Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI HIỆN SINH CỦA ALBERT CAMUS TRONG TÁC PHẨM NGƯỜI XA LẠ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (670.79 KB, 64 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA TRIẾT HỌC

--------

--------

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI HIỆN SINH CỦA
ALBERT CAMUS TRONG TÁC PHẨM “NGƯỜI XA LẠ”

Giảng viên hướng dẫn
Sinh viên thực hiện
MSSV
Lớp

:
:
:
:

TS. Trần Thị Ngọc Anh
Nguyễn Ngọc Ly
675907017
K67A – Khoa Triết học

Hà Nội – 2020


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1


1. Lý do chọn đề tài.............................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu..........................................................................................2
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu...............................................6
5. Phương pháp nghiên cứu................................................................................7
6. Đóng góp mới của đề tài..................................................................................7
7. Kết cấu đề tài...................................................................................................7
NỘI DUNG...........................................................................................................8
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN.........................................................8
1.1. Khái quát về chủ nghĩa hiện sinh.............................................................8
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội........................................................................8
1.1.2. Tiền đề lý luận........................................................................................11
1.1.3. Những nội dung cơ bản.........................................................................18
1.2. Albert Camus – cuộc đời và sự nghiệp...................................................19
1.2.1. Tác giả Albert Camus............................................................................19
1.2.2. Những tác phẩm tiêu biểu của Albert Camus......................................22
1.3. Tác phẩm “Người xa lạ”..........................................................................27
1.3.1. Hoàn cảnh ra đời...................................................................................27
1.3.2. Nội dung cơ bản.....................................................................................27
Tiểu kết chương 1..............................................................................................31
Chương 2. NHỮNG BIỂU HIỆN CƠ BẢN CỦA CON NGƯỜI HIỆN SINH
TRONG “NGƯỜI XA LẠ”..............................................................................32
2.1. Thân phận của con người trong xã hội.....................................................32
2.1.1. Thái độ thờ ơ của Meursault – biểu hiện tột cùng của sự cô đơn.........32
2.1.2. Sự khủng hoảng thân phận con người trong một xã hội phi lý.............38
2.2. Sự phản kháng lại thế giới phi lý..............................................................43
2.3. Những giá trị và hạn chế tư tưởng hiện sinh về con người của Albert
Camus trong tác phẩm “Người xa lạ”.............................................................48
2.3.1. Giá trị trong tư tưởng hiện sinh về con người của Albert Camus.........48



2.3.2. Hạn chế trong tư tưởng hiện sinh về con người của Albert Camus......52
Tiểu kết chương 2..............................................................................................53
KẾT LUẬN........................................................................................................55
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................57


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhìn lại thế kỉ 20, chúng ta đều có thể khẳng định rằng đó là thế kỉ của sự
bùng nổ tri thức với sự phát triển vượt bậc của khoa học – kỹ thuật. Sức sản xuất
ở thế kỉ này được đánh giá còn cao hơn cả các thế kỉ trước cộng lại. Không chỉ ở
lĩnh vực kinh tế, xã hội đương thời cũng xuất hiện những biến động vô cùng dữ
dội: cuộc khủng hoảng trầm trọng của Chủ nghĩa đế quốc gây nên hai cuộc
chiến tranh thế giới khốc liệt, để lại những hậu quả nặng nề. Chiến tranh đi qua
không chỉ tàn phá của cải vật chất mà còn để lại những hệ quả to lớn trong đời
sống tinh thần. Con người sau chiến tranh bị rơi vào tình trạng khủng hoảng tinh
thần nghiêm trọng. Đây được coi là nguyên nhân trực tiếp nhất dẫn đến sự xuất
hiện của hàng loạt phong trào phản kháng trên bình diện văn hóa tư tưởng.
Trước bối cảnh đó, triết học hiện sinh đã ra đời và trở thành một trong những
trào lưu có ảnh hưởng mạnh mẽ trên khắp thế giới. Không giống như những trào
lưu khác, triết học hiện sinh khơng cịn theo đuổi việc tìm ra nguyên nhân cao
nhất, tìm ra bản nguyên của vạn vật nữa mà chỉ tập trung vào thân phận của con
người, tìm hiểu ý nghĩa của cuộc sống và cái chết.
Ra đời trong bối cảnh xã hội nảy sinh mâu thuẫn mới – mâu thuẫn giữa
trình độ phát triển của văn minh vật chất và những giá trị đạo đức của con
người, triết học hiện sinh đã miêu tả đúng tâm trạng bất lực, cô đơn trước bộ
máy kĩ thuật khổng lồ của con người lúc bấy giờ. Chính vì thế, nhiều nhà triết
học đã nhiệt tình ủng hộ chủ nghĩa hiện sinh, như M. Heidegger, J. Sartre,
Marcel, K. Jaspers... Như tác giả Trần Thái Đỉnh có viết trong tác phẩm của
mình “Trong dịng chảy của lịch sử triết học, từ xưa đến nay, triết học hiện sinh

là trường hợp duy nhất người ta thấy triết học đã xuống đường – triết học đã
xâm nhập vào văn học quần chúng, vào đời sống của giới trẻ. Sự ảnh hưởng
rộng lớn và sâu sắc của chủ nghĩa hiện sinh không chỉ bao trùm trong một số các

1


nước phương Tây và thời đại nó ra đời mà cịn lan tỏa khắp hành tinh cho đến
ngày hơm nay”. [11, tr1]
Albert Camus là một nhà văn, nhà triết học, viết kịch, nhà lý luận hàng đầu
của Pháp ở thế kỉ 20. Ông cùng với Jean-Paul Sartre được coi là hai nhà hiện
sinh tiểu biểu nhất tại Pháp. Năm 1942, Albert Camus cho ra đời cuốn tiểu
thuyết Người xa lạ (L’Étranger). Đây là một trong số các tác phẩm đầu tay của
ông, cũng như những quan điểm cơ bản của ông về cái phi lý. Chính cuốn tiểu
thuyết này đã đưa Albert Camus vào hàng ngũ những nhà văn, nhà triết học xuất
sắc của Pháp thế kỉ 20 và góp phần làm cho chủ nghĩa hiện sinh nhanh chóng trở
nên nổi tiếng trên tồn thế giới.
Vì vậy, với đề tài “Quan niệm về con người hiện sinh của Albert Camus
trong tác phẩm Người xa lạ”, người viết muốn làm rõ những tư tưởng triết học
hiện sinh về con người của Albert Camus trong cuốn tiểu thuyết này, từ đó đưa
ra một số đánh giá về mặt tích cực và hạn chế của những tư tưởng đó.
2. Lịch sử nghiên cứu
- Nghiên cứu về chủ nghĩa hiện sinh:
Chủ nghĩa hiện sinh là một trào lưu triết học kể từ khi ra đời đã được mọi
người đón nhận nồng nhiệt. Nó khơng chỉ có ảnh hưởng rộng lớn và sâu sắc đến
các nước phương Tây mà bao trùm lên toàn thế giới. Chính vì vậy, đã có rất
nhiều các cơng trình nghiên cứu về trào lưu triết học này. Có thể kể đến một số
cơng trình như:
“Thuyết hiện sinh là một thuyết nhân bản” là một bản tốc kí, được soạn lại
bởi J. Sartre. Theo yêu cầu của Câu lạc bộ Maintenant (được lập trong thời kì

Giải phóng bởi Jacques Calmy và Marc Beigbeder), buổi diễn thuyết được tổ
chức tại Paris vào ngày 29 tháng 10 năm 1945 với mục đích “thúc đẩy hoạt động
văn học và trí tuệ”; bản tốc kí này được ấn hành sau đó một năm.
2


“Từ chủ nghĩa hiện sinh tới thuyết cấu trúc” là tổng hợp những bài viết và
những bản dịch của tác giả, được in trên các tập san Văn và Tân văn trong
những năm từ 1965 đến 1970 tại Sài Gòn. Khi đánh giá về cuốn sách, người ta
cho rằng đây khơng phải là những triết lý khơ khan, khó hiểu mà đó là một cuốn
sách người đọc có thể dễ dàng tiếp cận, đơi khi cịn có chút hóm hỉnh. Tác giả
không chỉ đưa ra những định nghĩa ngắn gọn và dễ hiểu về chủ nghĩa hiện sinh
hay thuyết cấu trúc mà còn giới thiệu với người đọc cả cái khơng khí sinh hoạt
văn học của Pháp những năm 50 của thế kỉ 20.
Cuốn sách “Triết học hiện sinh” là tập hợp từ những bài viết của Giáo sư
Trần Thái Đỉnh đã được đăng trên tạp chí Bách Khoa trong khoảng thời gian từ
tháng 10 năm 1961 đến tháng 9 năm 1962. “Triết học hiện sinh” mở ra cho
chúng ta một trong những nền tư tưởng chủ yếu của thế kỷ XX, hướng đến sự
tìm hiểu con người.
Ngồi ra, cịn một số cơng trình như “Chủ nghĩa hiện sinh – Dẫn luận
ngắn” của Thomas Flynn (Đinh Hồng Phúc dịch), “Tồn tại và Hư vô” của nhà
triết học J. Sartre, “Giáo trình triết học phương Tây hiện đại” do tác giả Nguyễn
Vũ Hảo chủ biên...
- Nghiên cứu về nhà văn Albert Camus và những tư tưởng triết học hiện
sinh của ông:
Albert Camus là một nhà văn có sức ảnh hưởng to lớn trong những năm 50
của thế kỷ 20, sáng tạo văn học và triết học của Camus đã được nghiên cứu
rộng rãi. Quan niệm về triết học hiện sinh của ông đã được nghiên cứu rất nhiều
trên khắp thế giới, nhưng do hạn chế về ngoại ngữ, tác giả chỉ khảo cứu một số
tác phẩm tiêu biểu được dịch sang tiếng Việt. Ở đây, tác giả xin trình bày khái

quát những tư liệu sau:
Trước hết, ngay sau khi tiểu thuyết “Người xa lạ” và tập tiểu luận “Huyền
thoại Sisyphe” được công bố (tháng 6 - 1942), Jean - Paul Sartre đã viết “Cắt
3


nghĩa Người xa lạ” đăng trên tạp chí Cahier du Sud tháng 3 - 1943. Bài viết
có những nhận xét tinh tế và sâu sắc, cho đến nay vẫn được đánh giá là bài viết
hay nhất về “Người xa lạ”, và có thể xem ý kiến của Sartre như một sự gợi dẫn
khi tìm hiểu tác phẩm này. Qua bài viết của Sartre, chúng ta biết “Người xa lạ”
được dư luận đương thời đánh giá là “cuốn sách hay nhất kể từ thời đình
chiến”.
Alain Robbe - Grillet, thủ lĩnh nhóm Tiểu thuyết Mới những năm 60
của thế kỉ XX ở Pháp, đánh giá rất cao cuốn “Người xa lạ”. Ông coi đó là “một
tác phẩm lớn”, bởi vì trong cuốn sách đó Camus đã tạo nên một thế giới mà ơng
đặt hồn tồn niềm tin vào đó. Bàn về cái phi lý trong các sáng tác của Albert
Camus, Robbe - Grillet khẳng định sự phi lý là “vực thẳm không thể vượt qua
được”; nó tồn tại như là cái trung gian, ở giữa con người và thế giới, giữa những
khát vọng cao đẹp trong tâm hồm của con người và sự lạnh lùng, tàn nhẫn của
thế giới khi không thỏa mãn được những khát vọng ấy. Cái phi lý hoàn tồn
khơng ở trong con người hay trong các sự vật mà nó được thể hiện ở sự xa lạ
giữa con người với thế giới.
Bùi Giáng đã dịch rất nhiều các tác phẩm của Camus như Ngộ nhận,
Mùa hè sa mạc, Con người nổi loạn, các truyện ngắn in trong tập Sương Tỳ
Hải, các nhận định về Camus của ông chủ yếu nằm trong tập khảo luận và
phê bình Martin Heidegger và tư tưởng hiện đại.
Bên cạnh đó, có thể kể đến một số cơng trình nghiên cứu như bài viết
Albert Camus với nền văn chương triết học (1963) của tác giả Bùi Ngọc Dung,
tác giả Nguyễn Nam Châu trong Tập sứ mệnh văn nghệ với bài viết “Albert
Camus, con người công phẫn”...

-

Nghiên cứu về tác phẩm “Người xa lạ”:

4


Là một trong những tác phẩm đầu tay của nhà triết học hiện sinh nổi tiếng
người Pháp, Người xa lạ đã được nhiều tác giả đã dịch và chọn làm đề tài, làm
đối tượng nghiên cứu trong các cơng trình, có thể kể đến một số như:
“Người xa lạ”1 được dịch bởi tác giả Thanh Thư, từ nguyên bản tiếng
Pháp “L’Étranger”2 của A. Camus, có sự tham khảo từ bản dịch tiếng Anh “The
stranger”3 của Stuart Gilbert. Phần đầu của bản dịch là diễn giải của J.P.Sartre
dành cho tiểu thuyết “Người xa lạ”. Phần cuối có thêm phần Phụ lục là Diễn từ
nhận Giải thưởng Nobel Văn học của Albert Camus, được ông đọc tại
Stockholm.
Đề tài “Cảm thức người xa lạ trong tiểu thuyết Kẻ xa lạ của Albert Camus
và Thất lạc cõi người của Dazai Osamu” của thạc sĩ văn học Nguyễn Thị Thu
Hương. Từ việc đặt Camus và Osamu bên cạnh nhau dưới góc nhìn so sánh văn
học, không chỉ giúp nhận chân sâu sắc hơn tầm tư tưởng, giá trị nhân văn của
hai tác gia này trong việc thể hiện cảm thức người xa lạ, mà qua đây, tác giả cịn
muốn đẩy điểm nhìn này đi xa hơn trong mối quan hệ với văn hóa – một yếu tố
bản lề trong việc “quy định” và hình thành những nét độc đáo, khác lạ của riêng
từng nhà văn – hai con người đại diện cho hai nền văn hóa Đơng – Tây. Từ đó
mong muốn lí giải căn nguyên hình thành cảm thức người xa lạ của hai tác giả
này dưới góc độ văn hóa - tâm lý xã hội.
Như vậy, từ tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy, tư
tưởng về con người hiện sinh của Albert Camus là một hướng
nghiên cứu được nhiều nhà khoa học lựa chọn. Những cơng
trình nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước đã để lại những

kết quả có giá trị to lớn. Tuy nhiên, việc đi sâu nghiên cứu quan
niệm về con người hiện sinh của Albert Camus vẫn chưa thực sự
thấu đáo. Do đó cần tiếp tục nghiên cứu và khám phá những tư
1 NXB Hội Nhà văn, 6/2017
2 Gallimard, Paris, 1942
3 Vintage Books, New York, 1946

5


tưởng đó để thấy được ý nghĩa tư tưởng lớn lao mà tác giả muốn
gửi gắm. Đồng thời đánh giá lại những giá trị và hạn chế của nó
trong điều kiện hiện nay.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ quan niệm về con người hiện sinh của Albert Camus trong tác
phẩm “Người xa lạ”, từ đó đưa ra một đánh giá mặt tích cực và hạn chế của
những tư tưởng đó.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài cần phải thực hiện các
nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, trình bày khái quát về chủ nghĩa hiện sinh, tác giả Albert Camus
và tác phẩm “Người xa lạ”.
Thứ hai, làm rõ nội dung quan niệm về con người hiện sinh của Albert
Camus trong tác phẩm “Người xa lạ” cùng những giá trị và hạn chế của nó.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Tư tưởng triết học hiện sinh của Albert Camus
4.2. Đối tượng nghiên cứu

Quan niệm về con người hiện sinh của Albert Camus trong tác phẩm
“Người xa lạ”

6


4.3. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu khía cạnh triết học của tư tưởng về con người trong tác phẩm
“Người xa lạ” của Albert Camus (do Thanh Thư dịch)
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận về chủ nghĩa hiện sinh dưới góc
nhìn của phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng,
bên cạnh đó là những phương pháp cụ thể sau:
- Phương pháp logic – lịch sử
- Phương pháp phân tích và tổng hợp
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp chuyên gia …
6. Đóng góp mới của đề tài
Về lý luận, đề tài góp phần tìm hiểu về quan niệm con người hiện sinh của
Albert Camus trong tác phẩm “Người xa lạ”, từ đó đưa ra một số đánh giá mặt
tích cực và hạn chế của những tư tưởng ấy.
Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho việc nghiên cứu, học tập về triết học hiện sinh của sinh viên…
7. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề
tài được chia làm 2 chương 7 tiết.

7



NỘI DUNG
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1.

Khái quát về chủ nghĩa hiện sinh

1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội
Chủ nghĩa hiện sinh là một trào lưu văn hóa – triết học, đặc trưng cho bối
cảnh tinh thần của xã hội phương Tây trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản rơi vào
khủng hoảng. Chiếm ưu thế trong chủ nghĩa hiện sinh là khuynh hướng phi duy
lý, thể hiện rõ tâm trạng lo âu, bi quan và nổi loạn của con người trước một nền
văn minh tư sản thế kỷ XX.
Với tư cách là một trong các học thuyết triết học tư sản hiện đại nổi trội
nhất trong những năm đầu của thế kỷ XX, triết học hiện sinh xuất hiện đầu tiên
ở Đức ngay khi cuộc Chiến tranh Thế giới thứ I vừa kết thúc và nổi lên như một
làn sóng mới ở Pháp sau cuộc Chiến tranh Thế giới thứ II, phản ánh một cách
chân thực hiện thực xã hội Châu Âu thời kỳ đó. Hai cuộc đại chiến thế giới kết
thúc đã để lại cho toàn nhân loại những hậu quả vô cùng nặng nề. Ngay chính
những nước thắng trận cũng phải gánh chịu rất nhiều thiệt hại. Bức tranh toàn
cảnh xã hội Châu Âu lúc bấy giờ mang một màu ảm đạm, tiêu điều; con người
bị đẩy vào trạng thái chán nản, mất hoàn toàn niềm tin vào cuộc sống. Họ cảm
thấy hoài nghi tất cả, thấy chỉ cịn trơ trọi bản thân mình, cơ độc và xa lạ với mọi
thứ, khơng gì có thể đảm bảo cho cuộc sống của họ. Chính vì thế mà họ đến với
chủ nghĩa hiện sinh để tìm được một chỗ dựa tinh thần, một niềm an ủi ở trong
đó.
Cũng bởi bối cảnh hình thành và phát triển như vậy mà đã có rất nhiều ý
kiến cho rằng, sự tàn khốc của chiến tranh chính là nguồn gốc của chủ nghĩa
hiện sinh, do đó mà bản chất của chủ nghĩa hiện sinh là chủ nghĩa bi quan, thất

8



bại. Nhưng thực tế không phải vậy, cho đến ngày nay – khi chiến tranh đã lùi
vào dĩ vãng, chủ nghĩa hiện sinh vẫn là một trong những học thuyết triết học
phát triển, được nhiều người đón nhận. Về bản chất, chiến tranh chỉ là một điều
kiện cho sự hình thành chủ nghĩa hiện sinh. Còn nguồn gốc sâu xa của chủ nghĩa
hiện sinh cũng như của các trào lưu khác trong chủ nghĩa phi duy lý hiện đại là
do chủ nghĩa duy lý đã gây ra sự khủng hoảng đời sống tinh thần của con người
trong xã hội phương Tây.
Chủ nghĩa duy lý ở phương Tây xuất hiện cùng với sự ra đời của chủ nghĩa
công nghiệp ở thế kỷ XVII. Nền sản xuất xã hội chịu tác động mạnh mẽ của
cuộc cách mạng cơng nghiệp, sau đó là cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật và
công nghệ. Ngành cơng nghiệp cơ khí ra đời và phát triển khiến cho quy mô sản
xuất ngày càng được mở rộng, từ đó mà năng suất lao động cũng khơng ngừng
được cải thiện. Con người lúc bấy giờ khơng khỏi chống ngợp trước những
thành tựu vĩ đại mà chủ nghĩa duy lý đem lại và họ cho rằng nhận thức duy lý là
nhận thức duy nhất, khơng gì có thể thay thế được. Cũng nhờ có nhận thức lý
tính mà con người có thể khái quát nên hệ thống tri thức khoa học trong quá
trình khám phá và cải tạo thế giới, làm cho xã hội ngày một văn minh, tiến bộ
hơn.
Có thể nói, chủ nghĩa duy lý đã đưa xã hội phương Tây đạt tới giai đoạn
đỉnh cao trong sự phát triển, nhưng cũng chính tại đỉnh điểm ấy, nó lại vơ tình sa
vào khủng hoảng. Chủ nghĩa duy lý khiến xã hội châu Âu trở nên sùng bái kỹ
thuật, máy móc, rơ bốt hóa... Nó dẫn tới việc xuất hiện những xu hướng duy lý
khác nhau trong các lĩnh vực như kinh tế, chính trị... Trong đó, đặc biệt phải kể
đến chủ nghĩa “kỹ trị” – trọng kỹ thuật, máy móc, hạ thấp vai trị của con người,
kìm hãm con người trong xã hội khơng có nổi một lối thoát. Các nhà triết học
duy lý như Oswald Spengler, F. Nietzsche đã nói rằng chính chủ nghĩa duy lý kỹ
thuật là sự suy đồi của phương Tây. Nhà triết học vĩ đại Các Mác cũng đã viết về
hậu quả mà xã hội kỹ trị để lại: “Trong thời đại chúng ta, mọi sự vật đều tựa hồ

9


như bao hàm mặt đối lập của nó. Chúng ta thấy rằng, máy móc có một sức mạnh
kỳ diệu trong việc giảm bớt sức lao động của con người và làm cho lao động của
con người có kết quả hơn, thì đem lại nạn đói và tình trạng kiệt quệ đến cho con
người. Những nguồn của cải mới từ xưa đến nay chưa ai biết, dường như do một
sức mạnh thần kì nào đó lại đang biến thành nguồn gốc của sự nghèo khổ.
Những thắng lợi của kỹ thuật dường như đã mua bằng cái giá của sự suy đồi về
mặt tinh thần”. [30, tr10]
Hậu quả nghiêm trọng nhất mà chủ nghĩa duy lý để lại là nó đã tước mất đi
mặt tinh thần của con người, coi con người chỉ là “những lực lượng vật chất đơn
thuần” [28, tr10]. Trong xã hội hiện đại với bộ máy kỹ thuật khổng lồ, con người
trở nên bần cùng hóa, kiệt quệ và suy sụp. Thân phận con người bị xem nhẹ thì
tất cả những thành tựu kỹ thuật mà lồi người tạo ra cũng được xem là “giá trị
suy đồi của đạo đức”. Điều này khiến nhà triết học E. Formn đưa ra nhận định
rằng nếu Nietzche tuyên bố vấn đề của thế kỷ XIX là “Chúa đã chết” thì vấn đề
của thế kỷ XX là “con người đã chết”. Con người lúc bấy giờ, họ tìm thấy bất kỳ
thứ gì có thể đảm bảo cho nhân vị của mình, họ mơ hồ trước một xã hội đầy bất
công, họ cảm thấy mình chỉ là một kẻ vơ danh, rẻ mạt. Do đó, thứ cịn lại duy
nhất chỉ là sự ích kỷ, vụ lợi, khơng có gì vượt ra khỏi được cá nhân mỗi người.
Chủ nghĩa hiện sinh ra đời trước bối cảnh đó, chính là sự phản ứng lại đối
với chủ nghĩa duy lý đang thống trị trong xã hội phương Tây. Các nhà triết học
hiện sinh không công nhận sự tiến bộ và vai trò của khoa học kỹ thuật, coi khoa
học kỹ thuật như một lực lượng có thể thống trị con người. Sự phản ứng lại ấy
không chỉ diễn ra ở mặt tinh thần mà còn được hiện thực hóa thành các phong
trào xã hội. Nó vừa là lý thuyết thuần túy vừa trở thành một lối sống, phong
cách sống của một cộng đồng người không nhỏ trong xã hội. Nói về sự ra đời
của chủ nghĩa hiện sinh, nhà triết học E. Mounier đã nhận xét: “Tưởng là không
nên quên những điều kiện lịch sử đã tạo nên triết thuyết này. Chủ nghĩa hiện

sinh được coi như một phản ứng chống lại một thế giới trong đó chủ nghĩa duy
10


vật khoa học đã bành trướng tới độ muốn chối bỏ thực tại chủ quan nội tại trong
tâm hồn con người. Bước đầu tiên của chủ nghĩa hiện sinh khi đi vào trong thế
giới như quay cuồng trong tốc độ máy móc, là kéo con người ra khỏi sự mù
quáng về quảng cáo, rứt con người khỏi cái cảnh cứ bám riết lấy sự vật ngoại
giới cũng như cách xã giao hời hợt bên ngoài để đi sâu vào một cuộc kiếm tìm
một cuộc sống có tính người hơn”. [24, tr141]
1.1.2. Tiền đề lý luận
Kể từ xưa đến nay, sự ra đời của các học thuyết cũng như học thuyết triết
học đều dựa trên sự kế thừa, chịu ảnh hưởng của các tư tưởng trước đó. Đồng
thời, mỗi học thuyết triết học đều phản ánh các mối quan hệ xã hội tồn tại trong
giai đoạn mà nó được hình thành. Chủ nghĩa hiện sinh cũng khơng ngoại lệ, nó
ra đời trong bối cảnh khủng hoảng tinh thần nghiêm trọng ở xã hội phương Tây
và là sản phẩm của những điều kiện kinh tế - xã hội lúc bấy giờ. Và đương
nhiên, chủ nghĩa hiện sinh cũng không phải chỉ do duy nhất một nhà lý luận nào
đó đề ra mà nó được hình thành, phát triển và hồn thiện bởi sự sáng tạo, đóng
góp của nhiều người, nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Do đó, để có thể hiểu được chủ
nghĩa hiện sinh, chúng ta phải bắt đầu từ nguồn gốc tư tưởng của nó, mà cụ thể ở
đây, tác giả đưa ra hai bậc tiền bối đặt lên nền móng của chủ nghĩa hiện sinh là
Soren Kierkegaard và Edmund Huserl.
Soren Kierkegaard sinh năm 1813 và mất năm 1855. Ông là một triết gia,
một nhà thần học, nhà thơ, nhà phê bình xã hội, và là một tác gia người Đan
Mạch nửa sau thế kỷ XIX. Ông được coi là bậc tiền bối của triết học hiện sinh.
Kierkegaard đứng trên lập trường của chủ nghĩa phi duy lý, phê phán triết học
của A. Comte và Hegel. Các tác phẩm tiêu biểu của ơng là: Khơng thế này thì
thế kia (1843), Sợ hãi và run rẩy (1843), Khái niệm về hoảng sợ (1844), Các
giai đoạn trên con đường nhân sinh (1845)... Đã có một nhận xét rằng “Tác

phẩm của các nhà triết học hiện sinh là bản dịch cuộc đời họ”. Kierkegaard cũng

11


khơng ngoại lệ, trong mỗi tác phẩm của mình, ơng đều thể hiện rất rõ những đặc
điểm của cuộc đời, những nghịch lý mà ông gặp phải.
Kierkegaard là người đầu tiên đưa ra khái niệm hiện sinh với nghĩa giống
như tổng thể những biểu hiện của tính người (hay cịn gọi là nhân tính), là cuộc
sống đích thực của cá nhân mỗi con người. Theo ơng, khơng có một định nghĩa
chính xác nào dành cho hiện sinh, chúng ta chỉ có thể mơ tả nó. Con người bất
hạnh vì họ bị gạt ra khỏi chính bản thân họ, ngay lúc họ sống bằng việc hồi
tưởng về quá khứ hoặc hi vọng vào tương lai cũng là lúc họ đánh mất đi cuộc
sống thực sự của mình. Dấu hiệu đặc thù của hiện sinh là sự lo âu của cá nhân
mỗi con người bởi cái họa đánh mất bản thân mình ln ở trước mắt họ. Trong
nhiều tác phẩm của mình, Kierkegaard cũng nhấn mạnh lo âu như một cơ cấu
của hiện sinh. Nó phản ánh mối liên hệ khách quan của chúng ta với khả năng
và tương lai. Lo âu dẫn chúng ta đến tội lỗi nhưng nó cũng là hệ quả mà tội lỗi
để lại cho con người. Ông đã mơ tả lo âu như một hình thức nghịch lý của ước
vọng, hoặc là nghịch lý của sự sợ hãi. Người ta vừa muốn lẩn trốn lo âu nhưng
lại vừa cần nó, u nó bằng một tình u đích thực. Như vậy là khơng phải đến
Freud, mà trước đó, Kierkegaard đã phát hiện ra hố sâu của dục vọng trong trạng
thái lo âu. Và cũng chính bởi lo âu bao hàm yếu tố của dục vọng nên dù có làm
cho con người cảm thấy sợ hãi thì nó vẫn là điều mà mỗi chúng ta mong muốn
có được. “Lo âu là một ước vọng làm cho người ta thấy sợ hãi, một mối ác cảm
giao cảm, vì vậy người ta khơng thể rứt mình khỏi tự do được và cũng khơng
muốn làm vậy, vì sợ hãi, nhưng cái người ta sợ hãi cũng chính là cái người ta
mong muốn. Lo âu làm cho cá nhân bất lực”. [31, tr321]
Không dừng lại ở lo âu, Kierkegaard còn sử dụng các khái niệm như nội
tâm, cá nhân, cá tính, cảm xúc hay đam mê để mô tả hiện sinh người. Đối với

ông, mỗi khái niệm trên mang một ý nghĩa riêng biệt, chúng không thể bị đánh
đồng hay thay thế cho nhau.

12


Nội tâm được hiểu như một sự khác biệt với những cái bên ngoài của một
người như địa vị xã hội, danh tiếng, những hiện tượng tự nhiên mà ai cũng có
thể quan sát được. Nó là một cuộc sống hướng ngoại, có thể dùng để che đậy
hồn tồn sự tầm thường, đồi bại hay là một trái tim trống rỗng, vơ cảm.
Tính cá nhân được đặt trong sự đối lập với cuộc sống bị định hướng bởi
đám đông hay bởi một ai đó khác khơng phải bản thân mình. Kierkegaard nhấn
mạnh rằng đám đơng ln có những định hướng lầm lạc và rất tai ác. Cá nhân là
thứ duy nhất và độc đáo trong đám đông ấy. Trở thành cá nhân có nghĩa là nhìn
nhận mọi việc và hành động ở một trình độ độc lập xã hội cao, không trở thành
đối tượng chịu sự chi phối, định hướng của những kẻ cầm quyền và rồi bị nô
dịch một cách êm ái. Ơng cho rằng, nếu những gì biểu hiện ra bên ngồi đã là
đầy đủ rồi thì cuộc đời căn bản chỉ có bề mặt mà khơng có chiều sâu; khơng cịn
gì là cá nhân, là riêng tư nữa, mọi sự đều là công khai. Mỗi cá nhân là một vũ trụ
riêng, mà ở đó khơng có một bàn tay ngoại lai nào có thể thị vào được.
Cá tính chỉ sự đối lập với kiểu người tiêu biểu của thời đại lúc bấy giờ những người thiếu đam mê, sống hời hợt, chỉ có những say mê trong chốc lát và
lười biếng một cách không ngoan. Nếu như người thiếu cá tính mang lại sự
trống rỗng, bất định, sống chủ yếu dựa vào những mối quan hệ tạm thời đối với
người khác thì một cá nhân có cá tính sẽ đưa đến cái chân thực, vững chãi.
Biểu hiện của cá tính là cảm xúc. Mỗi cá nhân có cá tính sẽ có những cảm
xúc riêng biệt về cuộc đời, không phụ thuộc vào cảm nhận của đám đông hay
những người có tầm ảnh hưởng. Kierkegaard chia cảm xúc ra thành ba loại,
tương ứng với ba chặng đường mà cá nhân phải trải qua trong cuộc đời, đó là:
cảm xúc thẩm mĩ, cảm xúc đạo đức và cảm xúc tôn giáo. Theo cách chia của
ông, khi người ta lựa chọn cách nghĩ, các giải quyết một vấn đề nào đó cũng

chính là đang lựa chọn cảm xúc.

13


Còn đam mê được hiểu là hành vi trung thực của con người. Khi đã thoát
khỏi chủ nghĩa duy lý, con người không bị phụ thuộc vào những lý thuyết sáo
rỗng, thiếu tính thực tế, họ sẽ có quyền tự do lựa chọn. Lúc này, hành vi của con
người thực hiện sẽ được định hướng, điều khiển, sai khiến vì đam mê của bản
thân mình. Tồn bộ tác phẩm của Kierkegaard cũng tràn đầy những đam mê, tức
những trực giác khơng có chỗ dành cho lý trí.
Hiện sinh nhấn mạnh tính chất cụ thể và riêng biệt của một đời sống hiện
hữu trong thời gian và những đòi hỏi về tính cá nhân như là sự tương phản với
những nỗ lực để điều chỉnh cuộc sống của họ một cách trừu tượng, theo những
chuẩn mực phổ biến, quên lãng cái tôi độc đáo.
Kierkegaard phê phán triết học duy lý một cách gay gắt nên ông chối bỏ
quyết liệt triết học của Hegel. Mặc dù đã từng say mê nghe Schelling giảng về
triết học Hegel nhưng sau đó ơng nhận ra rằng hệ thống – từ mà ơng dùng để chỉ
tồn bộ triết học của Hegel, tuy là một thành tựu quan trọng nhưng nó lại khơng
mang tính thực tế, khơng liên quan đến cuộc sống thực sự của một cá nhân. Nó
chỉ là những lý thuyết sng, khơng đưa ra một hướng dẫn nào về điều mà cá
nhân phải làm để giải quyết những vấn đề họ phải đối mặt trong cuộc sống. Ơng
viết “cái mà tơi thực sự thiếu là khơng biết tơi phải làm gì, chứ khơng phải tơi
phải biết gì, trừ việc tơi cần một ít hiểu biết trước khi hành động. Điều cần là tôi
phải hiểu bản thân mình, xem Thiên Chúa thực sự muốn tơi làm gì” [1, tr520].
Theo Kierkegaard, mệnh đề “Tơi tư duy, vậy tôi tồn tại” (Cogito, ergo sum) của
Decartes là thái độ bất nhân đối với con người. Bởi ông cho rằng nhân tính, cuộc
sống hiện hữu của con người mới là cái có trước và quyết định chứ khơng phải
là tư duy. Tôi tư duy để sống chứ không phải sống để tư duy. Mệnh đề ấy đã làm
đảo lộn định hướng giá trị của xã hội phương Tây, lấy tính khoa học duy lý làm

thước đo của tồn tại người. Ông khẳng định tồn tại là khái niệm dành riêng cho
cá nhân con người. Tồn tại chỉ có nghĩa là một cá nhân cụ thể đang xem xét, lựa
chọn, đưa ra quyết định và dấn thân.
14


Khơng những vậy, Kierkegaard cịn phủ nhận chân lý khách quan – điều
mà theo chủ nghĩa duy lý thì sự đồng nhất về cấu trúc của thế giới khách quan
với thế giới nội tâm của con người sẽ đạt tới. Chân lý vốn không phải những tri
thức phù hợp và cần thiết đối với đối tượng trong hiện thực, cũng như nhiệm vụ
của triết học không phải là nhận thức các quy luật khách quan và cải tạo thế giới.
Triết học của Hegel cho rằng cuộc sống của mỗi người trở nên có ý nghĩa khi
đặt mình hướng tới cái phổ quát, làm cho những ước vọng của cá nhân phải phù
hợp với những quy chuẩn đạo đức, đó là thứ triết học chấp nhận đánh đổi tính cá
nhân của mình để nhận lại một ý nghĩa bị chi phối bởi những khn mẫu sẵn có.
Tư tưởng hiện sinh của Kierkegaard được các nhà triết học hiện sinh sau
này tiếp thu không những về tinh thần mà cả những khái niệm mơ tả hiện sinh
con người. Ơng là một tín đồ Cơ đốc giáo, chỉ có quay về với Thiên Chúa, sống
một mình với Thiên Chúa mới là sống đầy đủ ý nghĩa của một cá nhân độc đáo.
Kierkegaard là người khởi xướng chủ nghĩa hiện sinh và cũng là lá cờ đầu trong
chủ nghĩa hiện sinh tôn giáo.
Cùng với tư tưởng của Kierkegaard, hiện tượng học của Husserl cũng là
một tiền đề lý luận cho sự ra đời của chủ nghĩa hiện sinh. Có quan niệm cho
rằng: “hiện tượng học Đức + Kierkegaard = chủ nghĩa hiện sinh” [10, tr130]. Và
Husserl là người sáng lập ra hiện tượng học, là nhà tiền khởi của chủ nghĩa hiện
sinh, người đặt nền móng lý luận cho triết học hiện sinh.
Edmund Husserl sinh năm 1859 tại Prosznitz (Moravie – Áo) và mất năm
1938. Ban đầu, ơng chủ yếu nghiên cứu tốn học, nhưng sau đó Husserl nhận ra
rằng mình phải dựa vào một hệ thống triết học hồn chỉnh để tìm kiếm con
đường đi tới Thượng đế và cuộc sống đích thực. Từ đó, ơng khơng tiếp tục theo

đuổi số học thuần túy nữa mà ông chuyển hướng, muốn áp dụng những nguyên
lý của chủ nghĩa tâm lý vào nghiên cứu số học. Nhưng rồi hướng đi ấy vẫn chưa
đưa ông đến thành công, chưa giúp ông đạt được thứ mà ông muốn nên ông bắt

15


đầu phê phán chủ nghĩa tâm lý rồi đi đến việc đoạn tuyệt với nó và sáng tạo ra
hiện tượng học.
Hiện tượng học mà Husserl sáng tạo ra khám phá triết học trên cả hai
phương diện: đối tượng và phương pháp của triết học. Trước một thời đại mà
con người thay vì bị nơ dịch về vật chất lại rơi vào tình trạng bị lệ thuộc vào
thơng tin (nguồn gốc dẫn đến sự nơ dịch về tinh thần) thì hiện tượng học có
tham vọng trở thành một hệ thống đáp ứng được hai nhiệm vụ. Một là chống lại
triết học duy lý – phương tiện nô dịch tinh thần của con người. Hai là giải phóng
tinh thần, đem lại tự do trong nội tâm cho con người. Với tham vọng đáp ứng
được cả hai nguyện vọng trên, hiện tượng học đã tạo nên bước ngoặt lớn trong
lịch sử triết học về việc xác định đối tượng và phương pháp của triết học.
Husserl là người đề xướng “phương pháp hiện tượng học” hay “giản lược
hiện tượng học”. Đây là phương pháp mà nhiều nhà triết học đã sử dụng để chỉ
đạo cho việc trình bày các học thuyết của mình. Từ việc phê phán triết học
truyền thống, ông khẳng định cần phải giải phóng nhận thức con người ra khỏi
những “hệ tư tưởng” đã được làm sẵn và “đặt vào trong ngoặc” những triết học
trước đó. Husserl xác định mục đích của nhận thức là “trở về với chính những sự
vật”. Và để thực hiện được mục đích đó, nhà triết học người Đức đã đưa ra hai
thủ tục quan trọng, đó là quy giản bản chất và quy giản hiện tượng học. Ông cho
rằng trước khi xuất hiện ý thức của con người, thế giới chỉ là tiền thế giới, chưa
mang một bản chất nào cả; nhưng khi được con người dùng ý thức để nhận thức
thì nó trở thành thế giới mà ý thức đón nhận như hiện tượng, nghĩa là nó tự lộ ra.
Phương pháp quy giản của Husserl được hiểu một cách khái quát là: “Tôi tư duy

những cái mà tôi tư duy như những cái mà tôi đã tư duy như thế”. [38, tr166]
Husserl đã bắt đầu hiện tượng học của mình với ý tưởng cho rằng “mọi
hành vi ý thức của con người đều có một đối tượng để hướng tới” [44]. Ông đã
đưa ra lập luận như sau: “Khi chúng ta yêu mến một ai đó hoặc một cái gì đó, thì
rõ ràng là đã có một ai hoặc một cái gì đó mà chúng ta yêu; tương tự, khi chúng
16


ta cảm giác về một cái gì đó, thì rõ ràng là đã có một cái gì đó mà chúng ta cảm
giác; khi chúng ta nghĩ về một cái gì đó, thì đã có một cái gì đó mà chúng ta
nghĩ,...” [7, tr417]. Từ luận điểm đó, Husserl đặt ra câu hỏi: “Đối tượng mà ý
thức con người hướng tới thực chất là gì? Hành vi nhận thức đối tượng của con
người diễn ra như thế nào?” Chính vì thế, tính ý hướng đã trở thành vấn đề cốt
lõi, xuyên suốt trong hiện tượng học của ơng. Tính ý hướng là một đặc tính của
ý thức con người. Ý thức mang tính ý hướng vì nó biến tất cả những gì nó gặp
thành những bản thể với tư cách là hiện tượng đối với ý thức ý hướng. Do đó mà
thế giới khách quan lại giống như được bao hàm, được chứa đựng bên trong ý
thức. Do đó, ý nghĩa của thế giới được hiểu như là những gì mà con người đem
lại cho thế giới. Bằng phương pháp “quy giản bản chất”, Husserl đã bỏ qua sự
tồn tại của sự vật trong tự nhiên, chỉ nhận thức cái bản chất mà con người đã có
ý thức về nó. Ơng cho rằng, cái gì xuất hiện trong ý thức đều với tư cách là một
tổng thể, do vậy không thể quy giảm thành những nhân tố được mà chỉ có thể
miêu tả, chứ khơng thể phân tích nó.
Chính vì thế, phương pháp hiện tượng học là nhằm vào mô tả. Các nhà triết
học theo chủ nghĩa hiện sinh đã tiếp thu và cho rằng đây là phương pháp duy
nhất, đúng đắn và hợp lý để tìm hiểu đối tượng, đặc biệt là đối tượng hiện sinh.
Theo quan niệm của họ, hiện sinh chính là kinh nghiệm sống cụ thể của con
người do chính họ tạo ra trong thời gian, khơng gian nhất định. Hiện sinh là
cuộc đời của một người có ý thức về nền tảng và ý nghĩa của cuộc đời ấy, và họ
phải tự động thể hiện cuộc đời đó theo cái cách mà họ muốn – nghĩa là một hành

vi tự khẳng dịnh sự tồn tại và cái tơi của chính mình. Và để có thể lột trần được
cái hiện sinh ấy, chúng ta cần đến phương pháp mô tả của hiện tượng học
Husserl. Phương pháp ấy khơng những đóng vai trị hàng đầu cho sự nhận thức
về thế giới và đặc bệt là nhận thức con người của những nhà triết học hiện sinh
mà nó cịn là điểm tựa cho triết học hiện sinh khi miêu tả tính chủ quan của con
người. Do đó, có thể khẳng định rằng, khơng có hiện tượng học thì sẽ khơng có
triết học hiện sinh.
17


Như vậy, triết học chống chủ nghĩa duy lý của Kierkegaard và hiện tượng
học của Husserl là hai tiền đề lý luận cơ bản cho sự hình thành và phát triển của
chủ nghĩa hiện sinh. Hầu hết các nhà triết học hiện sinh sau này, đặc biệt là
Albert Camus đã tiếp thu một cách sâu sắc những tư tưởng của hai bậc tiền bối
ấy để xây dựng nên triết thuyết của mình.

1.1.3. Những nội dung cơ bản
Cũng tương tự thuyết tiên nghiệm của thế kỉ XIX, có bao nhiêu nhà tư
tưởng sử dụng từ hiện sinh, thì chủ nghĩa hiện sinh sẽ được hiểu theo bấy nhiêu
cách. Tuy nhiên, chủ nghĩa hiện sinh có thể được phân chia thành hai loại cơ
bản: vô thần và hữu thần. Jean-Paul Sartre, Albert Camus và Simone de
Beauvoir là những nhà văn theo trường phái hiện sinh vô thần. Đối với hiện sinh
hữu thần, có thể kể đến một số cái tên tiêu biểu như Kierkegaard, Gabriel
Marcel và Jacques Maritain... và rất nhiều những triết gia, nhà văn khác. Mặc dù
vô cùng đa dạng nhưng chủ nghĩa hiện sinh cũng có những đặc trưng cơ bản, cụ
thể là:
Thứ nhất, hầu hết các nhà hiện sinh đều cho rằng hiện sinh xuất hiện trước
bản chất. Trào lưu này được gọi là chủ nghĩa hiện sinh vì nó nhấn mạnh rằng
cuộc sống của con người chỉ có thể hiểu được thơng qua sự hiện sinh cá nhân,
nghĩa là dựa trên những kinh nghiệm khác nhau của mỗi người về cuộc đời.

Muốn hiểu được ý nghĩa thật sự của cuộc sống thì phải nhìn qua lăng kính của
mỗi cá nhân, bằng những trải nghiệm thực tế. Con người sống chứ không đơn
thuần là tồn tại, cái “hiện sinh” của con người luôn là cái quyết định, chi phối
hành động của họ chứ không phải những khuôn mẫu mà xã hội đề ra.
Thứ hai, khi đi vào chiều sâu của đời sống con người thì lý trí ln tỏ ra bất
lực. Các nhà tư tưởng theo chủ nghĩa hiện sinh đưa ra hai lí do để giải thích cho
lập luận này: một là, bản chất của lý trí là mềm yếu, nhu nhược và bất toàn; hai
18


là, đời sống của con người có những góc khuất mang tính phi lý mà lý trí khơng
thể thâm nhập được. Chủ nghĩa hiện sinh không quá chú trọng vào ý tưởng, mà
tập trung vào người tạo ra ý tưởng ấy. Nó khơng chỉ thừa nhận sức mạnh lý trí
của con người mà còn thừa nhận cả cuộc ngẫu sinh, những sai lầm, tính nhu
nhược, cố chấp, thân xác và cả sự chết của người đó.
Thứ ba, nỗi lo âu và cô đơn. Trong con mắt của các nhà hiện sinh, con
người sống trong xã hội bị kìm kẹp bởi những khn mẫu, những luật lệ hà khắc
và gị bó, chính vì thế mà họ sống như những kẻ bị lưu đày. Họ giống như bị
ném vào một không gian hồn tồn xa lạ, khơng nơi nương tựa – đó là nơi mà
chúng ta vẫn gọi là thế giới. Bởi vậy mà con người luôn trong trạng thái lo âu và
cơ đơn. Hơn thế nữa, họ cịn cảm thấy cơ đơn, lo âu và sợ hãi vì phải đối mặt với
cái chết. Cái chết có thể đến bất cứ lúc nào, nó ln đe dọa mỗi con người và vì
thế mà họ cũng nhận ra trách nhiệm của nặng nề của chính mình.
Nếu như triết học truyền thống nghiên cứu con người phổ quát thì triết học
hiện sinh lại muốn con người nhìn thấy mình là một chủ thể “độc đáo”. Triết học
hiện sinh đã chỉ ra sự “độc đáo” ấy ngay cả ở những hành động đời thường –
những hành động tưởng chừng như ai cũng giống nhau, nhưng thực chất mỗi
người lại thực hiện theo một cách và kết quả đem lại cũng khác nhau. Theo các
nhà hiện sinh, khi thực hiện bất kì một hành động nào đó, con người ln thể
hiện cả cái tơi – cái chất riêng của mình ở trong đó. Khơng những thế, con người

cịn “độc đáo” ở tính lịch sử của họ. Họ đảm nhận mọi hành vi và tự làm nên
lịch sử chứ không đơn thuần là một sinh vật sống trong lịch sử. Con người có
nhân vị độc đáo, dám chấp nhận sự cơ đơn, sống là mình, dám phát huy hết khả
năng cá nhân theo cách của riêng mình để đạt được ý nghĩa của cuộc sống.
1.2. Albert Camus – cuộc đời và sự nghiệp
1.2.1. Tác giả Albert Camus
Albert Camus là một nhà văn, một nhà triết học, nhà viết kịch, nhà lý luận
nổi tiếng người Pháp, thậm chí ông đã từng là thủ môn bóng đá. Cùng với J.
19


Sartre, ông là một trong những đại diện tiêu biểu nhất của chủ nghĩa hiện sinh
Pháp. Ông được trao tặng Giải Nobel Văn học vào năm 1957 vì các tác phẩm
văn học của ông đã “đưa ra ánh sáng những vấn đề đặt ra cho lương tâm loài
người ở thời đại chúng ta”. [42]
Albert Camus sinh ngày 7 tháng 11 năm 1913 tại Mondovi – một ngôi làng
ở Constantinois, Algeria. Cha ông là một công nhân làm việc tại một hãng rượu
nho, sau đó bị động viên đi làm lính và bị thương rồi ra đi trong Chiến tranh thế
giới lần thứ I. Còn mẹ của Camus là một người giúp việc, không biết chữ. A.
Camus lớn lên trong một khu ổ chuột. Gia đình của ơng sống trong một căn nhà
có ba phịng vơ cùng chật hẹp. Chính cái chết của người cha đã khiến cho gia
đình của Camus càng trở nên khốn cùng. Những tưởng một con người bị đặt
trong hoàn cảnh như vậy, Camus sẽ trở nên bé mọn, thấp kém trong xã hội. Thế
nhưng, xuất phát điểm thấp kém ấy không dập tắt được khát vọng vươn lên của
ông. Albert Camus đã vượt qua những thử thách, những khó khăn về kinh tế và
xã hội một cách ngoan cường, bằng chính sự khơng ngừng nỗ lực của bản thân.
Năm 1930, ông tốt nghiệp bậc trung học, sau đó bị lao phổi. Lúc bấy giờ,
Camus vẫn cịn đang là một thanh niên, việc nhiễm căn bệnh này khiến ông
nhận thức một cách rõ ràng về sự mong manh của tồn tại người, sự bất công và
phũ phàng của cuộc sống. Do đó, trong suốt khoảng thời gian này, ông rơi vào

trạng thái cô độc, yếu đuối và luôn ám ảnh bởi cái chết. Sau khi hồi phục, ông
làm thư ký tại sở Khí tượng. Chính công việc buồn tẻ, nhàm chán, cứ lặp đi lặp
lại hàng ngày, hàng tuần đã trở thành ấn tượng về một cuộc sống dập khn,
máy móc mà sau này xuất hiện tương đối nhiều trong những trang văn của ơng.
Sau đó, Camus theo học triết học tại trường Đại học Alger. Năm 1936, ông tốt
nghiệp cử nhân Triết học.
Camus được nhận xét là một người đàn ông đẹp trai và phong lưu. Ông có
mối quan hệ phức tạp với nhiều người phụ nữ. Ơng lập gia đình hai lần và cả hai
đều đổ vỡ. Đối với Camus, hôn nhân giống như “một lời nguyền rủa”. Ông cho
20


rằng đó là một “thiết chế” lỗi thời và sẽ khiến cho con người ngày một tàn lụi.
Có thể thấy rằng, Camus là một người thành công trong trong sự nghiệp hơn là
trong đời sống hàng ngày. Bằng chứng là ông “vượng” về mặt văn chương nghệ
thuật, trở thành một nhà văn nổi tiếng thế giới và có cho mình một giả thưởng
cao quý - Giải Nobel Văn học năm 1957.
Vốn là một người có tư tưởng chính trị tiến bộ và luôn hướng về công
chúng, Camus phản đối án tử hình, chủ nghĩa quân phiệt, những hành vi bạo lực
được “nhà nước hóa” và sự chi phối, điểu khiển tư tưởng của con người một
cách gian xảo. Năm 1935, ông gia nhập vào đội ngũ của Đảng Cộng sản Pháp
với hy vọng có thể truyền cảm hứng, giúp mọi người có thể tập hợp lại, cùng
xóa bỏ những bất cơng, tìm đến cơng lý và tạo ra sự thay đổi tồn diện. Đến năm
1936, ơng hoạt động cho Đảng Nhân Dân Algerie, sự việc này đã khiến cho các
Đảng viên Cộng sản khác cảm thấy bất bình và lên án ông. Giữa năm 1937 và
1939, Camus đã viết nhiều bài khảo luận cho báo “Người Cộng Hịa Algier”, sau
đó làm chủ bút cho báo “Người Cộng Hòa – Buổi Chiều”. Các bài khảo luận của
ông chủ yếu mô tả hoàn cảnh ngèo khổ, khốn cùng của người Ả Rập, chỉ trích
gay gắt chính phủ Pháp vì các chính sách mà chúng áp dụng tại xứ Algeria, địi
quyền bình đẳng cho nhân dân Ả Rập. Được một thời gian thì tờ báo bị đóng

cửa, Camus phải rời đến Paris sinh sống. Ông tiếp tục hành nghề viết báo cho
đến khi quân đội Đức tràn sang xâm chiếm Pháp. Tới lúc này, ông phải quay lại
vùng Bắc Phi, dạy học tại một trường tư thục thuộc tỉnh Oran trong một thời
gian ngắn. Năm 1942, ông trở về Pháp và tham gia vào Phong trào khánh chiến
chống Đức Quốc xã, viết bài cho tờ báo “Chiến đấu”. Cho đến năm 1944, khi
Paris được giải phóng, Camus làm chủ bút cho tờ báo này với các bài khảo luận
về thời kỳ chiến tranh. Sau khi Thế chiến chấm dứt, Albert Camus là một thành
viên của nhóm các nhà văn do Jean-Paul Sartre đứng đầu. Camus là một người
tả khuynh trong chính trị, nhưng vì ơng chỉ trích mạnh mẽ chế độ cộng sản nên
đã khơng có bạn bè trong số các đảng viên và sau này ơng cũng bất hịa với
Jean-Paul Sartre. Năm 1946, ông du lịch qua Hoa Kỳ, diễn thuyết Hiện sinh của
21


trường phái Pháp tại nhiều nơi. Đến năm 1949, sau chuyến đi vịng quanh Nam
Mỹ, ơng trở về Pháp và sống một cuộc sống ẩn dật. Trong khoảng thời gian này,
thỉnh thoảng ông vẫn viết một số bài khảo luận về chính trị.
Đến những năm 50, Albert Camus dành hầu hết thời gian cho các hoạt động
nhân quyền. Ông chủ trương chính sách hịa bình, phản đối án tử hình trên toàn
thế giới. Năm 1954, cuộc chiến tranh giành độc lập của xứ Algeria nổ ra và đã
khiến cho Camus rơi vào tình trạng khó xử. Trước đó, ơng đã từng nhận mình
thuộc về lớp người “chân đen” – những người gốc châu Âu tại miền đất Bắc Phi.
Đến nay, dù ủng hộ nền tự trị của xứ Algeria nhưng ơng lại bênh vực các chính
sách của Pháp vì cho rằng cuộc cách mạng tại thuộc địa Bắc Phi là do Ai Cập –
một phần của chủ nghĩa đế quốc Ả Rập mới và Liên Xô xúi giục để bao vây
châu Âu và cô lập Hoa Kỳ. Năm 1960, Camus bị tai nạn xe hơi và ra đi khi đang
ở đỉnh cao của vinh quang.
Có thể nói, cuộc đời của Albert Camus phải trải qua rất nhiều những bi
kịch. Nói về hồn cảnh thời đại mà mình sinh sống, Camus đã đau đớn thừa
nhận rằng: “Hơn hai mươi năm sống trong một lịch sử điên loạn, chết không

được cứu vớt, sống như tất cả mọi người cùng tuổi với tôi trong những cơn co
quắp của thời đại... Những con người sinh ra khi bắt đầu Thế chiến I này, những
kẻ bước vào tuổi hai mươi khi Hitler lên cầm quyền và khi diễn ra những vụ án
cách mạng đầu tiên, những con người sau đó cịn phải hồn thiện nền giáo dục
của mình bằng cách đương đầu với chiến tranh Tây Ban Nha, với Thế chiến II,
với hệ thống những trại tập trung, với cái châu Âu của nhục hình và giam cầm,
những con người ấy giờ đây đang phải nuôi con cái họ và nuôi dưỡng các tác
phẩm của họ trong một thế giới bị nạn hủy diệt đe dọa.” [2, tr68]. Chính hồn
cảnh ấy đã có những ảnh hưởng rất lớn tới quan điểm, tư tưởng sau này của ông.
Những tư tưởng hiện sinh của Camus là sự tồn tại đầy phi lý trong cuộc đời bi
kịch, và con người đã phải nhận thức sự phi lý đó để tồn tại, để tìm hiện sinh
đích thực cho chính mình.
22


×