Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Bài soạn SKKN: Đổi mới PPDH phân môn TLV lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.64 KB, 10 trang )

SKKN: i mi PPDH phõn mụn tp lm vn lp 4
I. Lý do chọn đề tài.
1. Xuất phát từ mục tiêu chung:
Giáo dục tiểu học đang thực hiện những đổi mới toàn diện và đồng bộ để góp
phần chuẩn bị học vấn và cơ sở khả năng thích ứng chủ động sáng tạo cho những ng-
ời lao động trong điều kiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nớc Việt Nam đầu thế
kỷ XXI.
Trong những đổi mới về giáo dục và đào tạo thì đổi mới phơng pháp dạy học
có vị trí đặc biệt quan trọng vì hoạt động dạy học đang là hoạt động chủ yếu của nhà
trờng và xét cho đến cùng thì khoa học, giáo dục là khoa học về phơng pháp giáo dục
trong đó có phơng pháp dạy học.
Kinh nghiệm của nhiều nớc trên thế giới chỉ ra rằng, cuộc cách mạng về phơng
pháp ( Phơng pháp lựa chọn nội dung, phơng pháp dạy học, phơng pháp sử dụng
các phơng tiện kỷ thuật hiện đại ...) sẽ đem lại bộ mặt mới, sức sống mới cho giáo
dục trong xã hội hiện đại. Hơn nữa bậc tiểu học là bậc nền tảng lại bao gồm số học
sinh đông đảo nhất. Là bậc học mà mọi quốc gia quan tâm. Bậc học này giúp cho học
sinh phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ và các kỹ thuật cơ bản, phát triển năng
lực cá nhân, tính năng động sáng tạo và hình thành nhân cách con ngời Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, xây dựng t cách và trách nhiệm công dân chuẩn bị cho học sinh lên
hoặc đi vào cuộc sống, để tham gia bảo vệ tổ quốc.
2. Xuất phát từ mục tiêu cụ thể của phân môn Tiếng Việt .
Phân môn Tiếng Việt nhằm hình thành và phát triển ở học sinh các kiến thức
sử dụng Tiếng Việt ( nghe, nói, đọc , viết) để hình thành và giao tiếp trong môi trờng
hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy học Tiếng Việt góp phần rèn luyện các
thao tác t duy, tri thức sử dụng Tiếng Việt trong giao tiếp. Bồi dỡng cho học sinh tình
yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng giàu đẹp của Tiếng
Việt, góp phần hình thành nhân cách con ngời Vịêt Nam xã hội chủ nghĩa. Phân môn
Tập làm văn lớp 4 chú trọng vào 2 loại văn kể chuyện và văn miêu tả trong đó văn
miêu tả chiếm vị trí quan trọng trong cuộc sống nh khi sáng tác văn chơng, văn học
truyện ngắn, truyện dài bút ký ... hay cả khi viết văn bản cũng nh viết th nhiều khi ng-
ời ta cũng xen vào các đoạn miêu tả.


Có thể nói rằng văn miêu tả là thể loại văn góp phần nuôi dỡng và phát triển
mối quan tâm của các em với thiên nhiên và cuộc sống. Nhằm khêu gợi cho các em
lòng yêu thích cái đẹp và khả năng phát triển ngôn ngữ.
Nm hc 2008-2009
1
SKKN: i mi PPDH phõn mụn tp lm vn lp 4
Muốn dạy tốt có hiệu quả các tiết Tập làm văn miêu tả ở lớp 4 không thể
không nghiên cứu sâu về văn miêu tả và phơng pháp dạy văn miêu tả.
II. Thực trạng.
* Về sách giáo khoa.
Mục tiêu của phân môn : Qua môn học này nhằm trang bị cho học sinh những
kiến thức và kỹ năng làm văn . Góp phần cùng các môn học khác mở rộng vốn sống,
t duy lôgích bồi dỡng tâm hồn cảm xúc thẩm mỹ và nhân cách cho học sinh .
Cấu trúc chơng trình tiểu học lớp 4 mới mỗi tuần 2 tiết cả năm 62 tiết còn lớp 4
cũ mối tuần 1 tiết . Kỳ 2: 2 tiết ; cả năm 49 tiết. Thời lợng học Tập làm văn lớp 4 mới
tăng lên rất nhiều so với lớp 4 cũ . Lớp 4 mới không có thể loại thuật chuyện và tả
cảnh nh lớp 4 cũ nhng thêm vào đó là loại văn bản khác phục vụ cho đời sống giao
tiếp của học sinh. Bài tập làm văn lớp 4 mới có nhiều kiểu dạng còn lớp 4 cũ chỉ có 1
kiểu dạng duy nhất đó là đề tài có sẵn. ở lớp 4 cũ trọng tâm là dạy nói viết thành một
bài văn hoàn chỉnh, còn ở lớp 4 mới đợc xây dựng từng công đoạn một cách chắc
chắn rồi sau đó mới liên kết thành 1 bài văn hoàn chỉnh . Vì thế chú trọng của tập làm
văn lớp 4 mới là chú trọng dạng đoạn văn và dạy kỹ về các loại đoạn văn cho từng thể
loại. Tuy dễ làm bài hơn song kiến thức về văn miêu tả của học sinh đang còn hạn
chế nên kết quả làm bài văn của học sinh cha cao.
* Về học sinh.
Kiến thức kỹ năng phân môn Tập làm văn lớp 4 yêu cầu cao hơn rất nhiều so
với lớp 1, 2, 3 nên đây cũng là khó khăn đối với học sinh. Hơn nữa các em hầu hết là
con em nông dân nên điều kiện học tập của các em rất hạn chế. Việc học văn miêu tả
của đại đa số học sinh còn bị hạn chế rất nhiều kể từ việc nắm vững và vận dụng các
kiểu bài miêu tả tới việc bố cục, hành văn, từ đặt câu đến lỗi chính tả.

Khuyết điểm lớn nhất là bệnh công thức, khuôn sáo, máy móc, thiếu chân thực
trong học văn miêu tả. Làm văn miêu tả học sinh thờng vay mợn ý của ngời khác, th-
ờng là một bài văn mẫu nào đó. Nói cách khác. học sinh thờng học thuộc một bài văn
mẫu, đoạn văn mẫu nào đó, khi làm bài các em sao chép ra và biến thành của mình.
Các em miêu tả còn hời hợt, chung chung , không có một sắc thái riêng biệt của một
đối tợng tả. Bài nh thế đọc lên ta thấy nhợt nhạt , mờ mờ.
* Về giáo viên :
Nm hc 2008-2009
2
SKKN: i mi PPDH phõn mụn tp lm vn lp 4
Một số giáo viên khi dạy văm miêu tả đối phó với học sinh làm bài kém để bảo
đảm chất lợng khi kiểm tra thi cử nhiều giáo viên cho học sinh đọc bài văn mẫu để
các em gặp đầu bài tơng tự cứ thế mà chép ra.
Ra đề tập làm văn miêu tả không cần thiết co thích hợp với học sinh hay không
.
Một số thiếu sót khác nữa chú trọng dạy lý thuyết , coi nhẹ luyện kỹ năng, thực
hành.
Thực trạng về chất lợng môn Tiếng Việt nói chung và môn Tập làm văn nói
riêng đật ở mức độ thấp. Với những nguyên nhân trên. Tôi cố gắng nghiên cứu tìm tòi
học hỏi tìm ra một biện pháp thích hợp để chỉ đạo thực hiện và nâng cao chất lợng
môn học.
III. Các biện pháp chủ yếu.
1. Lựa chọn phơng pháp.
Xác định dạy học là một nghề sáng tạo, tôi luôn trăn trở, suy nghĩ dạy nh thế
nào là thành công nhất. Qua nhiều năm chỉ đạo giảng dạy tôi thấy rằng để có một giờ
dạy tốt cần rất nhiều yếu tố. Phơng pháp và hình thức dạy học là một trong những yếu
tố quan trọng. Xã hội ngày càng phát triển để theo kịp sự phát triển đó đòi hỏi mỗi
giáo viên phải thật sự thấm nhuần đổi mới phơng phâp dạy học. Xác định đợc tầm
quan trọng của việc dạy học là đào tạo ra những con ngời năng động, sáng tạo. Ngời
giáo viên thực sự là ngời tổ chức hớng dẫn, còn học sinh là chủ thể của những hoạt

động đó có nh thế mới phù hợp với mục tiêu giáo dục hiện nay. Tâm đắc với điều đó
tôi chỉ đạo cho giáo viên trớc khi lên lớp luôn soạn bài, nghiên cứu kỹ bài, tuỳ vào
từng bài , từng nội dung cụ thể để lựa chọn phơng pháp và hình thức dạy học phù hợp
nhất.
2. Phân loại đối tợng học sinh.
Tập làm văn là một trong những phân môn thể hiện hoạt động giao tiếp. Điều
này đòi hỏi ngời giáo viên phải biết vai trò của mình trong hoạt động giao tiếp phải
biết đợc những đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, trình độ của học sinh lớp mình.
Ngay từ đầu nhận lớp phải phân loại ra từng đối tợng học sinh để có biện pháp dạy
học thích hợp. Đối với học sinh khá giỏi ngoài những bài tập trong SGK cần ra thêm
các bài tập khác để nâng cao dần kiến thức. Đối với học sinh yếu kém cần giảng giải
kèm cặp giúp đỡ cho các em nhiều hơn, kể cả trong khi nói, viết, cách dùng từ ngữ
Nm hc 2008-2009
3
SKKN: i mi PPDH phõn mụn tp lm vn lp 4
miêu tả, cách viết câu .v.v... tổ chức cho các em nhóm học tập, học sinh khá giỏi giúp
đỡ học sinh yếu .
3. Giúp học sinh miêu tả chân thực.
Tính chân thực đòi hỏi bài văn miêu tả phải có các chi tiết sát thực tả đúng bản
chất của đối tợng miêu tả, thể hiện đợc những nét đẹp đẽ, đúng đắn trong t tởng, tình
cảm của học sinh khi các em đánh giá bộc lộ cảm xúc của mình đối với đối tợng
miêu tả. Nếu đối tợng miêu tả có những mặt xấu, mặt tieu cực giáo viên cần giúp học
sinh dần dần nhận ra những mặt cần phải phê phán và có thái độ phê phán đúng mức.
Chính qua việc làm nh vậy chúng ta đã giúp học sinh luyện tập cách nhìn nhận phân
tích cuộc sống góp phần hình thành nhân cách ngời học sinh xã hội chủ nghĩa.
Muốn miêu tả chân thực đối với học sinh cần đảm bảo yêu cầu quan sát trực
tiếp khi học và làm văn miêu tả. Đối với học sinh lớp 4 vốn hiểu biết về đối tợng miêu
tả của học sinh quá nghèo nàn, sơ lợc. Muốn giúp các em làm bài chân thật và phong
phú, không có con đờng nào khác ngoài việc tổ chức cho các em quan sát trực tiếp.
Yêu cầu này đòi hỏi phải tạo điều kiện cho các em quan sát trực tiếp đối tợng miêu tả

là công việc thuộc nguyên tắc khi dạy văn miêu tả. Chỉ trên cơ sở có sự thu nhận trực
tiếp các nhận xét, ấn tợng cảm xúc của mình các em mới bắt tay vào làm bài . Để
đảm bảo yêu cầu trên, yêu cầu giáo viên phải hớng dẫn kỹ việc quan sát trớc ở nhà
hoặc ở trên lớp. Ví dụ khi miêu tả chiếc cặp giáo viên cần hớng dẫn học sinh quan sát
kỹ chiếc cặp. Giáo viên nên khéo léo khêu gợi để các em huy động vốn hiểu biết ,
khả năng liên tởng , cảm xúc và vốn ngôn ngữ, giúp cho việc quan sát đợc tốt hơn.
Khi quan sát cần huy động nhiều giác quan có thể bằng mắt nhìn , tai nghe, tay sờ......
Có nh thế học sinh mới lột tả hết các nét đặc sắc của cái cặp . (Ví dụ cái âm thanh
tách tách của chiếc khoá cặp cái cảm giác mát lạnh khi sờ lên mặt cặp...)
4. Học sinh là chủ thể của học văn miêu tả.
Rèn luyện các kỹ năng sản sinh văn bản là nội dung chủ yếu của các tiết
học văn miêu tả. Để tránh tình trạng viết văn theo bài văn mẫu. Khi dạy tiết làm văn
giáo viên nên dùng đúng lúc, đúng chỗ, chỉ nên dùng ở một khâu nào của quá trình
dạy văn miêu tả để khảo sát và phân tích để phụ trợ thêm cho việc thực hành. Tuyệt
đối không buộc học sinh phải viết nh văn mẫu. Học sinh phải thực sự làm chủ quá
trình học văn miêu tả, làm chủ quá trình hình thành kỹ năng sản sinh văn bản miêu tả
bằng hai hình thức nói và viết. Các em phải đợc hoạt động luyện tập là chủ yếu trong
các tiết học văn miêu tả. Giáo viên chỉ đóng vai trò là ngời tổ chức hớng dẫn. Thầy
Nm hc 2008-2009
4
SKKN: i mi PPDH phõn mụn tp lm vn lp 4
đa ra những chỉ dẫn, những yêu cầu cụ thể để học sinh thực hiện. Phần giảng giải cần
hạn chế và chỉ dùng khi cần thiết. Giáo viên cần dành thời gian nhiều cho học sinh
làm bài tránh nói nhiều. Muốn thực hiện yêu cầu trên phải đa thực hành, luyện tập
thành nội dung chính của tiết học. Giáo viên cần rèn kỹ năng diễn đạt bằng lời cho
học sinh.
5. Xây dựng đoạn văn cho học sinh.
ở lớp 4 phân môn Tập làm văn danh nhiều thời gian cho 2 loại : Văn kể
chuyện và văn miêu tả.Qua 2 loại này chú trọng dạy đoạn văn và kỹ năng các loại
đoạn văn . Đối với học sinh đoạn văn là khái niệm khá phức tạp, giáo viên cần giúp

học sinh hiểu rõ khái niệm về đoạn và dấu hiệu nhận biết về đoạn văn. Trong quá
trình nhận diện đoạn văn giáo viên cần lu ý học sinh không phải chỉ dựa vào dấu hiệu
mà xem nó là đoạn văn, chúng ta chỉ coi nó là đoạn văn khi diễn đạt trọn một ý. Vì
vậy trong các văn bản miêu tả để nhận diện đoạn văn cần căn cứ các ý trong bài để
xây dựng một đơn vị đoạn. Khi hớng dẫn học sinh viết đoạn văn giáo viên không yêu
cầu các em viết đoạn văn nh diễn dịch, quy nạp mà chỉ cần học sinh viết 3 - 4 câu làm
sao các câu trong đoạn văn cần diễn đạt trọn một ý. Từ dàn ý đã lập học sinh sử dụng
ngôn ngữ để dựng thành đoạn và bài. Giáo viên nên hớng dẫn học sinh viết bài miêu
tả theo nhiều đoạn, mỗi đoạn tả một bộ phận của đồ vật, con vật hay cây cối. Hớng
dẫn học sinh viết đoạn yêu cầu phải có sự liên kết chặt chẽ về ý nghĩa các câu trong
đoạn . Sự liên hệ giữa các câu về mặt ngôn ngữ là nhờ các biện pháp liên kết, phép
nối ... đoạn nào không đảm bảo yêu cầu trên sẽ trở nên lộn xộn, thiếu mạch lạc. Các
đoạn trong bài liên kết với nhau thành một văn bản hoàn chỉnh. Liên kết doạn văn
làm cho nội dung văn bản chặt chẽ và liền mạch đây cũng là một điểm yếu của học
sinh khi làm văn. Vì thế khi hớng dẫn học sinh giáo viên cần phải giúp học sinh biết
cách liên kết đoạn bằng cách dùng từ ngữ hoặc câu nối.
6. Hớng dẫn học sinh tích luỹ vốn ngôn ngữ miêu tả và lựa chọn từ ngữ
khi miêu tả.
Vốn từ ngữ miêu tả có ý nghĩa quan trọng đối với việc làm văn miêu tả. Giúp
học sinh tích luỹ vốn từ ngữ miêu tả và lựa chọn từ ngữ là vấn đề quan tâm của mọi
giáo viên. Giáo viên cần tạo điều kiện để các em tích luỹ vốn từ ngữ miêu tả. Biện
pháp đầu tiên là giúp các em tích luỹ vốn ngôn ngữ miêu tả qua các bài tập đọc.Dạy
các bài tập đọc giáo viên cần chỉ ra các từ ngữ miêu tả, chọn 1 hoặc 2 trờng hợp đặc
sắc để phân tích cái hay, sự sáng tạo của nhà văn khi sử dụng chúng.
Nm hc 2008-2009
5

×