Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Tác động của các yếu tố kinh tế xã hội đến hoạt động học tập của sinh viên trường đại học khoa học xã hội và nhân văn, đại học quốc gia thành phố hồ chí minh báo cáo nghiệm thu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 105 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------

BÁO CÁO NGHIỆM THU
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG

TÁC ĐỘNG CỦA CÁC YẾU TỐ KINH TẾ - XÃ HỘI ĐẾN HOẠT
ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA
HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐẠI HỌC QUỐC GIA
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TP. HỒ CHÍ MINH 8 – 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------

BÁO CÁO NGHIỆM THU
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG
(Bản đã chỉnh sửa theo yêu cầu của Hội đồng)

TÁC ĐỘNG CỦA CÁC YẾU TỐ KINH TẾ - XÃ HỘI ĐẾN HOẠT
ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA
HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐẠI HỌC QUỐC GIA
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Vũ Toản

TP. HỒ CHÍ MINH 8 - 2013




MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
PHẦN DẪN LUẬN .................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN.............................................................................. 13
1.1 Cách tiếp và lý thuyết sử dụng trong đề tài................................................... 13
1.2.Các khái niệm cơ bản sử dụng trong đề tài ................................................... 16
1.3 Giả thuyết nghiên cứu ..................................................................................... 18
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA CÁC YẾU TỐ KINH TẾ – XÃ
HỘI ĐẾN HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN ........................................ 19
2.1. Đôi nét về Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia
thành phố Hồ Chí Minh ....................................................................................... 19
2.2. Điều kiện kinh tế phục vụ nhu cầu sinh hoạt và học tập của sinh viên ......... 20
2.3. Tác động của yếu tố tài chính, việc làm đến lựa chọn nơi ở và hoạt động
học tập của sinh viên hiện nay ............................................................................. 32
2.4. Mạng lưới xã hội trong việc trợ giúp vật chất, tinh thần và những khó khăn
trong học tập của sinh viên .................................................................................. 47
2.5. Đánh giá của sinh viên về tình trạng sức khỏe và sự hài lòng về cuộc sống
hiện tại .................................................................................................................. 56
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................. 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 64
PHẦN PHỤ LỤC ..................................................................................................... 66


1

LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế là một phần không thể thiếu trong mọi hoạt động của đời sống con người.
Khả năng tài chính là một biểu hiện cụ thể của nguồn lực kinh tế, có khả năng thúc đẩy

hoặc kìm hãm sự tham gia thành công trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục...
Nguồn lực tài chính khơng chỉ trực tiếp tham gia duy trì đời sống sinh học của con
người mà cịn là nguồn lực phục vụ tích cực cho hoạt động tái sản xuất sức lao động và
là động lực thúc đẩy hoạt động sáng tạo.
Thành phố Hồ Chí Minh là nơi cung cấp nguồn lực con người dồi dào và có chất
lượng tốt nhất khu vực phía Nam. Với hạ tầng giáo dục được đầu tư tập trung và có
trọng điểm, thành phố Hồ Chí Minh là nơi hàng năm thu hút hàng chục ngàn sinh viên
đến theo học và do vậy cũng là nơi cung cấp hàng ngàn sinh viên tốt nghiệp thuộc mọi
lĩnh vực ngành nghề đào tạo.
Trong những năm qua, hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam không những
được nâng cấp và hoàn thiện. Thực hiện chủ trương nâng cao chất lượng đào tạo đại
học là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước. Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí
Minh đã không ngừng đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng vật chất, kỹ thuật phục vụ hoạt
động giảng dạy và học tập. Bên cạnh việc tiến hành chuẩn hóa hoạt động đào tạo, Nhà
trường còn quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của người học ngày một nhiều
hơn nhưng vẫn chưa thể nắm bắt và đáp ứng được hết nhu cầu thực tế. Để góp phần hỗ
trợ hoạt động đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
quốc gia thành phố Hồ Chí Minh thì việc nghiên cứu về đời sống kinh tế – xã hội và
sinh viên là yêu cầu cần thiết. Trong vài năm trở lại đây cũng đã có lẻ tẻ một vài
nghiên cứu về hoạt động học tập của sinh viên, song các nghiên cứu này còn ít và tồn
tại nhiều hạn chế. Do vậy việc nghiên cứu đề tài này là một phần trong sự tiếp nối
nghiên cứu về hoạt động học tập và đời sống của sinh viên.
Nghiên cứu này khơng có tham vọng mang lại kết quả đại diện về đời sống kinh
tế và hoạt động học tập của sinh viên mà chỉ cố gắng hướng đến mô tả đời sống kinh tế
tác động vào hoạt động học tập của sinh viên theo học một số khoa tại Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Thơng qua


2


việc khảo sát định lượng bằng phương pháp xã hội học, từ đó cung cấp thơng tin cho
cấp lãnh đạo nhà trường và các đơn vị chức năng trong việc định hướng và hoạch định
chính sách hỗ trợ đào tạo.
Thay mặt cho nhóm nghiên cứu, chúng tơi xin chân thành cảm ơn sự hỗ trợ, tham
gia của các đơn vị, phòng ban chức năng trong trường. Đặc biệt xin cảm ơn tất cả các
bạn sinh viên đã tích cực tham gia giúp chúng tơi hồn thành cơng trình nghiên cứu
này.
T/M nhóm nghiên cứu
ThS. Vũ Toản


3

PHẦN DẪN LUẬN

1. Lý do chọn đề tài
Sinh viên là lực lượng chủ đạo, là thành phần không thể thiếu của một trường đại
học. Các chương trình đào tạo khơng thể vận hành hiệu quả nếu như trường học khơng
có sinh viên hoặc nếu có nhưng trong tình trạng thể chất và trí tuệ phát triển khơng
bình thường. Sinh viên đang theo học các chương trình đào tạo trong trường đại học là
lực lượng lao động tiềm năng đang trong q trình tích lũy và phát triển tri thức. Đây
chính là nguồn lực lao động sẽ quyết định vận mệnh trong tương lai gần của một quốc
gia.
Năm 2008 Bộ Giáo dục xây dựng chiến lược đổi mới giáo dục, theo đó phấn đấu
đến năm 2020 giáo dục đại học Việt Nam sẽ nằm trong nhóm 200 trường đại học danh
tiếng thế giới. Để có một nền giáo dục tiên tiến và có chất lượng tầm cỡ khu vực và
quốc tế địi hỏi sự nỗ lực quyết liệt của khơng chỉ giới những nhà làm cơng tác quản lí
giáo dục, mà cần thiết xây dựng cơ sở kinh tế phục vụ môi trường học tập, đổi mới
phương pháp giảng dạy và đặc biệt là thay đổi điều kiện sống, nhận thức của bản thân

người học khi tham gia vào một chương trình đào tạo.
Khu vực đơ thị là nơi tập trung nhiều các trường đại học cao đẳng, hàng năm thu
hút một lượng lớn người đến tham gia làm việc và học tập. Trong các nghiên cứu trước
đây cho thấy, tố chất quý báu của sinh viên Việt Nam là cần cù, chịu khó, chịu đựng
và ham học hỏi. Theo kết quả khảo sát năm 2006 của PGS.TS Nguyễn Minh Hòa về
tình hình sức khỏe của sinh viên trường Đại học khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học
quốc gia thành phố Hồ Chí Minh cho thấy điều kiện sinh hoạt, học tập và tình trạng
thể chất của sinh viên còn nhiều hạn chế.
Từ năm 2008 trở lại đây, sự tác động suy thối kinh tế tồn cầu đã tác động
không nhỏ đến đời sống của mọi tầng lớp dân cư. Mặc dù tăng trưởng kinh tế được
duy trì nhưng chênh lệch về điều kiện và mức sống giữa thành thị và nông thôn tăng
mạnh. Cuộc sống ở các thành phố lớn ngày càng khó khăn hơn đối với những nhóm
yếu thế về kinh tế và nghèo nàn về tri thức khi giá cả leo thang liên tục. Cha mẹ, người
thân bịn góp từng đồng tiền gửi ni con ăn học đại học cũng chỉ đủ chi một cách tằn


4

tiện, phục vụ nhu cầu tối thiểu duy trì cuộc sống nơi phố thị. Nguồn lực kinh tế phục
vụ học tập của sinh viên phần lớn là do người thân cung cấp. Nhà nước có chủ trương
chính sách hỗ trợ cho sinh viên vay vốn để phục vụ học tập nhưng với số tiền không
nhiều. Vậy làm thế nào để có thể chung sống với một số tiền hạn chế được cha mẹ,
người thân cung cấp hàng tháng? Sinh viên hiện nay sắp xếp, tổ chức đời sống kinh tế
và học tập như thế nào? Liệu họ có phải đi “làm thêm” để có thêm nguồn tài chính
phục vụ nhu cầu sinh hoạt và học tập? Việc làm thêm có ảnh hưởng gì đến hoạt động
học tập? Các đồn thể, xã hội có ảnh hưởng như thế nào đối với đời sống kinh tế và
hoạt động học tập của sinh viên hiện nay? Đây là những câu hỏi cần được giải đáp, và
đó cũng chính là lý do chúng tơi chọn đề tài “Tác động của các yếu tố kinh tế - xã hội
đến hoạt động học tập của sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
thành phố Hồ Chí Minh, Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh”.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Về mặt lý luận, các nghiên cứu trước đây đều khẳng định, các yếu tố kinh tế xã hội đóng một vai trò đặc biệt quan trọng chi phối hoạt động sống của con người.
Theo quan điểm của các nhà xã hội học Mácxít, các quan hệ trong hoạt động sống của
con người đều bị chi phối bởi quan hệ mang tính kinh tế sâu sắc. Theo nhận định của
Bauer (1918) khi so sánh về xã hội truyền thống và hiện đại qua lăng kính quan niệm
sống, giá trị sống và vị trí của cá nhân trong xã hội đã khẳng định luận điểm quyết
định tất cả những hoạt động sống hiện thực đều thông qua mối quan hệ kinh tế, chính
trị và pháp luật. Bên cạnh đó trên cơ sở của sự duy lý hóa và kinh tế, Max Weber và
Riesman đã đồng chia sẻ đặc điểm của xã hội hiện đại: khi quy mô xã hội được mở
rộng, sự đa dạng về văn hóa và một xã hội biến đổi nhanh chính là nguyên nhân khiến
cá nhân gặp khủng hoảng trong việc xác định mục tiêu của mình.
Như vậy các yếu tố kinh tế - xã hội từ lâu đã là biến số được quan tâm và đưa
vào phân tích trong các quan hệ hoạt động sống của con người nói chung. Cho đến
nay, đã có những nghiên cứu về sự biến đổi của giáo dục và các tác nhân ảnh hưởng
đến chất lượng giáo dục ở đại học được đề cập trên nhiều diễn đàn giáo dục và đào tạo
chất lượng nguồn nhân lực.


5

Một số những nghiên cứu trong những năm gần đây về thanh niên, sinh viên có
thể kể đến như:
Năm 1999, Vũ Ngọc Miến với đề tài “Sự tác động của một số nhân tố kinh tế chính trị - xã hội đến quá trình học tập của sinh viên các trường đại học tại thành phố
Hồ Chí Minh từ khi đổi mới đến nay”. Đề tài chủ yếu phân tích một số các yếu tố kinh
tế - chính trị - xã hội đến chất lượng học tập của sinh viên. Từ đó bước đầu đưa ra
những quan điểm, mục đích, động cơ học tập ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh
viên.
Năm 1999, Trần Tường Chân với đề tài nghiên cứu “Nhu cầu đọc báo của sinh
viên thành phố Hồ Chí Minh” đi sâu nghiên cứu nhu cầu, thái độ, xu hướng lựa chọn
báo chí của sinh viên. Đề tài đã nêu rõ một số nét cơ bản về sinh viên nói chung như:

nguồn gốc, thành phần gia đình, nhận thức, thái độ... và đề xuất giải pháp cho sự phát
triển của báo chí để đáp ứng được nhu cầu thưởng thức đọc của sinh viên các trường
đại học tại thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 2002, Nguyễn Ánh Hồng đã thực hiện nghiên cứu đề tài luận án tiến sĩ
“Phân tích về mặt tâm lý học lối sống của sinh viên thành phố Hồ Chí Minh trong
giai đoạn hiện nay”. Với mục đích phát hiện những nội dung tâm lý cơ bản và những
biểu hiện của lối sống sinh viên. Nghiên cứu đã đề cập đến đối tượng sinh viên dưới
nhiều khía cạnh, trong đó thơng qua hoạt động học tập là chủ yếu. Dưới góc độ tâm lý
học, tác giả đã giúp xác định được hiện trạng lối sống của sinh viên thành phố Hồ Chí
Minh và những nhận định về xu hướng sắp tới, làm cơ sở tham khảo cho việc điều
chỉnh và định hướng hoạt động của sinh viên từ góc độ tâm lý.
Năm 2003, Phạm Thị Thùy Trang với đề tài “Khảo sát về quan hệ giới trong
hoạt động giải trí của sinh viên hiện nay”. Nghiên cứu đã đưa ra đưa ra cái nhìn mới
về sinh viên qua hướng tiếp cận nghiên cứu giới. Với cách tiếp cận giới, nghiên cứu đã
đề cập đến mạng lưới xã hội - nhân tố xã hội hóa (gia đình, nhà trường, bạn bè) có ảnh
hưởng lớn đến hoạt động giải trí của sinh viên. Đề tài khẳng định nhà trường là môi
trường mà sinh viên thể hiện sự bình đẳng giới cao hơn tất cả các mơi trường khác và
kiến nghị cần tạo nhiều sân chơi cho sinh viên hơn trong các trường đại học hiện nay.
Năm 2004, với mẫu nghiên cứu 200 trường hợp là sinh viên của một nhóm sinh
viên trường Đại học Bách Khoa cho thấy có đến 67% số sinh viên khơng thể trang trải


6

hết các khoản chi phí nếu chỉ nhận trợ cấp từ gia đình, nhiều trong số đó đã lựa chọn
làm thêm là một giải pháp. Như vậy đây là một trong những khảo sát bước đâu cho
thấy hoàn cảnh kinh tế cũng là một yếu tố có tác động mạnh đến chất lượng hoạt động
học tập của người học trong trường đại học.
Năm 2005, tác giả Trần Thị Dung với đề tài “Tìm hiểu hoạt động học ngoại
ngữ và một số yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động học ngoại ngữ của sinh viên một số

trường đại học tại TPHCM hiện nay”. Nghiên cứu đã áp dụng lý thuyết tâm lý học về
sơ đồ cấu trúc hoạt động của con người: động cơ – hành động – mục đích, để phân tích
các yếu tố kinh tế - xã hội tác động đến việc lựa chọn cũng như thái độ học tập trong
quá trình học ngoại ngữ của sinh viên hai trường Đại học Bách Khoa và trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh, Đại học quốc gia thành
phố Hồ Chí Minh như thế nào. Thu nhập và việc làm là hai yếu tố cơ bản được đánh
giá là quan trọng nhất chi phối đến việc học ngoại ngữ của sinh viên.
Cơng trình nghiên cứu khoa học cấp trường của PGS.TS Nguyễn Minh Hòa về
“Khảo sát sức khỏe sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố
Hồ Chí Minh” năm 2006. nghiên cứu cho thấy sức khỏe sinh viên là một mảng rất
quan trọng trong sự nghiêp giáo dục và đào tạo của các trường Đại học. Sức khỏe của
sinh viên chịu sự tác động từ nhiều phía trong đó vai trị của hệ thống y tế trường, các
nguồn lực hỗ trợ khác sẽ giúp nâng cao thể lực, hỗ trợ trí lực trong hoạt động học tập
và nghiên cứu của sinh viên.
Năm 2009, nghiên cứu “Việc tự học của sinh viên khối ngành ngoại ngữ trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn trong hệ đào tạo tín chỉ: thực trạng và giải
pháp” do TS Tơ Minh Thanh làm chủ nhiệm đã có một tổng quan khá đầy đủ, chi tiết
về vai trò “tự học”. Kết quả nghiên cứu đã đưa ra những yếu tố chủ quan và khách
quan tác động đến động cơ và hoạt động tự học của sinh viên thuộc khối ngành ngoại
ngữ. Cụ thể 5 yếu tố chủ quan là (1) sinh viên không đủ thời gian để tự học, (2) sinh
viên chưa tìm được phương pháp học tập thích hợp, (3) sinh viên thiếu kiến thức căn
bản về môn học, (4) sinh viên không đủ tự tin để tự học, (5) sinh viên thiếu động lực
và quyết tâm học tập. Và 5 yếu tố khách quan là (1) sinh viên chưa tiếp cận đầy đủ các
nguồn tài liệu tham khảo, (2) giảng viên chưa chia sẻ kinh nghiệm và hướng dẫn cách


7

tự học, (3) thời gian học trên lớp còn nhiều, (4) thiếu không gian học tập yên tĩnh, và
(5) thiết bị chuyên dụng cho các lớp học ngoại ngữ chưa được trang bị đầy đủ.

Như vậy các nghiên cứu gần đây cho thấy việc tìm kiếm nhận thức về thực
trạng các tác nhân ảnh hưởng đến hoạt động giáo dục đào tạo đã được quan tâm khá
nhiều. Tuy nhiên chúng tôi cũng nhận thấy rằng trong bối cảnh hậu khủng hoảnh kinh
tế giai đoạn 2007-2009 đến nay chưa có một nghiên cứu cụ thể nào đi sâu vào lĩnh vực
tác động của các nguồn lực kinh tế xã hội đến hoạt động học tập của sinh viên. Bên
cạnh đó, từ năm 2007 trở lại đây, lãnh đạo nhà trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh đã có những quan tâm đặc biệt đến các nghiên cứu
cụ thể phục vụ trực tiếp cho công tác cải tiến, đổi mới nâng cao chất lượng giáo dục
trong khoa học xã hội nhân văn. Chúng tôi kỳ vọng rằng với nghiên cứu “Tác động
của các yếu tố kinh tế - xã hội đến hoạt động học tập của sinh viên Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh hiện nay”
sẽ góp phần làm phong phú thêm nhận thức trong việc xây dựng các giải pháp cải
thiện đời sống kinh tế và hoạt động học tập trong sinh viên hiện nay.
3. Mục tiêu và nội dung nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu tiếp cận và làm rõ sự tác động của các yếu tố kinh tế - xã hội đến
hoạt động học tập của sinh viên đang theo học tại trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.
Nội dung nghiên cứu
Có rất nhiều yếu tố có thể tác động đến hoạt động học tập của sinh viên. Trong
khuôn khổ đề tài này nhóm nghiên cứu tập trung vào một số yếu tố sau :
Các yếu tố khách quan bao gồm nguồn thu nhập, việc làm thêm, giới tính (nam,
nữ), số năm theo học, thành phần tôn giáo, dân tộc, nơi ở, nguồn gốc dân cư (thành thị
- nông thôn), nguồn tài liệu phục vụ hoạt động học tập, mạng lưới xã hội hỗ trợ sinh
viên giải quyết khó khăn kinh tế và định hướng giải pháp tăng cường tài chính phục vụ
đời sống và học tập.


8


Các yếu tố chủ quan bao gồm nhận thức, thái độ hành vi về việc tự học, mức độ
đến thư viện, tình trạng sức khỏe.
4. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
Trước hết qua đề tài nghiên cứu này sẽ góp phần làm phong phú thêm lí luận về
mối quan hệ giữa nguồn lực kinh tế với hoạt động học tập trong thanh niên - sinh viên.
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là nguồn tài liệu tham khảo bổ ích cho các đơn
vị đào tạo trong quá trình xây dựng các giải pháp cụ thể hỗ trợ người học về kinh tế và
hoạt động học tập hiệu quả.
5. Phương pháp và kỹ thuật nghiên cứu
Phương pháp luận
Các yếu tố liên quan đến kinh tế - xã hội và hoạt động học tập của sinh viên là
đối tượng được nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu. Cơ sở phương pháp luận
được vận dụng xuyên suốt trong luận văn này là chủ nghĩa duy vật biện chứng. Nhóm
nghiên cứu trên cơ sở phân tích khảo sát thực nghiệm nhằm làm rõ sự tác động của các
kinh tế - xã hội đến hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.
Ngồi ra nhóm nghiên cứu cịn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu
khác nhau cụ thể như phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh và một số
phương pháp và kỹ thuật nghiên cứu cụ thể sau:
Phương pháp thu thập thông tin
* Thu thập thông tin tư liệu có sẵn
Nhóm nghiên cứu đã tiến hành thu thập các sách, các nghiên cứu, các bài viết,
bài báo đăng trên các tạp chí, internet… Qua đó tiến hành tổng quan các thông tin tư
liệu này thành các chủ đề khác nhau, để từ xây dựng cơ sở tiếp cận ban đầu về nội
dung nghiên cứu của đề tài.


9

* Thu thập thông tin định lượng

Đối tượng tham gia khảo sát là sinh viên đang theo học hệ chính quy từ năm 1
đến năm 4 tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia thành
phố Hồ Chí Minh.
Thời gian tiến hành khảo sát thực nghiệm từ 20/12/2012 đến 31/1/2013.
Khảo sát định lượng dùng phương pháp lấy mẫu ngẫu nhiên theo cụm tập trung
vào hai khối ngành ngoại ngữ và khối ngành khoa học xã hội. Dung lượng mẫu tiến
hành khảo sát là 560 sinh viên. Tính đến thời điểm khảo sát Trường có 26 khoa, bộ
môn. Số khoa, bộ môn mong muốn khảo sát là 11/26. Cách lấy mẫu được tiến hành
như sau:
Bước 1. Đánh số thứ tự từ 1 đến 26 khoa, bộ môn.
Bước 2. Xác định 11/26 khoa, bộ môn tiến hành khảo sát bằng bách bốc ngẫu
nhiên.
Bước 3. Dựa vào cơ cấu theo năm học (từ năm 1 đến năm 4) và tiến hành xác
định các khoa, bộ môn bằng cách bốc thăm ngẫu nhiên theo tỷ lệ của hai khối ngoại
ngữ và khoa học xã hội. Sau đó căn cứ theo lịch học và tiến hành khảo sát đối với tất
cả sinh viên thuộc các lớp đã được chọn.
* Đặc điểm cơ cấu mẫu khảo sát
Giới tính
Nam
Nữ
Tổng

GIỚI TÍNH

Tần số
123
437
560

Phần trăm

22.0
78.0
100

Sinh viên theo học năm thứ
1
2
3
4

Sinh
viên
học
năm
Tổng

Tần số
149
166
93
152
560

Phần trăm
26.6
29.6
16.6
27.1
100



10

Hộ khẩu hiện nay
TP HCM
Tỉnh, thành phố khác
Tổng

Tần số
141
419
560

Phần trăm
25.2
74.8
100

Sinh viên theo học thuộc các khoa, bộ môn
Stt
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.

11.

Khoa
Ngữ văn Nga
Đô thị học và quản lý đô thị
Tâm lý học
Ngữ Văn Anh
Xã hội học
Khoa Địa lý
Ngữ văn Pháp
Hàn quốc học
Văn học ngôn ngữ
Triết học
Quan hệ quốc tế
Tổng

Tần số
20
32
22
115
196
22
11
18
32
56
36
560


Phần trăm
3.6
5.7
3.9
20.5
35.0
3.9
2.0
3.2
5.7
10.0
6.4
100

Thành phần sinh viên theo dân tộc
Kinh
Hoa
Khơ me
Chăm
Các dân tộc khác
Tổng

Tần số
519
13
5
4
19
560


Phần trăm
92.7
2.3
.9
.7
3.4
100

Thành phần sinh viên theo tơn giáo
Phật giáo
Thiên chúa
Cao đài
Hịa hảo
Tin lành
Thờ ông bà tổ tiên
Không theo tôn giáo
Tổng

Tần số
112
81
7
4
7
272
77
560

Phần trăm
20.0

14.5
1.3
.7
1.3
48.6
13.8
100


11

Tỷ lệ sinh viên tham gia các tổ chức chính trị - xã hội
Đồn
TNCS

438
Khơng 122
Tổng
560

%
78.2
21.8
100

Hội
SV
286
274
560


%
51.1
48.9
100

Tổ chức
khác
15
545
560

%
2.7
97.3
100

Khơng tham gia
tổ chức nào
93
467
560

%
16.6
83.4
100

Nơi sống trước khi sinh viên theo học tại trường


Đô thị
Nông thôn không thuộc vùng sâu vùng xa
Nông thôn thuộc vùng sâu vùng xa
Tổng

Tần số
299
165
96
560

Phần trăm
53.4
29.5
17.1
100

* Phương pháp xử lý thông tin
Trên cơ sở các tài liệu tiến hành thu thập được, nhóm nghiên cứu tiến hành xử lý
theo các nội dung, chủ đề để có những nhận định ban đầu về những yếu tố kinh tế - xã
hội và hoạt động học tập của sinh viên.
Các thông tin thu thập được từ bảng hỏi khảo sát thực nghiệm được xử lý bằng
phần mềm SPSS, phiên bản 11.5. Phương pháp xử lý số liệu từ bảng câu hỏi khảo sát
chủ yếu được sử dụng theo phân tổ thống kê mô tả dưới hình thức các bảng tần số
(phần trăm), trị trung bình, bảng phản ánh mối quan hệ giữa các biến số, bảng biểu
thống kê. Qua đó giúp việc phân loại đặc điểm thành phần và các mối liên hệ trong đời
sống kinh tế và sinh hoạt, học tập của sinh viên. Các câu hỏi mở được nhóm lại thơng
tin, sau đó tiến hành mã hóa và xử lý như câu hỏi đóng.
6. Hạn chế của đề tài
Đề tài mới chỉ nghiên cứu sinh viên theo học hệ chính quy tại trường Đại học

Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy chưa
phản ánh đầy đủ các đối tượng cũng là sinh viên như sinh viên theo học tại hệ văn
bằng 2, hệ vừa làm vừa học.


12

Đề tài mới chỉ tập trung xem xét các yếu tố về đặc điểm nhân khẩu xã hội, thu
nhập, chi tiêu, thời gian cho hoạt động tự học, những đánh giá về khó khăn trong đời
sống và học tập của sinh viên.
Phương pháp chủ đạo được sử dụng trong thu thập thông tin đã bộc lộ những hạn
chế trong việc tiếp cận và lý giải sự tác động của các yếu tố kinh tế - xã hội đến hoạt
động học tập của sinh viên.
Nhóm nghiên cứu thực hiện cách lấy mẫu theo ngẫu nhiên theo cụm. Vì vậy
khơng thể tuyệt đối đảm bảo tính đại diện của mẫu giống như phương pháp lấy mẫu
ngẫu nghiên đơn giản.


13

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Cách tiếp và lý thuyết sử dụng trong đề tài
1.1.1. Cách tiếp cận nhu cầu từ nguồn lực kinh tế
Theo Ambraham Maslow, hoạt động của con người trong đời sống xã hội bắt
nguồn từ nhu cầu và những nhu cầu của bản thân con người và được sắp xếp theo một
thứ tự ưu tiên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Theo đó 5 kiểu loại nhu cầu
cơ bản như sau:

-


Những nhu cầu cơ bản hay nhu cầu sinh lý là những nhu cầu đảm bảo cho
con người tồn tại như: ăn, uống, mặc, tồn tại và phát triển nòi giống và
các nhu cầu của cơ thể khác.

-

Những nhu cầu về an toàn, an ninh là các nhu cầu như an tồn, khơng bị
đe dọa, an ninh, chuẩn mực, luật lệ…

-

Những nhu cầu xã hội như tình yêu, được xã hội thừa nhận.

-

Những nhu cầu tự trọng, tôn trọng người khác, được người khác tôn
trọng, gắn với địa vị, được tạo cơ hội và được thể hiện vai trò…

-

Những nhu cầu tự thể hiện như nhu cầu bộc lộ những giá trị xã hội (chân,
thiện, mỹ, tự chủ, sáng tạo, hài hước…).

Như vậy trong đời sống cá nhân nảy sinh rất nhiều nhu cầu. Sự xuất hiện nhu cầu
về học hành, tham gia lao động tạo thu nhập, tham gia vào các hoạt động nâng cao sức
khỏe thể chất và tinh thần cũng là những nhu cầu cơ bản của con người. Khi thỏa mãn
nhu cầu sinh học thì những nhu cầu về mặt xã hội tăng cũng theo đó tăng dần lên. Để
thỏa mãn được các nhu cầu phong phú này, trước hết con người cần lao động để tạo
của cải vật chất. Do đó mức độ thỏa mãn các nhu cầu của con người chịu sự tác động
rất lớn bởi những điều kiện kinh tế vật chất, các mối quan hệ xã hội của bản thân và

môi trường xã hội. Việc ăn ngon, mặc đẹp, đời sống vật chất và tinh thần phong phú là
nhu cầu chung của mọi người, nhưng các nhóm xã hội khác nhau lại có cách lựa chọn
ưu tiên riêng do sự khác biệt nhau về điều kiện kinh tế và mức sống.
Với cách tiếp cận này, nhóm nghiên cứu đi vào phân tích những yếu tố khả năng
thu nhập và tài chính đến việc thỏa mãn nhu cầu trong đời sống và ảnh hưởng đến hoạt


14

động học tập của sinh viên. Việc phân phối thỏa mãn các nhu cầu liên quan đến khả
năng tài chính và những nhu cầu nào còn đang bị hạn chế.
1.1.2. Cách tiếp cận lối sống
Lối sống là cách thức hoạt động sống của con người gắn với việc thoả mãn
những nhu cầu trong những điều kiện sống cụ thể. Theo cách tiếp cận này thì điều kiện
sống và mơi trường sống có ảnh hưởng mạnh đến các hoạt động sinh hoạt và đời sống
của con người. Lối sống của con người luôn chịu sự tác động của những điều kiện chủ
quan và khách quan. Điều kiện chủ quan bao gồm các điều kiện về trạng thái nhận
thức, thái độ đối với môi trường xung quanh cũng như các vấn đề về tâm thế xã hội,
lợi ích và định hướng các giá trị quyết định lập trường sống và hành vi sống của các cá
nhân. Điều kiện khách quan bao gồm các điều kiện kinh tế xã hội, điều kiện văn hóa –
chính trị xã hội, các điều kiện về mơi trường tự nhiên.
Lối sống là hình thức các cá nhân tham gia vào quá trình tương tác trong các
quan hệ xã hội thơng qua các dạng hoạt động sống. Đó là khả năng lựa chọn những
cách thức cụ thể trong các dạng hoạt động sống. Sự lựa chọn đó được xác lập dựa trên
mối tương quan với điều kiện kinh tế và môi trường sống hiện tại, phù hợp với điều
kiện chủ quan và khách quan mà chủ thể xã hội đang tham gia. Như vậy, khi nghiên
cứu về hoạt động học tập của sinh viên trong trường đại học cũng cần phải được đặt
trong mối quan hệ với những yếu tố có tác động đến lối sống của họ một cách cụ thể.
Theo đó, ở những điều kiện hồn cảnh tài chính, việc làm,… khác nhau sinh viên sẽ sử
dụng và tổ chức hoạt động học tập, sinh hoạt theo khả năng, nhu cầu và những gì mà

họ cho là cần thiết, là quan trọng.
Những điều kiện khách quan và chủ quan không tác động như nhau lên các cá
nhân giới trong qúa trình hoạt động sống. Nam và nữ sinh viên có cách tổ chức hoạt
động sống và học tập khác nhau do tính đặc thì về giới tính, nguồn gốc xuất thân...
Cách tiếp cận lối sống được sử dụng nhằm đưa ra bức tranh về đời sống kinh tế và
hoạt động học tập của sinh viên với những sự khác biệt. Qua đó xác định thực trạng
quan niệm học tập, tổ chức hoạt động tự học qua phương thức, thời gian, cơ hội tham
gia vào các hoạt động giải trí, sức khỏe và các hoạt động xã hội khác…


15

1.1.3. Lý thuyết tiếp cận về sự lựa chọn hợp lý (Lý thuyết lựa chọn duy lý:
Rational-choice theory)
Chúng tôi sử dụng lý thuyết tiếp cận về sự lựa chọn hợp lý trong nghiên cứu này
để làm rõ tại sao sinh viên lại lựa chọn các hình thức tổ chức sinh hoạt, học tập khác
nhau khi họ đang phải thích ứng với những điều kiện kinh tế đang gặp phải.
Theo người khởi xướng, James S. Coleman cho rằng: Khi cá nhân nhận được
một loạt kích thích từ bên ngồi thì khơng phải cá nhân ngay lập tức sẽ phản ứng lại tất
cả mà sẽ tiến hành lựa chọn những kích thích nào cảm thấy phù hợp với bản thân, cịn
những kích thích nào tỏ ra khơng phù hợp, khơng mang lại lợi ích gì thì sẽ bị khước từ
hoặc loại bỏ1. Nói cách khác,“con người ln hành động một cách có chủ đích, có suy
nghĩ để lựa chọn và sử dụng các nguồn lực một cách duy lý nhằm đạt được kết quả tối
đa với chi phí tối thiểu”2.
Cùng với quan điểm trên George Simmel cho rằng, sự duy trì các mối quan hệ xã
hội dựa trên nguyên tắc: khi cá nhân nảy sinh nhu cầu, cá nhân sẽ thực hiện hành động
để thỏa mãn nhu cầu cho mình trên trên cơ sở chọn lựa những gì bản thân cho rằng
phù hợp và có lợi nhất. Geroge Homans - một nhà theo lý thuyết hành vi (1910-1989)
thì cho rằng hành động trong cuộc sống của con người phụ thuộc vào sự nhận thức và
lựa chọn hành động của người đó về tính khả thi và kết quả của hành động. Do đó nếu

hành động nếu thực hiện đáp ứng dung hịa được giữa sự mong muốn của chủ thể hành
động với các chuẩn mực xã hội thì họ sẽ hài lịng và ngược lại.
Như vậy, đời sống sinh hoạt học tập của sinh viên chịu nhiều yếu tố ảnh hưởng
khác nhau. Tuỳ theo năng lực nhận thức chủ quan cùng với điều kiện kinh tế, gia đình
và mơi trường giáo dục trong trường đại học mà mỗi sinh viên có những phản ứng, lựa
chọn cách thức sinh hoạt, tiêu dùng, học tập khác nhau. Sự lựa chọn này theo George
Homans là do sự lựa chọn mang tính chủ quan của cá nhân trong những hồn cảnh cụ
thể. Theo đó, kết quả của hành động trước những điều kiện sống càng có ý nghĩa giá
trị đối với sinh viên bao nhiêu thì sinh viên sẽ có hướng chọn lựa và thực hiện hành
động đã xác định bấy nhiêu.

1
2

Nguyễn Minh Hòa (1999). Xã hội học những vấn đề cơ bản. Nhà xuất bản Giáo dục, trang 18.
Lê Ngọc Hùng (2009). Lịch sử và Lý thuyết xã hội học. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, tr 305.


16

Theo cách tiếp cận này, nguồn lực kinh tế - xã hội đóng vai trị chính yếu trong
việc tổ chức đời sống sinh hoạt, học tập của sinh viên. Hoạt động học tập của sinh viên
sẽ phụ thuộc vào khả năng nhận thức, cơ hội tiếp nhận thông tin cùng với các yếu tố
nguồn tài chính, cơng việc “làm thêm” và mơi trường xã hội xung quanh. Qua đó các
nhóm sinh viên có những phản ứng, lựa chọn những hoạt động được cho là phù hợp
với những điều kiện chủ quan và khách quan. Đối tượng sinh viên hệ chính quy tập
trung mang đặc điểm là những người trẻ, đa số vừa rời ghế trường phổ thông, điều
kiện kinh tế phụ thuộc và có phần hạn chế, cùng với các quan hệ xã hội cịn bó hẹp
trong nhà trường và các nhóm bạn sẽ có những tác động đến việc thỏa mãn những nhu
cầu ở mức độ cơ bản. Điều này cho thấy khả năng sinh viên sẽ chọn lựa ưu tiên cho

những nhu cầu đảm bảo cho sự tồn tại như: ăn, uống, mặc, ở. Các hoạt động liên quan
đến tái sản xuất như chăm sóc sức khỏe, y tế, giáo dục và vui chơi giải trí sẽ có phần bị
hạn chế. Từ những hạn chế về điều kiện kinh tế - xã hội sẽ có tác động nhất định đến
chất lượng sống và hiệu quả hoạt động học tập của sinh viên trong trường đại học. Do
vậy, việc nắm bắt và tạo điều kiện kinh tế và phát huy tác dụng của các quan hệ xã hội
sẽ góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hoạt động học tập của thanh niên
- sinh viên chính là góp phần hiện thực hóa chiến lược nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực hiện nay.
1.2.Các khái niệm cơ bản sử dụng trong đề tài
1.2.1. Các yếu tố kinh tế - xã hội
Các yếu tố kinh tế - xã hội được hiểu bao gồm tổng thể các điều kiện, hoàn cảnh
tạo nên đời sống kinh tế và môi trường xã hội trong từng hoàn cảnh lịch sử nhất định.
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, kinh tế là hoạt động của một cộng đồng người, của
một quốc gia, liên quan đến tồn bộ q trình hay một phần của tổng quá trình bao
gồm các quá trình sản xuất, trao đổi, phân phối và tiêu dùng các sản phẩm xã hội. Yếu
tố kinh tế là nguồn lực vật chất, là phạm trù đề cập liên quan đến việc sử dụng các
nguồn lực như vốn, lao động, cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật, tư liệu sản xuất và sản
phẩm hiện hữu để phục vụ nhu cầu trong đời sống của con người. Ngồi ra yếu tố kinh
tế cịn liên quan đến việc tiêu dùng các sản phẩm vừa mang tính phục vụ vừa mang
tính trao đổi.


17

Trong các nghiên cứu cụ thể, tùy theo hướng tiếp cận, các yếu tố kinh tế - xã hội
có thể được xác định: Thu nhập và phân phối thu nhập, lao động, việc làm, định hướng
và chính sách kinh tế, tình trạng nhà ở cơ cấu dân cư, sự hình thành và biến động của
các tầng lớp xã hội, thị hiếu khách hàng, phong tục tập quán, cơ cấu quyền lực và
phương thức sinh hoạt của các cộng đồng xã hội, sức khoẻ, mơi trường, cuộc sống gia
đình...

Trong giới hạn của nghiên cứu này, các yếu tố kinh tế - xã hội tác động đến hoạt
động học tập của sinh viên được xác định bao gồm điều kiện tài chính (tiền từ gia đình
cung cấp, học bổng và từ các nguồn khác), việc đi làm thêm, phục vụ chi phí sinh hoạt,
học tập trong sinh viên, nguồn gốc cư trú của sinh viên, giới tính, số năm theo học.
Đây cũng đồng thời được xác định là các biến độc lập khi xem xét mối quan hệ với
hoạt động học tập của sinh viên.
1.2.2. Hoạt động học tập
Trong đời sống xã hội, con người gắn liền với những lĩnh vực hoạt động cơ bản
như hoạt động sản xuất ra của cải vật chất, hoạt động sản xuất ra ra những giá trị văn
hóa tinh thần, hoạt động tái sản xuất, hoạt động tổ chức và quản lý xã hội, hoạt động
giao tiếp. Chúng ta có thể phân chia các lĩnh vực hoạt động của con người trên các
phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa tư tưởng. Ngồi ra khi nói đến các hoạt động
cụ thể chúng ta thường hay nói đến như hoạt động học tập, hoạt động giảng dạy, hoạt
động quản lý…
Hoạt động học tập được hiểu đó là toàn bộ những việc làm được người học tiến
hành nhằm hướng đến một mục đích cụ thể. Trong q trình tham gia đào tạo tại
trường đại học, tài chính hàng tháng phục vụ sinh hoạt học tập chính là nguồn lực kinh
tế quan trọng thúc đẩy toàn bộ các hoạt động sinh hoạt và học tập của sinh viên. Hoạt
động học tập liên quan đến tình trạng sức khỏe, điều kiện kinh tế và một chuỗi các
hoạt động cụ thể khác như việc dự lớp, tự học, nghiên cứu khoa học, việc tiếp cận tài
liệu, giáo trình qua thư viện,…Trong nghiên cứu này, hoạt động học tập được xem xét
tập trung thông qua các chỉ báo đo lường cụ thể là thời gian tự học, mức độ thường
xuyên đến thư viện, kênh sinh viên sử dụng để tiếp cận nguồn tài liệu phục vụ học tập
trong tương quan đánh giá với kết quả học tập.


18

1.3 Giả thuyết nghiên cứu
Nghiên cứu sự tác động các các yếu tố kinh tế - xã hội đến hoạt động học tập của

sinh viên, chúng tôi xác định các giả thuyết sau đây :

-

Hoạt động học tập phản ánh qua thời gian tự học và mức độ thường xuyên
đến thư viện của sinh viên chịu sự tác động bời các yếu tố làm thêm, giới
tính, số năm theo học, nguồn gốc cư trú và định mức tài chính trung bình
hàng tháng.

-

Trong cơ cấu chi tiêu, sinh viên có xu hướng ưu tiên cho những nhu cầu
cơ bản (ăn, ở, học hành, đi lại), mức chi cho hoạt động giải trí, du lịch,
chăm sóc sức khỏe và làm đẹp rất hạn chế.

-

Sinh viên hiện nay chưa sử dụng hợp lý mạng lưới các quan hệ xã hội
trong việc hỗ trợ đời sống kinh tế và hoạt động học tập.


19

CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA CÁC YẾU TỐ KINH TẾ – XÃ
HỘI ĐẾN HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
2.1. Đôi nét về Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia
thành phố Hồ Chí Minh
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia thành phố Hồ
Chí Minh đóng một vai trị quan trọng trong hệ thống giáo dục Việt Nam, chuyên đào
tạo các lĩnh vực thuộc khoa học xã hội và nhân văn. Với lịch sử trên 50 năm, tiền thân

là Trường Đại học Văn khoa, thuộc Viện Đại học Sài Gòn, thành lập năm 1957. Tháng
4/1977 Trường Đại học Văn khoa hợp nhất với Trường Đại học Khoa học thành
Trường Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 30/3/1996, Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn được thành lập trên cơ sở tách ra từ Trường Đại học
Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh và là thành viên của Đại học Quốc gia thành phố
Hồ Chí Minh. Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn có vai trị quan trọng trong nền
giáo dục đại học của Việt Nam, là trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học xã hội và
nhân văn chất lượng cao ở khu vực phía Nam.
Cho đến thời điểm nghiên cứu, tồn Trường có 26 đơn vị khoa, bộ mơn, với 54
chương trình đào tạo đào tạo, và khoảng 11.124 sinh viên chính quy, trong đó tỷ lệ
nam sinh viên ước khoảng 25%. Tỷ lệ sinh viên theo học là đồng bào các dân tộc thiểu
số (trừ dân tộc Kinh) chiếm 5,14% tổng sinh viên theo học. Các dân tộc khác chủ yếu
gồm Chăm, Hoa, Khơmer, Êđê, Châu ro, Mường, K'ho, MoNơng. (Nguồn: Phịng Đào
tạo và Phịng Quản lý sinh viên tháng 12/2012).
Sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn là một bộ phận quan
trọng của nguồn nhân lực, có chung một số đặc điểm như lứa tuổi, trình độ học vấn.
Chủ yếu trong độ tuổi từ 18 – 26 tuổi, đang trong giai đoạn phát triển và hồn thiện về
các mặt trí lực, sinh học và xã hội. Phần lớn sinh viên sinh viên theo học hệ đào tạo
chính quy tại Trường đều vừa mới tốt nghiệp phổ thông trung học. Nguồn tài chính
phục vụ hoạt động sinh hoạt học tập chủ yếu là do gia đình cha mẹ, người thân cung
cấp. Một bộ phận đi làm thêm, tham gia các công việc như gia sư, phụ nhà hàng và các
dịch vụ xã hội khác.


20

Về đào tạo, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia thành phố
Hồ Chí Minh đang trong giai đoạn tích cực chuẩn hóa mơ hình đào tạo theo học chế
tín chỉ. Việc này đã tác động và làm thay đổi ở nhiều công đoạn trong việc tổ chức,
điều hành hoạt động đào tạo của trường. Mặc dù cịn nhiều khó khăn nhưng những

thay đổi này ngày càng khẳng định tính đúng đắn và phù hợp trong chiến lược phát
triển của nhà trường. Trong giai đoạn 2007 – 2010 nhà trường đã thu được những kết
quả bước đầu: xây dựng, hoàn thiện các văn bản tạo hành lang pháp lý cho hoạt động
đào tạo theo hệ thống tín chỉ; rà sốt, chỉnh lý các chương trình giáo dục, đề cương chi
tiết môn học, ban hành chuẩn đầu ra các chương trình giáo dục và thực hiện quy chế
công khai đối với các cơ sở giáo dục đại học theo quy định tại Thông tư 09/2009/TTBGD-ĐT. Hiện nay Trường đã có một chương trình đạt chuẩn AUN do tổ chức mạng
lưới các trường Đại học Đông Nam Á (ASIAN University Network) công nhận.
Trong chiến lược phát triển giai đoạn 2011 – 2015, Nhà trường xác định những
bước đột phá về quản trị đại học, đào tạo, nghiên cứu khoa học để trở thành cơ sở hàng
đầu về đào tạo, nghiên cứu khoa học, phục vụ cộng đồng của Việt Nam trong các lĩnh
vực khoa học xã hội và nhân văn; cung cấp các dịch vụ khoa học và giáo dục chất
lượng cao cho nền kinh tế quốc dân; khẳng định vị thế của một trung tâm đào tạo,
nghiên cứu khoa học quan trọng ở Đông Nam Á.
2.2. Điều kiện kinh tế phục vụ nhu cầu sinh hoạt và học tập của sinh viên
2.2.1. Nguồn lực tài chính chủ yếu của sinh viên
Điều kiện kinh tế có liên quan mật thiết tới cách thức tổ chức đời sống sinh hoạt
và học tập của sinh viên. Trong quá trình duy trì đời sống sinh học và tham gia vào các
hoạt động xã hội, sinh viên sẽ có định hướng chọn lọc những ứng xử khác nhau phù
hợp với điều kiện kinh tế bản thân. Do vậy mặc dù cùng tham gia trong một môi
trường học tập giống nhau nhưng mỗi sinh viên lại có nguồn lực tài chính và định
hướng phân bổ nguồn lực tài chính khác nhau trong đời sống sinh hoạt, học tập. Hoạt
động học tập của sinh viêp phụ thuộc nhiều vào những nguồn lực tài chính từ kinh tế
gia đình, bản thân người học bên cạnh những điều kiện học tập, chính sách hỗ trợ
trong trường đại học.


21

Như trên đã trình bày, đối tượng khảo sát là sinh viên chính quy, sự khác biệt về
độ tuổi là không lớn, chủ yếu là những người vừa tốt phổ thông trung học, học tiếp bậc

đại học. Nguồn tiền giúp sinh viên trang chải các chi phí sinh hoạt và học tập chủ yếu
do gia đình (cha mẹ, người thân) cung cấp, tự đi làm và các nguồn khác. Cụ thể, có
đến đến 96.8% là do gia đình cung cấp định kỳ hàng tháng bao gồm tiền học phí, tiền
ăn, ở ký túc xá và các chi phí sinh hoạt khác. Bên cạnh đó, nguồn tài chính của sinh
viên cịn được quyết định bởi các nguồn khác như từ làm thêm, từ học bổng và các
nguồn khác như ông bà, người yêu, khác… Theo đó kết quả khảo sát cho thấy 25.2%
sinh viên có đi làm thêm những cơng việc bên ngồi để phụ một phần trang chải các
chi phí sinh hoạt và học tập và 7.5% nhận được sự hỗ trợ thêm từ các nguồn khác.
Trong số 560 sinh viên được hỏi có 16.8% nhận được học bổng theo chính sách
khuyến khích học tập của nhà trường hoặc từ các nguồn học bổng bên ngoài khác.
Trên thực tế, việc nhận được tài chính từ các nguồn học bổng thường địi hỏi sinh viên
những tiêu chí khá cao như việc căn cứ vào kết quả học tập và khả năng ngoại ngữ tốt.
Vì vậy việc tìm kiếm học bổng của sinh viên cũng gắn với việc cố gắng đạt kết quả
xếp loại tốt nghiệp và có thêm nguồn tài chính hỗ trợ động viên.
Mức học bổng trung bình trong số 16.8% nhận được học bổng trong năm vừa qua
của sinh viên là 692.890 đồng. Như vậy, mặc dù số tiền có được từ các nguồn học
bổng khác nhau này khơng nhiều nhưng lại có ý nghĩa quan trọng trong việc khích lệ
động viên tinh thần học tập của sinh viên.
Qua kết quả kiểm định Chi-Square mối quan hệ giữa cho thấy mức ý nghĩa quan
sát là 0.712, lớn hơn 0.05. Như vậy đã có bằng chứng thống kê cho thấy giới tính
khơng có ảnh hưởng đến việc sinh viên nhận được học bổng. Cụ thể là đối với nam
sinh viên là 17.9% và nữ sinh viên là 16.5% sinh viên. Tương tự tỷ lệ này cũng khơng
có sự khác biệt lớn khi so sánh nhóm giữa sinh viên có hộ khẩu thành phố (16.3%) và
nhóm sinh viên đến từ các tỉnh thành khác (16.9%). Điều này cho thấy nhóm sinh viên
có điều kiện sống gần gia đình người thân khơng có tác động đến khả năng nhận được
các nguồn học bổng khác nhau.


22


Giải pháp hỗ trợ bổ sung tài chính bằng việc vay ngân hàng
Để tạo điều kiện kinh tế cho các gia đình có con em đang là học sinh, sinh viên
theo học tại các trường, Năm 2007 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số
157/2007/QĐ-TTg về tín dụng đối với học sinh, sinh viên. Theo đó các gia đình có
hồn cảnh khó khăn về kinh tế có thể vay từ Ngân hàng Chính sách Xã hội để giúp con
em được tiếp tục đến trường theo nguyện vọng. Đây là một chính sách thiết thực có ý
nghĩa xã hội rộng lớn, phản ánh một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước trong giáo
dục đào tạo. Từ đây các những sinh viên có khó khăn về điều kiện kinh tế có thể vay
ngân hàng với lãi suất ưu đãi thơng qua gia đình để hỗ trợ trang trải chi phí cho sinh
hoạt và học tập trong suốt quá trình theo học.
Kết quả khảo sát cho thấy 31.1% sinh viên có tham gia vay vốn ngân hàng. Hộ
gia đình vay ít nhất trong năm vừa qua là 2 triệu đồng và nhiều nhất là 36 triệu. Mức
vay trung bình của một hộ gia đình là 9088 ngàn đồng/năm. Như vậy, đây khơng phải
là một số tiền q lớn nhưng lại có ý nghĩa rất quan trọng tác động đến khả năng tài
chính hỗ trợ sinh viên n tâm trong q trình tham gia theo học tại trường. Mức vay
ngân hàng phổ biến trong khoảng từ 5 – 10 triệu đồng/năm (xem bảng 1).
Bảng 1: Tỷ lệ sinh viên vay ngân hàng theo nhóm vay /năm
Tần số
%
% giá trị
Dưới 5 triệu
14
2.5
8.0
5 triệu đến 10 triệu
149
26.6
85.6
Trên 10 triệu đến 15 triệu
5

.9
2.9
Trên 15 triệu
6
1.1
3.4
Tổng
174
31.1
100
Nguồn: Kết quả khảo sát thực nghiệm của đề tài
Nhìn chung thành phố Hồ Chí Minh là khu vực đơ thị được đánh giá có mức thu
nhập bình qn đầu người tốt nhất cả nước. Điều này cũng thể hiện rõ khi xem xét
nguồn gốc cư trú của sinh viên theo hộ khẩu về nhu cầu vay vốn. Kết quả khảo sát cho
thấy tỷ lệ sinh viên sống ở khu vực nơng thơn có điều kiện kinh tế gia đình khó khăn
hơn, nhu cầu vay vốn ngân hàng nhiều hơn chiếm 73.5%, trong khi đó với nhóm sinh
đến từ khu vực đô thị với 26.5%. Tương tự kết quả nghiên cứu cũng cho thấy nhu cầu
vay vốn của nhóm sinh viên có hộ khẩu thành phố thấp hơn so với nhóm sinh viên đến
từ các tỉnh thành phố khác, tỉ lệ này tương ứng với 7.8% so với 38.9%.


×