khảo

1


A.Đặt Vấn Đề
Bước vào thiên niên kỷ mới, loài người đã và đang có những
bước tiến quan trọng trong cơng cuộc trinh phục thế giới. Những
thành tựu trong lĩnh vực khoa học - kỹ thuật nói riêng và trong mọi
mặt của đời sống xã hội nói chung đã nâng dần loài người lên một
tầm cao mới. Trong sự chuyển biến mạnh mẽ đó, Việt Nam chúng ta
cũng khơng ngừng biến đổi vận động. Tính đến nay nước ta đã thực
hiện công cuộc đổi mới được hơn một thập kỷ, bên cạnh những thành
tựu đã đạt được, những vấn đề của nền kinh tế luôn đặt ra những


thách thức cho các nhà kinh tế. So với thế giới, nước ta vẫn là một
nước nghèo, nền kinh tế còn yếu kém, chậm phát triển, những tàn dư
của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp vẫn cịn tồn tại đã kìm
hãm sự phát triển của nền kinh tế. Chính vì thế chúng ta phải nghiên
cứu tìm ra hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế, phù hợp với điều kiện,
hoàn cảnh đất nước, phù hợp với khu vực thế giới và thời đại. Điều
đó cũng có nghĩa là phải phân tích các yếu tố kinh tế trong tổng thể
các mối quan hệ, trong sự vận động, phát triển không ngừng. Do vậy
việc vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể của triết học Mác - Lênin vào
qúa trình đối mới kinh tế ở Việt Nam là rất cần thiết.
Quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể vào quá trình đối mới kinh
tế ở Việt Nam sẽ giúp cho nền kinh tế nước ta có được hướng đi
đúng đắn. Vì vậy, trong bài viết tiểu luận triết học của mình em đã
chọn đề tài: “Quan điểm lịch sử cụ thể với công cuộc đối mới kinh
tế ở Việt Nam hiện nay”.

2


Tuy nhiên, do kiến thức cịn hạn hẹp sẽ khơng tránh khỏi nhiều sai
xót. Do vậy, em kính mong nhận được sự góp ý và hướng dẫn của các thầy
cơ trong khoa để bà viết của em có kết quả tốt hơn.

B. Nội dung
I. Quan điểm lịch sử cụ thể
1. Cơ sở khách quan của quan điểm lịch sử cụ thể
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát
triển là cơ sở hình thành quan điểm lịch sử cụ thể. Mọi sự vật hiện
tượng của thế giới đều tồn tại, vận động và phát triển trong những
điều kiện không gian và thời gian cụ thể xác định. Điều kiện khơng

gian và thời gian có ảnh hưởng trực tiếp tới tính chất, đặc điểm của
sự vật. Cùng một sự vật nhưng nếu tồn tại trong những điều kiện
không gian và thời gian cụ thể khác nhau thì tính chất, đặc điểm của
nó sẽ khác nhau, thậm trí có thể làm thay đổi hịan tồn bản chất của
sự vật.
2. Yêu cầu của quan điểm lịch sử cụ thể
Quan điểm lịch sử có 3 yêu cầu:
Thứ nhất: Khi phân tích xem xét sự vật, hiện tượng phải đặt
nó trong điều kiện không gian và thời gian cụ thể của nó, phải phân
tích xem những điều kiện khơng gian ấy có ảnh hưởng như thế nào
đến tính chất, đặc điểm của sự vật, hiện tượng. Phải phân tích cụ thể
mọi tình hình cụ thể ảnh hưởng đến sự vật, hiện tượng.
Thứ hai: Khi nghiên cứu một lý luận, một luận điểm khoa học
nào đó cần phải phân tích nguồn gốc xuất xứ, hoàn cảnh làm nảy sinh

3


lý luận đó. Có như vậy mới đánh giá đúng giá trị và hạn chế của lý
luận đó. Việc tìm ra điểm mạnh và điểm yếu có tác dụng trực tiếp đến
quá trình vận dụng sau này.
Thứ ba: Khi vận dụng một lý luận nào đó vào thực tiễn phải
tính đến điều kiện cụ thể của nơi được vận dụng. Điều kiện này sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của sự vận dụng đó.
3. Tại sao phải vận dụng quan điểm lịch sử vào quá trình xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam?
Trước tiên cần phải khẳng định rằng KTTT định hướng XHCN
cũng là một dạng vật chất. Nền kinh tế Việt Nam là một dạng vật chất
xã hội theo sự phân loại của triết học Mác-Lênin. Chính vì thế nền
KTTT định hướng XHCN Việt Nam cũng tồn tại, vận động và phát

triển theo những nguyên lý, quy luật của triết học Mác-Lênin, mà cụ
thể là trong những điều kiện không gian thời gian theo quan điểm
lịch sử cụ thể.
Sự ra đời và phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hơn
10 năm qua đã góp phần thay đổi bộ mặt đất nước, nâng cao đời sống
nhân dân. Tuy nhiên đó chưa phải là cái đích cuối cùng của Đảng ta
và nhân dân ta, bởi nền kinh tế nước ta vẫn còn chậm phát triển. Khi
chúng ta vừa chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang
cơ chế thị trường, từ một nền kinh tế yếu kém lạc hậu với hệ thống
sản xuất, hệ thống quản lý kinh tế với những cán bộ mang nặng tư
tưởng ỷ lại sang nền KTTT năng động, do đó khó có thể tránh khỏi
những vấp váp sai lầm. Thêm nữa, thời điểm chúng ta bắt đầu đổi
mới, chuyển sang nền KTTT là quá muộn so với các nước trên thế
giới và khu vực khi mà các nước tư bản như Mỹ, Nhật, Tây Âu,...đã
4


tiến hành cơ chế thị trường và phát triển vượt xa ta mấy trăm năm.
Nhờ sử dụng triệt để KTTT, CNTB đã đạt được những thành tựu về
kinh tế - xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao
động, quản lý xã hội đã đạt được những thành tựu về văn minh hành
chính, văn minh cơng cộng, con người nhậy cảm tinh tế với khả năng
sáng tạo...và có cả những tiêu cực: sự gay gắt dẫn đến tình trạng “cá
lớn nuốt cá bé” sự phân cách giàu nghèo ngày càng lớn, ô nhiễm môi
trường, tài nguyên cạn kiệt, tệ nạn xã hội...Tuy nhiên, là nước đi sau
và theo CNXH, chúng ta có cơ hội kế thừa và phát triển những thành
tựu của nhân loại mà trước hết là sử dụng văn minh cuả KTTT, loại
bỏ những khuyết tật của nó để xây dựng CNXH có hiệu quả hơn.
Chính vì những lẽ đó, chúng ta cần phải vận dụng quan điểm
lịch sử cụ thể vào việc nghiên cứu quá trình xây dựng nền KTTT định

hướng XHCN ở Việt Nam.
II. Quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa dưới góc nhìn của quan điểm lịch sử cụ thể
1. Những điều kiện cụ thể ảnh hưởng đến quá trình xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
a. Những điều kiện trong nước
Đầu tiên chúng ta cần tìm hiểu xuất phát điểm về kinh tế của
nước ta khi bắt đầu đổi mới. Bức tranh chung của kinh tế Việt Nam
năm trước đổi mới là tăng trưởng thấp 3,7%/năm, làm không đủ ăn và
dựa vào nguồn viện trợ bên ngoài rất lớn. Thu nhập quốc dân trong
nước, sản xuất chỉ đáp ứng được 80-90% thu nhập quốc dân sử dụng.
Đến năm 1985 tỷ trọng thu từ bên ngoài chiếm 10,2% thu nhập quốc
dân sử dụng, nợ nước ngoài lên tới 8,5 tỷ rúp và 1,9 tỷ USD. Cũng
5


vào các năm đó nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng khoảng trầm
trọng, siêu lạm phát ở mức 774,7% vào năm 1986 kéo theo giá cả leo
thang và vô phương kiểm soát.
Sự tàn phá của chiến tranh và nền kinh tế bao cấp yếu kém kéo
dài đã để lại nhiều hậu quả nặng nề: cơ sở vật chất thấp kém với nền
KH - CN, kỹ thuật lạc hậu, hầu hết các hệ thống máy móc trong các
xí nghiệp đều do Liên Xô cũ giúp đỡ từ trong chiến tranh nên năng
suất thấp, chất lượng kém.
Điều kiện địa lý cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng
mạnh mẽ đến nền kinh tế. Về địa hình, nước ta trải dài trên nhiều vĩ
tuyến, bề ngang hẹp, địa hình phức tạp mang đậm nét của sự phân dị
sâu sắc về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội. Các đặc điểm này chi
phối sự phân công lao động xã hội theo lãnh thổ và phát triển các
vùng kinh tế. Nằm ở Tây Thái Bình Dương và Đơng Nam á, khu vực

phát triển cao, ổn định, nơi cửa ngõ của giao lưu quốc tế, Việt Nam
có nhiều khả năng để phát triển nhiều loại hình kinh tế khác nhau dựa
trên những lợi thế về vận tải biển, dịch vụ viễn thông, du lịch. Tài
ngun khống sản phân bố khơng đều trên các vùng, ngay ở mỗi
vùng cũng phân tán và thiếu đồng bộ khơng gắn với nhau gây khó
khăn cho việc khai thác sử dụng chúng và ảnh hưởng đến việc bố chí
kinh tế của các vùng. Về dân số, nước ta có dân số đơng, nguồn lao
động dồi dào nhưng phân bố cũng khơng đồng đều.
Về chế độ chính trị: Quan hệ giữa kinh tế và chính trị là một
trong những vấn đề cơ bản của công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Theo
các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin thì kinh tế quyết định
chính trị “ chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, chính trị

6


khơng phải là mục đích mà chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích
kinh tế.” Lênin đã chỉ rõ: “để thoả mãn những lợi ích kinh tế thì
quyền lực chính trị chỉ được sử dụng làm phương tiện đơn thuần.”
Khẳng định đó của Lênin khơng có nghĩa là phủ nhận vai trị quyết
định của kinh tế đối với chính trị mà muốn nhấn mạnh tác động của
chính trị đối với kinh tế. Vấn đề kinh tế không thể tách rời vấn đề
chính trị mà nó được xem xét giải quyết theo một lập trường chính trị
nhất định. Như vậy chúng ta có thể khẳng định rằng kinh tế và chính
trị thống nhất biện chứng với nhau trên nền tảng quyết định của kinh
tế.
Sau khi miền Bắc giải phóng và từ sau năm 1975 thống nhất đất
nước, cả nước ta đã kiên quyết đi theo con đường XHCN - đây là lựa
chọn tất yếu và đúng đắn. Tuy nhiên, vì khơng qua giai đoạn TBCN,
chúng ta đã gặp nhiều khó khăn và bỡ ngỡ trong công cuộc xây dựng

một hệ thống chính trị vững mạnh. Thêm vào đó, khi ta đang trong
tình trạng ban đầu của cơng cuộc đổi mới, một giai đoạn quan trọng
mà chính trị là yếu tố định hướng dẫn đường thì CNXH ở Liên Xơ cũ
và các nước Đông Âu sụp đổ hàng loạt đã gây nhiều hoang mang cho
Đảng và nhân dân ta. Điều này cũng chứng tỏ rằng đang có rất nhiều
thế lực phản động khơng ngừng tìm cách phá hoại, lật đổ chế độ
CNXH ở nước ta.
b. Những điều kiện thế giới và khu vực
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, mặc dù thế giới cịn nhiều
diễn biến phức tạp nhưng hồ bình và hợp tác là xu thế chủ đạo, là
đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và các quốc gia. Các cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ đạt được những bước tiến vượt bậc đặc biệt

7


trong lĩnh vực tin học, viễn thông, sinh học, vật liệu mới và năng
lượng mới đang đẩy mạnh quá trình quốc tế hoá cao độ các lực lượng
sản xuất dẫn đến sự phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc.
Như vậy có nghĩa là ngày nay, khơng một nền kinh tế nào có thể
đứng tách ra khỏi cộng đồng quốc tế. Tình hình đó địi hỏi một sự
hợp tác ngày càng rộng tạo nên thế tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước
dù lớn hay nhỏ, phát triển hay đang phát triển. Trong lịch sử phát
triển của xã hội có lẽ chưa bao giờ có một sự hợp tác để phát triển
rộng rãi đan xen lồng ghép và nhiều tầng lớp như hiện nay với sự
hình thành nhiều tổ chức kinh tế như ASEAN (Hiệp hội các nước
Đông Nam á), WTO (tổ chức thương mại thế giới) AFTA, EU,...
Đối với các khu vực, Việt Nam nằm trong khu vực Đơng Nam
á, Châu á Thái Bình Dương, một khu vực được coi là có nền kinh tế
năng động và có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới trong những

năm gần đây. Hầu hết các nước trong khu vực như Singapore, Thái
Lan, Inđônêsia đều đã tiến hành nền KTTT được mấy thập kỷ và một
số nước đã trở thành các nước công nghiệp mới (NIC).
Như vậy thế giới và khu vực đã phát triển vượt ta khá xa về
mọi mặt đặc biệt là về kinh tế. Vì thế đã đặt ra cho Việt Nam nhiều
thách thức trong qúa trình phấn đấu xây dựng và cải tiến nền KTTT
định hướng XHCN.
2. Thực trạng quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN
ở Việt Nam dưới tác động của những điều kiện cụ thể
2.1 Giai đoạn 1986 - 1991

8


Đây là giai đoạn đầu chúng ta chuyển sang nền KTTT. Do chưa
nhận thức được đầy đủ những yếu tố cụ thể ảnh hưởng đến nền kinh
tế nên ta đã có một số chính sách chưa đúng.
Một chính sách sai lầm trong giai đoạn này là tập trung cơng
nghiệp hố - hiện đại hố theo hướng ưu tiên cho cơng nghiệp nặng.
Đây là một sai lầm nghiêm trọng đã làm mất rất nhiều thời gian, tốn
rất nhiều tiền bạc bởi lúc này với xuất phát điểm và kinh tế rất thấp,
cơ sở vật chất, cơng nghệ cịn q lạc hậu thêm vào đó là thiếu vốn
và thiếu đội ngũ các nhà khoa học tài giỏi.
Trong khi đó ta có đầy đủ điều kiện để phát triển công nghiệp
nhẹ. Sự khéo léo cần cù của người dân Việt Nam, sự ưu đãi của thiên
nhiên khí hậu tạo nên một danh mục nơng sản đa dạng phong phú và
nhiều loại hình sản xuất hàng thủ cơng mỹ nghệ. Với những điều kiện
đó ta hồn tồn có thể phát triển những ngành cơng nghiệp nhẹ mà chỉ
cần ít vốn như cơng nghiệp chế biến thực phẩm, đồ mỹ nghệ,...
Chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhưng

trong giai đoạn này lượng hàng hố của chúng ta cịn ít và chất lượng
cịn chưa tốt. Chính vì thế, hàng hố sản xuất ra khơng có sức cạnh
tranh trên thị trường vì số lượng hàng hố ít nên phần lớn vẫn phải
nhập khẩu và chưa xuất khẩu được hàng hoá ra thị trường thế giới.
Với điều kiện địa lý địa hình phức tạp, hệ thống giao thơng vận
tải yếu kém như trên chưa có những chính sách phát triển kinh tế phù
hợp với từng vùng, từng miền, chúng ta đã rơi vào tình trạng đầu tư
phát triển kinh tế tràn lan, không tập trung, gây nên sự bất hợp lý
giữa các vùng.

9


Cơ cấu giữa các thành phần kinh tế cũng là một vấn đề đáng
quan tâm. Trong giai đoạn này các thành phần kinh tế mới như kinh
tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước chưa phát triển, chủ yếu
vẫn là thành phần kinh tế Nhà nước. Nguyên nhân của vấn đề này là
do ta vẫn còn chậm đổi mới các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất đã
có trong nền kinh tế bao cấp cũ và chưa có được những chính sách
phù hợp để kinh tế tư bản tư nhân và tư bản Nhà nước phát triển.
Tóm lại, trong giai đoạn này mặc dù đã đạt được một số thành
tựu, nền kinh tế đã từng bước ổn định và phát triển, các cơn sốt do
hậu quả của cơ chế quan liêu bao cấp đã dần dà vơi đi nhưng nền
kinh tế Việt Nam vẫn chưa bước hẳn ra sự khủng hoảng của những
năm trước đổi mới.
2.2Giai đoạn 1991 đến nay
Giai đoạn này, do đã dần điều chỉnh phù hợp với những điều
kiện, nhân tố cụ thể ảnh hưởng đến nền KTTT nên kinh tế Việt Nam
đã đạt được một số thành tựu đáng kể:
Điều đầu tiên cần nói đến là tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và

tương đối ổn định. Giai đoạn 1986 - 1990, GDP tăng trung bình 3,9%
thì đến giai đoạn này GDP tăng bình quân 8,2%. Cơ cấu giữa các
thành phần kinh tế và các ngành cũng hợp lý hơn. Hàng loạt các công
ty, doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong mọi lĩnh vực đã ra đời.
Dịch vụ thương mại phát triển tương đối mạnh đã tạo điều kiện cho
việc sản xuất hàng hoá, làm cho số lượng hàng hoá phong phú hơn và
chất lượng không ngừng được cải tiến. Giao thông vận tải được chú
trọng sửa chữa và xây mới nên hàng hoá đã đến được các vùng sâu,
vùng xa và miền núi.
10


Một thành tựu quan trọng nữa là trong điều kiện nền kinh tế
thế giới với sự cạnh tranh rất khốc liệt gây ra sự phân cực giàu nghèo
mạnh mẽ với nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng, Đảng ta
kịp thời rút kinh nghiệm và đã có những đường lối, chính sách định
hướng cho nền kinh tế phát triển theo đúng định hướng XHCN,
hướng thị trường hàng hoá vào ưũy đạo cạnh tranh lành mạnh cùng
phát triển. Chính vì vậy nền KTTT của ta chẳng những không xảy ra
khủng hoảng mà còn tránh được ảnh hưởng tiêu cực từ những cuộc
khủng hoảng kinh tế ở các nước trong khu vực và thế giới mà cụ thể
là cuộc khủng hoảng tiền tệ vào năm 1997. Tuy nhiên nền kinh tế nước ta
so với khu vực và thế giới vẫn là một nền kinh tế kém phát triển, cần có
nhiều biện pháp để phát triển theo kịp các quốc gia khác.
KTTT đã ra đời và phát triển qua nhiều gia đoạn và cho đến
bây giờ nó vẫn là kiểu kinh tế xã hội tiến bộ nhất. Trải qua các giai
đoạn phát triển, KTTT ngày càng được hoàn thiện và được áp dụng
trên nhiều quốc gia. Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam mặc
dù mới ra đời cách đây hơn một thập kỷ nhưng cũng đã trải qua nhiều
thăng trầm, không ngừng vận động và luôn biến đổi dưới sự tác động

của nhiều yếu tố cả bên ngoài lẫn bên trong bản thân nền kinh tế. Các
yếu tố này vừa không ngừng có ảnh hưởng đến sự phát triển của nền
KTTT vừa chịu sự tác động của chính nền KTTT đó. Như vậy, trải
qua mỗi giai đoạn lại hình thành nên những yếu tố mới khiến cho
công cuộc xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN Việt
Nam ngày càng phức tạp, địi hỏi phải có sự phân tích kỹ lưỡng chi
tiết kịp thời từng yếu tố. Chính vì vậy quan điểm lịch sử cụ thể luôn
là quan điểm gắn liền với quá trình xây dựng nền KTTT định hướng
XHCN Việt Nam.
11


III. Một số giải pháp nhằm xây dựng nền KTTT theo định hướng
XHCN
Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang từng bước xây dựng cơ
sở vật chất để đẩy mạnh q trình phát triển nền KTTT định hướng
XHCN nhanh chóng đưa đất nước trở thành nước cơng nghiệp hóa
hiện đại hóa. Và việc nghiên cứu tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng để
tìm ra các giải pháp nhằm khắc phục những mặt yếu kém phát huy
những mặt mạnh đang là vấn đề bức thiết. Cụ thể :
Đẩy mạnh việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trước
mắt cần tiếp tục cải tiến hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngồi
với những qui định rõ ràng thơng suốt và đơn giản. Về lâu dài cần
tiến tới xây dựng một hành lang pháp lý chung cho các nhà đầu tư
nước ngoài cũng như trong nước để tạo một sân chơi bình đẳng.
Huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trong nước.
Trong lĩnh vực này, huy động tiết kiệm là mục tiêu hàng đầu, từ đó sẽ
phát huy được hết các nguồn nội lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Tiếp tục cân đối lại các thành phần kinh tế và các ngành; chú trọng
phát triển kinh tế giữa các vùng hợp lý hơn. Tăng cường hội nhập hợp tác

với các nền kinh tế trong khu vực và thế giới; giữ vững vai trò của Nhà
nước trong việc điều tiết vĩ mô, định hướng nền KTTT theo định hướng
XHCN, lấy công bằng xã hội làm mục tiêu tăng trưởng kinh tế, bảo đảm
nguồn nhân lực thông qua hệ thống giáo dục đào tạo, bảo đảm y tế, nâng
cao trình độ văn hố cho người lao động. Giữ vững an ninh, trật tự xã hội,
củng cố sự nghiệp quốc phòng an ninh nhằm ngăn chặn mọi thế lực phản
động phá hoại trong và ngồi nước; Tích cực cải tạo xã hội, xoá bỏ các tệ
nạn xã hội như tham nhũng, nghiện hút, mại dâm, ma tuý, hạn chế ô nhiễm
12


môi trường, giữ vững sự cân bằng sinh thái. Muốn vậy cần nâng cao nhận
thức con người trong việc bảo vệ giữ gìn cuộc sống của chính họ; vận dụng
sáng tạo, khơng rập khn các mơ hình KTTT trên thế giới; Có phương
hướng kết hợp định hướng XHCN với tăng trưởng kinh tế trong những
năm tới.

13


C. kết luận
Với việc áp dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào công cuộc đổi
mới kinh tế ở Việt Nam, chúng ta đã có được một nền kinh tế thị
trường năng động, một nền kinh tế theo định hướng XHCN với
những thành tựu hết sức to lớn: Nhịp độ bình quân hàng năm về sản
phẩm quốc nội trong 5 năm 1991 -1995 là 8,5%, nhịp độ tăng bình
quân hàng năm về sản xuất công nghiệp là 13,3%, sản xuất nông
nghiệp là 4,5%, kim ngạch xuất khẩu 20%. Cơ cấu kinh tế có bước
chuyển đổi tích cực: tỷ trọng cơng nghiệp và xây dựng trong GDP từ
22,7% năm 1990 lên 30,3% năm 1995, tỷ trọng dịch vụ từ 38,6% lên

41,5%. Bắt đầu có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế. Vốn đầu tư cơ bản
toàn xã hội tăng từ 15,8% GDP năm 1990 lên 27,7% năm 1995. Lạm
phát bị đẩy lùi từ 67,1% năm 1991 xuống 12,4% đầu năm 1995. Quan
hệ sản xuất được điều chỉnhphù hợp hơn với yêu cầu của lực lượng
sản xuất. Số hộ có thu nhập trung bình số hộ giàu tăng lên, tỷ lệ hộ
nghèo giảm.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế nước ta vẫn
còn những hạn chế nhất định, đất nước ta vẫn còn chậm phát triển so
với khu vực và thế giới. Chúng ta cần phải áp dụng các giải pháp hợp
lý để cải thiện tình hình, đặc biệt chú trọng đến sự vận dụng đến sự
vận dụng sáng tạo để có được một nền KTTT hồn chỉnh, phát huy
hết tính ưu việt của nó và tránh được những sai lầm của nền KTTT
của các quốc gia khác.
Từng bước thực hiện các giải pháp để đề ra, Việt Nam sẽ có
thêm tự tin bước vào thế kỷ 21 với những thách thức mới, cơ hội
mới. Nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam sẽ ngày càng phát triển

14


ổn định và nhanh chóng đuổi kịp trình độ của thế giới, trở thành một
nước công nghiệp phát triển trong tương lai không xa.
d.Tài liệu tham khảo
1. Sách:
- Nguyễn Sinh Cúc “Kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa” - NXB Chính trị quốc gia TP - HCM, năm 1996.
- Giáo trình “Triết học Mác - Lênin” - Tập II, NXB Chính trị
quốc gia, 1997.
2. Tạp chí:
- Nghiên cứu trao đổi số 11 tháng 6 năm 1998.

- Triết học số 4 (110) - tháng 8 - 1998.
- Những vấn đề kinh tế thế giới số 1 (45) năm 1997.
- Cộng sản số 4 (2-2000).
- Triết học số 2 (96) tháng 4 - 1997.
- Triết học số 2 (108) tháng 4 - 1999.
- Triết học số 2 - 2001
Và một số tạp chí khác.

15


16



×