Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Công tác phối hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự với lực lượng công an huyện qua thực tiễn huyện an lão, thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (999.3 KB, 95 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM DUY THÀNH

CÔNG TÁC PHỐI HỢP GIỮA CƠ QUAN THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ VỚI LỰC LƢỢNG CÔNG AN
HUYỆN QUA THỰC TIỄN HUYỆN AN LÃO,
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(ĐỊNH HƢỚNG ỨNG DỤNG)

Hà Nội – 2021


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM DUY THÀNH

CÔNG TÁC PHỐI HỢP GIỮA CƠ QUAN THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ VỚI LỰC LƢỢNG CÔNG AN
HUYỆN QUA THỰC TIỄN HUYỆN AN LÃO,
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số : 8380101.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(ĐỊNH HƢỚNG ỨNG DỤNG)



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.Ngô Huy Cương

Hà Nội – 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sỹ này là của riêng tơi.
Tồn bộ các tài liệu, cơ sở pháp lý, các dẫn chứng số liệu đƣợc tôi sử
dụng để phục vụ cho việc nghiên cứu luận văn đều đảm bảo chính xác, trung
thực theo yêu cầu của một luận văn khoa học.
Tác giả

Phạm Duy Thành


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1....................................................................................................... 5
1.1. Tổng quát về thi hành án dân sự ................................................................ 5
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của thi hành án dân sự ...................................... 5
1.1.2. Tổ chức thi hành án dân sự ................................................................... 12
1.1.3. Hoạt động thi hành án dân sự................................................................ 13
1.1.4. Các yếu tố ảnh hƣởng đến cƣỡng chế thi hành án dân sự..................... 15
1.2. Phối hợp trong công tác thi hành án dân sự ............................................. 19
1.2.1. Phối hợp chung giữa cơ quan THADS với các cơ quan, tổ chức và cá
nhân khác......................................................................................................... 19
1.2.2. Phối hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự với lực lƣợng công an ........ 32
CHƢƠNG 2..................................................................................................... 35
2.1. Thực trạng các quy định pháp luật về thủ tục phối hợp giữa cơ quan Thi

hành án dân sự với cơ quan, tổ chức khác trong thi hành án dân sự .............. 35
2.2. Thực trạng công tác phối hợp giữa cơ quan thi hành án với lực lƣợng
công an trên dịa bàn huyện An Lão, thành phố Hải Phòng ............................ 54
2.2.1. Thực trạng cơng tác THADS nói chung ở huyện An Lão, thành phố Hải
Phịng ............................................................................................................... 54
2.2.2. Thực trạng cơng tác phối hợp giữa cơ quan THADS với lực lƣợng công
an trong việc THADS trên địa bàn huyện An Lão, thành phố Hải Phòng ..... 64
CHƢƠNG 3..................................................................................................... 71
3.1. Về quan điểm ........................................................................................... 71
3.2. Phƣơng hƣớng hoàn thiện qui chế phối hợp trong THADS .................... 73


3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện thủ tục phối hợp giữa cơ
quan Thi hành án dân sự với các cơ quan, tổ chức và lực lƣợng công an trong
Thi hành án dân sự .......................................................................................... 75
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 87


DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
THADS

Thi hành án dân sự

QSDĐ

Quyền sử dụng đất

THA


Thi hành án

CHV

Chấp hành viên

TAND

Tòa án nhân dân

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành nói chung và thi hành án dân sự (THADS) nói riêng vẫn đang
tồn tại khá nhiều khúc mắc trong đời sống thực tiễn và tồn tại khá nhiều bất
cập trong các quy định của pháp luật và vấn đề thực thi chúng.
THADS là việc tổ chức và hoạt động nhằm tới việc thi hành phần dân
sự của những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nói một cách ngắn
gọn. THADS phải tuân theo các quy định của pháp luật, và nó đƣợc xem là
một giai đoạn hay một trình tự, thủ tục có ý nghĩa quan trọng và thiết thực để
những quyết định mà tòa án tuyên đƣợc thi hành trên thực tế nhằm bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đƣơng sự và các bên có liên quan. Vì
vậy THADS tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia
nên THADS là công việc rắc rối, phức tạp, gây bức xúc, thậm chí chống đối
của các bên liên quan. Cơng việc này khơng thể chỉ một mình cơ quan nào có
thể thực hiện tồn bộ một cách sn sẻ. Trong quá trình thi hành án, cơ quan

THADS phải tiến hành nhiều công việc khác nhau, chẳng hạn: thông báo, xác
minh điều kiện THADS, thuyết phục ngƣời phải thi hành án tự nguyện thi
hành, thỏa thuận thi hành án, áp dụng biện pháp bảo đảm, tổ chức cƣỡng
chế... Cho nên THADS đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ của Cơ quan chuyên
trách về thi hành án dân sự với nhiều cơ quan, tổ chức khác nhƣ: Cơng an,
Tịa án nhân dân (TAND), Viện kiểm sát nhân dân (VKSND), Ủy ban nhân
dân (UBND), Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, Bảo hiểm xã hội, cơ
quan thuế, cơ quan đăng ký kinh doanh...Việc phối hợp tốt với các cơ quan, tổ
chức hữu quan là một trong những yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả của
công tác THADS. Trong thực tiễn thi hành án hiện nay, sự phối hợp giữa cơ
quan THADS và các cơ quan, tổ chức có liên quan, nhất là sự phối hợp giữa
cơ quan THADS với công an luôn luôn đƣợc chú trọng, tuy nhiên vẫn còn
nhiều hạn chế, bất cập bởi pháp luật cũng nhƣ các giải pháp thực tế, do đó gây
ảnh hƣởng trực tiếp đến hiệu quả của công tác THADS.
1


Vì các lý do đó, tơi xin lựa chọn đề tài: “Công tác phối hợp giữa cơ
quan thi hành án dân sự với lực lƣợng công an huyện qua thực tiễn huyện
An Lão, thành phố Hải Phòng”. Qua việc nghiên cứu đề tài này, luận văn làm
sáng tỏ phàn nào đó những vấn đề lý luận về sự phối hợp giữa cơ quan
THADS với với lực lƣợng cơng an nói riêng và các cơ quan, tổ chức khác nói
chung, đồng thời nếu rõ những thực tiễn quan hệ phối hợp tại địa bàn Huyện
An Lão, thành phố Hải Phòng, và kiến nghị một vài giải pháp để nâng cao
hiệu quả phối hợp giữa cơ quan THADS với lực lƣợng công an trong cơng tác
THADS.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho tới nay có nhiều cơng trình nghiên cứu về THADS ở nhiều cấp độ
khác nhau, điển hình nhƣ:
- Đề tài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về cưỡng chế thi hành án dân

sự ở Việt Nam”, luận án tiến sĩ luật học của Lê Anh Tuấn bảo vệ năm 2017 tại
Trƣờng Đại học luật Hà Nội, có đề cập tới phối hợp trong cƣỡng chế THADS
nhƣng khơng nói chun sâu về vấn đề này trong một địa phƣơng cụ thể.
- Đề tài “Cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với
đất trong thi hành án dân sự”, luận văn thạc sĩ luật học của Đào Thị Thắm bảo vệ
năm 2019 tại Khoa Luật- ĐHQGHN cũng có viết phần nào về phối hợp THADS,
tuy nhiên nghiên cứu chủ yếu là những vấn đề lý luận về biện pháp cƣỡng chế và
không làm rõ thực tiễn phối hợp tại một địa pƣơng cụ thể.
- Đề tài “Xác minh điều kiện THADS”, luận văn tốt nghiệp thạc sỹ luật học
của Đinh Thanh Hƣơng bảo vệ năm 2013 tại Khoa Luật- ĐHQGHN viết về
những vấn đề cơ bản trong xác minh điều kiện THADS, tuy nhiên, chỉ đề cập đến
những vấn đề mang tính lý luận chung, chƣa đi sâu nghiên cứu sự phối hợp giữa
cơ quan THADS và các cơ quan, tổ chức khác trong hoạt động này.
- Đề tài “Thực hiện pháp luật về xác minh điều kiện THADS qua thực
tiễn tỉnh Nghệ An”, luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Hồng Trung bảo vệ
năm 2017 tại Khoa Luật- ĐHQGHN chỉ nghiên cứu chỉ tập trung ở các quy
2


định pháp luật chung về xác minh điều kiện THADS mà chƣa đi sâu phân
tích, làm rõ mối quan hệ phối hợp trong hoạt động này.
- Đề tài “Mối quan hệ giữa các cơ quan trong THADS”, luận văn thạc
sĩ luật học của Lê Thị Hồng Hạnh bảo vệ năm 2008 tại Trƣờng Đại học Luật
Hà Nội viết vào thời kỳ Luật THADS 2008 mới đƣợc ban hành, đến hiện tại,
một số vấn đề đã khơng cịn phù hợp với thực tiễn.
Nhận xét một cách tổng qt, các cơng trình này có ý nghĩa tham khảo
lớn, tuy nhiên khơng nghiên cứu chuyên sâu việc phối hợp giữa cơ quan
THADS với lực lƣợng công an tại một địa phƣơng cụ thể, nhất là địa bàn
Huyện An Lão, thành phố Hải Phòng trong cơng tác THADS.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

Luận văn nghiên cứu nhằm mục đích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
về thủ tục phối hợp giữa cơ quan THADS với các cơ quan tổ chức khác, nhất
là lực lƣợng công an trong THADS; phân tích thực trạng pháp luật và thực
tiễn thực hiện thủ tục phối hợp giữa các cơ quan này trên địa bàn huyện An
Lão, thành phố Hải Phòng; và kiến nghị hoàn thiện pháp luật và một số giải
pháp nâng cao hiệu quả phối hợp giữa cơ quan THADS và lực lƣợng công an
ở huyện này trong công tác THADS.
Luận văn có các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Phân tích khái niệm, đặc điểm của thủ tục phối hợp giữa cơ quan
THADS với các cơ quan, tổ chức khác và công an trong công tác THADS,
đồng thời làm rõ các nguyên tắc, cách thức và nội dung thực hiện thủ tục này
trong thực tế.
- Phân tích thực trạng pháp luật về sự phối hợp giữa cơ quan THADS
với các cơ quan tổ chức khác, nhất là lực lƣợng công an huyện trong việc
THADS; Phân tích những điểm cần lƣu ý trong việc phối hợp thực tế giữa cơ
quan THADS với lực lƣợng cơng an huyện An Lão, Hài Phịng.
- Kiến nghị cụ thể các giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác phối hợp
giữa cơ quan THADS và các cơ quan, tổ chức khác, lực lƣợng công an trong
3


THADS.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ nghiên cứu những vấn đề pháp lý trong khuôn khổ Luật
Thi hành án dân sự và các văn bản hƣớng dẫn thi hành. Luận văn không đề
cập tới các vấn đề khác liên quan tới chính trị, kinh tế, xã hội nói chung và ở
Huyện An Lão, Hải Phịng.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những quy định hiện hành của
pháp luật Việt Nam với các số liệu thống kê tại Huyện An Lão, Hải Phòng tới
năm 2019.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phƣơng pháp luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin và tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh, luận văn sử dụng nhiều phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể nhƣ:
Phƣơng pháp phân tích qui phạm, phân tích số liệu và tình huống, phƣơng
pháp lịch sử, phƣơng pháp so sánh, thống kê, phƣơng pháp mơ hình hóa...
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có
kết cấu gồm 3 chƣơng, bao gồm:
Chương 1: Khái luận chung về việc phối hợp giữa cơ quan THADS với
các cơ quan, tổ chức khác và lực lƣợng công an trong THADS
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật liên
quan tới công tác phối hợp giữa cơ quan THADS với lực lƣợng công an trong
việc THADS tại huyện An Lão, thành phố Hải Phịng
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hồn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực hiện pháp luật tại huyện An Lão, thành phố Hải Phòng về phối hợp giữa
cơ quan THADS với các cơ quan, tổ chức khác và lực lƣợng công an trong việc
THADS.

4


CHƢƠNG 1
KHÁI LUẬN CHUNG VỀ VIỆC PHỐI HỢP GIỮA CƠ QUAN THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ VỚI CÁC CƠ QUAN, TỔ CHỨC KHÁC VÀ LỰC
LƢỢNG CÔNG AN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Tổng quát về thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự (THADS), nếu tạm bỏ qua câu trả lời nó có phải là
một giai đoạn tố tụng dân sự hay khơng, thì nó là một lĩnh vực hoạt động cụ
thể của cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền tƣơng thích nhằm thi hành trên thực

tế các bản án, quyết định đã có hiệu lực của tịa án. Một khi bản án và quyết
định của tòa án đƣợc thi hành nghiêm chỉnh thì có tác động khơng nhỏ đến sự
tin cậy của nhân dân vào pháp luật, vào cơ quan tƣ pháp nói riêng và nhà
nƣớc nói chung trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ
chức. THADS có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ pháp luật và
góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tăng cƣờng hiệu
lực, hiệu quả của bộ máy nhà nƣớc.
THADS là một giai đoạn độc lập của quá trình tố tụng dân sự, giai đoạn
kết thúc q trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự và ngƣời có
quyền và lợi ích liên quan theo bản án, quyết định của Tòa án đƣợc tổ chức
thi hành trên thực tế. Hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền nhƣ
vậy dựa trên căn cứ vào chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ theo do pháp luật
quy định với mục đích là đƣa vào thi hành trên thực tế bản án, quyết định dân
sự của toà án. Nhƣ vậy hiệu lực pháp luật của các bản án, các quyết định dân
sự của tòa án có tác động thực tiễn. THADS qua hoạt động của mình cịn có
thể giúp phát hiện ra những sai sót của của tịa án trong việc đƣa ra phán
quyết mà có thể ảnh hƣởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân đề từ
đó có thể kiến nghị tịa án có thẩm quyền có thể xem xét lại nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan. Trong q trình tố tụng,
THADS khơng những chỉ tiến hành đối với các bản án hay quyết định của tòa
5


án đã có hiệu lực pháp luật, mà có thể còn tiến hành đối với bản án hay quyết
định dân sự nào đó chƣa có hiệu lực nhƣng vì tính cấp thiết phải thi hành, tuy
nhiên phải tuân theo các qui định cụ thể của pháp luật, chẳng hạn Điều 2,
khoản 2 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 qui định “Những bản án,
quyết định sau đây của Toà án cấp sơ thẩm đƣợc thi hành ngay, mặc dù có thể
bị kháng cáo, kháng nghị: a) Bản án, quyết định về cấp dƣỡng, trả lƣơng, trả
công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao

động hoặc bồi thƣờng thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tổn thất về tinh thần,
nhận ngƣời lao động trở lại làm việc; b) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời”.
Trong những năm gần đây, thi hành án từ một thuật ngữ pháp lý đã trở
thành một từ ngữ thông thƣờng đƣợc nhắc đến không chỉ bởi các phƣơng tiện
thơng tin đại chúng, mà cịn đƣợc nhắc đến bởi quần chúng. Nói đến thi hành
án là nói đến việc tổ chức thi hành trên thực tế bản án hay quyết định của tòa
án hoặc các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền khác theo những trình tự, thủ
tục do pháp luật quy định. Thi hành án nói chung bao gồm thi hành trong các
lĩnh vực hình sự, hành chính và dân sự. Tuy nhiên do có những tính chất khác
nhau, nên THADS đƣợc tổ chức riêng.
Theo Từ điển Luật học, Nhà xuất bản Từ điển Bách Khoa năm 2006,
“THADS là hoạt động của cơ quan THADS, ngƣời đƣợc thi hành án, ngƣời
phải thi hành án và các chủ thể khác trong việc thực hiện bản án, quyết định
đã có hiệu lực của Tịa án”. Định nghĩa này nhắc tới nhiều chủ thể của quan
hệ pháp luật THADS, nhƣng khơng nói tới bản chất phap lý của THADS. Vậy
THADS có thể đƣợc hiểu là một loại hoạt động thi hành trên thực tế các bản
án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu
lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản
án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của
Tồ án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên
phải thi hành án của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của
6


Trọng tài thƣơng mại. Nhƣ vậy hoạt động THADS có thể phân loại thành hai
loại cơ bản là (1) thi hành các bản án và quyết định dân sự của tòa án; và (2)
thi hành các phán quyết về dân sự khác.
Tuy nhiên hiện vẫn còn khá nhiều quan điểm khác nhau về bản chất
của THADS.

Có quan điểm cho rằng THADS là một hoạt động tƣ pháp vì nó là giai
đoạn tiếp theo của giai đoạn xét xử không thể thiếu trong q trình bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự, và những ngƣời có quyền và nghĩa vụ liên
quan. Nó ln gắn liền với các giai đoạn của tố tụng và đƣợc ghi nhận trong Bộ
luật Tố tụng Dân sự. Do đó THADS chính là một hoạt động tƣ pháp, là giai đoạn
cuối của tố tụng dân sự. Lƣu ý rằng trƣớc đây, THADS là một hoạt động của tịa
án, sau đó tách ra chuyển về cho Bộ Tƣ pháp. Vì vậy quan niệm này khơng phải là
khơng có thực tiễn chứng minh.
Ngƣợc lại có quan điểm cho rằng THADS không phải là một loại hoạt
động tƣ pháp bởi không những thi hành các vụ án dân sự, mà cịn có trình tự,
thủ tục thi hành phần dân sự trong các bản án hình sự, kinh doanh thƣơng
mại, hành chính, lao động…, trình tự tổ chức thi hành theo trình tự, thủ tục
hành chính. Bởi vậy quan niệm này nhấn mạnh THADS là một loại hoạt động
hành chính bởi bản chất và mục đích của THADS không giống với hoạt động
tố tụng nên không đƣợc xem nó là hoạt động tố tụng dân sự. Quan điểm này
cho rằng bản chất, mục đích của hoạt động tố tụng dân sự có nhiệm vụ xác
định sự thật khách quan trong các vụ án dân sự, vụ việc dân sự và có những
phán quyết cuối cùng đúng theo quy định của pháp luật. Khi đƣa ra những
phán quyết đó, cơ quan tiến hành tố tụng và những cá nhân tiến hành tố tụng
phải thực hiện theo một quy trình tố tụng chặt chẽ và công khai, minh bạch
trong khi hoạt động THADS thì thực hiện theo những quy định mà điều luật
đã đƣợc định sẵn, có nghĩa là cơ quan THADS chỉ phải đƣa ra một quyết định
mang tính hành chính đƣợc áp dụng bằng một hoặc nhiều văn bản cá biệt để
điều chỉnh hoạt động của cá nhân, đối tƣợng phải có nghĩa vụ thi hành án
7


(THA) và chủ thể đƣợc THA. Ngồi ra, THADS cịn có thể đƣợc coi là hoạt
động hành chính vì bản chất, hoạt động này là hoạt động chấp hành và điều
hành mà theo đó nó mang tính quản lý hành chính nhà nƣớc rõ nét.

Tuy nhiên có quan điểm dung hịa cho rằng THADS là một loại hoạt
động “lƣỡng tính”, có nghĩa là vừa mang tính chất hành chính, vừa mang tính
chất tƣ pháp chứ khơng thể chỉ có riêng tính chất hành chính, hoặc riêng tính
chất tƣ pháp. THADS là một hoạt động mang tính quyền lực nhà nƣớc, do cơ
quan THADS thực hiện nhằm đƣa các phán quyết của các bản án và quyết
định về dân sự của toà án đi vào thực tiễn cuộc sống. Hoạt động THADS trên
thực tế ln gắn liền với quy trình tố tụng nói chung và quy trình tố tụng dân
sự nói riêng, gắn với quyền lực hành pháp. Thông qua hoạt động THADS, các
cá nhân, tổ chức có nghĩa vụ phải THADS phải thực hiện đầy đủ các trách
nhiệm của mình. Trong trƣờng hợp khơng thi hành quyết định THA thì cá
nhân, tổ chức đó phải chịu sự cƣỡng chế của Nhà nƣớc thơng qua các cơ quan
có chức năng, nhiệm vụ liên quan. Tuy nhiên, việc thi hành án không chỉ do
các chủ thể có thẩm quyền thực hiện mà có khi nó đƣợc thực hiện một cách tự
giác bởi ngƣời có nghĩa vụ THA. Khi nào các bản án, phán quyết không đƣợc
thi hành một cách tự nguyện bởi ngƣời có nghĩa vụ thì hoạt động cƣỡng chế
THA của chủ thể có thẩm quyền mới cần phải thực hiện.
Ba quan điểm này đƣợc nhắc tới trong bất kỳ cuộc tranh luận nào liên
quan và mỗi quan điểm luôn đƣợc phát triển thêm các chi tiết về lập luận. Tuy
nhiên phải thấy, ở trên thế giới cho tới nay và ở Việt Nam trƣớc kia tịa án
khơng chỉ tiến hành mỗi hoạt động tố tụng để đƣa ra các phán quyết mà tòa án
còn tiến hành làm cả các hành vi hành chính tƣ pháp, thậm chí cả đăng ký
kinh doanh1. Thơng thƣờng chỉ có tƣ pháp mới có thể tiến hành các hoạt động
liên quan tới quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, nhất là liên quan tới
quyền sở hữu, quyền nhân thân. Tuy nhiên hoạt động có tính cách cƣỡng chế

1

Xem Ngơ Huy Cƣơng (2019), “Tổng quan và định hƣớng cải cách môi trƣờng pháp lý kinh doanh cho phát
triển kinh tế tƣ nhân ở Việt Nam” (tr. 10 – 32), Hội Thảo khoa học xây dựng môi trường pháp lý bảo đảm
cho sự phát triển bền vững và lành mạnh cảu kinh tế tư nhân, Hà Nội, ngày 12 tháng 11 năm 2019, tr. 31.


8


bằng sử dụng bạo lực trên thực tế luôn là nhiệm vụ của hành pháp. Chính vì
vậy THA nói chung và THADS nói riêng ln phải là một hành vi hành chính
tƣ pháp mà theo đó tƣ pháp là nền tảng của hành vi này2.
Ai cũng hiểu rằng dù tổ chức cơ quan THADS thuộc ngành tƣ pháp
hành hành pháp thì cơ quan đó ln ln cần tới sự cƣỡng chế bằng sức mạnh
bảo lực hay cần tới sự bảo vệ của sức mạnh đó. Vì vậy việc phối hợp giữa cơ
quan THADS với lực lƣợng công an là một cơ chế không thể thiếu trong hoạt
động THADS. Tuy nhiên cần phải hiểu sự phối hợp đó cịn phụ thuộc cách
thức và cơ cấu tổ chức của lực lƣợng công an hay lực lƣợng cảnh sát. Trƣớc
kia ở Việt Nam khi THADS thuộc sự quản lý của tịa án, thì việc THADS vẫn
phải có sự phối hợp với lực lƣợng cơng an. Cho tới giờ lực lƣợng cơng an
ln có sự phối hợp chặt chẽ với tòa án trong việc bảo vệ phiên tòa, tống đạt
các tài liệu tố tụng... Vì vậy lấy yếu tố cần tới sự cƣỡng chế bằng bạo lực thực
tế để làm căn cứ cho luận điểm THADS thực chất là hành vi hành chính đơn
thuần khơng đủ sức thuyết phục.
THADS có những đặc điểm sau:
Đặc điểm thứ nhất, THADS có chủ thể đặc biệt và đối tƣợng đặc biệt.
Chủ thể đặc biệt đó là chấp hành viên (CHV).
CHV là ngƣời trực tiếp tổ chức thi hành án cụ thể do thủ trƣởng cơ
quan thi hành án giao nhiệm vụ. Do đó CHV ln phải có những phẩm chất
nhất định về đạo đức và chuyên môn cùng với kinh nghiệm trong công tác
THADS. Đối tƣợng đặc biệt của THADS là các bản án, quyết định của tòa án,
quyết định của trọng tài thƣơng mại và hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh theo
qui định của pháp luật liên quan. Các bản án, quyết định này phải có hiệu lực
pháp luật. Trong trƣờng hợp chƣa có hiệu lực pháp luật mà phải tổ chức thi
hành ngay thì phải theo những điều kiện nhất định theo qui định của pháp

luật.

2

Ngô Huy Cƣơng (2019), Kỹ năng tiếp cận và phân tích các vụ việc dân sự, Bài giảng điện tử, Khoa Luật –
ĐHQGHN.

9


Đặc điểm thứ hai, THADS là một trình tự, thủ tục chặt chẽ theo qui
định của pháp luật nhƣng gắn liền với thực tế.
Hoạt động THADS có sự tham gia của nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân
khác nhau với nhiều tƣ cách khác nhau (nhƣ là chủ thể phối hợp, là đƣơng
sự...). Hoạt động THADS mang tính thực tế cao bởi nó ảnh hƣởng trực tiếp
đến quyền lợi của nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ
chức liên quan trong từng trƣờng hợp cụ thể. Vì vậy, để hoạt động THADS
diễn ra một cách công bằng, hiệu quả, minh bạch, khách quan, tránh sự tùy
tiện thì THADS phải vừa đƣợc thực hiện theo các nguyên tắc, trình tự, thủ tục
theo qui định của pháp luật nhƣng phải bảo đảm hiệu quả thực tế theo tính
chất phức tạp của từng vụ việc cụ thể. Các đƣơng sự đƣợc quyền tự thỏa
thuận thời gian, phƣơng thức thực hiện việc thi hành án, với điều kiện không
trái pháp luật và đạo đức xã hội, không làm ảnh hƣởng đến ngƣời thứ ba. Tyy
nhiên việc thi hành phải phù hợp với pháp luật.
Đặc điểm thứ ba, THADS cần sự tham gia phối hợp của nhiều cơ quan,
tổ chức, cá nhân.
Bên cạnh sự cố gắng của cơ quan THADS, CHV và các nhân viên
khác, sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan nhà nƣớc ở địa phƣơng nơi tiến
hành thi hành án luôn đƣợc đặt ra. Lực lƣợng công an là một nhân tố quan
trọng trong hoạt động phối hợp THADS. Tuy nhiên, cơ quan THADS bao giờ

cũng là cơ quan chủ yếu, hạt nhân của sự phối hợp hay chủ trì sự phối hợp và
tổ chức phối hợp để bảo đảm THA.
Nói tóm lại THADS đƣợc nhận thức là cơng đoạn cuối cùng của cả một
q trình tố tụng, làm cho bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật
đƣợc thi hành nghiêm chỉnh, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân và Nhà nƣớc, tăng cƣờng tính nghiêm minh của pháp luật nên có
vai trị quan trọng:
Thứ nhất, nói chung mọi bản án, quyết định của tồ án có hiệu lực pháp
luật hoặc quyết định của những cơ quan có thẩm quyền chỉ thực sự có giá trị
10


khi đƣợc thực hiện trong thực tế thông qua THA. Trong THA, thì THADS có
một ý nghĩa nhất định với các phán quyết của tòa án và các cơ quan nhà nƣớc
có thẩm quyền hoặc của tổ chức phi chính phủ mà Nhà nƣớc thừa nhận lien
quan tới dân sự. Ngoài sự tự nguyện thi hành của ngƣời phải THA (nếu có),
biện pháp cƣỡng chế THADS theo quy định của pháp luật là cơng cụ bảo đảm
tính hiệu lực cho bản án, quyết định đó đƣợc thực hiện.
Thứ hai, quyền, lợi ích của ngƣời đƣợc THA sẽ đƣợc bảo đảm, các chủ
thể chấp hành đúng các nghĩa vụ, trách nhiệm của mình khi quyết định, bản
án của Tịa án và quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền đƣợc thi hành
trong thực tế. Và khi đó, việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân và Nhà nƣớc sẽ đƣợc thực thi, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật
tự, an tồn xã hội.
Thứ ba, tăng cƣờng hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nƣớc.THADS
đƣợc thực hiện bởi các chủ thể đƣợc Nhà nƣớc trao quyền. Việc tổ chức và
hoạt động của cơ quan THADS đƣợc tổ chức theo hệ thống ngành dọc từ
trung ƣơng đến cấp tỉnh, cấp huyện và cơ quan THA quân sự mà đảm bảo
việc áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật, cơ chế quản lý về mặt tổ
chức, nhân sự, hoạt động trong THADS từ trung ƣơng đến địa phƣơng, góp

phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nƣớc trong lĩnh
vực THA, góp phần giữ vững ổn định chính trị- xã hội, tăng cƣờng hiệu lực,
hiệu quả của bộ máy nhà nƣớc.
Thứ tư, THADS góp phần quan trọng trong việc bảo đảm tính nghiêm
minh của pháp luật. THADS chứa đựng những chế định quan trọng của tố
tụng dân sự và luôn đƣợc pháp luật thừa nhận, điều chỉnh. Mọi tổ chức, cá
nhân thực hiện đúng các quy định pháp luật về THADS trong thực tế đã góp
phần đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Pháp luật điều chỉnh mọi chủ
thể khi tham gia trong các quan hệ về THADS nhằm tăng cƣờng và góp phần
đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.

11


Thứ năm, THADS góp phần giáo dục ý thức pháp luật cho cơng dân.
Một trong những vai trị quan trọng của THADS chính là việc góp phần giáo
dục ý thức pháp luật đến với công dân. Thông qua hoạt động THADS, các
quy định về pháp luật dân sự, quy định pháp luật về THADS đƣợc tuyên
truyền, phổ biến, thẩm thấu vào các chủ thể đƣơng sự bao gồm ngƣời đƣợc
THA án và ngƣời phải THA, các cá nhân có liên quan, qua đó, nâng cao đƣợc
hiểu biết của cơng dân về pháp luật.
1.1.2. Tổ chức thi hành án dân sự
THADS ở nƣớc ta có những đặc thù riêng biệt do điều kiện thực tế ở
Việt Nam và do lịch sử để lại. Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 do Chủ
tịch Hồ Chí Minh ký ban hành, quy định về tổ chức các tòa án và các ngạch
thẩm phán đã thiết lập tổ chức THADS Việt Nam. Hơn 70 năm từ 19/7/1946
đến 19/7/2020 THADS ở nƣớc ta trải qua hai mô hình là mơ hình cơ quan
THADS trực thuộc tịa án cho đến năm 1993 chuyển sang mơ hình cơ quan
THADS trực thuộc Chính phủ. Ở cả hai giai đoạn này, mơ hình hệ thống các
cơ quan THADS đều có tính hợp lý trong từng thời điểm cụ thể, phù hợp với

thực tiễn và địi hỏi tất yếu mang tính khách quan của những giai đoạn cách
mạng cụ thể.
Luật Thi hành án dân sự năm 2008 đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2014 (sau
đây gọi là Luật THADS 2014), tại Điều 13 có qui định: hệ thống tổ chức
THADS hiện nay gồm cơ quan quản lý THADS và cơ quan THADS. Cơ quan
quản lý THADS gồm cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ Tƣ pháp và cơ quan
quản lý THADS thuộc Bộ Quốc phòng. Điều 52 và Điều 54 của Nghị định số
62/2015/NĐ-CP qui định về hệ thống tổ chức THADS và hệ thống tổ chức
THA trong quân đội nhƣ sau: (1) Hệ thống tổ chức THADS đƣợc tổ chức và
quản lý tập trung, thống nhất gồm: Trung ƣơng có Tổng cục THADS là cơ
quan quản lý THADS trực thuộc Bộ Tƣ pháp; ở cấp tỉnh có Cục THADS là
cơ quan THADS trực thuộc Tổng cục THADS; ở cấp huyện có Chi cục
THADS là cơ quan THADS trực thuộc Cục THADS; và (2) Hệ thống tổ chức
12


THA trong qn đội gồm: Bộ Quốc phịng có Cục THA Bộ Quốc phòng là cơ
quan quản lý THA trực thuộc Bộ Quốc phòng; ở quân khu và tƣơng đƣơng có
Phịng THA qn khu và tƣơng đƣơng là cơ quan THA trực thuộc quân khu
và tƣơng đƣơng.
Cục THADS cấp tỉnh thực hiện chức năng THADS, THA hành chính, có
nhiệm vụ giúp Tổng Cục trƣởng Tổng cục THADS quản lý một số mặt công
tác tổ chức, cán bộ của cơ quan THADS địa phƣơng và thực hiện các nhiệm
vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật. Chi cục THADS cấp huyện
thực hiện chức năng THADS, đôn đốc THA hành chính và thực hiện các
nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
Nhân sự trong các cơ quan THADS bao gồm: đội ngũ lãnh đạo (lãnh đạo
Tổng cục, lãnh đạo đơn vị cấp Vụ thuộc Tổng cục; lãnh đạo Cục, lãnh đạo
cấp Phịng chun mơn thuộc cục; lãnh đạo cấp Chi cục), đội ngũ các chức
danh tƣ pháp (Chấp hành viên, Thẩm tra viên, Thƣ ký THA...) và các công

chức, viên chức khác. Cơ quan THADS hoạt động theo chế độ thủ trƣởng,
ngƣời đứng đầu cơ quan có toàn quyền tự quyết định và chịu trách nhiệm cá
nhân về mọi vấn đề trong phạm vi thẩm quyền của cơ quan, tổ chức do mình
quản lý. Theo đó ở trung ƣơng Tổng cục trƣởng Tổng cục THADS đƣợc trao
nhiệm vụ, quyền hạn và phân cấp quản lý một số công việc, chịu trách nhiệm
về công việc, lĩnh vực đƣợc giao phụ trách trƣớc Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp. Đối
với cơ quan THADS tại địa phƣơng, Cục trƣởng Cục THADS cấp tỉnh chịu
trách nhiệm trƣớc Tổng Cục trƣởng Tổng cục THADS và trƣớc pháp luật về
toàn bộ hoạt động của Cục THADS cấp tỉnh. Chi cục trƣởng Chi cục THADS
cấp huyện chịu trách nhiệm trƣớc Cục trƣởng Cục THADS cấp tỉnh và trƣớc
pháp luật về toàn bộ hoạt động của Chi cục THADS cấp huyện.
1.1.3. Hoạt động thi hành án dân sự
THADS là quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về THADS theo đƣờng
lối, chủ trƣơng của Đảng. Nhƣ trên đã phân tích khái niệm, các đặc điểm cũng
nhƣ vai trò của THADS cho thấy một bức tranh tổng quát về tổ chức và hoạt động
13


của THADS. Có thể hiểu hoạt động THADS là một tập hợp các hành vi của cơ
quan THADS tuân thủ theo một trình tự, thủ tục do luật định nhằm làm cho các
bản án, quyết định dân sự của toà án cũng nhƣ các tổ chức có thẩm quyền khác
phát huy hiệu lực trên thực tế và đảm bảo các bản án, quyết định đó đƣợc tơn
trọng và thi hành nghiêm chỉnh.
Trong hoạt động THADS, các chủ thể THADS thực hiện nghĩa vụ pháp
lý của mình. Cụ thể cơ quan THADS chủ động tổ chức THA đối với những
khoản thu ngân sách cho nhà nƣớc nhƣ án phí, tịch thu sung công quỹ... Đối
với những loại này, cơ quan THADS tự mình ban hành các quyết định THA
và tổ chức thực hiện và đƣợc gọi là án chủ động. Đối với loại án theo đơn yêu
cầu, thì cơ quan THADS căn cứ vào bản án, quyết định của tòa án, xem xét
đơn yêu cầu THA của các bên đƣơng sự rồi tiến hành hoạt động. Cơ quan

THADS có trách nhiệm tổ chức thi hành đúng nội dung của bản án, quyết
định dân sự. Ngƣời đƣợc THA, ngƣời phải THA, ngƣời có quyền, nghĩa vụ
liên quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Các cơ quan Nhà nƣớc, tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức
kinh tế, đơn vị vũ trang và cá nhân tôn trọng pháp luật THADS và hoạt động
THADS. CHV chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật về tồn bộ hoạt động của mình
trong q trình tổ chức THA, đồng thời chủ động phối hợp với các cơ quan hữu
quan, lực lƣợng công an để giải quyết các vấn đề có liên quan đến THA. Đối với
những vụ việc phải cƣỡng chế có huy động lực lƣợng công an hoặc tổ chức tiêu
hủy vật chứng, CHV chủ trì thực hiện việc điều hành cả các thành viên thuộc các
cơ quan, tổ chức khác tham gia vào quá trình THA, chẳng hạn nhƣ làm Chủ tịch
Hội đồng cƣỡng chế, Chủ tịch Hội đồng định giá tài sản, tiêu hủy tài sản... Các
chủ thể pháp luật thực hiện pháp luật THA theo ý chí của mình trong việc
THA, đó có thể là cơ quan THA chủ động quyết định THA (án phí, lệ phí Tịa
án, trả lại tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tịa án; hình phạt tiền; tịch thu tài sản,
truy thu thuế, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính; xử lý vật chứng, tài sản
đã thu giữ; thu hồi đất theo quyết định của Tòa án; quyết định khẩn cấp tạm
14


thời của Tòa án); ngƣời đƣợc THA và ngƣời phải THA yêu cầu cơ quan THA
tổ chức THA. Quyết định THA chỉ đƣợc ban hành và tổ chức thực hiện dựa
trên bản án, quyết định của TA khi đã có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu
THA của các bên đƣơng sự. Khi ngƣời đƣợc THA có yêu cầu hoãn THA hoặc
các bên đƣơng sự thỏa thuận về THA mà không trái quy định của pháp luật,
không vi phạm đạo đức xã hội, không làm ảnh hƣởng đến quyền lợi của ngƣời
thứ ba thì CHV phải thực hiện theo yêu cầu, thỏa thuận của đƣơng sự.
1.1.4. Các yếu tố ảnh hƣởng đến cƣỡng chế thi hành án dân sự
Nói tới cƣỡng chế THADS là nói tới tổ chức sử dụng quyền lực nhà
nƣớc buộc ngƣời phải THA phải tuân thủ các phán quyết của tòa án hoặc của

các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Vì vậy cƣỡng chế THADS có hiệu quả ở
mức độ nào phụ thuộc vào các yếu tố chi phối. Các yếu tố đó bao gồm:
Yếu tố thứ nhất về kinh tế, xã hội
Kinh tế, xã hội là yếu tố ảnh hƣởng mạnh mẽ đến hoạt động THADS
nói chung và cƣỡng chế THADS nói riêng, nhất là ngƣời phải THA và ngƣời
đƣợc thi hành án. Kinh tế, xã hội phát triển thì việc áp dụng pháp luật về
cƣỡng chế THADS càng thuận lợi, bởi lúc đó cuộc sống về vật chất và tinh
thần của ngƣời dân đƣợc nâng cao, ý thức chấp hành pháp luật vì vậy phát
triển. Nếu kinh tế - xã hội kém phát triển thì cuộc sống vật chất và tinh thần
của ngƣời dân sẽ khó khăn, nhận thức pháp luật bị hạn chế. Do đó, thƣờng
gây nên sự căng thẳng, sự khó chịu và biểu hiện sự phản kháng đối với việc
THADS. Đặc biệt, khi ngƣời phải THADS gặp khó khăn về kinh tế thì họ
khơng có đủ điều kiện để THA nên khi tiến hành cƣờng chế, nhất là cƣỡng
chế tài sản duy nhất (nhà, đất, phƣơng tiện..) sẽ hết sức khó khăn, phức tạp,
khả năng chống đối rất cao. Xét về góc độ điều kiện kinh tế của quốc gia cho
thấy: Ở các nƣớc phát triển có sự minh bạch, rõ ràng về tài sản và quyền sở
hữu tài sản do đó thực hiện cƣỡng chế một cách thuận lợi. Nhƣng ở các nƣớc
có nền kinh tế chƣa phát triển, việc quản lý tài sản lỏng lẻo, chƣa tách bạch,
phân minh nên khi cƣỡng chế tài sản gặp nhiều khó khăn nhất là sự phân định
15


tài sản chung, riêng của ngƣời phải thi hành án. Điều này cũng thể hiện ngay
trong phạm vi mỗi quốc gia. Do đó, việc thƣờng xun rà sốt, đánh giá, sửa
đổi, bổ sung pháp luật nói chung, pháp luật về cƣỡng chế THADS nói riêng
cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội là hoàn toàn cần thiết.
Yếu tố thứ hai về văn hóa, phong tục tập quán
Cƣỡng chế THADS ngồi việc phải tn thủ đúng quy trình, thủ tục do
pháp luật quy định thì phải ln chú ý đến phong tục tập quán. Bởi Việt Nam
là một trong những quốc gia tôn trọng các phong tục, tập quán và truyền

thống dân tộc nên đây là vấn đề ảnh hƣởng nhiều đến cƣỡng chế THADS. Do
đó, khi thực hiện cƣỡng chế THADS nếu khơng tính đến vấn đề này thì sẽ
mang lại kết quả khơng mong muốn. Ngồi ra, việc cƣỡng chế THADS cịn
phải tính đến đặc thù văn hóa dân tộc, tơn giáo của chủ thể bị cƣỡng chế
THADS.
Việc tôn trọng những yếu tố phong tục, tập qn này, một mặt thể hiện
tính nhân văn, sự tơn trọng quyền con ngƣời trong THADS, mặt khác đây là
những yếu tố cần đƣợc chú trọng trong quá trình THADS để bảo đảm hiệu
quả của cƣỡng chế THADS, hạn chế mức thấp nhất phản ứng tiêu cực, thậm
chí là sự chống đối của ngƣời phải THA hay cộng đồng dân cƣ. Những ảnh
hƣởng của văn hóa, phong tục, tập quán, tơn giáo, dân tộc địi hỏi các quy
định của pháp luật về cƣỡng chế THADS phải tính đến. Vì vậy trong q
trình tiến hành cƣỡng chế THADS, chủ thể có thẩm quyền tiến hành cƣỡng
chế phải thận trọng, linh hoạt thực hiện các quy định pháp luật về cƣỡng chế
THADS phù hợp với điều kiện cụ thể bởi ảnh hƣởng của văn hóa, phong tục,
tập qn, tơn giáo, dân tộc thì mới đảm bảo hiệu quả của cƣỡng chế THADS.
Yếu tố thứ ba về dân trí, ý thức pháp luật
Trình độ dân trí là thƣớc đo của sự phát triển của một xã hội nói chung
và một cộng đồng dân cƣ nói riêng. Dân trí thấp thì xã hội khơng phát triển,
nhận thức của ngƣời dân không cao, cuộc sống khó khăn, kinh tế lạc hậu và
ngƣợc lại. Trong THADS, nếu đƣơng sự có trình độ dân trí cao, đồng nghĩa
16


với việc có nhận thức pháp luật đầy đủ, đúng đắn quyền và ngĩa vụ THADS
theo quy định của pháp luật, từ đó họ sẽ tích cực phối hợp, giảm nhiều khả
năng phải cƣỡng chế THADS hoặc nếu phải áp dụng biện pháp cƣỡng chế thì
họ chỉ chống đối trong chừng mực nhất định và khơng có dấu hiệu q khích.
Ngồi ra, đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, nếu trình độ dân
trí, nhận thức đúng nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong THADS thì khi đƣợc

yêu cầu, đề nghị phối hợp, hỗ trợ công tác cƣỡng chế THA thì họ tham gia
tích cực, nhiệt tình, tạo thuận lợi cho quá trình cƣỡng chế THADS. Ngƣợc lại
nếu khơng có nhận thức pháp luật đầy đủ, họ sẽ tạo ra những cản trở khách
quan cho việc cƣỡng chế THADS. Thực tiễn có nhiều trƣờng hợp cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền vì nhận thức pháp luật chƣa đầy đủ nên cố tình
trình hỗn, khơng phối hợp trong việc thực hiện cƣỡng chế, thậm chí có
trƣờng hợp cịn ban hành văn bản khơng đúng quy định pháp luật để yêu cầu
hoãn, tạm dừng việc cƣỡng chế ngay trƣớc thời điểm tổ chức cƣỡng chế
THADS.
Yếu tố thứ tư về tâm lý
Yếu tố tâm lý đƣợc đề cập khơng chỉ là tâm lý xã hội nói chung mà cịn
là tâm lý của đƣơng sự, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc. khi
cƣỡng chế THADS trong nhiều trƣờng hợp dƣ lận xã hội ũng hộ, đồng tình
với việc cƣỡng chế là một điều kiện đảm bảo cho việc cƣỡng chế THADS
thành công. Đối với ngƣời đƣợc thi hành án: Khi bản án đã có hiệu lực pháp
luật, ngƣời đƣợc THA có tâm lý muốn THA nhanh để đảm bảo quyền, lợi ích
hợp pháp của mình. Vì vậy thƣờng thúc giục, yêu cầu CHV thực hiện nhanh
chóng các trình tự, thủ tục thi hành án, trong trƣờng hợp khơng tự nguyện
THA thì phải cƣỡng chế thi hành án. Đối với ngƣời phải thi hành án: khi bản
án đã có hiệu lực pháp luật thì ngƣời phải THA khơng muốn thực hiện nghĩa
vụ THA của mình, do đó có tâm lý trì hỗn, chây ỳ, cản trở, chống đối việc
thi hành án, khiếu nại, tố cáo để kéo dài việc thi hành án. Nhƣ vậy, về mặt
tâm lý của ngƣời đƣợc THA và ngƣời phải THA có chiều hƣớng đối ngƣợc
17


với nhau, do đó phải tính tốn đầy đủ những yếu tố tâm lý đó để xây dựng các
quy định về cƣỡng chế THADS cho phù hợp, có tính khả thi và việc tiến hành
cƣỡng chế THADS phải chú trọng đến vận đơng, thuyết phục, lập kế hoạch
cƣỡng chế có khả năng thực hiện hiệu quả trong cƣỡng chế THADS.

Yếu tố thứ năm về năng lực tổ chức cưỡng chế THA của người có thẩm
quyền
Theo quy định của pháp luật, ngƣời có thẩm quyền tổ chức cƣỡng chế
THADS là CHV và thừa phát lai (TPL). Vì vậy, chất lƣợng, hiệu quả cƣỡng
chế THADS phụ thuộc vào chính năng lực tổ chức cƣỡng chế THADS của
họ. Năng lực tổ chức cƣỡng chế THADS của CHV, TPL đƣợc thể hiện ở khả
năng về kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, bản lĩnh, nhân cách và đạo đức
nghề nghiệp... Do đó, để đảm bảo năng lực tổ chức cƣỡng chế THADS đòi
hỏi CHV, TPL khơng những phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, tƣ tƣởng
đạo đức tốt và lối sống lành mạnh, ngoài ra cịn phải có năng lực chun mơn
tốt, đƣợc đào tạo, bồi dƣỡng bài bản, có kinh nghiệm thực tiễn, kịp thời cập
nhật thông tin, tri thức, kinh nghiệm để để thực hiện tốt cơng tác THADS,
trong đó có việc thực hiện biện pháp cƣỡng chế THADS.
Yếu tố thứ sáu về công tác phối hợp
Cƣỡng chế THA không phải đơn thuần là hoạt động đƣợc thực hiện bởi
một mình cơ quan THADS, đó là vận dụng, phối kết hợp nhuần nhuyễn giữa
các cơ quan ban ngành hữu quan nhƣ: VKSND, Cơ quan công an, UBND các
cấp, các đơn vị khác có liên quan… Thực tế cho thấy, tùy theo đặc thù công
tác mà mỗi cơ quan, ban ngành tham gia vào hoạt động cƣỡng chế với vai trò
khác nhau, nếu thiếu một hoặc một vài cơ quan thì kết quả cƣỡng chế bị ảnh
hƣởng khơng nhỏ, thậm chí có thể thất bại. Ví dụ: Cơ quan cơng an có trách
nhiệm bảo đảm an toàn cho đoàn cƣỡng chế và tài sản cƣỡng chế, đồng thời
kịp thời ngăn cản các hành vi chống đối gây ảnh hƣởng đến công tác cƣỡng
chế. Do đó, trong trƣờng hợp cƣỡng chế cần huy động lực lƣợng mà thiếu sự
phối hợp của đơn vị này thì khơng thể thực hiện cƣỡng chế đƣợc. Hay nhƣ,
18


khi tham gia cƣỡng chế THADS UBND xã, phƣờng, thị trấn vừa đóng vai trị
chứng kiến nhƣng cũng đồng thời là lực lƣợng quan trọng để giải thích, vận

động ngƣời dân không gây cản trở cho việc cƣỡng chế. Do đó, nếu khơng có
sự có mặt của đại diện UBND thì cơng tác cƣỡng chế THADS gặp vơ vàn khó
khăn và có thể thất bại do khơng đủ thành phần tham gia theo quy định của
pháp luật. Vì vậy, khi thực hiện việc tổ chức THADS nói chung và tổ chức
cƣỡng chế THADS nói riêng, cơ quan THADS nhất thiết phải làm tốt công
tác phối hợp để tranh thủ sự đồng tình của các cơ quan, ban ngành trên địa
bàn. Có nhƣ vậy, cơng tác cƣỡng chế THADS mới đạt hiệu quả cao.
1.2. Phối hợp trong công tác thi hành án dân sự
1.2.1. Phối hợp chung giữa cơ quan THADS với các cơ quan, tổ
chức và cá nhân khác
Trong việc tổ chức THADS cần có sự tham gia, phối hợp của rất nhiều cơ
quan liên quan, tổ chức khác nhau nhƣ: Tịa án, Viện kiểm sát, lực lƣợng cơng
an, cơ quan quản lý nhà nƣớc về đất đai, ủy ban nhân dân các cấp … tùy từng
trƣờng hợp cụ thể. Phối hợp có ý nghĩa vơ cùng quan trọng để mục đích của
THADS đạt đƣợc.
Khi bên bị THADS khơng tự nguyện thi hành, thì vấn đề cƣỡng chế
THA đƣợc đặt ra. Việc cƣỡng chế có bản chất là sử dụng bạo lực. Vì vậy liên
quan tới sử dụng bạo lực cần phải xem xét tới các câu hỏi nhƣ: Có đƣợc phép
sử dụng bạo lực trong trƣờng hợp này không? Căn cứ pháp luật nào? Ai phải
chịu tác động của việc sử dụng bạo lực và tại sao? Bạo lực đƣợc sử dụng ở
đâu, vào thời điểm nào? Ai có thẩm quyền quyết định việc sử dụng bạo lực?
Ai có quyền trực tiếp sử dụng bạo lực? Cách thức sử dụng lực nhƣ thế nào?
Kết quả của việc sử dụng bạo lực thu đƣợc là gì? Ảnh hƣởng của việc sử dụng
bạo lực liên quan tới ngƣời thứ ba nhƣ thế nào? Làm thế nào để tránh sự tác
động không cần thiết của việc sử dụng bạo lực?... Việc sử dụng bạo lực liên
quan trực tiếp tới quyền con ngƣời và quyền và lợi ích hợp pháp khác của
cơng dân, do đó phải đƣợc tiến hành hết sức thận trọng, nghiêm túc và hoàn
19



×