MỤC LỤC
A/Phần mở đầu
B/ Phần nội dung
I. Những vấn đề lý luận về phạm trù sở hữu
1. Một số khái niệm liên quan
a. Chiếm hữu là gì?
b. Sở hữu là gì?
c. Quan hệ sở hữu là gì?
d. Các hình thức sở hữu
e. Quyền sở hữu là gì?
g. Chế độ sở hữu là gì?
2. Hai chế độ sở hữu cơ bản trong lịch sử
a. Sự xuất hiện và tồn tại của chế độ sở hữu tư nhân
b. Chế độ sở hữu, xã hội về tư liệu sản xuất
3. Sự hình thành phát triển biến đổi của sở hữu là một qúa trình lịch sử
Trang
1
4
4
4
4
4
5
5
6
6
6
6
9
10
tự nhiên
a. Hai mặt của nền sản xuất xã hội
b. Sự tách rời giữa quyền sở hữu, quyền quản lý và quyền sử dụng tư
10
12
liệu sản xuất
II. Cơ cấu sở hữu trong quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị
15
trường ở Việt Nam
1. Cơ cấu sở hữu của Việt Nam trước đổi mới (1986)
a. Giai đoạn 1945 - 1959
b. Giai đoạn 1959 - 1980
c. Giai đoạn 1980 - 1986
2. Cơ cấu sở hữu trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay
a. Sở hữu toàn dân
b. Sở hữu nhà nứơc
c. Sở hữu hợp tác
d. sở hữu tư bản tư nhân
e. Sở hữu tư bản tự nhiên
f. Sở hữu hỗn hợp
III. Ý nghĩa vấn đề nghiên cứu
IV. Một số giải pháp để vận hành hiệu quả cơ cấu sở hữu ở nước ta
1. Nhóm giải pháp chính trị - pháp lý
15
15
15
16
17
18
19
19
20
20
21
21
22
22
1
2. Nhóm giải pháp kinh tế - xã hội
3. Việc cải tạo các quan hệ sở hữu
C. Kết luận
D. Danh mục tài liệu tham khảo
22
23
24
25
2
A. PHẦN MỞ ĐẦU
Con người - với tư cách là một thực thể xã hội chỉ có thể tồn tại và phát
triển khi có những cơ sở vật chất nhất định. Ngay từ thời kỳ sơ khai của xã
hội loài người, ý thức về xã hội, về cộng đồng người còn hạn chế nhưng
người nguyên thuỷ đã biết chiếm giữ hao quả tự nhiên, chim thú săn bắt được,
những công cụ lao động giản đơn để phục vụ cho nhu cầu của mình. Hay nói
cách khác, con người sinh ra từ tự nhiên, để tồn tại và phát triển con người
phải dựa vào tự nhiên, chiếm hữu tự nhiên để thoả mãn nhu cầu nhất định. Sở
hữu được hiểu là việc chiếm giữ những sản vật tự nhiên, những thành quả lao
động (Ngày nay còn bao gồm cả tư liệu sản xuất) của xã hội loài người. Sở
hữu là phạm trù cơ bản, phức tạp và hàm xúc của kinh tế - chính trị học,
thường được bàn nhiều và cũng đang tồn tại khơng ít ý kiến khác nhau và đối
lập nhau nhưng tựu trung đều dựa trên nguyên tắc phương pháp luận coi sở
hữu như quá trình chiếm hữu và nhấn mạnh mặt pháp lý khi giải thích nội
dung kinh tế của sở hữu khao học kinh tế tư sản chỉ thấy trong sở hữu các
quyền tài sản và sự phân biệt đang tăng lên của các quyền này; cịn kinh tế chính trị học truyền thống của CNXH coi sở hữu như quan hệ "Chủ - khách
thể bị chiếm hữu bởi chủ thể" hay "Quan hệ giữa con người về việc chiếm
hữu các yếu tố và kết quả sản xuất" do đó thường các quan niệm trên quy sở
hữu tư bản chủ nghĩa thành sự chiếm hữu tư nhân(chế độ tư hữu) và sở hữu
XHCN thành sự chiếm hữu toàn dân về các điều kiện và kết quả sản xuất (chế
độ công hữu). Những quan niệm này bộc lộ chỗ yếu là đồng nhất các quan hệ
pháp lý của kiến trúc thượng tầng với các cơ sở kinh tế của xã hội. Lẫn lộn
các hiện tượng kinh tế với các quan hệ bên trong, ổn định, đang quy định tính
chất và xu thế vận động của các hiện tượng và q trình này xố nhồ ranh
giới khác nhau giữa các chế độ kinh tế và các hình thức sở hữu, do đó đã hiển
nhiên hạ thấp vai trị lịch sử, đặc biệt của sở hữu trong hệ thống sở hữu xã
3
hội. Cách tiếp cận trên về sở hữu đã tỏ ra khơng để để giải thích sở hữu tư
sản hiện đại hơn nữa "Nó trở thành cơng cụ biện hộ cho việc Nhà nước hố
tồn bộ nền kinh tế và nảy sinh hệ thống hành chính chỉ huy của kinh doanh
trong CNXH Nhà nước". Do vậy, việc tìm hiểu nội dung kinh tế của sở hữu là
cần thiết chẳng những đối với lý luận kinh tế học nói chung mà cịn để có thể
đánh giá được các đổi mới và thực chất của sở hữu tư sản hiện đại, về thực
chất của mơ hình XHCN kiểu cũ dựa trên chế độ công hữu thuần nhất, và về
con đường tất yếu chuyển đổi nó sang thị trường.
Đương nhiên sở hữu như một phạm trù kinh tế, khác sở hữu như một
phạm trù của luật học và các khoa học xã hội khác, không phải là quan hệ chủ
thể - khách thể, tuy rằng quan hệ chủ thể - khách thể "Vật liệu xây dựng" cho
sở hữu kinh tế và là xuất phát điểm cho mọi quá trình kinh tế. Hơn nữa, đã có
sự chuyển hố sở hữu thực tế thành sở hữu kinh tế được gây ra bởi quá trình
phản ứng kinh tế - xã hội, trong điều kiện phân công lao động xã hội và có sự
trao đổi sản phẩm lao động (Mà điều kiện trao đổi là: chiếm hữu tư nhân về
các sản phẩm khác nhau và sự trao đổi là tương đương).
Vậy các quan hệ kinh tế trong những điều kiện lịch sử nhất định đã bắt
buộc sự chiếm hữu riêng rẽ của những người khác nhau về các điều kiện và
kết quả sản xuất khác nhau, nói cách khác, bắt buộc xuất hiện hình thái đối
kháng của sự thống nhất xã hội, xuất hiện mâu thuẫn kinh tế giữa những đại
diện các yếu tố sản xuất tức là các quan hệ sở hữu. Từ đây, có thể rút ra các
kết luận chính về vấn đề sở hữu, trước khi chúng ta đi phân tích cụ thể sự tồn
tại, vận hành của nó trong "Nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở
Việt Nam":
Thứ nhất, Bản chất sở hữu như một phạm trù kinh tế bộc lộ ra ở chỗ nó
chứa đựng các chất lượng xã hội đặc biệt, gây ra bởi sự phân cực kinh tế giữa
các vật khác nhau và những người khác đại diện cho vật, do đó bắt buộc phải
cần đến nhau.
4
Thứ hai, sở hữu luôn giả định (bắt buộc) các cơ sở tư nhân của mình, nó
đảm bảo sự quan tâm kinh tế của người sản xuất hàng hoá - động lực thực sự
của sản xuất, đảm bảo hoạt động bình thường và hiệu quả của phân cơng lao
động xã hội. D. Ricado nói đại ý: Sở hữu tư nhân như là kết quả của phân
công lao động xã hội.
Thứ ba, nhưng sở hữu tư nhân như là hình thái lịch sử chung, là điều
kiện xã hội chung của sản xuất, ln tồn tại dưới những hình thái cụ thể, đặc
thù của sở hữu.
Thứ tư, quan hệ sở hữu là quan hệ xã hội trìu tượng, chỉ bộc lộ khi ta
phân tích các chất lượng kinh tế.
Thứ năm, bộc lộc các cơ sở chung thống nhất giữa sở hữu và giá trị. Đó
là nhờ giá trị phát triển trên cơ sở quan hệ sở hữu; Nói cách khác sở hữu là
quan hệ định tính của quan hệ kinh tế, cịn giá trị là quan hệ định lượng của
các quan hệ này.
Với lý luận trên, nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu lịch sử, xã hội,
triết học... đều thống nhất rằng: sở hữu - một phạm trù kinh tế mang yếu tố
khách quan - xuất hiện, phát triển song sung trung với sự xuất hiện, tồn tại và
phát triển của xã hội loài người. Mặt khác, quan hệ sở hữu và chế độ sở hữu
còn mang bản chất giai cấp. Chúng ta đứng trên lập trường tư tưởng là chủ
nghĩa Mác - Lênin để nghiên cứu vấn đề sở hữu qua các hình thái kinh tế - xã
hội và đặc biệt quan trọng là "Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay".
Hơn thế nữa, ngày nay "Vấn đề sở hữu" còn là đối tượng nghiên cứu của
nhiều môn khoa học xã hội khác với các góc độ tiếp cận khác nhau, như: Lý
luận chung về nhà nước và pháp luật; Luật dân sự; Luật hơn nhân và gia đình;
Luật doanh nghiệp; Luật đất đai; Kinh tế mơi trường vv...
Đây cịn là vấn đề quan tâm có tính chất sống cịn của mọi giai cấp, mọi
tổ chức và cá nhân: Sở hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở kinh tế đầu tiên quyết
5
định địa vị thống trị xã hội của giai cấp cầm quyền; Sở hữu là cơ sở kinh tế và
là cơ sở pháp lý để các chủ thể thực hiện các quyền năng pháp lý trên đó.
Đối với nước ta hiện nay, thực hiện việc quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
không qua giai đoạn phát triển TBCN là một mơ thức khơng có tiền lệ thì việc
địi hỏi phải củng cố và hoàn thiện một hệ thống lý luận khoa học sắc bén,
trong đó có lý luận về vấn đề sở hữu" là tất yếu khách quan. Nó không chỉ là
kim chỉ nam cho hành động kinh tế của đất nước, mà cịn góp phần giải quyết,
tháo gỡ vướng mắc, khắc phục sai lầm lệch lạc của thực tiễn quản lý điều
hành phát sinh vì sự hồn thiện của chế độ sở hữu XHCN, từ đây tạo ra cái
nền vật chất pháp lý cho công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước,
phấn đấu cho mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Trong tất cả sự hiểu biết cịn hạn chế của mình em xin được trình bày
vấn đề đặt ra của đề án với lòng mong muốn được học hỏi hiểu biết dưới sự
chỉ bảo và hướng dẫn của thầy giáo Lê Việt. Để bài viết sau của em được
hoàn thiện.
Em xin chân thành cảm ơn!
6
B. PHẦN NỘI DUNG
I. Những vấn đề lý luận về
phạm trù sở hữu
1. Một số khái niệm liên quan
a. Chiếm hữu là gì?
Để tồn tại và phát triển con người phải dựa vào tự nhiên, chiếm hữu là
phạm trù khách quan, tất yếu, vĩnh viễn, là điều kiện trước tiên của hoạt động
lao động sản xuất. Chủ thể chiếm hữu là cá nhân, tập thể và xã hội. Đối tượng
của chiếm hữu từ buổi ban đầu của loài người là cái có sẵn trong tự nhiên
cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Các chủ thể chiếm hữu không
chỉ chiếm hữu tự nhiên mà cả xã hội, tư duy, thân thể, cả các vơ hình và cái
hữu hình. Trong kinh tế, chiếm hữu cả sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu
dùng.
b. Sở hữu là gì?
Theo quan điểm của Mác xít khái niệm gốc của sở hữu là "Sự chiếm
hữu". Theo đó: Sở hữu là hình thức xã hội - lịch sử nhất định của sự chiếm
hữu, cho nên có thể nói: Sở hữu là phương thức chiếm hữu mang tính chất
lịch sử cụ thể của con người, những đối tượng dùng vào mục đích sản xuất và
phi sản xuất. Sở hữu luôn luôn gắn liền với vật dụng - đối tượng của sự chiếm
hữu. Đồng thời sở hữu khơng chỉ đơn thuần là vật dụng, nó cịn là quan hệ
giữa con người với nhau về vật dụng.
Quan hệ sở hữu có thể là những quan hệ về kinh tế và pháp lý. Nói cách
khác, quan hệ sở hữu về kinh tế là hiện diện của bộ mặt pháp lý, theo nghĩa
7
rộng quan hệ sở hữu kinh tế là tổng hoà các quan hệ sản xuất - xã hội, tức là
các quan hệ của các giai đoạn tái sản xuất xã hội. Những phương tiện sống,
bao gồm những quan hệ sản xuất trực tiếp, phân phối, trao đổi, lưu thông và
tiêu dụng được xét trong tổng thể của chúng. Quan hệ sở hữu pháp lý là tổng
hoà các quan hệ sở hữu, sử dụng và quản lý. Những quan hệ này tạo ra và ghi
nhận các quan hệ kinh tế qua các nguyên tắc và chuẩn mực pháp lý. Để nêu
bật sự thống nhất của các quan hệ sở hữu cả phương diện kinh tế và pháp lý.
Sở hữu về mặt pháp lý được xem là quan hệ giữa người với người về đối
tượng sở hữu. Thông thường về mặt pháp lý, sở hữu được ghi trong hiến
pháp, luật của nhà nước, nó khẳng định ai là chủ thể của đối tượng sở hữu.
Sở hữu về mặt kinh tế biểu hiện thông qua thu nhập, thu nhập ngày càng
cao, sở hữu về mặt kinh tế ngày càng được thực hiện. Sở hữu ln hướng tới
lợi ích kinh tế, chính nó là động lực cho hoạt động kinh tế.
Sự vận động, phát triển của quan hệ sở hữu về hình thức, phạm vi mức
độ không phải là sản phẩm của chủ quan mà là do yêu cầu của quy luật quan
hệ sản xuất phù hợp với tính chấtl trình độ của lực lượng sản xuất. Haylà sự
vận động của quan hệ sở hữu là quá trình lịch sử tự nhiên. Sự biến động của
quan hệ sở hữu xét cả về mặt chủ thể và đối tượng sở hữu.
Đối tượng sở hữu: Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ là cái sẵn có trong
tự nhiên (hiện vật). Đến xã hội nô lệ, cùng với sở hữu vật là sở hữu người nô
lệ. Xã hội phong kiến đối tượng sở hữu là tư liệu sản xuất (đất đai, công cụ
lao động...) trong xã hội tư bản đối tượng sở hữu không chỉ về mặt hiện vật
mà quan trọng hơn về mặt giá trị, mặt tiền tệ.Ngày nay, cùng với sở hữu về
mặt hiện vật và giá trị của tư liệu sản xuất, người ta chú trọng nhiều đến sở
hữu cơng nghiệp, sở hữu trí tuệ, giáo dục...
c. Quan hệ sở hữu là gì?
Mối quan hệ giữa người với người trong quá trình chiếm hữu và sản
xuất ra của cải vật chất trong xã hội là quan hệ sở hữu. Quan hệ sở hữu phản
8
ánh sự chiếm giữ tư liệu sản xuất và các sản phẩm tiêu dùng, nó biểu hiện qua
mối quan hệ vật - vật. Quan hệ sở hữu là một loại quan hệ xã hội phát sinh,
tồn tại và phát triển trong quá trình chiếm hữu, mà khi xem xét dưới góc độ
pháp lý nó bao gồm 3 bộ phận cấu thành chủ thể, khách thể và nội dung.
d. Các hình thức sở hữu: Hình thức đầu tiên, là cơng hữu, sau đó do sự
phát triển của lực lượng sản xuất, có sản phẩm dư thừa, có kẻ chiếm làm của
riêng xuất hiện tư hữu. Đó là hai hình thức sở hữu cơ bản thể hiện ở nước đó,
quy mơ và phạm vi sở hữu khác nhau, phụ thuộc vào trình độ lực lượng sản
xuất và lợi ích của chủ sở hữu chi phối. Chẳng hạn, công hữu thể hiện thông
qua sở hữu nhà nước, sở hữu toàn dân. Ngoài ra cịn có hình thức sở hữu hỗn
hợp. Nó xuất hiện tất yếu do yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất và quy
trình xã hội hố nói chung địi hỏi. Sở hữu hỗn hợp hình thành thơng qua hợp
tác liên doanh liên kết tự nguyện phát hành mua bán cổ phiếu v.v...
Tựu trung lại, khái qt lại thì có hai hình thức cơ bản: Cơng hữu và tư
hữu. Cịn lại là kết quả của sự kết hợp giữa chúng với nhau.
e. Quyền sở hữu là gì?
Vì cơ sở kinh tế đảm bảo cho sự thống trị về chính trị - tư tưởng là các
quan hệ sở hữu có lợi cho giai cấp thống trị. Giai cấp thống trị dùng từ một bộ
phận của công cụ pháp luật quy định về chế độ sở hữu để thể chế hố ý chí
của giai cấp hình thành hệ thống các quy phạm pháp luật các quy phạm pháp
luật này quy định, củng cố và duy trì dự tính và địa vị thống trị giai cấp. Vì
vậy quyền sở hữu là một phạm trù pháp lý. Nó có nhiệm vụ xác lập và bảo vệ
quyền của chủ sở hữu trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối tượng
tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Với tư cách là một chế định pháp luật,
quyền sở hữu chỉ ra đời khi xã hội có phân chia giai cấp và có Nhà nước. Cịn
theo nghĩa hẹp, quyền sở hữu được hiểu là mức độ xử sự mà pháp luật cho
phép một chủ thể được thực hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
trong những điều kiện nhất định (quyền năng dân sự). Ngoài ra theo một
9
phương diện khác quyền sở hữu là một quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu
(có ba yếu tố: Chủ thể, khách thể, nội dung).
g. Chế độ sở hữu là gì?
Phạm trù sở hữu khi được thể chế hố thành quyền sở hữu (như trình bày
ở trên), được thực hiện thông qua cơ chế nhất định gọi là chế độ sở hữu. Chế
độ sở hữu được Nhà nước xác lập và được ghi nhận trong hiến pháp. Nó chứa
đựng hệ thống các quy phạm pháp luật về sở hữu và cơ chế, kiều kiện, thủ tục
pháp lý để áp dụng, thực hiện các quy phạm đó.
2. Hai chế độ sở hữu cơ bản trong lịch sử.
a. Sự xuất hiện và tồn tại của chế độ sở hữu tư nhân:
Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ ở gian đoạn cuối do sự phát triển của
lực lượng sản xuất sau ba cuộc phân công lao động xã hội (lần 1, ngành trăn
nuôi tách khỏi trồng trọt; lần 2, thủ công nghiệp tách khỏi công nghiệp; lần
3,với sự xuất hiện của tầng lớn thương nhân). Do năng xuất lao động đã lao
hơn trước, con người có kinh nghiệm hơn v.v...
Trong xã hội có sản phẩm dư thừa và xuất hiện những người chiếm đoạt
của cải dư thừa đó và trở thành giàu có, (tư hữu riêng) lại có những người do
yếu kém mà nghèo đói... Tất cả đẩy nhanh q trình phân hố tầng lớp xã hội
và giai cấp xuất hiện. Có giai cấp thì tất yếu có đấu tranh giai cấp. Để cuộc
đấu tranh giai cấp nằm trong vòng trật tự nhất định khơng phá vỡ xã hội thì có
một tổ chức đặc biệt ra đời, tựa hồ như đứng trên xã hội và quản lý xã hội.
Đó là Nhà nứơc.
10
Sơ đồ vắn tắt: Sở hữu tư nhân và các hình thái chủ yếu của nó.
I. Hình thái sở hữu tư nhân đơn giản.
Người sở hữu A
(Người sản xuất hàng
hoá)
Sở hữu thực tế
Các quan hệ phân công
lao động xã hội
Các quan hệ sở hữu
II.Hình
tháihố
sở Ahữu tư nhân TBCN
Hàng
Người sở hữu A
(Nhà tư bản)
Hàng hố B
Các quan hệ phân cơng
lao động xã hội
Tư liệu SX và TD
Sở hữu thực tế
Các quan hệ sở hữu
III. hình thái nhà nước của sở hữu tư Sở
nhân
hữu kinh tế
đơn giản
Người sở hữu A
(Nhà nước - người SX hàng
hoá)
Sở hữu thực tế
Hàng hoá A
Người sở
hữu sở
B hữu B
Người
(Người (Người
sản xuất
hàng
sản
xuất hàng
hoá) hoá)
Sở hữu thực tế
Các quan hệ phân công
lao động xã hội
Người sở hữu B
(Người sản xuất hàng
hoá)
Sức lao động
Sở hữu thực tế
Người sở hữu B
(Người sản xuất hàng
hố)
Hàng hố B
quan hệ sở hữu
IV. hình thái nhà nước của sở hữuCác
tư nhân
TBCN
Sở hữu kinh tế
Người sở hữu A
(Nhà nước - nhà tư
bản)
Tư liệu SX và tư liệu
Sở hữu
thực tế
SH
Các quan hệ phân công
lao động xã hội
Các quan hệ sở hữu
Người sở hữu B
(Người lao động làm
thuê)
Người sở hữu B
(Người
laothực
độngtếlàm
Sở hữu
Sức thuê)
lao động
Sở hữu kinh tế
Sức lao động
Qua sơ đồ trên cho ta thấy sở hữu tư nhân trong các phương thức sản
xuất khác nhau của lịch sử phát triển của lồi người với tính chất và mức độ
thể hiện khác nhau:
11
* Trong chế độ chiếm hữu nô lệ: Pháp luật của nhà nứơc chủ nơ duy trì
và bảo vệ chế độ sở hữu của chủ nô đối với tất cả các tư liệu sản xuất của xã
hội ngay cả sở hữu bản thân người nô lệ (nô lệ là công cụ biết nói khơng được
xem là người). ở đây, trình độ tư hữu của cịn thấp nhưng tính chất khắc
nghiệt và bất bình đẳng là tuyệt đối.
* Trong xã hội phong kiến: Sở hữu đẳng cấp phong kiến thể hiện rõ ở
chế độ"phong tước, cấp điền" của các vua chúa phong kiến. Nhà nước và
pháp luật phong kiến bảo vệ, duy trì chế độ sở hữu của địa chủ lãnh chúa
phong kiến đối với ruộng đất và duy trì tình trạng nửa phong kiến của nông
dân và giai cấp phong kiến.
* Trong chế độ tư bản chủ nghĩa: Trên cơ sở tan rã dần của sở hữu phong
kiến đã xuất hiện và phát triển quan hệ sở hữu tư sản. Đó là chế độ chiếm
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư
(do công nhân làm thuê sáng tạo ra bị giai cấp tư sản chiếm không)
ở đây là giai đoạn của trình độ tư hữu gắn với đặc trưng của xã hội tư
bản. Chế độ tư hữu được qui định là thiêng liêng bất khả xâm phạm. Giai cấp
tư sản với phương pháp, thủ đoạn bóc lột mới với trình độ cao tư hữu trong xã
hội tư bản chủ nghĩa nằm chủ yếu tập trung trong tay giai cấp tư sản, các tập
đoàn tư bản, các nhà tư bản nắm trong tay tư liệu sản xuất.
* Trong thời kỳ quá độ lên CNXH: Theo các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác - Lê nin thì có 2 phương thức quá độ lên CNXH. Đối với những
nước như nứơc ta quá độ lên CNXH từ một nước nghèo, lạc hậu chưa qua giai
đoạn phát triển TBCN, thì nhất thiết cần có một thời kỳ lịch sử với sự tồn tại
của đa thành phần kinh tế với đa hình thức sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân
để sử dụng sức mạnh và ưu thế của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế
hàng hoá, tất cả nhằm tạo ra tiền đề xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết
cho CNXH. Mặc dù vậy, trong sự nghiệp cơng nghiệp hố hiện đại hố ở
nước ta hiện nay nhằm phát triển lực lượng sản xuất thì sở hữu nhà nước, kinh
12
tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo để định hướng cho sở hữu tư nhân nói
riêng và nền kinh tế nước ta nói chung đi theo đúng quĩ đạo.
Chính C.Mác và F. Ănghen trong tác phẩm tun ngơn của Đảng cộng
sản, ông đã nhấn mạnh "chủ nghĩa cộng sản khơng xố bỏ của ai quyền chiếm
hữu các của cải mà chỉ xoá bỏ việc dùng những của cải ấy để nô dịch lao
động của người khác".
b. Chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất.
Chủ nghĩa Mác đã khẳng định: "Khơng thể xố bỏ ngay tư hữu và thiết
lâp ngay chế độ công hữu về tư liệu sản xuất"
Sự bình đẳng về mặt xã hội của con người trong mối quan hệ qua lại của
họ đối với tư liệu sản xuất tức là sự chiếm hữu mà tiêu chí duy nhất của nó là
lao động sống. Sự khẳng định mình như là một chế độ sở hữu. Sự bất bình
đẳng xã hội cho phép một số người này (người chủ sở hữu) chiếm đoạt lao
động của những người khác (những người không phải là chủ sở hữu) được coi
là chế độ sở hữu. Tùy thuộc vào khả năng chiếm đoạt lao động của mình hay
của người khác mà phân ra 2 kiểu chế độ sở hữu: chế độ tư hữu mang tính bóc
lột dựa trên lao động của người khác và chế độ tư hữu lao động dựa trên lao
động của chính bản thân mình. Kiểu chế độ tư hữu thứ hai, chẳng hạn như
các điền chủ hiện nay không sử dụng hoặc hầu như không sử dụng lao động
làm thuê, ngày nay có thể liên kết vào các hệ thống kinh tế cả TBCN và
XHCN. Trên phương diện chủ thể, chế độ tư hữu phân chia thành tư hữu cá
nhân và tư hữu tập thể bao gồm cả sở hữu tập thể cổ phần - sở hữu toàn dân
và sở hữu tập thể lao động.
Chế độ tư hữu được đem so sánh với chế độ công hữu. Thực chất của sự
so sánh là ở chỗ: Sở hữu nhà nước không phải mọi lúc mọi nơi đều có nghĩa
là sở hữu cơng cộng. Vấn đề khơng chỉ ở chỗ chế độ cơng hữu có thể có hình
thức. Sở hữu nhà nứơc và sở hữu tập thể, mà cịn ở trong bản chất của chính
các quan hệ xã hội. Quốc hữu hoá được coi là phương thức, biện pháp cải tạo
13
chế độ tư hữu thành sở hữu nhà nước, là việc làm mang tính chất chính trị
pháp lý. Việc làm này có ý nghĩa xã hội hố sản xuất một cách hình thức,
nghĩa là chỉ làm thay đổi các quan hệ sản xuất về mặt pháp lý sao cho phù
hợp ý chí của Nhà nước làm luật. Vì vậy ngày nay quan hệ sở hữu XHCN và
quan hệ sở hữu TBCN đều có sở hữu nhà nước. Sở hữu nhà nước trở thành
chế độ công hữu XHCN chỉ khi thực hiện được xã hội hoá sản xuất thực sự.
Sẽ diễn ra một sự cải tiến tận gốc các quan hệ sở hữu mà bản chất XHCN của
chế độ sở hữu, được thẻ hiện thơng qua lợi ích của những người lao động
(cơng dân, nơng dân tri thức). Có thể nói rằng các mối quan hệ xã hội được
hình thành trên cơ sở xoá bỏ lao động làm thuê là biểu hiện trực tiếp không
chỉ riêng của chế độ sở hữu XHCN.
Qua phân tích trên ta có thể nhận xét như sau:
*Thứ nhất, cần phân biệt chế độ có tính chất bóc lột với chế độ sở hữu
lao động khơng mang tính bóc lột.
* Thứ hai, khơng phải chế độ cơng hữu tự nó, mà chính chế độ sở hữu
cá nhân nảy sinh trên cơ sở những thành tựu của thời đại TBCN với sự tất
yếu dẫn đến sự xoá bỏ chế độ tư hữu và khẳng định chế độ công hữu mới là
sự phủ định trực tiếp chế độ tư hữu TBCN.
* Thứ ba, chế độ sở hữu cá nhân có thể xem là chế độ tư hữu manh
mún, hay sở hữu cá nhân mang tính chất tiêu dùng và cũng có thể là chế độ sở
hữu mang tính chất sản xuất phát sinh từ chế độ công hữu.
* Thứ tư, chế độ công hữu không thể phát triển nếu khơng có chế độ sở
hữu cá nhân. Cũng như là việc quay trở lại sở hữu cá nhân trên cơ sở bổ xung
lẫn nhau của sở hữu tập thể và sở hữu cá nhân lao động đó, trước hết là trong
hoạt động trí tuệ, tạo ra tiền đề cho sự hình thành cái mà theo C.Mác là"nhân
cách tự do" "Sự phát triển toàn diện của con người".
Cũng cần phải phân biệt chế độ công hữu XHCN (biểu hiện tập trung
của chế độ sở hữu xã hội), với chế độ sở hữu công, công của tất cả các thành
14
viên xã hội trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ đối với mọi của cải xã hội
(khơng có sự phân biệt thành phần, khơng ai có đặc quyền đặc lợi, mọi người
đều bình đẳng, hành vi của mọi người do các quy phạm xã hội điều chỉnh...).
3. Sự hình thành phát triển và biến đổi của sở hữu là một quá trình
lịch sử tự nhiên gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
a. Hai mặt của nền sản xuất xã hội (Phương thức sản xuất xã hội).
Sản xuất của cải vật chất là cơ sở của đời sống xã hội.
+ Lực lượng sản xuất: Phản ánh trình độ chinh phục tự nhiên của con
người, nó biểu hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình tạo ra
của cải vật chất. Lực lượng sản xuất xã hôi bao gồm: Tư liệu sản xuất và
người lao động với những kinh nghiệm sản xuất, kỹ năng, kỹ xảo, và thói
quen lao động của họ. Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất do công cụ
lao động và trình độ khoa học - kỹ thuật (ngày nay trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp là động lực phát triển nhanh, mạnh) phát triển, trong đó kỹ
năng, lao động của con người là quyết định. Con người là nhân tố trung tâm là
mục đích của nền sản xuất xã hội. Trong điều kiện ngày nay, cuộc cách mạng
khoa học - kỹ thuật - công nghệ rất phát triển, vị trí trung tâm củ con người
càng được nhấn mạnh. Do vậy, việc nâng cao dân trí là nhu cầu bức bách. Nó
vừa là địi hỏi của nền sản xuất xã hội, vừa là điều kiện để thúc đẩy nền sản
xuất xã hội phát triển nhanh hơn.
- Quan hệ sản xuất: Là quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá
trình sản xuất và tái sản xuất xã hội: Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ kinh
tế - xã hội và quan hệ kinh tế - tổ chức. Trong đó quan hệ kinh tế - xã hội biểu
hiện ở 3 mặt (3 yếu tố cấu thành).
Quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức - quản lý và quan hệ
phân phối sản phẩm. Trong đó quan hệ sở hữu giữ vai trò quyết định chi
phối, theo C.Mác:"Sở hữu với tư cách là hình thái hiện thực của quan hệ sản
xuất".
15
Giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có mối quan hệ biện chứng,
trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của sản xuất, còn quan hệ sản
xuất (quan hệ sở hữu trong đó) là hình thức xã hội - pháp lý của sản xuất. Lực
lượng sản xuất không ngừng vận động, biến đổi và phát triển qua các giai
đoạn lịch sử, qua các hình thái kinh tế - xã hội với tính chất và trình độ xã hội
hố ngày càng cao... Địi hỏi tất yếu là quan hệ sở hữu xác lập tương ứng với
nó phải phù hợp để mở đường thúc đẩy cho lực lượng sản xuất phát triển đi
lên (trái lại là kìm hãm lực lượng sản xuất, ngay cả trường hợp quan hệ sở
hữu đi quá xa so với trình độ của lực lượng sản xuất). ở nước ta, trước khi
tiến hành đổi mới tồn diện đã có thời kỳ q nhấn mạnh quan hệ sản xuất,
nhất là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, mà không xuất phát từ thực trạng
của lực lượng sản xuất, dẫn đến nôn nóng, chủ quan duy ý chí muốn xố bỏ
ngay các hình thức sở hữu phi XHCN, xây dựng và thúc đẩy cao sở hữu
XHCN (sở hữu toàn diện, và sở hữu tập thể) bằng việc tập trung cao độ, hợp
tác cao độ, thậm chí cả bằng quốc hữu hố cưỡng bức trong điều kiện lực
lượng sản xuất thấp kém nó đã làm kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển,
làm cho năng suất lao động thấp, kinh tế không tăng trưởng, và khủng hoảng
kinh tế - xã hội.
Nhưng sau đó Đảng ta đã nhận thức lại nhìn thẳng vào sự thật nhận
khuyết điểm và đi đúng qui luật bằng việc đề ra đường lối đổi mới toàn diện
từ 1986 (Đại hội VI của Đảng). Thực tế những thành tựu thu được của hơn
10 năm đổi mới vừa qua đã minh chứng tính đúng đắn của việc vận dụng qui
luật quan hệ sản xuất - lực lượng sản xuất trên đất nước ta.
b. Sự tách rời giữa quyền sở hữu, quyền quản lý, quyền sử dụng tư liệu
sản xuất trong xã hội phong kiến và xã hội TBCN.
Chính q trình phát triển của nền kinh tế quốc tế mà trực tiếp nhất, sâu
xa nhất là sự phát triển của lực lượng sản xuất với các cuộc cách mạng khoa
học kỹ thuật là động lực thúc đẩy nhanh mạnh nhất, nó cho biết rằng các
16
quyền gắn liền với phạm trù sở hữu đã có sự biến đổi đáng kể. Thường ở thời
kỳ đầu (Như trong thời kỳ CNTB cạnh tranh tự do) thì 3 quyền trong quyền
sở hữu (quyền sở hữu, quyền quản lý và quyền sử dụng)thống nhất trong một
chủ thể. Sự xuất hiện của tư bản cho vay đã làm cho quyền sở hữu và quyền
sử dụng tách rời nhau. Khi lực lượng sản xuất được xã hội hoá (trong điều
kiện của kinh tế thị trường) thì 3 quyền trên tách rời giữa các chủ thể (khi đó
lao động quản lý trở thành một nghề. Ví dụ trong cơng ty cổ phần, quyền sở
hữu nằm trong tay các cổ đông, quyền điều hành chung thuộc Hội đồng quản
trị, còn quyền quản lý trực tiếp thuộc về giám đốc(hoặc tổng giám đốc). Trong
đó quyền sở hữu vẫn giữ vai trò quyết định chi phối quyền quản lý, sử dụng,
phân phối.
Mỗi phương thức sản xuất bao giờ cũng có một loại hình sở hữu đặc
trưng, giữ vai trò chủ đạo, đồng thời còn tồn tại các loại hình sở hữu khác.
*Dưới chế độ phong kiến nơng nghiệp giữ vai trị quyết định, tư liệu sản
xuất chủ yếu là ruộng đất lại bị kìm hãm của "Đặc quyền, đặc lợi" và "chế độ
đẳng cấp phong kiến" hết sức hà khắc. Trong thời kỳ đầu của chế độ phong
kiến, nông cụ rất thô sơ, về sau công cụ bằng sắt phổ biến dần, súc vật được
tận dụng làm sức kéo... Trong các trang trại sau này hình thức hiệp tác lao
động giản đơn được áp dụng. Do yêu cầu cải tiến công cụ sản xuất nông
nghiệp mà thủ công phát triển cùng với nông dân dẫn đến trao đổi phát triển...
Nói chung sản xuất phong kiến chủ yếu dựa vào lao động thủ công của nông
dân và thợ thủ công.
Những đặc điểm trên đã quyết định tính chất của quan hệ sản xuất phong
kiến mà trực tiếp nhất ở đây là quan hệ sở hữu phong kiến; Đó là việc: Bọn
địa chủ bóc lột nơng dân, tá điền trên cơ sở chiếm hữu ruộng đất và duy trì họ
trong tình trạng lệ thuộc vào chúng. Địa chủ, chúa đất nằm tập trung phần lớn
tư liệu sản xuất (Ruộng đất) cịn nơng dân là người sản xuất trực tiếp khơng
có hoặc có rất ít ruộng đất (và là giai cấp bị bóc lột nặng nề). Như vậy có thể
17
nói rằng, sở hữu phong kiến về ruộng đất là cơ sở kinh tế của chế độ phong
kiến. Nó quyết định địa vị của con người trong quá trình sản xuất, quyết định
cơ cấu xã hội - giai cấp và chế độ phân phối (bất bình đẳng).
Trong xã hội phong kiến, bên cạnh sở hữu của địa chủ phong kiến, cịn
có sở hữu cá thể của người lao động(nơng dân, thợ thủ công) về công cụ lao
động, nhà cửa để ở và một số vật dụng khác (họ khơng có quyền sở hữu tư
liệu sản xuất mà chỉ "sử dụng" ruộng đất của địa chủ để làm thuê lấy công
duy trì cuộc sống cá nhân và gia đình họ); và cịn có sở hữu của tiểu nơng
độc lập và thợ thủ công tự do. Bản thân các chủ sở hữu nhỏ này cũng bị nhà
nước phong kiến và địa chủ phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề (tuy cuộc
sống có dễ chịu hơn so với nơng nơ).
Một nét đặc trưng khác nữa là giai cấp phong kiến cưỡng bức siêu kinh
tế nhằm cột chặt nông dân vào ruộng đất và bóc lột phần lớn lao động của
nơng dân (tồn bộ cả lao động sản phẩm thặng dư).
* CNTB với phương thức thủ đoạn bóc lột gia trị thặng dư tinh vi hơn,
xảo quyệt hơn các giai cấp bóc lột trước đó (chủ nơ và phong kiến, địa chủ).
Giai cấp tư sản trong thời kỳ đầu áp dụng phương pháp bóc lột giá trị thặng
dư tuyệt đối (kéo dài thời gian lao động), sau này do vấp phải sự đấu tranh
quyết liệt của giai cấp công nhân chúng chủ yếu áp dụng phương pháp bóc lột
giá trị thặng dư tương đối (tăng cường độ lao động). Theo chủ nghĩa Mác Lênin
xã hội TBCN là xã hội bóc lột cuối cùng trong lịch sử, mặc dù
C.Mác đã đánh giá rất cao chủ nghĩa tư bản. "Giai cấp tư sản đã đóng một vai
trò hết sức cách mạng trong lịch sử. Trong quá trình thống trị giai cấp chưa
đầy 1 thế kỷ đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực
lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước gộp lại"; Bởi vì trong XHTB: Giai
cấp tư sản (từng nhà tư bản hoặc nhóm, tập đoàn tư bản ở giai đoạn độc
quyền và độc quyền nhà nước sau này) chiếm giữ các tư liệu sản xuất chủ yếu
và là giai cấp bóc lột giai cấp cơng nhân, là người khơng có tư liệu sản xuất
18
gì ngồi "sở hữu" sức lao động và để kiếm sống họ buộc phải bán "cái mình
có" đó cho tư nhà tư bản. Công nhân chỉ là người làm thuê, quản lý nhỏ cho
"Khối tài sản khổng lồ" của nhà tư bản, chứ họ khơng được sở hữu gì ngồi
vật phẩm tiêu dùng, sinh hoạt và tiền cơng.
Trong XHTB ngồi sở hữu của giai cấp tư sản, cịn có sở hữu nhà nước
tư sản, sở hữu của người sản xuất nhỏ - cá thể, sở hữu của tiểu chủ... Song
đều do sở hữu TBCN chi phối, quyết định.
* Dưới góc độ pháp lý: Quyền sở hữu là quyền pháp luật dân sự gồm có
3 yếu tố cấu thành: chủ thể, khách thể và nội dung.
Chủ thể của quyền sở hữu là những người tham gia quan hệ pháp luật
dân sự về sở hữu về sở hữu. Chủ thể này đa dạng tương ứng với các hình thức
sở hữu, bao gồm: Nhà nước là đại diện chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở
hữu tồn dân; các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, các tập thể, các
công dân, các tổ chức xã hội, tổ chức xãc hội nghề nghiệp, các tổ chức kinh tế
tư nhân... Tóm lại đó là chủ thể(cá nhân hoặc pháp nhân) mà điều 173 bộ
luật dân sự quy định:"Có đủ 3 quyền năng là quyền chiếm hữu, quyền sử
dụng, quyền định đoạt tài sản".
Khách thể của quyền sở hữu có thể là đối tượng của thế giới vật chất
hoặc là kết quả những hoạt động sáng tạo tinh thần (trí tuệ). Hay có thể hiểu:
Khách thể là cái mà các bên tham gia quan hệ pháp luật hướng tới với các
hành vi của mình. VD: tài sản (động sản, hay bất động sản), quyền tác giả...
Nội dung của quyền sở hữu: Là các quyền dân sự và các nghĩa vụ dân sự
mà pháp luật qui định cho các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật. Đó là ba
quyền năng: chiếm hữu, sử dụng, định đoạt. Trong đó: Quyền chiếm hữu là
tự mình nắm giữ, quản lý tài sản thuộc sở hữu. Đó cũng là quyền kiểm sốt,
làm chủ, chi phối vật theo ý mình; Quyền sử dụng là việc khai thác công dụng
của đối tượng sở hữu; quyền định đoạt là sự quyết định "Số phần pháp lý" của
vật như bán, tặng, cho...
19
Việc phân biệt ba quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt trong quyền sở
hữu có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng. Đặc biệt trong qúa trình giải
quyết các tranh chấp trong tố tụng dân sự.
II. CƠ CẤU SỞ HỮU TRONG QÚA TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM.
1. Cơ cấu sở hữu của Việt Nam trước khi tiến hành đổi mới (trước
1986)
a. Giai đoạn 1945 - 1959
Cách mạn4g tháng tám thành công ngày 02/9/1945 nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà, một nhà nước công - nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam á ra
đời với mục tiêu xây dựng một chế độ xã hội mới theo con đường phát triển
của chủ nghĩa cộng sản. Hiến pháp 1946 đã tạo cơ sở pháp lý và từ đây quyền
sở hữu tài sản riêng của công dân trở thành quyền hiến định. Nhiệm vụ cấp
bách của cách mạng Việt Nam lúc đó phải xố bỏ quyền sở hữu đối với tư liệu
sản xuất quan trọng của thực dân Pháp, của các đế quốc khác, các thế lực
phản động và thù nghịch, của giai cấp địa chủ phong kiến Pháp luật giai đoạn
1945 - 1959 đã tạo ra những tiền đề quan trọng trong việc xác lập quan hệ sở
hữu mới dưới chính quyền dân chủ nhân dân. Từ đó xây dựng cơ sở vật chất
bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của chế độ mới. Trong giai đoạn này ta đã
dùng chính quyền vô sản làm công cụ cải tạo xã hội thiết lập quan hệ sản xuất
XHCN, chúng ta coi công hữu là mục tiêu.
b. Giai đoạn 1959 - 1960
Miền Bắc tiến lên CNXH, còn miền nam tiếp tục tiến hành cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong điều kiện mới để đi đến cuộc tổng tiến
công và nổi dậy ngày 30/4/1975 giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc, cả
nước đi lên CNXH.
Miền Bắc về cơ bản hoàn thành cải tạo XHCN đối với các thành phần
kinh tế phi XHCN. Nhiệm vụ chủ yếu thời kỳ này ta xác lập và hoàn thiện chế
20
độ sở hữu XHCN ở miền Bắc. Điều 12, hiến pháp 1959 khẳng định "Kinh tế
quốc doanh thuộc sở hữu tồn dân giữ vai trị lãnh đạo nền kinh tế quốc dân".
Trong đó tồn tại các hình thức sở hữu là: Sở hữu nhà nước, sở hữu của các
nhà tư sản dân tộc, sở hữu của tiểu thương, thợ thủ công, hộ nông dân cá thể;
sở hữu tập thể của các HTX, được quy định tại điều 11 Hiến pháp 1959... thực
hiền các Nghị quyết Đại hội Đảng, lần thứ III, IV, là vừa xây dựng vừa cải
tạo, trong cải tạo có xây dựng sở hữu thời kỳ này tạo tiền đề quan trọng có ý
nghĩa to lớn cho thời kỳ tiếp theo.
c. Giai đoạn 1980 - 1986
Hiến pháp 1980 thay thế hiến pháp 1959 đã ghi nhận phạm vi và bản
chất của sở hữu tồn dân. Trong đó tại các điều 18, 19, 23, 24, 27 của hiến
pháp 1980 đã quy định các hình thức sở hữu cơ bản sau: Sở hữu toàn dân đối
với đất đai, hầm mỏ, rừng núi sông hồ... (Điều 19); Sở hữu tập thể; sở hữu của
cơng dân. Trong đó ưu tiên sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể tại điều 18 hiến
pháp 1980 quy định:"Thiết lâp và củng cố chế độ sở hữu XHCN về tư liệu sản
xuất nhằm thực hiện một nền KTQD chủ yếu có hai thành phần: Thành phần
kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế HTX thuộc
"sở hữu tập thể của nơng dân lao động".
Tóm lại, trước khi tiến hành đổi mới Đảng và Nhà nước ta chủ trương
xây dựng và hồn thiện chế độ sở hữu XHCN với hai hình thức sở hữu toàn
dân và sở hữu tập thể, hơn nữa còn cho rằng sở hữu tập thể chỉ là một bước
quá độ để đi đến sở hữu toàn dân. Đánh giá một cách khách quan thì với hình
thức sở hữu tồn dân và tập thể đã đóng góp và phát huy vai trò to lớn nhằm
phát huy sức mạnh tổng hợp kinh tế - xã hội để toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta chiến thắng trong đấu tranh giành chính quyền (1945) và trong kháng
chiến chống đế quốc Pháp, và Mỹ... Tuy nhiên, xét về thực tế nước ta quá độ
lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ lực lượng sản xuất thấp
kém, năng suất lao động thấp, dân trí thấp vv... Cịn về chủ quan, do quá nhiệt
21
tình, cộng với sự thiếu hiểu biết nhận thức khơng đúng nhiều luận điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin, nên đã tuyệt đối hố tính hơn hẳn của sở hữu XHCN.
Một thời gian dài chúng ta đã định kiến với sở hữu cá nhân của người lao
động, thậm chí coi nó là hình thức đối lập với XHCN, là mầm mống khơi
phục chế độ bóc lột. Thật ra, sở hữu cá nhân không biến thành tư bản, không
biến thành công cụ để bóc lột người lao động. Sở hữu cá nhân chủ yếu đối với
các vật phẩm tiêu dùng, nhằm thỏa mãn các nhu cầu của người lao động phụ
thuộc vào trình độ của sở hữu xã hội. Trong "tuyên ngơn Đảng cộng sản" đã
chỉ ra "Chúng tơi cần gì phải xoá bỏ sở hữu ấy, sự tiến bộ của cơng nghiệp
đã xố bỏ và hàng ngày vẫn tiếp tục xố bỏ cái đó rồi".
Do nhấn mạnh đề cao, tuyệt đối hố vai trị và tính ưu việt của kinh tế
quốc doanh và kinh tế tập thể (HTX) nên đến một thực tế: Năng suất lao động
thấp kém, hàng hoá khan hiếm thiếu lương thực, khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Trước tình hình đó Đảng ta đã nhìn nhận lại, nhận thức lại và thừa nhận
sai lầm khuyết điểm do chủ quan nóng vội muốn có ngay CNXH và vận dụng
quy luật kinh tế sai (đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất - lực lượng sản
xuất). Từ đây, đường lối đổi mới toàn diện của Đảng cộng sản Việt Nam được
tập trung trong văn kiện Đại hội VI (1986) và tiếp tục sau này được các Đại
hội VII, VIII khẳng định là: Chúng ta xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng XHCN.
2. Cơ cấu sở hữu trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay:
Chúng ta tiến hành cơng cuộc đổi mới, tiến hành hồn thiện quan hệ sản
xuất XHCN, trước hết là điều chỉnh các hình thức sở hữu vốn có, là kết hợp
một cách tối ưu các lợi ích: Lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể với lợi ích của nhà
nước. Sự đa dạng hố các hình thức sở hữu việc phát triển nền kinh tế hàng
hố nhiều thành phần khơng phải là"thụt lùi" không làm "Mất CNXH" như
một số người lầm tưởng mà chính là một chủ trương lớn để khai thác, phát
22
huy mọi tiềm năng của toàn xã hội cũng như tranh thủ các nước và các tổ
chức quốc tế. Cơ sở lý luận của việc xác lập tính đa dạng các hình thức sở
hữu thể hiện ở luận điểm của C.Mác và Ănghen cho rằng các hình thức sở
hữu đựơc xác lập bởi trình độ xã hội hố sản xuất. Vì vậy, chủ trương phát
triển nền kinh tế hàng hố nhiều thành phần, đa dạng hoá sở hữu là một thành
tựu lớn cả về lý luận và thực tiễn của công cuộc đổi mới.
Với những thành tựu đáng mừng về kinh tế - xã hội của đất nước ta sau
hơn 10 năm đổi mới đã chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là hoàn toàn
đúng đắn, hợp lý. Thực tế cũng cho thấy một nền kinh tế nhiều thành phần
đương nhiên phải bao gồm nhiều hình thức sở hữu để phù hợp với tính chất
đặc điểm của từng thành phần kinh tế và phù hợp cũng như khai thác, thúc
đẩy được các yếu tố của lực lượng sản xuất ở các trình độ khác nhau phát
triển. Khi thực hiện chính sách đổi mới của Đảng, Nhà nứơc ta đã ban hành
nhiều văn bản pháp luật thể chế hoá về sở hữu phản ánh trình độ xã hội hố
của lực lượng sản xuất nước ta cịn thấp khơng đồng đều. Vì thế ứng vói nó là
các hình thức sở hữu đa dạng. Bởi vì: phát triển nền kinh tế - xã hội, nâng cao
đời sống nhân dân, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh
là mục đích cuối cùng của chế độ xã hội ta. Trong phạm vi hẹp có thể coi sở
hữu là một trong những phương tiện để đạt mục tiêu này và bước đầu thực
hiện CNH, HĐH đất nước (văn kiện hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khố VII
1/1994) vai trị của mỗi hình thức sở hữu trong một chế độ sở hữu có ý nghĩa
và tác dụng khác nhau trong nền kinh tế quốc dân. Điều 15, hiến pháp 1992,
quy định"cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu ta
nhân trong đó sở hữu tồn dân và sở hữu tập thể là nền tảng". Ta lần lượt xem
xét xu hướng vận động và biến đổi của các hình thức sở hữu, ở nước ta hiện
nay.
23
a. Sở hữu toàn dân: ở nứơc ta hiện nay, hiến pháp 1992 và luật đất đai đã
quy định rõ:"Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng
đất, nguồn lợi ở vùng biên, thềm lục địa và vùng trời... Các tài sản khác mà
pháp luật quy định là của nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân". Xét về mặt
kinh tế, đất đai là phương tiện tồn tại cơ bản của một cộng đồng người. Xét về
mặt xã hội, đất đai là lãnh thổ. Nhưng xét cả hai phương diện, có thể nói đất
đai khơng thể là đối tượng sở hữu của riêng ai.
Việc đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước là người đại diện sở
hữu và quản lý không hề mâu thuẫn với việc trao quyền cho các hộ nông dân,
kể cả các quyền được chuyển nhượng, quyền sử dụng đất đai lâu dài ổn định.
Việc tách hết quyền sở hữu và quyền sử dụng đất đai này nếu biết giải quyết
sẽ đem lại sức bật cho lực lượng sản xuất phát triển.
Văn kiện đại hội III của Đảng ta đã chỉ rõ:"Trên cơ sở chế độ sở hữu
toàn dân về đất đai, ruộng đất thu được giao cho nông dân sử dụng lâu dài.
Nhà nước qui định bằng pháp luật, các vấn đề thừa kế, chuyển quyền sử dụng
đất...". Như vậy, sở hữu toàn dân ở nước ta hiện nay đã được xác định theo
nội dung mới, có nhiều khả năng để trở thành nguồn lực phát triển kinh tế - xã
hội.
b. Về sở hữu nhà nước: Trong thời kỳ bao cấp trước đây chúng ta đã
đồng nhất sở hữu nhà nước với sở hữu toàn dân. Do nhầm lẫn như vậy, có
thời gian dài người ta bỏ qn hình thức sở hữu nhà nước, chỉ quan tâm đặc
biệt tới hình thức sở hữu tồn dân với chế độ cơng hữu tồn tại dưới hai hình
thức sở hữu tồn dân và tập thể. Và cũng bởi vì sở hữu tồn dân gắn kết với
sự phát triển của kinh tế quốc doanh. Vì vậy mà chúng ta đã ra sức quốc
doanh hoá nền kinh tế với niềm tin cho rằng có như vậy mới có CNXH nhiều
hơn.
Trong một xã hội mà nhà nước cịn tồn tại thì sở hữu tồn dân chưa
có điều kiện vận động trên bề mặt của đời sống kinh tế nói chung. Hình thức
24
sở hữu nhà nước, xét về tổng thể mới chỉ là kết cấu bên ngoài của sở hữu nhà
nước ở nước ta, có lẽ thể hiện chủ yếu ở khu vực kinh tế quốc doanh, khu vực
của doanh nghiệp nhà nước.
c. Sở hữu hợp tác: ở nước ta trước đây, hình thức này chủ yếu tồn tại
dưới hình thức HTX, với nội dung là cả giá trị và giá trị sử dụng của đối
tượng sở hữu đều là của chung mà các xã viên là chủ sở hữu. Chính vì vậy mà
với hình thức này quyền mua bán hoặc chuyển nhượng TLSX diễn ra rất phức
tạp. Quyền của các tập thể sản xuất thường hạn chế, song lại có tình trạng lạm
quyền. Sự không xác định, sự "nhập nhằng" với quyền sở hữu nhà nước và
với sở hữu tư nhân trá hình cũng phổ biến. Để hoạt động ra khỏi tình trạng đó,
trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay thì phải định rõ quyền mua bán
chuyển nhượng tư liệu sản xuất đối với các tập thể sản xuất - kinh doanh. Chỉ
như vậy, sở hữu tập thể mới trở thành hình thức sở hữu có hiệu quả.
Hình thức sở hữu hợp tác là một hình thức tiến bộ trong thời kỳ quá độ
lên CNXH. Vì vậy, cần phải duy trì và phát triển hơn nữa hình thức này khi
xây dựng CNXH, như Lênin nói "chế độ của những xã viên HTX văn minh là
chế độ XHCN".
Hợp tác xã là nhu cầu thiết thân của kinh tế hộ gia đình, của nền sản xuất
hàng hố. Khi lực lượng sản xuất trong nông nghiệp và nông thôn, công
nghiệp nhỏ phát triển tới một trình tự nhất định nó sẽ thúc đẩy quá trình hợp
tác. Nhu cầu về vốn, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm... đòi hỏi các hộ sản
xuất phải hợp tác với nhau mới có khả năng cạnh tranh và phát triển. Chính
điều đó đã làm liên kết những người lao động lại với nhau và làm nảy sinh
quan hệ sở hữu tập thể.Thực tiễn cho thấy đã có những hình thức HTX kiểu
mới rađời do nhu cầu tồn tại và phát triển trong thị trường. Điều này cho thấy
kết cấu bên trong của tập thể đã thay đổi phù hợp với nước ta hiện nay.
d, Sở hữu cá thể: ở nước ta hình thức này tồn tại chủ yếu dưới hình
thức kinh tế cá thể, tiểu chủ. trước đây kinh tế cá thể, tiểu chủ ở nước ta có
25