Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm một số biện pháp mở rộng vốn từ cho học sinh lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.76 KB, 17 trang )

1
1. PHẦN MỞ ĐẦU:
1.1. Lý do chọn đề tài:
Trong các môn học ở Tiểu học, môn Tiếng Việt là môn có vị trí hết sức quan
trọng. Nó cung cấp vốn ngơn ngữ, xây dựng nền tảng kiến thức. Nó cịn là công
cụ giúp học sinh học các môn khác. Đặc biệt, phân môn Luyện từ và câu là phân
môn luyện cho học sinh kĩ năng nghe, đọc, nói, viết. Trong đó kĩ năng nói là yêu
cầu cơ bản khá trọng tâm ở phân môn Luyện từ và câu.
Qua mỗi tiết luyện từ và câu, các em được mở rộng một lượng vốn từ nho nhỏ,
tích lũy cho mình một vốn từ phong phú và đa dạng... Nhưng điều quan trọng hơn
là các em biết cách dùng từ ngữ, câu văn để diễn đạt một ý, liên kết các ý trong
một đoạn, một bài. Đấy chính là yêu cầu rèn kỹ năng nói cho học sinh.
Qua thực tế giảng dạy, tơi thấy dạy học sinh nói được một câu hay, giàu cảm
xúc là một kĩ năng khó của phân mơn Luyện từ và câu. Bởi vậy, hiệu quả giờ dạy
Luyện từ và câu còn hạn chế.Một phần người dạy còn chưa tìm ra quy trình và
phương pháp dạy thích hợp. Hơn nữa đây là phân mơn hồn tồn khó đối với học
sinh lớp1, 2.. Với đối tượng này vốn từ ít, kỹ năng diễn đạt còn hạn chế, các em
đọc còn chưa lưu lốt vì vậy ít nhiều hạn chế đến khả năng đặt câu đúng, câu hay,
diễn đạt bằng lời nói, lời kể và cách diễn xuất của mình qua từng đoạn chuyện,
câu chuyện. Vì vậy, các em thiếu tính mạnh dạn, tính tự tin trong học tập.
Để khắc phục tình trạng trên nhiệm vụ đặt ra cho tơi là làm thế nào để học sinh
mở rộng được vốn từ ngữ của mình một cách sâu sắc, có một vốn từ phong phú và
đa dạng?
Vì những lý do trên tơi mạnh dạn nghiên cứu đề tài : “ Một số biện pháp
giúp mở rộng vốn từ cho học sinh lớp 2C trường Tiểu học Trường Lâm”, để
góp phần nâng cao chất lượng học mơn Luyện từ và câu nói riêng và học Tiếng
Việt nói chung trong nhà trường Tiểu học.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài nhằm mục đích nghiên cứu, đề xuất những biện pháp góp phần vào đổi
mới cách dạy học sinh mở rộng vốn từ ngữ trong phân môn Luyện từ và câu ở lớp
2. Từ cách đổi mới phương pháp dạy của thầy góp phần đổi mới cách học của trò.


Phát huy hết khả năng tự phát hiện của học sinh thông qua cách tổ chức dạy học
của giáo viên và cách học của học sinh.
Qua đề tài này tơi mong muốn được góp một phần nhỏ vào việc rèn luyện cho
học sinh kỹ năng chính:
– Làm giàu vốn từ ngữ cho học sinh.
– Biết sử dụng từ ngữ trong đời sống hàng ngày.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Học sinh lớp 2. Cụ thể là học sinh lớp 2C trường Tiểu học Trường Lâm.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
+ Phương pháp thống kê.
+ Phương pháp trò chuyện.
+ Phương pháp đọc sách và tài liệu.
+ Phương pháp thực nghiệm.
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp.


2
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
2.1. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của sáng kiến kinh nghiệm:
2.1.1 Cơ sở lí luận:
Trong những năm gần đây, phong trào đổi mới phương pháp dạy học trong
trường Tiểu học được quan tâm và đẩy mạnh không ngừng để ngay từ cấp
Tiểu học, mỗi học sinh đều cần và có thể đạt được trình độ học vấn tồn diện,
đồng thời phát triển được khả năng của mình về một môn học, nhằm chuẩn bị
ngay từ bậc Tiểu học những con người chủ động, sáng tạo đáp ứng được mục
tiêu chung của cấp học và phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước.
Giáo dục Tiểu học là cơ sở ban đầu hết sức quan trọng, đặt nền móng cho
sự phát triển toàn diện con người, đặt nền tảng cho giáo dục phổ thơng. Vì vậy
phương pháp dạy học ở bậc tiểu học có tầm quan trọng đặc biệt, góp phần hình
thành cho học sinh phương pháp học tập đúng đắn, hình thành nếp tư duy sáng

tạo ngay từ khi các em bắt đầu đến trường phổ thông.
Trong các môn học ở tiểu học môn Tiếng Việt là môn có vị trí hết sức quan
trọng. Nó cung cấp vốn ngôn ngữ, xây dựng nền tảng kiến thức ban đầu cịn là
cơng cụ giúp cho học sinh học các mơn khác. Đặc biệt là phân môn Luyện từ
và câu là phân mơn đóng vai trị quan trọng đối với việc phát triển ngơn ngữ
của học sinh nói chung và của học sinh lớp Hai nói riêng. Trong thực tế mơn
Luyện từ và câu có vị trí rất quan trọng là chìa khóa mở ra kho tàng văn hóa
trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội của con người.Hơn nữa phân môn Luyện từ
và câu giúp học sinh lĩnh hội Tiếng việt, văn hóa là cơng cụ giúp học sinh sử
dụng Tiếng Việt đạt hiệu quả tốt mà còn học tốt các môn học khác, rèn cho học
sinh bốn kỹ năng nghe, đọc, nói, viết thành thạo.
Qua thực tế giảng dạy nhiều năm, tôi thấy dạy học sinh biết cách giao tiếp
tốt, viết được đoạn văn ngắn thì phải làm giàu vốn ngôn ngữ cho học sinh.
Làm giàu vốn ngôn ngữ cho học sinh lớp Hai là một việc làm quan trọng
trong phân môn Luyện từ và câu.Việc phát triển và làm giàu vốn ngơn ngữ
cho học sinh góp phần giúp học sinh có kĩ năng dùng từ để đặt câu và giao
tiếp tốt. Hơn nữa, phân môn Luyện từ và câu hồn tồn mới đối với học sinh
lớp 2. Vì các em từ lớp 1 lên, các em mới làm quen với thể loại này. Với đối
tượng này vốn từ ít, kỹ năng nói và viết diễn đạt cịn hạn chế. Học sinh chưa
hiểu sâu về nghĩa các từ ngữ và bản chất của câu nên khi nói và viết một đoạn
văn các em thường bộc lộ các yếu điểm về diễn đạt như : từ lặp lại nhiều, câu
không rõ nghĩa, các câu trong đoạn văn còn lộn xộn, viết đoạn văn mang tính
chất trả lời câu hỏi. Học sinh thường dập khuôn theo sự hướng dẫn của giáo
viên.
2.1.2 Cơ sở thực tiễn:
Bước vào đầu năm học, nhà trường phân cơng cho tơi chủ nhiệm lớp 2C.
trong q trình trực tiếp giảng dạy các em tôi cảm thấy hầu hết các em chưa
biết nói thành câu. Các em giao tiếp với nhau lời lẽ cụt ngủn, đơi khi nói năng
cộc lốc không lịch sự. Ngôn ngữ của các em rất hạn chế, vốn sống cịn ít, vốn
hiều biết về Tiếng Việt chưa nhiều, việc nói và viết thành câu, thành một đoạn

văn gặp nhiều khó khăn.


3
Việc dạy từ ngữ cho học sinh chính là quá trình giáo viên khơi dậy sự hiểu
biết và cảm nhận của các em về người, vật và cuộc sống xung quanh. Điều đó
địi hỏi giáo viên có phương pháp mở rộng vốn từ giúp các em tìm được nhiều
từ ngữ và biết sử dụng từ ngữ một cách thích hợp, sử dụng từ chính xác và hay
khi nói và viết. Song thực tế chỉ ra rằng một số học sinh lớp 2 vốn sống của
các em còn hạn chế do đó khi diễn đạt nói và viết học sinh cịn gặp nhiều khó
khăn.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
a.Thuận lợi.
-Trường Tiểu học Trường Lâm chủ yếu là trường nằm ở xã miền núi của thị
xã Nghi Sơn, chủ yếu là người Kinh. Trường được sự quan tâm của các cấp ủy
đảng và chính quyền địa phương. Được sự quan tâm của sở, phòng giáo dục
cung cấp đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng dạy học.
-Ban giám hiệu luôn quan tâm tới việc chỉ đạo đổi mới phương pháp và
hình thức tổ chức dạy học, chỉ đạo thực hiện công tác nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện cho thế hệ trẻ. Dạy học đã và đang chuyển hướng từ chủ yếu là
trang bị kiến thức sang trang bị những năng lực cần thiết cho học sinh.
-Giáo viên tích cực tìm tịi đổi mới phương pháp, dạy học ln ln lấy học
sinh làm trung tâm.
-Lớp 2C đa số học sinh ngoan ngỗn, biết vâng lời thầy cơ giáo.
b.Khó khăn.
Năm học 2014-2015, nhà trường phân công cho tôi chủ nhiệm lớp 2C, tổng
số học sinh là 32 em, nữ 14 em, con hộ nghèo và cận nghèo 6 em
Đa số học sinh bố mẹ làm nông nghiệp và công nhân. Mặt bằng dân trí
khơng đồng đều. Một số gia đình khơng quan tâm nhiều đến sự học tập của
con em mình, sự học hành của con em họ thường phó mặc cho nhà trường.

c.Điều tra thực trạng:
-Hằng ngày, trên lớp, vào những giờ ra chơi, tơi thường xun chuyện trị
với các em, hỏi han về gia đình, sở thích của các em, vừa tạo môi trường thân
thiện, thân mật gần gũi giữa giáo viên và học sinh vừa tìm hiểu về cách giao
tiếp bằng ngôn ngữ của các em. Qua những cuộc chuyện trị với học sinh tơi
thấy khoảng hơn một phần ba số học sinh trong lớp đã chủ động đến để nói
chuyện với cơ. Số cịn lại e dè khơng dám nói hoặc nói rất ít. Những em chủ
động đến nói chuyện với tơi thì thấy các em diễn đạt ngơn ngữ có phần trơi
chảy hơn những em nói ít.
Qua tất cả các giờ học trên lớp, tôi thường quan sát về thái độ học tập, về
cách dùng từ ngữ, cách diễn đạt các câu trả lời của học sinh trong những tuần
đầu của năm học, tôi thấy thực trạng của học sinh như sau:
+ Quan sát học sinh khi học môn luyện từ và câu, tôi yêu cầu các em tìm từ
ngữ thuộc các chủ đề, chủ điểm đang học. Đa số các em tìm được rất ít từ, chỉ
khi cô giáo gợi mở sát vào từng ngữ cảnh học sinh mới tìm được từ mà giáo
viên yêu cầu.
+ Quan sát học sinh khi học môn tập đọc, phần giải nghĩa từ đa số các em
không hiểu bản chất của từ nên các em không giải nghĩa được, khi tìm hiểu nội
dung của bài tập đọc, giáo viên nêu câu hỏi thì có khoảng ¼ số học sinh trong


4
lớp xung phong trả lời câu hỏi. Tuy học sinh có hiểu ý nội dung câu hỏi nhưng
vì học sinh chưa diễn đạt được câu trả lời trọn vẹn. Số học sinh cịn lại rụt rè
khơng dám giơ tay phát biểu vì các em khơng tự tin khi nói và khi trả lời các
em thường bê luôn cả đoạn văn hay một khổ thơ chứ chưa biết trả lời theo ý
hiểu của mình.
+ Qua tiết học Tập làm văn tơi thường quan sát các em trong việc trả lời
câu hỏi, đặt câu, viết đoạn văn ngắn từ 3-5 câu. Tôi thấy các em đa số chưa
biết đặt câu, sử dụng từ chưa chính xác, chỉ hơn ¼ số học sinh biết dùng một

số mẫu câu đơn giản.
Ngồi ra, tơi cịn quan sát các em khi các em giao tiếp bằng ngơn ngữ với
nhau , tơi thấy các em nói năng cịn cộc lốc chưa có chủ-vị. Các em giao tiếp
với nhau chưa tỏ thái độ thân thiện và lịch sự.
Qua quá trình thực hiện phương pháp quan sát trên tất cả các lĩnh vực tôi
thấy ngôn ngữ của các em còn rất hạn chế, việc trả lời câu hỏi thường thiếu
phần chủ ngữ,câu cú còn lộn xộn, gọn lỏn. Sử dụng ngơn ngữ trong văn bản
cịn nghèo nàn.
Tơi theo dõi việc tiếp thu bài học của học sinh trong một tháng đầu của năm
học và tiến hành điều tra kết quả học tập môn Luyện từ và câu của lớp.
Kết quả điều tra giai đoạn giữa tháng 9 như sau:
Sau khi dạy các bài Luyện từ và câu tuần 1,2,3,4 mở rộng vốn từ về sự vật
và mở rộng vốn từ ngữ về học tập.
Tôi ra 1 bài tập cho học sinh làm vào giấy:
1. Tìm từ?
– Tìm 5 từ chỉ đồ dùng học tập:………………….
-Tìm 5 từ chỉ các bộ phận bên ngồi của người:………..
-Tìm 5 từ có tiếng chăm:……………….
2. Đặt một câu với 1 từ vừa tìm được
Mẫu: Em chăm chỉ học tập.
Sau khi học sinh làm bài xong, tôi kiểm tra bài tập của các em, tôi thấy các
em có vốn từ rất ít chỉ tìm được vài ba từ, chứ chưa tự tìm được các từ theo
yêu cầu của cô giáo đã giao. Tôi cho học sinh đặt 1 câu với một trong các từ
tìm được thì học sinh đa số không biết dùng từ để đặt câu, giáo viên phải nói
câu mẫu học sinh mới đặt được câu theo dập khn một cách máy móc
Kết quả đạt được như sau:
TÌM TỪ
Giai
đoạn
đầu th

tháng
9

ĐẶT CÂU

TỪ CHỈ DD HỌC
TẬP

TỪ CĨ TIẾNG CHĂM

TÌM ĐỦ,
ĐÚNG( 5
TỪ)

CHƯA
ĐẠT
YC

TÌM ĐỦ,
ĐÚNG( 5
TỪ)

CHƯA
ĐẠT
YC

SL %

SL %


SL %

SL %

CÂU
ĐÚNG

CÂU SAI
NGỮ PHÁP

SL

SL

%

%


5
Lớp
2C
5
ss:32

15,6

27

84,4 5


15,6

27

84,4 8

25

24

75

Nhìn vào bảng dữ liệu, số lượng học sinh của lớp 2C có vốn từ q ít ỏi,
biết dùng từ để đặt câu đúng theo một chủ điểm chỉ có 8 em .Số lượng học
sinh viết thành câu chưa đúng ngữ pháp chiểm quá nhiều 75%. Đa số các em
còn trả lời theo câu hỏi gợi ý, chứ chưa biết đặt một câu hoàn chỉnh, một số
các em còn viết câu lộn xộn.
d. Mặt mạnh, mặt yếu
*Mặt mạnh: Bản thân tôi là người luôn luôn tận tụy với cơng việc, u
nghề, mến trẻ, ln thích tìm tịi học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp, có ý
chí phấn đấu, khơng sợ khó khăn gian khổ. Chính vì thế, tơi muốn đầu tư công
sức để nghiên cứu đề tài này góp phần vào việc nâng cao hiệu quả dạy học
phân mơn Luyện từ và câu có chất lượng cao.
Ngồi nỗ lực của bản thân, tơi cịn được các đồng chí đồng nghiệp giúp đơ
tạo điều kiện thuận lợi như góp ý kiến, thao giảng cho tôi dự giờ lấy kinh
nghiệm để tơi hồn thành đề tài này.
* Mặt yếu: Thời gian để thực nghiệm chưa nhiều, nên phần nào kết quả
học tập của học sinh chưa đạt tối đa như ý muốn. Trình độ viết sáng kiến cịn
hạn hẹp, câu từ để trình bày ý tưởng chưa được trau chuốt và làm sáng tỏ rõ

trong đề tài, vì thế đề tài cịn có nhiều khuyết điểm.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
Căn cứ thực trạng của học sinh đã được nêu ở trên, căn cứ vào thực tế giảng
dạy, tôi luôn suy nghĩ: ” làm thế nào để học sinh mở rộng được vốn từ của
mình một cách sâu sắc?”. sau thời gian nghiên cứu, tìm tịi tơi đã đúc kết được
một số những kinh nghiệm trong việc mở rộng vốn từ ngữ cho học sinh như
sau:
2.3.1.Cung cấp, mở rộng và nhân vốn từ ngữ cho học sinh
*.Mục tiêu: Cung cấp vốn từ giúp học sinh có vốn từ phong phú, để học
sinh tự tin trong giao tiếp, biết dùng từ để đặt câu trong mọi tình huống giao
tiếp, biết nói và viết những câu văn hay giàu cảm xúc, các em có khả năng
diễn đạt được trí tưởng tượng của mình trong từng câu truyện kể…
*Nội dung và cách thức thực hiện
Với lứa tuổi của các em học sinh lớp 2, vốn từ của các em còn nghèo nàn,
việc sử dụng từ ngữ trong giao tiếp còn nhiều hạn chế. Hầu hết học sinh sử
dụng từ ngữ chưa phù hợp, chưa chính xác. Vì vậy, tôi đã cung cấp vốn từ cho
học sinh giúp các em lựa chọn, phân tích để sử dụng từ ngữ cho hợp lý. Khi
dạy Luyện từ và câu tôi đã chú trọng mở rộng vốn từ cho học sinh, bằng cách
cho các em thi nhau tìm những từ ngữ thuộc chủ đề, chủ điểm các em đang
học, khuyến khích học sinh tìm càng nhiều từ càng tốt. Khi học sinh khơng tìm
được từ nhiều, tơi đã nêu câu hỏi gợi mở để các em hiểu và dễ dàng tìm được.
Bên cạnh đó, tơi đã giới thiệu, cung cấp thêm các từ đồng nghĩa, gần nghĩa,
trái nghĩa phù hợp với chủ đề các em học.


6
+ Về từ cùng nghĩa
Học sinh lớp hai chưa học khái niệm về từ cùng nghĩa, nên học sinh rất
khó khăn tìm được những từ cùng nghĩa, vì thế tơi cho học sinh mở rộng các
từ cùng nghĩa theo một số trường hợp sau:

- Những cặp từ cùng nghĩa có cấu tạo nghich đảo:
Ví dụ: dạy bài 1 tuần 12 Mở rộng vốn từ ngữ về tình cảm
Bài tập yêu cầu ghép tiếng theo mẫu để tạo thành các từ chỉ tình cảm gia
đình.
Để dạy bài tập này tơi cho các em dùng những cặp từ cùng nghĩa có cấu tạo
nghịch đảo: yêu thương – thương yêu, yêu quý – quý yêu, yêu mến- mến yêu,
thương mến- mến thương.
Dựa vào cấu tạo nghich đảo ấy học sinh dễ dàng tìm được nhiều cặp từ
cùng nghĩa khác theo yêu cầu cô ra.
- Từ cùng nghĩa theo địa phương:
Khi dạy mở rộng vốn từ về con vật, tôi cho học sinh mở rộng vốn từ bằng
cách khai thác vốn từ cùng nghĩa theo vùng, miền.
Ví dụ :giáo viên treo tranh vẽ con ngan và hỏi học sinh: miền bắc gọi con
vật này là con gì?- (con ngan), cịn miền Nam gọi con vật này là con gì? (con
vịt xiêm). Dùng cách hỏi như vậy vơí các con vật khác: con ngan- vịt xiêm,
con heo- con lợn, con hổ- con cọp. Với cách khai thác từ địa phương giáo viên
khuyến khích học sinh phân vùng để tìm từ.
Ví dụ: mẹ, má, mế, u , bu, bầm, bủ…cái tẩy – cái gôm, bút- cây viết, bơng
– hoa, bát ăn cơm- chén ăn cơm, thìa – muỗng.
+ Từ gần nghĩa
Lớp hai học sinh cũng chưa học về khái niệm từ gần nghĩa, nên việc học
sinh tìm được những từ gần nghĩa cũng rất khó khăn, do đó tơi đã dựa vào
từng chủ đề, chủ điểm mà tôi cho học sinh phân định rõ từng kiểu từ gần
nghĩa.
- Từ chỉ sự vật
Ví dụ: dạy về từ chỉ sự vật, tôi đặt câu hỏi gợi mở cho học sinh tìm các từ
gần nghĩa.
Chẳng hạn: tổ quốc cịn gọi là gì? ( non sơng, đất nước, giang sơn, quốc
gia,…)
Tương tự cách hỏi như vậy với:

- Từ chỉ tinh chất : dũng cảm, can đảm, anh dũng, gan dạ.. hiền lành, hiền
hậu, nhân hậu, vv..
- Từ chỉ hoạt động: ăn, xơi, .., bưng, bê, cắp, ôm..
+ Từ trái nghĩa: giáo viên cần phân biệt cụ thể nghĩa các từ mà cho học
sinh xét từ trái nghĩa theo các trường hợp sau:
-Những cặp từ trái nghĩa chỉ hoạt động: làm- chơi, lên – xuống, bay- đậu, đi
- dừng, đứng – ngồi…
-Những cặp từ trái nghĩa chỉ tính chất: đẹp- xấu, hiền – dữ, đen- trắng, nóng
– lạnh…
-Những cặp từ trái nghĩa có cùng một tiếng gốc
Ví dụ: bền lịng / nản chí, tốt bụng/ xấu bụng, đẹp mã/ xấu mã..


7
-Những cặp từ trái nghĩa khơng cùng một gốc
Ví dụ: ấm áp/ lạnh lẽo, cứng rắn/ mềm dẻo, dũng cảm/ hèn nhát…
+ Chú trọng nhân vốn từ của học sinh:
Mở rộng vốn từ bằng cách ghép tiếng thành từ có nghĩa, để học sinh tìm
được nhiều từ, tơi hướng dẫn các em tìm các từ ghép, từ láy cùng gốc:
Ví dụ: Cho học sinh tìm một số từ chỉ màu đỏ khác nhau
Tôi cho học sinh quan sát nhiều màu đỏ, yêu cầu học sinh nhận xét mức độ đỏ
của từng màu mà phân biệt được tên của màu đỏ đó.
-Từ ghép: đỏ tươi, đỏ thắm, đỏ hoe, đỏ chót, đỏ rực...
-Từ láy: đo đỏ, đỏ đắn...
Ngồi ra, tơi cho học sinh tìm từ dựa vào tiếng cho trước.
Ví dụ dạy bài 1 tuần 25 luyện từ và câu lớp 2. Bài tập u cầu tìm từ có tiếng
biển.
Tơi cho học sinh dựa vào tiếng cho trước tìm từ có tiếng biển đứng trước
hoặc tiếng biển đứng sau: biển cả, biển rộng, biển đơng, sóng biển, nước biển,
cá biển….

Hoặc dạy bài 3 tuần 33- Luyện từ và câu lớp hai về chủ đề nhân dân
-Tìm từ ngữ chỉ nghề nghiệp. tôi cho học sinh một tiếng cho trước ghép lại
thành từ có nghĩa: thợ
– Học sinh dễ dàng tìm được các từ có tiếng thợ: thợ điện, thợ cơ khí, thợ
mỏ, thợ hàn, thợ may, thợ mộc….
+ Hướng dẫn học sinh phát hiện các từ ngữ xoay quanh một đề tài:
Để các em phân biệt được các từ ngữ, giáo viên thường xuyên luyện cho
các em theo các bài tập từ đơn giản đến phức tạp.
Ví dụ:tìm các từ có hai tiếng trở lên chỉ các kiểu mưa khác nhau: mưa dầm,
mưa phùn, mưa rào, mưa ngâu, mưa bóng mây, mưa rả rích, mưa đá, mưa
rươi…
Tương tự kiểu bài đó, giáo viên cho học sinh tìm từ có từ “gió”: gió lốc,
gió nhè nhẹ, gió mơn man, gió hây hẩy, gió lồng lộng…
Đặc biệt tơi rất quan tâm đến dạy cho học sinh một số thành ngữ, quán ngữ
và tục ngữ thông dụng. theo từng chủ đề tôi dạy cho học sinh tìm và biết sử
dụng một số thành ngữ, tục ngữ khi diễn đạt nói và viết.
Ví dụ : Khi dạy về chủ đề thầy cô giáo tôi cho các em tìm những câu thành
ngữ nói về cơng ơn của thầy cô giáo chẳng hạn: Một chữ cũng là thầy, nửa chữ
cũng là thầy. Hoặc: Muốn sang phải bắc cầu kiều, muốn con hay chữ phải yêu
lấy thầy….
Dạy về chủ đề gia đình cho học sinh tìm những câu thành ngữ nói về cơng
ơn cha mẹ: cơng cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy
ra, hoặc : Con có cha như nhà có nóc, con có mẹ như măng ấp bẹ…
Dạy về chủ đề các lồi chim cho học sinh tìm những câu thành ngữ nói về
các lồi chim: nói như vẹt, hót như khướu, đen như quạ, hôi như cú.
-Chú trọng cách dùng từ đặt câu của học sinh.
-Tăng cường củng cố, mở rộng kiến thức cho học sinh:
Trong q trình giảng dạy, tơi thường liên hệ những nội dung kiến thức có
liên quan đến các chủ đề học tập trong các phân môn: Tập đọc, chính tả và



8
phân môn Tập làm văn, để cung cấp thêm vốn hiểu biết, vốn từ ngữ về sự vật,
hiện tượng xoay quanh các chủ đề để học sinh có kiến thức, không bơ ngơ khi
gặp những đề bài mới chưa được luyện tập trên lớp. Giúp học sinh có hiểu biết
về đề tài, vận dụng kỹ năng thực hành để học sinh có vốn kiến thức và vốn từ
phong phú, đa dạng. Khi học sinh đã có vốn từ phong phú thì chắc chắn các
em sẽ tự tin trong giao tiếp, học sinh trình bày lời nói của mình sẽ lưu lốt hơn.
Các em đứng trước đám đơng sẽ tự nhiên mà không ngại ngùng e sợ.
Khi sử dụng phương pháp trên vào dạy học sinh mở rộng vốn từ ngữ, tơi
thấy kích thích sự sáng tạo của học sinh trong quá trình tìm từ ngữ, rèn luyện
tư duy cho học sinh Học sinh tìm được nhiều từ mới hơn khi kết hợp với
phương pháp gợi mở của giáo viên.
2.3.2. Sử dụng phương pháp phân tích ngơn ngữ để mở rộng vốn từ:
+Mục tiêu:
– Sử dụng phương pháp phân tích ngơn ngữ kích thích sự sáng tạo, sự chủ
động của học sinh trong q trình tìm hiểu ngơn ngữ giúp học sinh hiểu cặn kẽ
hơn về hiện tượng ngôn ngữ cần nhận thức và nhớ kĩ bài học hơn.
+Nội dung và cách thức thực hiện:
Học sinh lớp 2 chưa được học về lý thuyết, ngữ pháp, các khái niệm từ và
câu được hình thành thơng qua thực hành luyện tập. Chính vì vậy, việc tăng
cường sử dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ rất cần thiết trong giờ học
Luyện từ và câu.
Để sử dụng phương pháp này, giáo viên giới thiệu ngữ liệu cần phân tích,
hướng dẫn học sinh quan sát và phân tích ngữ liệu theo định hướng của nội
dung bài học, hướng dẫn học sinh hình thành khái niệm lý thuyết cần đúc kết
qua phân tích hiện tượng ngơn ngữ, hướng dẫn học sinh củng cố và vận dụng lí
thuyết đã học vào việc luyện tập phân tích một số hiện tượng ngơn ngữ.
Ví dụ: dạy bài tuần 2 – Mở rộng vốn từ ngữ về học tập-Luyện Từ và câu
lớp 2 trang 9

Bài tập 1 tìm các từ:
– Có tiếng học
mẫu: học hành
– Có tiếng tập
mẫu: tập đọc
Bài tập trên là bài tập tạo lập từ nhiều tiếng từ một tiếng cho trước nhằm
mở rộng và hệ thống hóa vốn từ liên quan đến học tập.
Giáo viên vận dụng phương pháp phân tích ngơn ngữ để giúp học sinh xác
định được: các tiếng học và tiếng tập là những tiếng cho trước, có thể đứng
phía trước hoặc phía sau ở từ nhiều tiếng mới tìm được.
Giáo viên yêu cầu học sinh phân tích ví dụ ( mẫu) mà bài tập đưa ra đã đạt
được những yêu cầu nào. Học sinh cần nêu được:
– Nêu đúng tiếng mà khi ghép với tiếng “học” hay tiếng “tập” tạo thành từ
có nghĩa liên quan đến học tập.
Bài 2 : Đặt câu với mỗi từ tìm được ở bài tập 1
Sau khi học sinh đã hiểu nghĩa của từ giáo viên yêu cầu học sinh đặt câu
theo yêu cầu của bài.
Ví dụ: Bạn Lan học hành rất chăm chỉ./ Em rất thích tập vẽ.


9
– Ngồi ra, sử dụng phương pháp phân tích ngơn ngữ để GV có cơ sở giúp
HS nhận ra cấu tạo câu, nhằm giúp các em viết câu đúng, đủ bộ phận.
Khi sử dụng phương pháp trên vào dạy học sinh mở rộng vốn từ ngữ, tơi thấy
kích thích sự sáng tạo của học sinh trong quá trình tìm hiểu ngôn ngữ, rèn
luyện tư duy cho học sinh trong quá trình phân tích ngơn ngữ. Học sinh tìm
được nhiều từ mới hơn khi kết hợp với phương pháp gợi mở của giáo viên.
2.3.3.Vận dụng phương pháp quan sát để mở rộng vốn từ:
+ Mục tiêu:
Dùng phương pháp quan sát giúp học sinh phối hợp nhiều giác quan để

quan sát sự vật, hiện tượng, hình thành các biểu tượng, các khái niệm cụ thể.
giúp các em hứng thú học tập, phát triển khả năng tập trung, chú ý, óc tị mị,
khám phá. phát triển tư duy nâng cao tính tự lực, tích cực của học sinh.
+ Nội dung và cách thức thực hiện:
Kỹ năng quan sát rất cần cho học sinh khi mở rộng vốn từ: Quan sát trên
lớp theo gợi ý, hướng dẫn của giáo viên hoặc tự quan sát khi chuẩn bị bài ở
nhà. Giáo viên cần khai thác kỹ tranh ảnh, hình ảnh, tập trung quan sát đặc
điểm nổi bật của đối tượng, mục đích là giúp HS tránh được kiểu kể theo liệt
kê. Bên cạnh đó, tơi cũng hướng dẫn HS cách quan sát bằng các giác quan để
cảm nhận một cách có cảm xúc về sự vật.
Ví dụ: dạy bài 29 Mở rộng vốn từ về cây cối -Luyện từ và câu lớp 2 có bài
tập 1 yêu cầu học sinh kể tên các bộ phận của cây ăn quả.
Bước 1:Lựa chọn đối tượng quan sát:
- Để học sinh tìm được các bộ phận của cây ăn quả, tôi cho học sinh quan
sát tranh vẽ các cây ăn quả để thấy được các đặc điểm chung của cây ăn quả.
Sau đó, tơi cho học sinh quan sát kĩ 1 cây ăn quả có đủ các bộ phận của cây.
Bước 2:Xác định mục đích quan sát:
Hướng dẫn quan sát từ trên xuống dưới hoặc từ dười lên trên của cây để tìm
các bộ phận của cây.
Bước 3: Báo cáo kết quả quan sát
Sau khi học sinh quan sát xong, tôi yêu cầu học sinh kể tên các bộ phận
của cây, em nào kể chưa đủ bộ phận của cây tơi đặt câu hỏi để các em tìm và
bổ sung kết quả. Ví dụ: Bộ phận nào hút chất dinh dương dưới đất để nuôi
sống cây? Bộ phận nào của cây gần tiếp giáp với đất? Chắc chắn các em sẽ tìm
ra được đó là rễ cây, gốc cây.
Để làm được dạng bài này, giáo viên cần hướng dẫn các em quan sát các
đối tượng khác nhau: một bức tranh, một cái cây, một con vật. Biết quan sát
tức là các em biết dùng các giác quan( mắt, mũi, lươi, da) để nhận biết đặc
điểm của bức tranh hay con vật, cây cối có hình dạng, màu sắc như thế nào.
Khi quan sát, đầu tiên các em phải có một cái nhìn chung để xác định được

mình đang phải quan sát cái gì? Quan sát cảnh gì? Quan sát con gì? Tiếp theo
các em phải biết cách chia đối tượng thành nhiều phần rồi lần lượt quan sát
theo nhiều góc độ.
Các phương tiện dạy học chủ yếu: tranh vẽ minh họa.
-Hoạt động chính của học sinh khi học kiểu bài này: giáo viên hướng đẫn
học sinh quan sát tranh, thực hiện các thao tác quan sát. Diễn đạt những điều


10
quan sát được bằng ngơn ngữ có tính tạo hình. Hướng dẫn học sinh tìm từ ngữ
để thể hiện một cách có hình ảnh những điều đã quan sát được.
Sau khi sử dụng phương pháp quan sát để mở rộng vốn từ, tôi thấy các em
rất hứng thú học tập, tị mị thích được khám phá ra những biểu tượng, những
khái niệm cụ thể về đối tượng. Được quan sát các em đã tìm được rất nhiều từ
ngữ mới mà các em chưa được dùng tới bao giờ.
2.3.4. Phương pháp thực hành giao tiếp:
+ Mục tiêu:
Sử dụng phương pháp theo định hướng giao tiếp chính là dạy cho học sinh
cách tổ chức giao tiếp bằng ngôn ngữ một cách hiệu quả trong những tình
huống điển hình và những tình huống cụ thể trong dạy học Tiếng Việt đặc biệt
là môn Luyện từ và câu sử dụng phương pháp giao tiếp giúp học sinh học tập
sinh động, hứng thú hơn.
+ Nội dung và cách thực hiện:
Thông qua phương pháp quan sát, giáo viên rèn cho học sinh kỹ năng sử
dụng từ ngữ để đặt câu, kĩ năng nói, trước khi làm bài viết. Trên cơ sở đó,
giáo viên điều chỉnh giúp học sinh hồn thiện bài viết. Với phương pháp này,
tơi thường tổ chức cho học sinh luyện nói cá nhân, luyện nói trong nhóm. ( HS
có thể kết nhóm theo ý thích, để có sự thoải mái tự nhiên, tự tin khi tham gia
làm việc trong nhóm ).
Chẳng hạn: sau khi học sinh tìm được các từ tả các bộ phận của cây tôi cho

học sinh nối tiếp nhau mỗi em đặt một câu tả về một bộ phận của cây tạo
thành một đoạn văn tả cây cối.Ví dụ: Rễ cây ngoằn ngoèo nằm trên mặt đất./
Thân cây to như cái cột đình./ Cành lá sum suê.….
Trong quá trình học sinh đặt câu, nếu em nào dùng từ chưa đúng, giáo viên
chỉnh sửa giúp các em hoàn thiện câu văn đúng và hay.
Khi sử dụng phương pháp thực hành giao tiếp trong việc mở rộng vốn từ và
rèn kĩ năng sử dụng từ đúng, tôi thấy các em rất hứng thú học tập, bởi các em
được nói ra những điều mình khám phá, được cơ giáo trau chuốt cho từng câu,
từng lời, được cô khen biết đặt những câu đúng và hay vì thế hiệu quả học tập
của các em ngày càng cao.
2.3.5.Sử dụng phương pháp trò chơi trong việc mở rộng vốn từ:
Xuất phát từ đặc điểm tâm lí của học sinh nói riêng và người học nói chung
nội dung học tập càng hấp dẫn thì người học càng có hứng thú cao và hiệu quả
học tập do đó càng cao, việc học gắn với thực hành thì sẽ giúp cho người học
nhớ lâu kiến thức và biết cách vận dụng kiến thức, kĩ năng vào một tình huống
giải quyết vấn đề cụ thể, người học muốn thể hiện năng lực của mình.
+Trị chơi ghép nhanh tên sự vật:
Ví dụ: tranh bài tập 1 tuần 3 trang 26, bài tập 2 tuần 7, trang 59, bàitập 3
tuần 16 trang 134 trong SGK Tiếng Việt 2 tập 1.
Chuẩn bị 2 bộ đồ dùng để chơi: mỗi bộ gồm 1 số đồ vật thật hoặc tranh ảnh
đại diện cho nghĩa của từ được nêu trong sách giáo khoa Tiếng Việt 2, các thẻ
từ( bìa giấy) ghi tên các đồ vật (tranh ảnh).


11
Ví dụ: tranh bài tập 1 tuần 3 trang 26, bài tập 2 tuần 7, trang 59, bàitập 3
tuần 16 trang 134 trong SGK Tiếng Việt 2 tập 1. một số mảnh bìa ghi từng từ
(tương ứng với từng đồ vật hoặc tranh ảnh)
Giáo viên hoặc một học sinh là trọng tài để đánh giá kết quả.
Cách chơi

Chơi theo từng cặp 2 học sinh hoặc 2 nhóm học sinh ( mỗi nhóm từ 2 đến 4
người chơi-Các đồ vật hoặc tranh ảnh đã được sắp xếp hoặc treo thành 2
nhóm. Mỗi học sinh ( hoặc mỗi nhóm) tham gia trị chơi được phát một bộ thẻ
từ ghi tên các đồ vật ( tranh ảnh). Học sinh ( hoặc nhóm) nào dán đúng và
nhanh nhất các tên ( từ) vào đồ vật hoặc tranh thích hợp thì thắng cuộc.
+Trị chơi tìm nhanh từ cùng chủ đề:
- Mục tiêu:
Mở rộng vốn từ, phát huy óc liên tưởng, so sánh
Rèn tác phong nhanh nhẹn, luyện trí thơng minh và cách ứng xử nhanh.
- Chuẩn bị: bảng phụ hoặc giấy nháp.
- Cách tiến hành.
Trò chơi có từ 2 đến 4 nhóm, mỗi nhóm có từ 2 đến 4 học sinh tham gia.
Sau khi giải nghĩa từ ngữ được dùng để gọi tên chủ đề ( ví dụ: đồ dùng học
tập là những dụng cụ của cá nhân dùng để học tập hoặc vật nuôi là những con
vật nuôi trong nhà…), giáo viên nêu yêu cầu:
- Hãy kể ra những từ gọi tên đồ dùng học tập ( hoặc những từ nói về tình
cảm gia đình..)
-Từng nhóm ghi lại những từ đó vào bảng phụ hoặc ghi vào giấy nháp để
đọc lên. Thời gian viết khoảng 2-3 phút.
+Trị chơi tìm nhanh từ đồng nghĩa:
Trị chơi này giúp học sinh nhận biết nhanh các từ ngữ đồng nghĩa, làm
giàu vốn từ ngữ của học sinh. Trò chơi này được dùng khi dạy về chủ đề học
tập tuần 2 sách Tiếng Việt 2 môn Luyện từ và câu tập 1.
- Chuẩn bị:
Từ 2 đến 4 bộ quân bài có nội dung như nhau, nhưng khác màu để khỏi lẫn
( xanh, đỏ, vàng…), tương tự quân bài trong cỗ tam cúc. Mỗi bộ có 10 hoặc
12 quân bài đã ghi sẵn các từ.
1 bộ quân bài dành cho người cầm cái ( trọng tài) khác màu với mỗi bộ
quân bài của người chơi. Trên mỗi quân bài này có ghi từng từ đồng nghĩa với
từ được ghi trên quân bài của người chơi.

Mỗi quân bài đều được ghi ở cả hai đầu để người chơi dễ nhìn khi cầm bài
trên tay.
-C ách tiến hành.
Để thực hiện trò chơi cần thực hiện qua 4 bước sau:
Bước 1: Giới thiệu tên và mục đích của trị chơi: mục đích của trị chơi là
học sinh thi tìm từ đồng nghĩa
Bước 2: chia lớp thành nhiều nhóm, mỗi nhóm 2- 4 học sinh. Quản trò là
giáo viên và hai học sinh giúp giáo viên làm trọng tài.
-Giáo viên hướng dẫn học sinh chơi:


12
-Từ 2 đến 4 người chơi. Mỗi người có 1 bộ quân bài như nhau ( 10, 12
quân)
Trọng tài lật 1 qn bài của mình ( có từ đồng nghĩa với từ trong bộ bài của
người chơi). Những người chơi phải chọn thật nhanh qn bài của mình có từ
đồng nghĩa với quân bài của trọng tài để đánh ra.
Trọng tài công nhận quân bài đánh ra là từ đồng nghĩa thì người đánh qn
bài đó đã “ăn” , nếu sai thì người đánh quân bài đúng tiếp theo sẽ được “ ăn” .
Trường hợp 2-3 người cũng ra quân bài đúng thì cũng được ‘ăn”.
Đánh hết bộ quân bài, ai có số lượng quân bài được “ăn” nhiều nhất sẽ
thắng cuộc. như vậy, người thắng cuộc nhận ra nhanh, đúng từ đồng nghĩa.
Bước 3: Học sinh thực hiện trò chơi
Bước 4: giáo viên thay mặt cho tổ trọng tài cơng bố nhóm tìm được nhiều
từ đúng và chính xác nhất và tun dương thưởng cho nhóm tìm được nhiều
từ đúng và nhanh.
Các cặp từ đồng nghĩa nói về chủ đề học tập dùng làm bộ bài để chơi và bộ
bài để cầm cái: học tập- học hành, siêng năng – chăm chỉ, vui vẻ – phấn khởi,
giảng dạy- dạy dỗ, bài tập- bài vở, chăm chú- chú ý, lễ phép- lễ độ, thông
minh- sáng dạ, vâng lời- nghe lời, kiên nhẫn – kiên trì….

+ Trị chơi tìm nhanh từ trái nghĩa:
Giúp học sinh nhận biết nhanh từ trái nghĩa, làm giàu vốn từ của học sinh
luyện trí thơng minh, nhanh mắt nhanh tay
Cách chuẩn bị và cách chơi giống như cách chơi tìm nhanh từ đồng nghĩa
Áp dụng trị chơi này khi dạy bài 1 tuần 16 luyện từ và câu lớp 2 tập 1
Các cặp từ trái nghĩa chỉ hoạt động, tính chất dùng làm bộ bài để chơi: tốtxấu, ngoan -hư, nhanh – chậm, trắng – đen, cao – thấp, khỏe – yếu, đẹp – xấu,
ngắn – dài…
+Trị chơi thi đốn từ – Trị chơi này giúp cho học sinh có kĩ năng đốn
nhanh một từ khi biết nghĩa hoặc một số dấu hiệu hình thức của từ đó. Củng cố
về nghĩa từ và mở rộng vốn từ ngữ cho học sinh.
Để thực hiện trò chơi này cần chuẩn bị:
– Một số câu đố về từ. Mỗi phiếu ghi một câu đố theo thứ tự 1,2,3…làm
các bộ phiếu giống nhau đủ cho số nhóm chơi, phiếu khổ to ghi sẵn kết quả
các từ ( ghi theo số thứ tự trong phiếu câu đố), giấy, bút để ghi kết quả
– Giáo viên cùng 2,3 học sinh làm trọng tài, ghi điểm các nhóm tham gia
chơi.
Cách tiển hành: Giáo viên lập 4 nhóm chơi ( mỗi nhóm 4,5 học sinh), nêu
yêu cầu:
Sau khi nhận 2 bộ phiếu ghi các câu đố về từ, các nhóm thảo luận với nhau
để giải câu đố, tìm từ và ghi kết quả vào tờ giấycủa nhóm.( nhớ ghi đúng từ
theo số thứ tự trên phiếu.
– Hết 3 phút, các nhóm dừng lại, lần lượt đọc kết quả để tổ trọng tài đánh
giá (mỗi từ tìm đúng được tính 2 điểm)
Ví dụ: dạy chủ đề trường học tơi có thể đưa ra các câu đố cho học sinh giải
như sau:
-Viên màu trắng dùng để viết lên bảng. (là gì?)


13
– Nơi em đến học hàng ngày. (là gì?)

-Tờ gì mỏng dùng để viết chữ lên. (là gì?)
– Cột gì cao trước sân trường
Chỉ mang một lá huy hoàng tung bay
Đầu tuần buổi sáng thứ hai
Cả trường, cả lớp ai ai cũng chào?
( là gi?)
Thơng qua trị chơi học tập, học sinh được phát triển cả về trí tuệ, thể lực,
nhân cách giúp học sinh phát triển về ngôn ngữ, mở rộng được nhiều vốn từ,
rèn cho học sinh tính nhanh nhẹn, luyện trí thơng minh và cách ứng xử nhanh,
làm giảm tính chất căng thẳng của giờ học. Tạo hứng thú học tập cho học sinh.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Đầu tháng ba vừa qua, tôi ra một bài tập yêu cầu học sinh làm bài để tôi
xem mức độ học sinh biết điền các loại chim đúng với đặc điểm và hiểu được
nghĩa từ , câu tục ngữ vừa tìm được.
- Hãy chọn tên các lồi chim thích hợp điền vào chỗ trống.
- Giải thích câu thành ngữ, tục ngữ vừa tìm được
- GV giải thích các câu thành ngữ, tục ngữ :
+ Vì sao người ta nói “Đen như quạ” ? (Vì con quạ có màu đen)
+ Em hiểu “Hơi như cú” nghĩa là thế nào ?
+ Cắt là lồi chim có mắt rất tinh, bắt mồi nhanh và giỏi, vì thế ta có câu
“Nhanh như cắt”
+ Vẹt có đặc điểm gì ?
+ Vậy “nói như vẹt” có nghĩa là gì ? (Là nói nhiều, nói bắt chước người
khác mà khơng hiểu mình nói gì)
+ Vì sao người ta lại ví”Hót như khướu” ? (Vì con khướu hót suốt ngày,
ln mồm mà khơng biết mệt và nói những điều khốc lác)
Sau khi học sinh làm bài xong, tôi kiểm tra bài tập của các em, tơi thấy
các em có vốn từ rất tốt, đa số các em đã biết điền tên đúng theo u cầu, chỉ
cịn một số em nhầm lẫn. Tơi cho học sinh giải thích câu tìm được thì học sinh

đa số học sinh biết, hiểu được nghĩa của các câu thành ngữ, tục ngữ.
Kết quả đạt được như sau:
Giai
đoạn
Đầu
tháng
3

ĐIỀN TÊN CÁC LOẠI CHIM
ĐIỀN
ĐÚNG
SL

%

CHƯA ĐẠT YÊU
CẦU
SL

%

GIẢI NGHĨA CÂU
GIẢI NGHĨA
ĐÚNG
SL

%

CHƯA ĐẠT YÊU
CẦU

SL

%


14
Lớp 2C:
28
ss:32

87,5

4

12,5

28

87,5

4

12,5

Nhìn vào bảng kết quả trên, cho thấy cách tổ chức học sinh học tập theo
hướng đã trình bày ở trên giúp học sinh có vốn từ phong phú. Khi học sinh có vốn
từ phong phú thì học sinh biết dùng từ đề đặt câu chắc chắn, thành thạo, chất
lượng nói viết thành câu của học sinh tăng lên rõ rệt qua từng tháng.…
Mặt khác, qua quá trình dạy thực nghiệm trên lớp tôi thấy giờ học diễn ra
sôi nổi. Học sinh tiếp thu bài một cách chủ động. Song điều đáng nói hơn cả là

hiện tượng nói câu khơng rõ nghĩa, khơng trọn ý khơng cịn nữa. Học sinh đã biết
dùng các từ ngữ giàu hình ảnh, câu viết khá sinh động, khi viết về các sự vật
xung quanh mình.
Điều đó chứng tỏ sử dụng các biện pháp theo hướng đã trình bày ở trên đã
đem lại kết quả rất khả quan, cần được phát triển để thực sự nâng cao chất lượng
làm giàu vốn ngơn ngữ nói riêng và học tốt mơn Tiếng Việt nói chung cho học
sinh lớp 2.
Sau một thời gian học tập và rèn luyện, chất lượng học tập của học sinh lớp
tôi dạy đã được nâng cao rõ rệt. Học sinh bước đầu biết đặt câu đúng và câu hay
biết áp dụng để viết đoạn văn ngắn phù hợp theo yêu cầu của đề bài.
Tơi tự nhận thấy mình đã tìm được hướng đi đúng, cách làm phù hợp cho
việc nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Luyện từ và câu. Tôi thấy mỗi giờ
dạy bản thân mình rất say mê, hứng thú trong việc rèn cho các em học tập. Cho
nên tiết Luyện từ và câu bây giờ trở nên nhẹ nhàng hơn, hiệu quả hơn so với
trước.
Tôi đã mạnh dạn thực hiện kinh nghiệm của mình trong các giờ Luyện từ
và câu. Đầu năm học , khi mới bước vào học phân mơn Luyện từ có và câu khơng
ít học sinh lớp tôi rất sợ học phân môn này. Nhưng dần dần với sự động viên, dìu
dắt của tơi, số lượng các em sợ học môn này ngày càng giảm dần. thay vào đó học
sinh rất mong muốn, phấn khởi chờ đón giờ Luyện từ và câu. Học sinh lớp tôi đã
ý thức hơn trong các giờ học tập Luyện từ và câu, học sinh tự tin và hứng thú học
tập. Chất lượng học tập của học sinh có chuyển biến rõ rệt. học sinh được bộc lộ
kinh nghiệm, sự cảm nhận của cá nhân khi quan sát, học sinh đựơc tự do diễn đạt
bằng sự lựa chon từ ngữ, mơ hình câu của riêng mình. Giờ học hứng thú hơn bởi
học sinh có động cơ nói ra, viết ra điều mình thấy, mình cảm nhận được. Đó
chính là những động lực thúc đẩy tôi ngày càng nỗ lực phấn đấu hơn nữa trong sự
nghiệp trồng người đầy khó khăn thử thách này
3.KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ:
3.1. Kết luận:
Đứng trước vai trị,vị trí, tầm quan trọng của việc dạy Luyện từ và câu cho

HS Tiểu học nói chung và đối với học sinh lớp hai nói riêng, tơi thấy việc hướng
dẫn cho các em nắm được phương pháp học phân môn Luyện từ và câu là hết sức
cần thiết . Học Tiếng Việt không chỉ là học những tri thức về ngôn ngữ ,về lý luận
… mà quan trọng hơn là bồi dương và phát triển 4 kĩ năng nghe, đọc, nói, viết của
học sinh.


15
Một trong những mục đích quan trọng của việc dạy Tiếng Việt cho HS
trong nhà trường là giúp cho các em hiểu và sử dụng được Tiếng Việt , một
phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của chúng ta. Hơn nữa, việc dạy học Tiếng
Việt không phải chỉ đơn thuần nhằm cung cấp cho học sinh một số những khái
niệm hay quy tắc ngơn ngữ mà mục đích cuối cùng cần đạt đến lại là việc giúp
các em có được những kĩ năng, kĩ xảo trong việc sử dụng ngôn ngữ. Học sinh
không chỉ biết những lý thuyết về hệ thống ngữ pháp Tiếng Việt, biết một khối
lượng lớn các từ ngữ tiếng việt, mà lại khơng có khả năng sử dụng hiểu biết ấy
vào trong giao tiếp .Dạy Tiếng Việt cho các em, đặc biệt các lớp đầu bậc tiểu học,
không phải chủ yếu là dạy “ Kĩ thuật “ ngôn ngữ mà dạy “ kĩ thuật” giao tiếp.Vậy
dạy Tiếng gắn liền với hoạt động giao tiếp là con đường ngắn nhất, có hiệu quả
nhất giúp HS nắm vững các quy tắc sử dụng ấy.Vì thế, có thể dạy Tiếng chính là
việc dạy cho các em cách tổ chức giao tiếp bằng ngôn ngữ. Mỗi một câu học sinh
biết sử dụng từ ngữ thành thạo là một dịp để các em có thêm kiến thức và kĩ năng
chủ động tham dự vào cuộc sống văn hóa thường ngày.Vì vậy, giáo viên cần hết
sức linh hoạt trong việc giảng dạy truyền kiến thức cho các em, để các em lĩnh hội
kiến thức một cách sáng tạo, thoải mái mà không bị nhồi nhét, áp đặt. Để làm
được điều này giáo viên phải linh hoạt trong mọi tiết dạy mà lựa chọn các phương
pháp và hình thức tổ chức lớp học sao cho đảm bảo tính vừa sức của học sinh tạo
tiết học hứng thú và bổ ích.
Khi áp dụng các biện pháp trên vào dạy mở rộng vốn từ trong phân môn
Luyện từ và câu, tôi nhận thấy các em khơng sợ học phân mơn Luyện từ và câu

nữa vì bản thân các em đã được đóng vai trị chủ đạo trong tiết học.Tôi nghĩ rằng
với biện pháp trên,không chỉ áp dụng ở lớp 2 mà các khối khác đều áp dụng
được .Nếu người giáo viên biết vận dụng các biện pháp trên để tiến hành dạy
trong giờ học, tôi nghĩ chất lượng giáo dục , hiệu quả quả giáo dục của môn
Tiếng Việt cụ thể là phân môn Luyện từ và câu ngày càng tăng cao một cách rõ
rệt. Các biện pháp đó tơi đã thực hiện trong giảng dạy, tôi thấy học sinh tiến bộ
hẳn trong năm học. Chắc chắn rằng giải pháp đưa ra còn nhiều hạn chế, thiếu sót
do đúc kết từ kinh nghiệm giảng dạy của cá nhân. Tơi rất mong được sự đóng góp
ý kiến của Hội đồng chấm sáng kiến kinh nghiệm.
Qua nghiên cứu thực trạng dạy học mở rộng vốn từ ngữ trong phân môn
Luyện từ và câu ở lớp 2, tôi thấy việc rèn kĩ năng mở rộng vốn từ là vơ cùng quan
trọng. cơng việc này địi hỏi người giáo viên phải linh hoạt, sáng tạo song cũng
cần kiên trì, chịu khó trong suốt q trình giảng dạy Luyện từ và câu nói chung và
dạy học sinh các mơn học khác nói riêng. Việc dạy học sinh theo hướng nêu trên
đã đem tới sự tiến bộ vượt bậc không chỉ riêng ở môn Luyện từ và câu mà trong
giờ tập làm văn hay giờ kể chuyện thì ngơn ngữ của các em cũng sát thực và giàu
hình ảnh hơn.
Trên đây là kinh nghiệm của tôi nhằm làm giàu vốn ngôn ngữ cho học sinh
trong phân môn Luyện từ và câu nói riêng và chất lượng học Tiếng Việt ở tiểu học
nói chung.
Tơi sẽ tiếp tục áp dụng kinh nghiệm này để nâng cao khả năng học tốt phân
môn Luyện từ và câu của học sinh.


16
Song tơi rất mong muốn các bạn đồng nghiệp tìm tòi, sáng tạo ra những
sáng kiến kinh nghiệm quý báu để góp phần nâng cao chất lượng giờ dạy.
3.2.Kiến nghị
* Đề nghị Bộ Giáo dục, Sở Giáo dục
Trang bị thêm tranh ảnh, mẫu vật băng hình có nội dung theo các bài học để

giờ dạy đạt kết quả cao hơn.
* Đối với gia đình
Tơi muốn đề xuất với gia đình học sinh-mỗi phụ huynh phải là tấm gương
sáng cho con mình học tập. Gia đình phải sống chuẩn mực, hịa thuận trên kính
dưới nhường, con cái lễ phép với cha mẹ, giao tiếp với mọi người phải tuân thủ
đúng quy cách lịch sự, nhã nhặn. Phụ huynh cần quan tâm đến con cái nhiều hơn
nữa, nhắc nhở con chăm chỉ học bài. Mua sắm đầy đủ thiết bị, đồ dùng cho các
em. Đặc biệt phải thường xuyên liên lạc với nhà trường để cùng nhau giáo dục
con em mình ngày một hoàn thiện hơn về đạo đức, học tập đạt kết quả tốt hơn.
*Đề xuất với ban giám hiệu
Trong các kì thi giáo viên dạy giỏi nên khuyến khích giáo viên dạy Luyện
từ và câu để trao đổi tìm ra phương pháp hay.
Nâng cao hiệu quả các giờ chuyên môn, khuyến khích giáo viên viết và báo
cáo chuyên đề trao đổi kinh nghiệm về phương pháp dạy học. Rất mong Ban
giám hiệu và các bạn đồng nghiệp góp ý để tơi hồn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Xin chân thành cảm ơn!
Trường lâm, ngày 24 tháng 3 năm 2021
Người thực hiện:

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Thứ tự
1
2
3
4
5
6

Tên tài liệu
Tác giả

Giáo dục toàn diện cho học sinh Tiểu NXB Giáo dục Việt Nam

học
Những tình huống trong giao tiếp ứng xử NXB Giáo dục Việt Nam
Để học tốt Tiếng Việt lớp 2
Thái Thị Như Quỳnh
Vui học Tiếng Việt lớp 2
Đặng Nguyệt Minh
Giúp em giỏi Luyện từ và câu
Võ Thị Minh Trang
Các câu đố dành cho học sinh Tiểu học
NXB Giáo dục Việt Nam
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
CẤP TRƯỜNG


17
………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………….



×