Tải bản đầy đủ (.docx) (106 trang)

Luận văn thạc sĩ ngôn ngữ học (HOÀN CHỈNH) hành động hỏi và hồi đáp trong tiểu thuyết mảnh đất lắm người nhiều ma của nguyễn khắc trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (765.37 KB, 106 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ ĐỨC DUY

HÀNH ĐỘNG HỎI VÀ HỒI ĐÁP TRONG
TIỂU THUYẾT‘MẢNH ĐẤT LẮM NGƯỜI NHIỀU MA’
CỦA NGUYỄN KHẮC TRƯỜNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

HÀ NỘI, 2018


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ ĐỨC DUY

HÀNH ĐỘNG HỎI VÀ HỒI ĐÁP TRONG
TIỂU THUYẾT‘MẢNH ĐẤT LẮM NGƯỜI NHIỀU MA’
CỦA NGUYỄN KHẮC TRƯỜNG
Ngành: Ngơn ngữ học
Mã số: 8.22.90.20

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS HÀ QUANG NĂNG

HÀ NỘI, 2018




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu thực sự của cá
nhân tơi, dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Hà Quang Năng
Các số liệu sử dụng trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, được liệt kê
trong các tài liệu tham khảo, không sao chép của người khác. Các kết luận
nghiên cứu trong luận văn được đúc kết từ cơ sở lý luận đến thực tiễn của vấn
đề mà luận văn cần giải quyết.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình./.

Học viên

VŨ ĐỨC DUY


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
Chương 1. CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI.............................................8
1.1. Lý thuyết hội thoại..................................................................................8
1.2. Lý thuyết hành động ngôn ngữ............................................................. 16
1.3. Đôi nét về nhà văn Nguyễn Khắc Trường và tiểu thuyết Mảnh đất lắm
người nhiều ma.............................................................................................21
Chương 2. HÀNH ĐỘNG HỎI TRỰC TIẾP VÀ HỒI ĐÁP TRONG
TÁC PHẨM MẢNH ĐẤT LẮM NGƯỜI NHIỀU MA CỦA NGUYỄN
KHẮC TRƯỜNG.......................................................................................... 27
2.1. Kết quả thống kê, phân loại...................................................................27
2.2. Phát ngôn hỏi trực tiếp và hồi đáp.........................................................28
2.3. Cặp thoại hẫng có phát ngơn hỏi trực tiếp và hồi đáp...........................45
Chương 3. HÀNH ĐỘNG HỎI GIÁN TIẾP VÀ HỒI ĐÁP TRONG TÁC

PHẨM MẢNH ĐẤT LẮM NGƯỜI NHIỀU MA CỦA NGUYỄN KHẮC
TRƯỜNG....................................................................................................... 52
3.1. Kết quả thống kê, phân loại...................................................................52
3.2. Phát ngôn hỏi gián tiếp và hồi đáp........................................................ 53
3.3. Cặp thoại hẫng có phát ngơn hỏi gián tiếp và hồi đáp...........................68
KẾT LUẬN.................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 78
PHỤ LỤC....................................................................................................... 80


1. Tính cấp thiết của đề
tài

MỞ ĐẦU

Từ xa xưa, nghiên cứu ngôn ngữ văn chương truyền thống mới chỉ dựa trên
ngữ pháp và ngữ nghĩa, tức là đi sâu vào bình diện kết học, nghĩa học của câu chữ
trong văn bản văn học mà bỏ qua mặt dụng học khi đi vào nghiên cứu các tác phẩm
văn học. Đây là hướng đi của ngôn ngữ học cổ điển (ngôn ngữ học tiền ngữ
dụng). Hạn chế của các phương pháp nghiên cứu truyền thống này là mới chỉ
thấy được mơ hình mã mà chưa thấy được mơ hình suy ý, tách rời ngôn ngữ
nhân vật khỏi ngữ cảnh rộng và hẹp nên không thấy được nhiều hơn những nghĩa
nằm trên câu chữ trực tiếp. Điều này cũng có nghĩa là chúng ta đã bỏ qua một
mảng lớn nội dung tác phẩm, bao gồm các hành động ngôn ngữ (trực tiếp/gián
tiếp), nghĩa hàm ẩn, hợp phần ngữ cảnh… là những nhân tố quan trọng kiến tạo
nên cuộc giao tiếp hoàn chỉnh giữa các nhân vật trong tác phẩm và giữa nhà văn
với bạn đọc. Nói một cách đơn giản, trong ngơn ngữ của nhân vật văn học và nhà
văn khi tạo nên tác phẩm văn học cịn rất nhiều điều nằm ngồi câu chữ mà ngôn
ngữ học truyền thống đã bỏ qua hoặc chưa phát hiện ra. Những nội dung ngoài câu
chữ này đóng vai trị khơng nhỏ giúp người đọc hiểu sâu hơn nội dung tác phẩm

cũng như những điều nhà văn gửi gắm.
Nghiên cứu ngôn ngữ văn học ngày nay áp dụng những thành tựu của ngữ
dụng học để phát hiện thêm nhiều góc khuất đằng sau câu chữ. Chúng ta coi tác
phẩm văn học là một diễn ngôn, tức là sản phẩm giao tiếp giữa nhà văn và bạn đọc.
Trong đó bao gồm nhiều hành động ngơn ngữ giữa các nhân vật, thông qua nhiều
cuộc thoại, đoạn thoại khác nhau. Bởi vậy, cần thiết phải dùng lí thuyết hội thoại
trong ngữ dụng học nghiên cứu các cuộc thoại, đoạn thoại đó để thấy được vị thế,
tính cách, dấu ấn thời đại, xã hội cũng như nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà
văn và tư tưởng anh ta gửi gắm vào chúng. Một trong những lí thuyết quan trọng
cần sử dụng khi nghiên cứu ngôn ngữ nhân vật văn học là “hành động hỏi và hồi
đáp”. Bởi lẽ, nhờ sự tác động của ngữ cảnh và thông qua những chuyển hóa khác
nhau mà hành động hỏi ngồi việc dùng để hỏi cịn có thể thực hiện các hành động
nói khác như: hứa hẹn, giãi bày, trách móc... và người trả lời (hồi đáp) có rất nhiều
5


cách hồi đáp khác nhau. Việc nghiên cứu hành động hỏi và hồi đáp thực sự là cần
thiết và được nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ quan tâm.
Nguyễn Khắc Trường sinh năm 1946 là một nhà văn chuyên viết về thể
loại tiểu thuyết và truyện ngắn, trong đó tác phẩm được xem là tiêu biểu nhất của
ơng đó là tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma. Đây là một cuốn tiểu
thuyết tâm lý xã hội ra đời năm 1990 được coi là một trong những tác phẩm xuất
sắc nhất của Nguyễn Khắc Trường viết về nông thôn Việt Nam. Với sự xuất hiện
của các dòng họ trong tác phẩm: họ Trịnh, họ Vũ và trên 10 nhân vật khác đã tạo
nên một bức tranh phong phú, đa dạng, mới mẻ của xã hội nông thôn những năm
đầu thế kỉ XX, các cuộc thoại, đoạn thoại diễn ra giữa các nhân vật trong truyện
với sự xuất hiện hàng loạt các hành động hỏi. Tuy nhiên, những hành động hỏi
có khi để thực hiện mục đích hỏi nhưng có khi để thực hiện mục đích khác mà
tác giả đã xây dựng để có những ẩn ý sâu xa, thể hiện tính cách từng nhân vật
trong tiểu thuyết.

Để thấy được phần nào bức tranh nông thôn Việt Nam trong những năm đầu
thế kỉ XX, chúng tôi lựa chọn đề tài “Hành động hỏi và hồi đáp trong tiểu thuyết
Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường” tìm hiểu hành động
hỏi và hồi đáp với hiệu lực ở lời khác nhau trong tác phẩm để từ đó thấy được mối
quan hệ giữa những người giao tiếp trong cuộc thoại, tính cách của từng nhân vật, tài
năng của tác giả trong việc xây dựng tính cách ấy. Bởi lẽ đối với tác phẩm văn học,
hành động hỏi và hồi đáp là một trong những hành động phổ biến góp phần làm nên
thành cơng của tác phẩm nói chung và về mặt ngơn ngữ được lựa chọn để sử dụng
trong tác phẩm nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Những nghiên cứu về hành động hỏi và hồi đáp
Ngữ dụng học là một hướng nghiên cứu hoàn toàn mới, đó là nghiên cứu
việc sử dụng ngơn ngữ trong tình huống giao tiếp. Trong giao tiếp, câu nghi vấn là
một trong bốn kiểu câu phân loại theo mục đích nói. Kiểu câu này được sử dụng
khá phổ biến trong tiếng Việt. Ở Việt Nam từ những năm 80 trở lại đây, vấn đề
hành vi ngơn ngữ nói chung và hành động hỏi, hồi đáp hỏi nói riêng đã thu hút được


sự quan tâm của nhiều nhà ngôn ngữ học như: Nguyễn Đức Dân, Đỗ Hữu Châu,
Diệp Quang Ban, Nguyễn Thiện Giáp …
Khi nghiên cứu về hành động hỏi và hồi đáp phải kể đến các cơng trình khoa
học của một số tác giả như: Nguyễn Thị Thìn (1994), Câu nghi vấn tiếng Việt, một
số kiểu câu nghi vấn không dùng để hỏi, Luận án PTS khoa học Ngữ văn, Hà Nội.
Luận án đã đưa ra phương pháp miêu tả một số kiểu câu nghi vấn không dùng để
hỏi; Nguyễn Thị Lương (1996), Tiểu từ tình thái dứt câu dùng để hỏi với việc biểu
thị các hành vi ngôn ngữ, Luận án PTS khoa học Ngữ văn, Hà Nội. Tác giả đã dựa
vào bốn điều kiện thỏa mãn các hành vi ở lời của Searle (điều kiện mệnh đề, điều
kiện chuẩn bị, điều kiện chân thành, điều kiện căn bản) để chỉ ra cơ sở xác định các
hành vi gián tiếp có liên quan đến hành vi hỏi do tiểu từ tình thái dứt câu biểu thị;
Đặng Thị Hảo Tâm (2003), Cơ sở lí giải nghĩa hàm ẩn của các hành vi ngôn ngữ

gián tiếp trong hội thoại, Luận án Tiến sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội, đã chú trọng
đến việc tìm ra cơ sở giải nghĩa hàm ẩn của các hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong
hội thoại; Lê Đơng (1996), Ngữ nghĩa – Ngữ dụng câu hỏi chính danh, Luận án
PTS khoa học Ngữ văn, Hà Nội; Lê Thị Thu Hoài (2013), Ngữ nghĩa - ngữ dụng
câu hỏi tu từ tiếng Việt, Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học, Đại học KHXH&NV, Đại
học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Việt Tiến (2002), Hỏi và câu hỏi theo quan điểm
dụng học, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Bên cạnh đó, có một số cơng trình khoa học đi sâu vào nghiên cứu hành
động hỏi trong các tác phẩm văn học như: Trần Thị Quế Quyên (2014), Hành động
hỏi trong truyện ngắn Hồ Anh Thái, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội;
Nguyễn Thị Toan (2013), Hành động hỏi trong truyện ngắn của Nguyễn Cơng
Hoan, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Hải Phịng; Ngơ Thùy Dương (2013), Hành động
hỏi của nhân vật nữ trong một số tiểu thuyết của nhà văn Ma Văn Kháng, Luận văn
Thạc sĩ, Đại học Hải Phòng, các luận văn này đã nghiên cứu hành động hỏi trong
các tác phẩm văn học cụ thể để thấy được đặc điểm và chức năng ngữ dụng của
hành động hỏi trong cách xây dựng truyện của tác giả, đồng thời khám phá thêm
một nét mới trong phong cách xây dựng tính cách nhân vật của nhà văn dưới góc độ
ngơn ngữ. Nếu như các tác giả nêu trên chỉ đi vào nghiên cứu hành động hỏi trong


một số tác phẩm truyện ngắn thì tác giả Nguyễn Thị Dịu (2012) với đề tài Hành
động hỏi và hồi đáp hỏi trong tác phẩm của nhà văn Nguyên Ngọc, Luận văn Thạc
sĩ, Đại học Hải Phòng và tác giả Nguyễn Thị Hằng (2013) với đề tài Hành vi hỏi và
hồi đáp hỏi trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Hải
Phòng lại nghiên cứu cả hành động hỏi và hồi đáp, làm rõ hơn đặc điểm các cuộc
thoại hỏi - hồi đáp hỏi, chỉ ra những đặc điểm cơ bản trong việc xây dựng tính cách
nhân vật và làm rõ được đặc điểm ngữ cảnh trong từng tác phẩm cụ thể.
Tác giả Hà Thị Hồng Mai (2012) với đề tài Hành động hỏi trong ca dao của
người Việt, Luận án Tiến sĩ, Đại học Vinh, lại khơng đi vào tìm hiểu hành động hỏi
trong các tác phẩm văn xi mà đi vào tìm hiểu hành động hỏi trong ca dao của

người Việt, đây là một góc mới trong việc tìm hiểu, nghiên cứu nét độc đáo của văn
học dân gian nói chung và ca dao nói riêng. Đề tài đã làm rõ được các đặc điểm của
hành động hỏi trong ca dao trên các phương diện: hình thức, nội dung, văn hóa ứng
xử, trong đó nổi bật là phép lịch sự.
Bên cạnh đó cũng có một số bài viết liên quan đến đề tài này như: Lê Đông
(1985), Câu trả lời và câu đáp của câu hỏi, Tạp chí Ngơn ngữ (số phụ); Nguyễn
Chí Hồ (1993), Thử tìm hiểu phát ngơn hỏi và phát ngôn trả lời trong sự tương tác
lẫn nhau giữa chúng trên bình diện giao tiếp, Tạp chí Ngơn ngữ, (số 1); Lê Đơng
(1994), Vai trị của thơng tin tiền giả định trong cấu trúc ngữ nghĩa – ngữ dụng của
câu hỏi, Tạp chí Ngơn ngữ, (số 2); Nguyễn Đăng Sửu (1998), Một vài đặc điểm
chung của câu nghi vấn (qua ngôn liệu một số ngôn ngữ), Kỉ yếu hội thảo Ngữ học
trẻ; Nguyễn Thị Tuyết Mai (2001), Một số tiểu từ tình thái đứng cuối câu dùng để
hỏi, Những vấn đề ngôn ngữ học, Kỉ yếu hội nghị khoa học, Viện Ngôn ngữ học.
2.2. Những nghiên cứu về tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn
Khắc Trường
Mảnh đất lắm người nhiều ma của tác giả Nguyễn Khắc Trường là một tiểu
thuyết mới, ra đời vào những năm đầu thế kỉ XX nhưng từ khi ra đời đến nay tác
phẩm lại chiếm được vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại và để
lại nhiều dấu ấn trong lịng bạn đọc. Chính vì lẽ đó, tác phẩm trở thành đối tượng
nghiên cứu của rất nhiều công trình khoa học như:


Tác giả Vũ Thị Thanh (2015), Văn hóa nơng thơn trong tiểu thuyết Mảnh đất
lắm người nhiều ma, Luận văn Thạc sĩ Ngơn ngữ và Văn hóa, Đại học Sư phạm 2.
Ở đề tài này, tác giả đã đi sâu vào khám phá những nét văn hóa tiêu biểu, độc đáo
và đặc sắc của vùng nông thôn Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX qua đó thấy
được tài năng tìm tịi, sáng tạo của nhà văn Nguyễn Khắc Trường.
Tác giả Trần Thị Thanh Xuân (2008), Nông thôn Việt Nam trong các tiểu
thuyết từ năm 1986 đến năm 2000, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thành phố
Hồ Chí Minh, đã đi vào nghiên cứu các tác phẩm của các tác giả như: Ma Văn

Kháng, Lê Lựu, Khuất Quang Thụy, Chu Lai, Nguyễn Quang Thiều, Hồ Anh Thái,
Hoàng Minh Tường, Nguyễn Khắc Trường,… và trong đó Mảnh đất lắm người
nhiều ma của tác giả Nguyễn Khắc Trường được phân tích, đi sâu, làm rõ để thấy
được bức tranh nơng thôn Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX.
Tác giả Đỗ Thị Phương Thủy (2013), Quan niệm nghệ thuật về con người
trong văn xuôi sau năm 1975 của Nguyễn Khắc Trường, Luận văn Thạc sĩ, Đại học
Đà Nẵng, cũng cho chúng ta một cái nhìn mới về tác giả Nguyễn Khắc Trường
trong việc đi vào từng khía cạnh, từng phương diện để đánh giá về con người trong
một số tác phẩm văn xuôi của ông, nổi bật là tác phẩm Mảnh đất lắm người nhiều
ma.
Tác giả Dương Đức Thảo (2012) với đề tài Trường từ vựng - ngữ nghĩa và
việc phân tích tác phẩm văn học (qua tiểu thuyết “Mảnh đất lắm người nhiều ma”
của Nguyễn Khắc Trường), Luận văn Thạc sĩ, trường Đại học Hải Phòng, cho
chúng ta thấy được sự độc đáo qua việc sử dụng ngôn từ, cụ thể ở đây là trường từ
vựng - ngữ nghĩa trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma, đây cũng là một
đề tài có hướng mới khi đi vào tìm hiểu những nét độc đáo trong tác phẩm này.
Điều đặc biệt, tác phẩm Mảnh đất lắm người nhiều ma của tác giả Nguyễn
Khắc Trường còn được chuyển thể thành phim Đất và người - một bộ phim tâm lý
xã hội do Nguyễn Hữu Phần và Phạm Thanh Phong đạo diễn, ra mắt năm 2002
được đơng đảo người xem đón nhận và ghi lại những dấu ấn đặc biệt, đi cùng năm
tháng.


Như vậy, tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của tác giả Nguyễn
Khắc Trường đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu nhưng chưa có
một cơng trình nào dành riêng cho việc nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ
thống về đặc điểm hành động hỏi và hồi đáp. Chính vì vậy, trên cơ sở kế thừa
những thành tựu của các tác giả đi trước, luận văn đi sâu nghiên cứu về đặc điểm
hành động hỏi và hồi đáp trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của tác
giả Nguyễn Khắc Trường.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn này là thông qua khảo sát hành động hỏi
và hồi đáp trong tác phẩm Mảnh đất lắm người nhiều ma của tác giả Nguyễn Khắc
Trường góp phần tìm hiểu tác phẩm dưới cái nhìn của ngơn ngữ học về vấn đề giao
tiếp trong cuộc sống của người nơng dân nói chung và giao tiếp ngơn ngữ trong tác
phẩm Mảnh đất lắm người nhiều ma nói riêng. Từ đó, góp thêm một cái nhìn mới
trong việc khẳng định vị trí vai trị của nhà văn Nguyễn Khắc Trường đối với nền
văn học Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, đề tài giải quyết các nhiệm vụ sau:
1/ Tổng quan được tình hình nghiên cứu.
2/ Hệ thống hóa một số vấn đề lí thuyết liên quan đến đề tài.
3/ Khảo sát đặc điểm hành động hỏi và hồi đáp trong tác phẩm Mảnh đất lắm
người nhiều ma của tác giả Nguyễn Khắc Trường.
4/ Chỉ ra những đặc điểm đặc sắc qua hành động hỏi và hồi đáp trong tác
phẩm Mảnh đất lắm người nhiều ma của tác giả Nguyễn Khắc Trường.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là tập trung khảo sát, nghiên cứu
hành động hỏi và hồi đáp qua lời thoại của nhân vật trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm
người nhiều ma của tác giả Nguyễn Khắc Trường qua cuốn Tiểu thuyết Mảnh đất
lắm người nhiều ma, NXB Văn hóa thơng tin, 2012.


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp chủ yếu:
- Phương pháp thống kê, khảo sát: Phương pháp này được dùng trong việc
thống kê, khảo sát tư liệu là các cuộc thoại có chứa hành động hỏi và hồi đáp trong
tác phẩm Mảnh đất lắm người nhiều ma của tác giả Nguyễn Khắc Trường.
- Phương pháp phân tích diễn ngơn: Phương pháp này dùng để xem xét,

nghiên cứu các cuộc thoại được sử dụng, phân tích các ví dụ để làm rõ các khái
niệm.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Trên cơ sở những cứ liệu đã được phân
tích, chúng tơi xem xét tìm ra đặc điểm nổi bật của hành động hỏi và hồi đáp trong
tác phẩm Mảnh đất lắm người nhiều ma của tác giả Nguyễn Khắc Trường.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Đề tài đi sâu nghiên cứu hành động hỏi và hồi đáp trong lời thoại của nhân
vật trong tác phẩm Mảnh đất lắm người nhiều ma của tác giả Nguyễn Khắc Trường
– một hiện tượng văn học hiện đại dưới cái nhìn của lí thuyết ngữ dụng học kết hợp
với một số kiến thức lí luận có tính chất liên ngành. Kết quả nghiên cứu của luận
văn góp phần làm sáng rõ thêm lí thuyết hành động ngôn ngữ trong tác phẩm văn
học thông qua một hành động ngơn ngữ cụ thể. Qua đó, chúng tơi mong muốn góp
một cái nhìn mới trong việc khẳng định vị trí vai trị của nhà văn Nguyễn Khắc
Trường đối với nền văn học Việt Nam đương đại. Bên cạnh đó, đây có thể là tài liệu
tham khảo cần thiết phục vụ cho việc giảng dạy chuyên đề ngôn ngữ văn học đương
đại Việt Nam trong các trường trung học, cao đẳng và đại học.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài Phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí thuyết của đề tài
Chương 2: Hành động hỏi trực tiếp và hồi đáp trong tác phẩm Mảnh đất lắm
người nhiều ma của tác giả Nguyễn Khắc Trường
Chương 3: Hành động hỏi gián tiếp và hồi đáp trong tác phẩm Mảnh đất lắm
người nhiều ma của tác giả Nguyễn Khắc Trường


Chương 1
CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Lý thuyết hội thoại
1.1.1 Khái niệm hội thoại

Hội thoại là hình thức giao tiếp phổ biến nhất, được nhiều ngành học quan
tâm từ lâu, có nhiều quan niệm khác nhau về hội thoại. Dưới đây là quan niệm của
một số tác giả:
Đỗ Hữu Châu: “Hội thoại là hình thức giao tiếp thường xun, phổ biến của
ngơn ngữ, nó cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ khác. Hội thoại
là khái niệm dành cho mọi hình thức hội thoại khác nhau” [12, tr. 201].
Nguyễn Thiện Giáp: “Hội thoại là hoạt động cơ bản của ngôn ngữ. Giao
tiếp hội thoại ln ln có sự hài hịa giữa người nói và người nghe, chẳng những
người nói và người nghe tác động lẫn nhau mà lời nói của từng người cũng tác
động lẫn nhau” [19, tr. 63].
Theo Hồ Lê thì “Hội thoại là hành vi thể hiện ngôn giao hai chiều, cụ thể và
xác định, làm chuyển hóa vị thế của người thụ ngôn thành vị thế của người phát
ngôn và ngược lại, đồng thời tạo ra sự liên kết hành vi phát ngôn với hành vi thụ
ngôn tạo thành một thể thống nhất” [13, tr.13].
Để tiện cho việc nghiên cứu, chúng tơi sử dụng khái niệm của Đỗ Hữu Châu.
Ơng đã đưa ra khái niệm “hội thoại” một cách bao quát rộng hơn, có thể áp dụng
cho nhiều loại hình ngơn ngữ. Theo Đỗ Hữu Châu trong cuốn Đại cương Ngôn ngữ
học – Tập hai Ngữ dụng học, NXB Giáo dục Việt Nam, trang 201, hội thoại có một
số đặc điểm sau:
Thứ nhất, đặc điểm của thoại trường (không gian, thời gian) ở đó diễn ra
cuộc hội thoại. Thoại trường hội thoại có thể là cơng cộng hay riêng tư. Thoại
trường khơng phải chỉ có nghĩa khơng gian – thời gian tuyệt đối mà gắn với khả
năng can thiệp của những người thứ ba đối với cuộc hội thoại đang diễn ra.
Thứ hai, ở số lượng người tham gia. Số lượng nhân vật hội thoại – còn gọi là
đối tác hội thoại hay đối tác – thay đổi từ hai đến một số lượng lớn. Có những cuộc
hội thoại tay đơi, tay ba (trilogeue) tay tư hoặc nhiều hơn nữa (đa thoại –


polylogue). Những cuộc hội thoại như một cuộc hội nghị, một giờ học, một cuộc
mít tinh… thì số lượng nhân vật không thể cố định được.

Thứ ba, cương vị và tư cách của những người tham gia hội thoại. Sự thực,
tiêu chí số lượng có quan hệ với tiêu chí cương vị và tư cách người tham gia. Cương
vị và tư cách của người hội thoại rất khác nhau tùy theo các cuộc hội thoại, tựu
trung có thể kể ra như sau: a) Tính chủ động hay thụ động của các đối tác. Trong
hội thoại có vai nói và vai nghe. Cuộc hội thoại chủ động là hội thoại trong đó cả
hai vai đều có quyền chủ động tham dự vào cuộc hội thoại như nhau theo nguyên
tắc anh nói tơi nghe, tơi nói anh nghe; tơi và anh ln phiên nhau nói và nghe.
Cuộc hội thoại thụ động là cuộc hội thoại trong đó chỉ một người giữ cương vị
vai nói, cịn người kia (những người kia) chỉ nghe, khơng tham gia được vào hội
thoại hoặc có tham gia vào thì cũng rất hạn chế, thường là chỉ để bày tỏ kết quả
tiếp nhận của mình hoặc để yêu cầu người nói giải thích hoặc bổ sung thêm một
thơng tin nào đó cho nội dung diễn ngơn của người này. b) Sự có mặt hay vắng
mặt của vai nghe trong hội thoại. Ví dụ: phát thanh, truyền hình… là những hình
thức hội thoại mà người nghe vắng mặt. Trị chuyện tay đơi, tay ba, những cuộc
hội nghị, mít tinh…v.v là những cuộc hội thoại trong đó người nghe có mặt. Hội
thoại qua điện thoại có dạng đặc biệt: những người nói chuyện bằng điện thoại (trừ
điện thoại tối tân có truyền hình) tuy khơng nhìn thấy nhau nhưng vẫn có mặt trong
cuộc hội thoại…
Thứ tư là các cuộc hội thoại khác nhau ở tính có đích hay khơng có đích.
Những cuộc hội thoại như thương thuyết ngoại giao, hội thảo khoa học có đích
được xác định trước rõ ràng. Những cuộc tán gẫu được xem là khơng có đích.
Thứ năm, các cuộc hội thoại có thể khác nhau về tính có hình thức hay
khơng có hình thức. Những cuộc thương nghị, hội thảo… là những cuộc hội thảo
mà hình thức tổ chức khá chặt chẽ, trang trọng đến mức thành nghi lễ cịn những
chuyện trị đời thường khơng cần một hình thức nào cả.
Cuối cùng là vấn đề ngữ vực. Do tính có hình thức hay khơng có hình thức
mà các cuộc hội thoại có thể diễn ra ở một trong ba ngữ vực đã biết.


1.1.2. Cấu trúc hội thoại

Theo tác giả Đỗ Hữu Châu (2009) trong cuốn Đại cương ngôn ngữ học, Tập
hai, Nxb Giáo Dục, tr. 290, cho đến thời điểm hiện nay, trên thế giới tồn tại ba
trường phái có quan điểm khác nhau về cấu trúc hội thoại. Thứ nhất là trường phái
phân tích hội thoại ở Mĩ (Conversation analysis) – Trường phái này cho rằng hội
thoại có hai tổ chức cơ bản là lượt lời và cặp thoại. Thứ hai là trường phái phân tích
diễn ngơn (discourse analysis) – Trường phái này dựa trên mơ hình cấu trúc bậc
(rank) chia hội thoại thành năm bậc như sau: I. Tương tác (Interaction); II. Đoạn
thoại (Transaction); III. Cặp thoại (exchange); IV. Bước thoại (move); V. Hành
động (act). Trong cấu trúc tầng bậc này, hành động (act) là đơn vị nhỏ nhất của
cuộc thoại tức cuộc tương tác. Các hành động tạo nên bước thoại, các bước thoại tạo
nên cặp thoại và đơn vị lớn nhất, bao trùm là cuộc thoại. Trong đó, ba đơn vị cuộc
thoại, đoạn thoại, cặp thoại có tính chất lưỡng thoại (dialogal) có nghĩa là hình
thành do vận động trao đáp của các nhân vật hội thoại. Hai đơn vị có tính chất đơn
thoại, có nghĩa là do một người nói ra là tham thoại và hành động ngôn ngữ. Thứ ba
là trường phái lý thuyết hội thoại ở Thụy Sĩ và Pháp – Trường phái này đã phân
định các đơn vị cấu trúc hội thoại thành các đơn vị cơ bản: cuộc thoại, đoạn thoại,
cặp trao đáp, hành động ngôn ngữ và tham thoại.
Để tiện cho việc nghiên cứu, đề tài khơng đi sâu tìm hiểu các đơn vị cấu trúc
của các trường phái khác mà chỉ xin trình bày một số đơn vị hội thoại theo trường
phái lý thuyết hội thoại nhằm làm cơ sở lý thuyết cho đề tài. Ở phần này, đề tài đã
sử dụng toàn bộ quan điểm của tác giả Đỗ Hữu Châu (2010) trong cuốn Đại cương
Ngôn ngữ học (Tập hai – Ngữ dụng học), NXB Giáo dục Việt Nam, về cuộc thoại,
đoạn thoại, cặp thoại và tham thoại.
1.1.2.1. Cuộc thoại
Cuộc thoại là đơn vị hội thoại bao trùm, lớn nhất. Có thể nói tồn bộ hoạt
động ngơn ngữ của con người là một chuỗi dằng dặc những lời đối đáp. Để xác định
một cuộc thoại, dựa vào các tiêu chí sau:
Nhân vật hội thoại: theo tiêu chí này, một cuộc thoại được xác định bởi sự
gặp mặt và sự chia tay của hai người hội thoại, nói chung một cuộc thoại được xác



định bởi sự đương diện liên tục của những người hội thoại. Khi số lượng hay tính
chất của người hội thoại thay đổi thì chúng ta có cuộc thoại mới.
Tính thống nhất về thời gian và địa điểm: Thời gian có thể ban ngày, ban
đêm, chiều tối, hơm qua. Khơng gian có thể là một góc sân, một cuộc họp ở hội
trường hay cuộc nói chuyện ở nhà riêng... Tiêu chí này chỉ có tính chất tương đối
bởi vì trong q trình hội thoại thời gian và khơng gian có thể thay đổi.
Tính thống nhất về đề tài diễn ngơn: Đề tài là cái phạm vi hiện thực mà
người nói đề cập đến. Chủ đề là cái chủ đích mà người nói, người nghe cùng đề cập
đến trong tồn bộ cuộc thoại. Một cuộc thoại có độ dài ngắn khác nhau song địi hỏi
phải có sự thống nhất về đề tài – tức các nhân vật tham gia cuộc thoại phải cùng
hướng đến một vấn đề, một cái đích chung. Theo Grice một cuộc thoại phải theo
một hướng nhất định từ đầu cho đến khi kết thúc. Tuy nhiên, trên thực tế lại tồn tại
rất nhiều cuộc thoại mà đề tài liên tục được thay đổi (điển hình là các cuộc tán gẫu).
Do tính chất khơng chặt chẽ của các tiêu chí trên, C. K. Orecchioni đã đưa ra một
định nghĩa mềm dẻo hơn về cuộc thoại: “Để có một và chỉ một cuộc thoại, điều kiện
cần và đủ là có một nhóm nhân vật có thể thay đổi nhưng không đứt quãng trong
một khung thời gian - không gian có thể thay đổi nhưng khơng đứt qng nói về
một vấn đề có thể thay đổi nhưng khơng đứt qng”.
1.1.2.2. Đoạn thoại
Đoạn thoại là một mảng diễn ngôn do một số cặp trao đáp liên kết chặt chẽ
với nhau về ngữ nghĩa hoặc ngữ dụng. Về ngữ nghĩa đó là sự liên kết chủ đề, về
ngữ dụng đó là tính duy nhất về đích. Tiêu chí ngữ dụng của đoạn thoại là sự thực
hiện một quan hệ lập luận trong đoạn thoại đó. Cấu trúc tổng quát của một cuộc
thoại có thể là: Đoạn thoại mở thoại, thân cuộc thoại và đoạn thoại kết thúc. Trong
đó: Đoạn thoại mở thoại: Mang tính chất “đưa đẩy”, có chức năng mở ra cuộc thoại
và nêu đề tài diễn ngôn; Đoạn thân thoại: Là đoạn thoại phản ánh nội dung chính
của cc thoại; Đoạn kết thoại: Là đoạn thoại có chức năng tổng kết, kết luận về
chủ đề hội thoại. Để kết thúc chúng ta có thể đưa ra những lời hứa hẹn, cảm ơn,
chúc mừng, xin lỗi, từ biệt ...



1.1.2.3. Cặp thoại (Cặp trao đáp)
Cặp thoại là đơn vị lưỡng thoại tối thiểu, với chúng, cuộc trao đổi, tức cuộc
hội thoại chính thức được tiến hành. Vì cặp thoại là đơn vị lưỡng thoại nhỏ nhất của
cuộc thoại do các tham thoại tạo nên, có thể căn cứ vào số lượng các tham thoại để
phân loại các cặp thoại:
Cặp thoại một tham thoại: thực tế, về nguyên tắc, cặp thoại ít nhất phải có hai
tham thoại của hai nhân vật, tuy nhiên khi chúng ta nói đến các cặp thoại một tham
thoại là nhắc đến những trường hợp tham thoại Sp1 không được Sp2 hưởng ứng hồi
đáp bằng một hành vi tương ứng. Ví dụ như: Sp1: Hơm nay em đẹp quá!/ Sp2:…
Chúng ta gọi những trường hợp này là cặp thoại hẫng. Tuy nhiên, không phải cặp
thoại hẫng chỉ xảy ra khi một trong hai nhân vật hội thoại tỏ ra khơng thích thú với
tham thoại của người kia. Có những trường hợp như: Sp1: Chào em! Em là học sinh
mới vào lớp?/ Sp2: Vâng! Tham thoại Chào em! Khơng có tham thoại hồi đáp tương
ứng của Sp2. Sp2 chỉ hồi đáp tham thoại hỏi của Sp1. Đây cũng là một dạng của
tham thoại hẫng.
Cặp thoại hai tham thoại: Cặp thoại này còn được gọi là cặp thoại đơi. Trong
đó tham thoại thứ nhất được gọi là tham thoại dẫn nhập, tham thoại thứ hai là tham
thoại hồi đáp. Ví dụ: Sp1: Đi đâu đấy?/Sp2: Đi học.
Cặp ba tham thoại: Cặp thoại này còn được gọi là cặp thoại ba. Về nguyên
tắc cặp thoại đủ hai tham thoại đã hoàn chỉnh. Tuy nhiên trong thực tế những tham
thoại như vậy thường tỏ ra “cụt lủn”, “ông chẳng bà chuộc”… nên ta thường gặp
các cặp thoại ba như: Sp1: Đi đâu đấy?/Sp2: Đi nhận phần thưởng đây./Sp1: Xin
chúc mừng.
Bên cạnh đó, căn cứ vào tính chất của những tham thoại hồi đáp, có thể chia
cặp thoại thành những cặp thoại tích cực và cặp thoại tiêu cực. Thơng thường một cặp
thoại ít khi kéo dài đến 5, 6 tham thoại. Tuy nhiên, sự có mặt các tham thoại tiêu cực
làm cho cấu trúc và chức năng của các cặp thoại trở nên phức tạp, khó miêu tả.
1.1.2.4. Tham thoại

Theo Đỗ Hữu Châu, tham thoại là phần đóng góp của từng nhân vật hội thoại
vào một cặp thoại nhất định. Một lượt lời có thể gồm nhiều tham thoại mà cũng có
thể nhỏ hơn tham thoại (một tham thoại gồm nhiều lượt lời). Ví dụ:


(1) – Sp1: Chào!
(2) – Sp2: Chào!
(3) – Sp1: Thế nào? Bình thường chứ?
(4) – Sp2: Bình thường. Cám ơn. Cịn cậu thế nào?
(5) – Sp1: Cám ơn, mình cũng bình thường. Đi đâu mà hớt hơ hớt hải thế?
(6) – Sp2: Mình đi tìm Thắng. Cậu ấy sắp đi Nha Trang.
(1) và (2) là một cặp thoại chào gồm hai tham thoại đối xứng; (3) và (4) là
một cặp thoại, trong đó (3) là một lượt lời gồm một tham thoại hỏi. (4) là một lượt
lời gồm 3 tham thoại, một tham thoại đáp, một tham thoại cám ơn, một tham thoại
hỏi. Mỗi cặp thoại như trên do hai tham thoại tạo thành.
Về tổ chức nội tại, một tham thoại do một hoặc một số hành vi ngôn ngữ tạo
nên. Theo trường phái Geneve, một tham thoại có một hành vi chủ hướng (CH), và
có thể có một hoặc một số hành vi phụ thuộc (PT) [12, tr. 317]. Cấu trúc của tham
thoại có thể là:
CH
PT

CH
CH

PT

PT

CH


PT

CH

PT

Hành vi chủ hướng có chức năng trụ cột, quyết định hướng của tham thoại và
quyết định hành vi đáp thích hợp của người đối thoại. Hành vi phụ thuộc có nhiều
chức năng khác nhau. Ví dụ:
- Sp1: Xin lỗi! Anh có biết đồng chí Thuận ở đâu khơng ạ? Anh Thuận dạy
khoa Tốn ấy mà.
CH là hành vi hỏi và Sp2 khi nghe tham thoại này chắc chắn sẽ đáp lại bằng
câu trả lời biết hay không biết chỗ ở của Thuận. Tuy nhiên cũng có những trường
hợp tham thoại chỉ có PT nhưng người đối thoại lại hồi đáp theo CH ẩn. Ví dụ: Sp1:
Tắc đường ở Cầu Giấy đến hơn một tiếng. / Sp2: Không sao. Cuộc họp vẫn chưa
bắt đầu đâu.


CH của tham thoại của Sp1 là hành vi xin lỗi vì đến trễ nhưng gián tiếp. Bởi
vậy, Sp2 hồi đáp cho chính CH đó, khơng hồi đáp cho hành vi PT. Đây là vấn đề
của các hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong hội thoại.
1.1.3. Vấn đề lịch sự và quan hệ liên cá nhân trong hội thoại
1.1.3.1. Vấn đề lịch sự
Lịch sự là những chiến lược nhằm duy trì hay thay đổi quan hệ liên cá
nhân. Nó có chức năng gìn giữ sự cân bằng xã hội và quan hệ bè bạn, những quan
hệ này khiến chúng ta có thể tin rằng người đối thoại với chúng ta tỏ ra trước hết
là cộng tác với chúng ta. Phép lịch sự liên quan tới tất cả các phương diện của diễn
ngôn: bị chi phối bởi các quy tắc (ở đây khơng có nghĩa là những cơng thức hồn
tồn đã trở thành thói quen), xuất hiện trong địa hạt quan hệ liên cá nhân, chúng

có chức năng gìn giữ tính chất hài hịa quan hệ đó (ở mức thấp nhất là giải tỏa
những xung đột tiềm tàng, tốt hơn nữa là làm cho người này trở thành càng dễ
chịu đối với người kia thì càng tốt [12, tr. 256].
Khi hội thoại, các đối tác đều mong muốn giữ được thể diện cho cả mình và
người nghe. Vì vậy, khi thực hiện một hành động ở lời nào có khả năng làm mất thể
diện của đối tác thì người nói tìm cách làm dịu tác động đe dọa thể diện của nó bằng
những hành động cứu vãn thể diện hay giữ thể diện. Chẳng hạn, khi chê một người
nào đó tức là xúc phạm thể diện dương tính của người đó, người ta thường sử dụng
đến những yếu tố làm giảm sự xúc phạm thể diện như rào đón, nói giảm nói tránh,
dùng hành động gián tiếp (hỏi, tường thuật, cầu khiến).
Tuy nhiên, ranh giới giữa các hành động đe dọa thể diện và các hành động
giữ thể diện nhiều khi khơng phải dễ phân biệt. Có khi một hành động tôn vinh thể
diện lại trở thành một hành động đe dọa thể diện. Cho nên, để đảm bảo được phép
lịch sự khi giao tiếp phải thực hiện chiến lược lịch sự qua những phép lịch sự dương
tính và lịch sự âm tính.
Phép lịch sự là tập hợp những phương tiện mà người nói vận dụng để điều
phối các thể diện giao tiếp. Phải tơn trọng lãnh địa của người nói nhưng cũng phải
làm sao cho lãnh địa của mình khơng bị xúc phạm. Bởi vậy, phép lịch sự là rất cần
thiết và là chuẩn mực mà người nói ln hướng tới. Lịch sự gắn với văn hóa của


từng dân tộc nên việc nghiên cứu sự thể diện của phép lịch sự trong ngơn ngữ chính
là đi vào những đặc trưng văn hóa của từng dân tộc.
1.1.3.2. Quan hệ liên cá nhân
Quan hệ vai giao tiếp là quan hệ giữa các nhân vật giao tiếp đối với chính sự
phát, nhận trong giao tiếp. Còn quan hệ liên cá nhân là quan hệ so sánh xét trong
tương quan xã hội, hiểu biết, tình cảm giữa các nhân vật giao tiếp với nhau. Quan
hệ liên cá nhân giữa các nhân vật giao tiếp có thể xét theo hai trục, trục tung là vị
thế xã hội còn gọi là trục quyền uy, trục hồnh là trục của quan hệ khoảng cách
cịn được gọi là trục thân cận.

Trục hoành (trục khoảng cách, trục thân cận): Thể hiện khoảng cách tình
cảm gần gũi thân tình hay xa lạ giữa những người hội thoại với nhau, nó có thể
điều chỉnh được. Những quan hệ trên trục này gọi là quan hệ ngang. Có những
dấu hiệu phi lời, kèm lời và bằng lời để đánh dấu mức độ quan hệ này giữa
những người hội thoại.
Trục tung (trục quyền uy, trục vị thế): Thể hiện vị thế xã hội giữa những
người tham gia giao tiếp với nhau. Những quan hệ trên trục này gọi tắt là quan hệ
dọc. Những quan hệ chính về vị thế cũng biểu hiện qua các dấu hiệu phi lời, kèm lời
và những dấu hiệu ngôn ngữ. Các dấu hiệu ngôn ngữ bao gồm: các nghi thức xưng
hô, tổ chức các lượt lời, tổ chức cấu trúc của tương tác hội thoại, các hành động
ngơn ngữ. Sự khơng bình đẳng về vị thế, trước hết là những vấn đề của ngữ cảnh:
tuổi tác, giới tính, địa vị, vai trị trong hội thoại, sự làm chủ ngôn ngữ...
Vị thế xã hội và mức độ thân cận có ảnh hưởng khơng nhỏ đến nội dung,
hình thức và cả quá trình giao tiếp. Vị thế xã hội không đồng nhất với vị thế giao
tiếp (vai trò, vị thế của nhân vật tham gia hội thoại).
Quan hệ liên cá nhân chi phối cả tiến trình giao tiếp, cả nội dung và hình
thức diễn ngơn, do đó, xưng hô chịu áp lực rất mạnh từ quan hệ này. Qua việc sử
dụng từ xưng hô mà vai nghe biết được vai nói xác định quan hệ vị thế và quan hệ
xã hội với mình như thế nào. Các từ xưng hô trong tiếng Việt chịu áp lực rất mạnh
của quan hệ liên cá nhân. Qua các từ xưng hơ, người nghe có thể nhận biết được
người nói đã xác định quan hệ dọc hay quan hệ ngang trong giao tiếp như thế nào


để hồi đáp cho phù hợp. Từ xưng hô cũng phần nào phản ánh đặc điểm tính cách,
văn hóa giao tiếp của nhân vật. Vì vậy, khi nghiên cứu về hành động hỏi và hồi đáp
trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường vấn đề
xưng hơ khơng thể khơng nói đến. Vấn đề này được xem xét qua cuộc thoại trực
tiếp, gián tiếp và cặp thoại hẫng trong chương 2 và chương 3 của luận văn.
1.2. Lý thuyết hành động ngôn ngữ
Để khái quát những vấn đề cơ bản nhất về lý thuyết hành động ngôn ngữ,

chúng tôi đã tổng hợp trong cuốn Đại cương ngôn ngữ học, Tập 2, Nxb Giáo dục
của tác giả Đỗ Hữu Châu, từ trang 111 đến trang 145 làm căn cứ nghiên cứu. Cụ thể
các lý thuyết được khái quát như sau:
1.2.1. Khái niệm hành động ngôn ngữ
Theo J.Austin, trong cùng một hành động ngơn ngữ có hành động ở lời, hành
động tạo lời và hành động mượn lời. Nhờ đưa ra tiêu chí phân biệt này, J.Austin đã
điều chỉnh một cách sâu sắc mối quan hệ giữa ngôn ngữ và lời nói.
Lý thuyết hành động ngơn ngữ do J.Austin đề xướng vào những năm 60 của
thế kỉ XX, về sau được các nhà ngôn ngữ kế tục thành cơng trong đó, tiêu biểu là
J.Searle. Tác giả này đã chỉ ra hạn chế trong lý thuyết của J.Austin là chưa phân biệt
được sự khác nhau giữa hành động ngôn ngữ và động từ biểu hiện ngôn ngữ.
J.Searle đã đưa ra những tiêu chí cơ bản làm nền tảng cho sự phân biệt các hành vi
ở lời và trên cơ sở đó, ơng đã nêu ra tới mười hai phương diện mà các hành động có
thể khác nhau. Trong các tiêu chí đó, ơng chọn ba tiêu chí cơ bản để phân loại các
hành động tại lời: Đích của hành động ngôn trung; Hướng của sự ăn khớp giữa lời –
hiện thực; Trạng thái tâm lí được biểu hiện.
Xu hướng nghiên cứu hiện nay là chấp nhận lý thuyết và cách phân loại của
J.Searle nhiều hơn cả. Hành động ngôn ngữ là một phạm trù phổ quát mang tính
nhân loại và hành động hỏi cụ thể cũng mang tính phổ quát. Đề tài của chúng tôi
chọn cách quan niệm về hành động ngôn ngữ của J.Searle làm cơ sở tiền đề để đi
vào tìm hiểu các hành động hỏi và hồi đáp trong tác phẩm Mảnh đất lắm người
nhiều ma của tác giả Nguyễn Khắc Trường.


1.2.2. Phân loại hành động ngôn ngữ
1.2.2.1. Hành động tạo lời
Theo J.Austin hành động tạo lời là hành động của “nói một cái gì đó”, là
hành động bao gồm (đại thể) các tiểu loại: hành động ngữ âm, hành động cấu âm và
hành động tạo nội dung mệnh đề, tức hành động sử dụng các từ có khái niệm và sở
chỉ ở một chừng mực nào đó có tính xác định.

1.2.2.2. Hành động tại lời
Hành động tại lời là hành động được thực hiện ngay khi nói năng. Nó là mục
đích của hành động tạo lời, là chức năng của lời nói từ bình diện tác động; nói cách
khác, nó là thao tác tạo lực ngôn trung của phát ngôn. Đặc trưng của hành động tại
lời là vừa thể hiện ý định của người nói vừa có tính quy ước. Mỗi loại hành động
ngơn từ có phương diện biểu đạt riêng và được gọi là phương thức biểu đạt lực
ngôn trung. Dựa vào phương thức biểu đạt lực ngôn trung, các hành động tại lời
được chia thành ba loại: hành động lời nói cơ bản, hành động lời nói tường minh và
hành động lời nói gián tiếp.
1.2.2.3. Hành động mượn lời
Hành động mượn lời là hậu quả của hành động tạo lời và hành động tại lời.
Khi thực hiện một hành động tại lời, chúng ta luôn luôn tạo ra những hậu quả với
các mức độ khác nhau, trong đó, một số khơng thuộc ý muốn của người nói. Nếu
như đặc trưng của hành động tại lời là tính quy ước thì đặc trưng của hành động
mượn lời là ln đề cập đến một hậu quả nào đó.
1.2.3. Các loại hành động ngôn ngữ
1.2.3.1. Phân loại hành động ngôn ngữ của Austin
Theo Đỗ Hữu Châu (2009), Đại cương ngôn ngữ học, Tập hai, Nxb Giáo
Dục, tr.121, J.Austin chia các loại hành động ngôn ngữ thành 5 phạm trù lớn sau:
- Phán xử: Đây là những hành động đưa ra những lời phán xét về một sự
kiện hoặc một giá trị dựa trên những chứng cớ hiển nhiên hoặc dựa vào lí lẽ vững
chắc như: xử trắng án, xem là, tính toán, miêu tả...
- Hành xử: Đây là những hành động đưa ra những quyết định thuận lợi hay
chống lại một chuỗi hành động nào đó: ra lệnh, chỉ huy, biện hộ cho, khẩn cầu, đặt


hàng, giới thiệu, van xin, và các hành vi ngôn ngữ như bổ nhiệm, đặt tên, tuyên bố
khai mạc, bế mạc, tuyên ngôn.
- Cam kết: Những hành động này ràng buộc người nói vào một chuỗi những
hành động nhất định: hứa hẹn, bày tỏ lòng mong muốn, giao ước, bảo đảm, thề

nguyền, thông qua các quy ước, tham gia một phe nhóm.
- Trình bày: Những hành động này được dùng để trình bày các quan niệm,
dẫn dắt lập luận, giải thích cách dùng các từ như: khẳng định, phủ định, trả lời, phản
bác, nhượng bộ, dẫn thí dụ, chuyển dạng lời...
- Ứng xử: Đây là những hành động phản ứng với cách xử sự của người khác,
đối với các sự kiện có liên quan, chúng cũng là cách biểu hiện thái độ đối với hành
động hay số phận của người khác: xin lỗi, cám ơn, khen ngợi, chào mừng, phê
phán, chia buồn, ban phước, thách thức...
1.2.3.2. Phân loại hành động ngôn ngữ của J.Searle
J.Searle đã đưa ra 12 điểm được dùng làm tiêu chí phân loại, trong đó có 4
tiêu chí cơ bản nhất (tiêu chí đích ở lời; tiêu chí hướng khớp ghép; tiêu chí trạng
thái tâm lí và tiêu chí nội dung mệnh đề) để phân loại 5 phạm trù hành động ở lời,
đó là:
- Tái hiện: Hành động này trước đó được J.Searle gọi tên là xác tín. Đích ở
lời là miêu tả lại một sự tình đang được nói đến. Hướng khớp ghép là lời – hiện
thực, trạng thái tâm lí là niềm tin vào điều mình xác tín, nội dung mệnh đề là một
mệnh đề. Mệnh đề này có thể đánh giá theo tiêu chuẩn đúng – sai lơgic. Hành động
tái hiện / xác tín gồm các động từ: kể, thơng báo, giải trình, giới thiệu...
- Điều khiển: Đích ở lời là đặt người nghe vào trách nhiệm thực hiện một
hành động tương lai; hướng khớp ghép là hiện thực – lời, trạng thái tâm lí là sự
mong muốn của người nói; nội dung mệnh đề là hành động tương lai của người
nghe. Hành động điều khiển gồm các động từ: ra lệnh, yêu cầu, hỏi, cho phép, dặn
dò, mời mọc ...
- Cam kết (hứa hẹn, tặng, biếu): Đích ở lời là trách nhiệm phải thực hiện
hành động tương lai mà Sp1 bị ràng buộc; hướng khớp ghép hiện thực – lời; trạng
thái tâm lí là ý định của Sp1 và nội dung mệnh đề là hành động tương lai của Sp1.


- Biểu cảm: Đích ở lời là bày tỏ trạng thái tâm lí phù hợp với hành động ở lời
(vui thích / khó chịu, mong muốn / rẫy bỏ...). Trạng thái tâm lí thay đổi tùy theo

từng loại hành động, nội dung mệnh đề là một hành động hay một tính chất nào đó
của Sp1 hay của Sp2. Hành động biểu cảm gồm các động từ: vui thích, khó chịu,
mong muốn, xin lỗi, chúc, chào, khen, ước ...
- Tuyên bố: Đích ở lời là nhằm làm cho có tác dụng nội dung của hành động
hướng khớp ghép vừa là lời – hiện thực, vừa là hiện thực – lời; nội dung mệnh đề là
một mệnh đề. Hành động tuyên bố gồm các động từ: tuyên bố, buộc tội, bác bỏ, từ
chối ...
1.2.4. Biểu thức ngữ vi và dấu hiệu ngữ vi
1.2.4.1. Khái niệm biểu thức ngữ vi
Phát ngôn ngữ vi là phát ngôn gây hiệu lực ở lời nhất định. Phát ngôn ngữ vi
mang một hiệu lực ở lời nào đó thì chúng có cấu trúc hình thức ấy, hay còn gọi là
cấu trúc đặc trưng. Tác giả Đỗ Hữu Châu cũng có một cách định nghĩa tương tự:
“Phát ngơn ngữ vi có một kết cấu lõi đặc trưng cho hành vi ở lời tạo ra nó. Kết cấu
lõi đó được gọi là biểu thức ngữ vi” [9, tr. 76].
Với quan niệm về biểu thức ngữ vi như trên, chúng tôi nhận thấy để biểu thị
biểu thức ngữ vi hỏi có các dạng sau:
a. Dùng đại từ nghi vấn
b. Dùng các cặp phụ từ lựa chọn theo khuôn hỏi kiểu: có... khơng, có... chưa,
có phải... khơng, (có) phải khơng, đã... chưa…
Những câu hỏi kiểu này thường chỉ xuất hiện ở vị trí phụ thuộc của cấu trúc
đối thoại, nhằm kiểm tra lại một ý kiến có trước cịn tỏ ra chưa dứt khoát, chưa
quả quyết với một dụng ý nhằm buộc người đối thoại phải bày tỏ quan niệm một
cách rõ ràng, dứt khốt hoặc khi mà trước đó có một ý kiến, một sự chờ đợi rằng
sự việc không, chưa xảy ra nhưng vào lúc nói lại thấy cần phải kiểm tra lại.
Chẳng hạn: “Nó có làm gì con không? / “Không!”. Các câu hỏi dùng các cặp
phụ từ biểu thị sự lựa chọn giữa những mặt đối lập thống nhất mang tính tương liên
(khẳng định / phủ định).
c. Dùng quan hệ từ: hay/ hoặc/ hay là



Những quan hệ từ này cũng thuộc dạng câu hỏi lựa chọn. Dạng thức này
không yêu cầu người đối thoại khẳng định hay phủ định nội dung thông tin trong
câu hỏi mà yêu cầu người đối thoại phải đưa ra phương án lựa chọn của bản thân
trong từng tình huống giao tiếp cụ thể.
d. Dùng ngữ điệu (gắn với ngữ cảnh và động từ)
e. Dùng một số từ tình thái kiểu như: à, ư, hử, hả… , không… v.v.
1.2.4.2. Biểu thức ngữ vi tường minh và biểu thức ngữ vi hàm ẩn
Biểu thức ngữ vi có thể có động từ ngữ vi hay khơng có động từ ngữ vi trên
bề mặt câu chữ. Nếu biểu thức ngữ vi có chứa động từ ngữ vi trên bề mặt câu chữ
thì đó là biểu thức ngữ vi tường minh. Ví dụ: Tơi mong chị sẽ đến; Mời bà xơi cơm;
Tôi cấm anh nói xấu cơ ấy; Anh hứa sẽ đến đúng hẹn… v.v.
Nếu biểu thức ngữ vi khơng có các động từ ngữ vi trên bề mặt câu chữ thì đó
là biểu thức ngữ vi hàm ẩn hay còn gọi là biểu thức ngữ vi ngun cấp. Ví dụ: Ơ...
thế anh ra khỏi Đảng à?; Sao bảo ông ta chết rồi?; Thằng Long đâu?... v.v.
1.2.4.3. Dấu hiệu ngữ vi
Dấu hiệu ngữ vi là những cấu trúc và từ ngữ thể hiện hành vi tại lời. Để nhận
biết dấu hiệu ngữ vi người ta thường dựa vào các căn cứ sau đây:
- Các kiểu kết cấu như các kiểu câu có mục đích nói: trần thuật, hỏi, cầu
khiến, cảm thán… những kết cấu cụ thể ứng với từng hành động ở lời.
Với những phát ngôn ngữ vi nguyên cấp, Sp2 phải căn cứ vào dấu hiệu ngữ
vi và ngữ cảnh thì mới tìm được hành động tại lời chính xác.
Ví dụ: đi đi! - Nếu con đang chơi ở bếp, mẹ nói câu trên thì đó là hành vi ra
lệnh. Nếu con xin phép đi chơi, câu nói trên của người mẹ là hành động cho phép.
- Những từ ngữ chuyên dùng như những từ ngữ chuyên dùng trong các biểu
thức ngữ vi hỏi: ai, cái gì, bao giờ, mấy, à, ư, nhỉ...
- Ngữ điệu: cùng một tổ chức từ vựng, ngữ pháp cụ thể, nếu được phát âm
với những ngữ điệu khác nhau sẽ cho các biểu thức ngữ vi khác nhau ứng với
những hành động ở lời khác nhau.
Ví dụ:
- Anh có thể mở cửa giúp tơi được khơng? (nhờ vả)



- Anh mở ngay cửa ra. (ra lệnh)
1.3. Đôi nét về nhà văn Nguyễn Khắc Trường và tiểu thuyết Mảnh đất
lắm người nhiều ma
Nguyễn Khắc Trường sinh ngày 6 tháng 7 năm 1946 tại Đồng Hỷ - Thái
Nguyên là một nhà văn nổi tiếng tại Việt Nam. Năm 1965, ông nhập ngũ và phục vụ
trong Qn chủng Phịng khơng. Sau khi tốt nghiệp Trường viết văn Nguyễn Du,
ông chuyển về làm biên tập viên văn xi tại tạp chí Văn nghệ Quân đội. Ông trở
thành thành viên của Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1982. Năm 1993, ông chuyển
về công tác tại tổ văn xuôi của báo Văn nghệ. Năm 2003, khi đang là Phó Tổng biên
tập Báo Văn Nghệ, ơng chuyển sang làm Phó giám đốc Tổng biên tập Nhà xuất bản
Hội nhà văn đến năm 2011 thì nghỉ hưu. Hiện ông là Chủ tịch Hội đồng Văn xuôi
của Hội nhà văn Việt Nam và ông đang sống tại Hà Nội.
Là một nhà văn viết về thể loại các tác phẩm Tiểu thuyết và Truyện ngắn như:
Cửa khẩu (Tập truyện vừa, 1972); Thác rừng (Tập truyện ngắn, 1976); Mảnh đất
lắm người nhiều ma (tiểu thuyết,1990); Miền đất Mặt trời (tập truyện, 1982);
Thác rừng (tập truyện,1976)… trong đó tác phẩm Mảnh đất lắm người nhiều ma
được xem là tiêu biểu nhất của ông đã được đạo diễn Nguyễn Hữu Phần dựng thành
phim truyền hình Đất và Người ra mắt cơng chúng năm 2002. Với tài năng của
mình, Nguyễn Khắc Trường đã vinh dự nhận được nhiều giải thưởng cao quý về
văn học nghệ thuật: Giải thưởng cuộc thi truyện ngắn báo Văn nghệ và Đài tiếng
nói Việt Nam năm 1986 với tác phẩm Gặp lại anh hùng Núp; Tiểu thuyết Mảnh đất
lắm người nhiều ma, giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm 1991; Giải thưởng
Nhà nước về văn học và nghệ thuật năm 2000.
Nhà văn Nguyễn Khắc Trường u những tác giả viết về nơng thơn từ bé.
Ơng ln có cảm giác bâng khng, bần thần khi đọc những trang văn viết về cảnh
“nhà quê” của Nam Cao, Kim Lân,… khi đó trong ơng bỗng có một mơ ước được
thử sức về đề tài này và ông đã thành công. Cuốn tiểu thuyết “Mảnh đất lắm người
nhiều ma” được nhà văn Nguyễn Khắc Trường hồn thành năm ơng 44 tuổi, khi đã

có độ chín về những cảm nhận đời sống và nghề văn. Khi ông cảm thấy rằng, văn
chương là một “bể mênh mông” nhưng cũng sẽ lọt thỏm vào vịng xốy của nó nếu


×