Tải bản đầy đủ (.pdf) (134 trang)

Đảo lý sơn quảng ngãi trong quá trình xác lập và bảo vệ chủ quyền biển đảo việt nam (từ thế kỷ xvii đến thế kỷ xix)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.45 MB, 134 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***

NGUYỄN THỊ HẠ

ĐẢO LÝ SƠN – QUẢNG NGÃI TRONG
QUÁ TRÌNH XÁC LẬP VÀ BẢO VỆ
CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO VIỆT NAM
(TỪ THẾ KỶ XVII ĐẾN THẾ KỶ XIX)

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.54

Tp. Hồ Chí Minh tháng 10 năm 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***

NGUYỄN THỊ HẠ

ĐẢO LÝ SƠN – QUẢNG NGÃI TRONG
QUÁ TRÌNH XÁC LẬP VÀ BẢO VỆ
CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO VIỆT NAM
(TỪ THẾ KỶ XVII ĐẾN THẾ KỶ XIX)

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.54


Người hướng dẫn khoa học:

PGS.TS. TRẦN NAM TIẾN

Tp. Hồ Chí Minh tháng 10 năm 2014


MỤC LỤC
Trang
DẪN LUẬN ...................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài .................................................................... 4
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ..................................................... 6
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài .......................................... 6
5. Phƣơng pháp nghiên cứu .................................................................... 6
6. Giả thiết và câu hỏi nghiên cứu.......................................................... 7
7. Kết cấu của luận văn ........................................................................... 7
8. Hƣớng tiếp cận tƣ liệu để thực hiện đề tài ........................................ 8

CHƢƠNG 1: LÝ SƠN – ĐẤT VÀ NGƢỜI ........................................ 10
1.1. Vị trí địa lý và dân cƣ .................................................................... 10
1.2. Quá trình thay đổi địa danh, địa giới của Lý Sơn trong lịch sử ....... 25
1.3. Sự phát triển của Lý Sơn qua các thời kỳ lịch sử ....................... 28

CHƢƠNG 2: VAI TRÒ CỦA ĐẢO LÝ SƠN TRONG QUÁ TRÌNH
XÁC LẬP VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO VIỆT NAM TỪ
THẾ KỶ XVII ĐẾN THẾ KỶ XIX ..................................................... 34
2.1. Vài nét về quá trình Nam tiến của dân tộc Việt Nam ................. 34
2.2. Lý Sơn trong quá trình xác lập chủ quyền và hình thức khai
thác các vùng biển, đảo dƣới thời các chúa Nguyễn và triều Tây Sơn

thế kỷ XVII-XVIII ................................................................................. 41


2.2.1. Lý Sơn trong quá trình xác lập chủ quyền biển đảo dưới thời
các chúa Nguyễn và triều Tây Sơn vào thế kỷ XVII-XVIII ................. 41
2.2.2. Lý Sơn trong quá trình khai thác các vùng biển, đảo dưới thời
các chúa Nguyễn và triều Tây Sơn vào thế kỷ XVII-XVIII ................. 45
2.3. Lý Sơn trong q trình hồn chỉnh việc xác lập và bảo vệ chủ
quyền dƣới thời nhà Nguyễn thế kỷ XIX ............................................ 56
2.3.1. Lý Sơn với cách tổ chức phiên chế đội Hoàng Sa.................. 56
2.3.2. Lý Sơn trong hoạt động thực thi chủ quyền biển đảo dưới thời
nhà Nguyễn thế kỷ XIX ..................................................................... 65

CHƢƠNG 3: NHẬN THỨC VÀ ĐÁNH GIÁ VAI TRỊ CỦA LÝ
SƠN TRONG Q TRÌNH BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO
VIỆT NAM HIỆN NAY ....................................................................... 75
3.1. Những giá trị pháp lý và lịch sử liên quan đến chủ quyền biển
đảo của Việt Nam ở vùng đảo Lý Sơn ................................................. 75
3.2. Vai trò của đảo Lý Sơn trong quá trình nhận thức và bảo vệ chủ
quyền biển đảo của Việt Nam hiện nay............................................... 95
3.3. Định hƣớng cho sự phát triển những giá trị của đảo Lý Sơn
trong quá trình khẳng định và bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam
hiện nay .................................................................................................. 97
KẾT LUẬN ................................................................................................. 102
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 106
PHỤ LỤC .................................................................................................... 111


1


DẪN LUẬN
1. Lý do chọn đề tài
Trong tiến trình lịch sử Việt Nam, ý thức xác lập và bảo vệ chủ
quyền đã trở thành một xu hướng tất yếu nhằm mục đích phát triển đất
nước và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Đi cùng với quá trình xác lập
và bảo vệ chủ quyền quốc gia trên đất liền trong lịch sử Việt Nam là quá
trình xác lập và bảo vệ chủ quyền trên biển. Có thể nói, ý thức về biển đã
xuất hiện khá sớm trong những truyền thuyết cổ xưa, từ trước khi xuất hiện
những nhà nước phong kiến đầu tiên ở Việt Nam. Truyền thuyết về mệ Âu
Cơ cùng 50 người con lên núi trong khi cha Lạc Long Quân đưa 50 người
con xuống biển để khai phá và mở mang những vùng đất mới đã cho thấy
yếu tố biển sớm xuất hiện và tồn tại trong tâm thức người Việt xưa. Đồng
thời, yếu tố biển còn xuất hiện liên tục trong những giai đoạn sau qua
những truyền thuyết về An Dương Vương và Mỵ Châu – Trọng Thủy: “Tôi
kể ngày xưa chuyện Mị Châu. Trái tim lầm chỗ để trên đầu. Nỏ thần vô ý
trao tay giặc. Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu”. Khi thua trận, vua An Dương
Vương đem Mỵ Châu lên ngựa chạy về phương Nam đến vùng biển ngày
nay thuộc Nghệ An thì thấy rùa thần Kim Quy nổi lên và nói giặc ngồi sau
lưng. Ngồi ra, cịn phải kể đến truyền thuyết về Mai An Tiêm khi bị đi đày
đã biết trồng dưa hấu ngoài hoang đảo hay về trận giao chiến giữa Sơn
Tinh và Thủy Tinh. Truyền thuyết nhằm nói lên một thực tế mà dân tộc ta
phải đối mặt ngay từ buổi đầu lịch sử, đó là nạn thiên tai lụt lội. Bên cạnh ý
nghĩa đó, yếu tố nước biển dâng trong câu chuyện truyền thuyết này đã
cung cấp cho chúng ta biết thêm những hiểu biết về biển của nhân dân ta từ
xa xưa.
Từ khi bước vào giai đoạn độc lập tự chủ, các chính quyền phong
kiến Việt Nam đã xác lập chủ quyền trên biển, đồng thời thành lập những


2


đội thủy quân để ra sức bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của quốc gia. Minh
chứng rõ ràng cho quá trình này được thể hiện đậm nét qua những trận thủy
chiến chống giặc ngoại xâm trong những lần nước ta phải đương đầu với
những kẻ thù hùng mạnh vào loại bậc nhất lúc bấy giờ. Đó là trận Bạch
Đằng chống quân Nam Hán của Ngô Quyền năm 938, chiến thắng Bạch
Đằng của Lê Hoàn chống quân Tống năm 981 và sau đó là những trận Vạn
Kiếp, Hàm Tử, Chương Dương, Vân Đồn và trận Bạch Đằng trong 3 lần
kháng quân Mông Nguyên của vua tôi và quân dân nhà Trần.
Từ thế kỷ XVII, cùng với quá trình Nam tiến, các chúa Nguyễn đã có
cơng lao hết sức to lớn trong việc khai phá, phát triển vùng đất mới và mở
rộng lãnh thổ quốc gia về phía Nam, bao gồm cả đảo ven bờ và 2 quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa. Có thể nói, trong thời kỳ này, ý thức xác lập chủ
quyền trên vùng biển đảo được các chúa Nguyễn đặc biệt quan tâm. Bên
cạnh việc xác lập chủ quyền trên đất liền, các chúa Nguyễn đã tiến hành
xác lập chủ quyền trên biển từ các đảo của vùng Thuận Quảng đến các đảo
ở vùng phía Nam thơng qua việc thành lập đội Hồng Sa và đội Bắc Hải.
Trong đó, đội Hoàng Sa chịu trách nhiệm khai thác và bảo vệ quần đảo
Hồng Sa và có một phần thuộc quần đảo Trường Sa, còn đội Bắc Hải cai
quản các đảo cịn lại ở phía Nam trở xuống. Cũng chính giai đoạn này, đảo
Lý Sơn được các chúa Nguyễn giao cho một sứ mệnh lịch sử quan trọng
trong việc xây dựng lực lượng để xác lập và bảo vệ chủ quyền trên biển,
thành lập đội Hoàng Sa và lực lượng chủ yếu của đội Hoàng Sa là lấy dân
của đảo này. Đội Hồng Sa khơng chỉ cai quản Hồng Sa và Trường Sa mà
còn kiêm quản cả đội Bắc Hải, tức cai quản cả vùng biển đảo rộng lớn của
Việt Nam lúc bấy giờ.
Sang giai đoạn sau, triều đình nhà Nguyễn kế thừa những thành quả
trước đó của các chúa Nguyễn trong việc xác lập và bảo vệ chủ quyền trên
biển, đồng thời đẩy mạnh, phát triển q trình này thơng qua việc xây dựng



3

và củng cố thủy quân thành một lực lượng hùng mạnh để bảo vệ vững chắc
chủ quyền của một quốc gia độc lập, thống nhất. Đội Hoàng Sa vẫn được
tiếp tục duy trì hoạt động và triều đình có những quy định chặt chẽ về
thưởng phạt đối với những hoạt động của đội này cũng như quy định hoạt
động của đội này là thường xuyên hàng năm, nếu năm nào khơng hoạt động
sẽ có lệnh từ triều đình. Năm 1816, vua Gia Long lệnh cho thủy quân phối
hợp với đội Hoàng Sa để ra Hoàng Sa xem xét và đo thủy trình. Đến thời
Minh Mạng, việc đo đạc thủy trình chủ yếu giao cho thủy quân và thuê
thuyền của dân để hướng dẫn hải trình. Đặc biệt, hiện nay lễ Khao lề thế
lính Hồng Sa vẫn cịn được duy trì và bảo lưu tại đảo Lý Sơn, ghi nhận
những giá trị lịch sử của quá trình xác lập và bảo vệ chủ quyền biển đảo
Việt Nam. Có thể nói, từ rất sớm các chính quyền phong kiến VN đã sớm ý
thức về việc xác lập chủ quyền biển đảo và điều này đã được ghi nhận
trong nhiều tài liệu thư tịch. Thế nhưng quá trình này được lưu giữ trong ký
ức dân gian cịn rất hiếm hoi. Chính vì vậy, sự tồn tại của lễ Khao lề thế
lính Hồng Sa ở Lý Sơn đã trở thành một ký ức đặc biệt, độc đáo về quá
trình xác lập và bảo vệ chủ quyền biển đảo của dân tộc Việt Nam trong lịch sử.
Trong một giai đoạn lịch sử, Lý Sơn đã trở thành nơi có vị trí quan
trọng trong q trình xác lập chủ quyền biển đảo Việt Nam. Vậy tại sao Lý
Sơn được các chúa Nguyễn lựa chọn và giao cho sứ mệnh lịch sử này? Để
có thể đánh giá và phục dựng lại quá trình xác lập và bảo vệ chủ quyền
biển đảo Việt Nam trong lịch sử giai đoạn từ từ thế kỷ XVII đến thế kỷ
XIX, chúng tôi đã chọn đề tài “Đảo Lý Sơn – Quảng Ngãi trong quá
trình xác lập và bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam (từ thế kỷ XVII
đến thế kỷ XIX)” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
Mục đích nghiên cứu
- Giới thiệu vị trí, đặc biệt là vị trí địa qn sự của Lý Sơn trong q

trình xác lập và bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam cũng như tiến trình


4

phát triển của đảo Lý Sơn trong sự phát triển chung của Quảng Ngãi.
- Phục dựng lịch sử để xác định vai trị của Lý Sơn trong q trình
xác lập và bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam. Trong đó, chú trọng vào
thời kỳ của các chúa Nguyễn và các vua triều Nguyễn.
- Liên kết quá khứ với hiện tại, đưa ra những nhận xét, đánh giá
những giá trị còn lưu giữ hiện nay trên đảo Lý Sơn dù nó khơng cịn đảm
nhiệm vai trị lịch sử như trong giai đoạn trước.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Đây là một đề tài mới khi chúng tôi lựa chọn nghiên cứu về vai trò
của một vùng đất đối với quá trình xác lập và bảo vệ chủ quyền biển đảo
của Việt Nam trong lịch sử. Do đó, chưa có một cơng trình nào nghiên cứu
về khía cạnh này.
Tư liệu đầu tiên ghi chép về quá trình xác lập, bảo vệ và tiếp sau đó
là khẳng định chủ quyền biển đảo của quốc gia tại 2 quần đảo Hoàng Sa và
trường Sa là những tài liệu thư tịch. Từ đó, những tư liệu này cũng đã có
những ghi nhận về sự tham gia của Lý Sơn trong quá trình xác lập và bảo
vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam như Lê Q Đơn (2007), Phủ biên tạp
lục, NXB. Văn hóa – Thông tin; Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại
Nam thực lục, NXB. Giáo Dục, Hà Nội; Phan Huy Chú (1960), Lịch triều
hiến chương loại chí tập 1, NXB. Sử học, Hà Nội; Phan Huy Chú (1997),
Hồng Việt địa dư chí, NXB. Thuận Hóa, Huế.
Trong thời đại mới, những cơng trình nghiên cứu về Hoàng Sa và
Trường Sa cũng như nghiên cứu về quá trình xác lập chủ quyền biển đảo
Việt Nam tuy chưa có phần dành riêng cho vai trị của Lý Sơn nhưng cũng
đã có đề cập đến địa danh Lý Sơn – Quảng Ngãi khi nói đến hải đội Hồng

Sa, khu mộ gió hay Âm Linh tự và Nhà trưng bày hải đội Hoàng Sa Bắc
Hải cùng với các tài liệu thư tịch, văn bản Hán Nơm có liên quan được lưu


5

giữ tại tư gia của các dòng họ trên đảo Lý Sơn. Có thể nói, thơng qua
những địa danh và những tài liệu trên đã gián tiếp cho thấy vai trò của Lý
Sơn trong lịch sử xác lập và bảo vệ chủ quyền biển đảo của dân tộc. Những
cơng trình nghiên cứu về 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được xuất
bản thành sách trong thời gian gần đây khi vấn đề chủ quyền biển đảo quốc
gia trở thành tâm điểm chú ý như: Nguyễn Việt Long (2012), Lẽ phải luật
quốc tế và chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, NXB.
Trẻ, Tp. HCM; Monique Chemillier – Gendreau (2011), Chủ quyền trên
hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, NXB. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà
Nội; Nhiều tác giả (2012), Bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý, Hoàng Sa,
Trường Sa là của Việt Nam, NXB. Trẻ, Tp. HCM.
Đáng chú ý có cơng trình của Nguyễn Nhã (2002), Quá trình xác lập
chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Luận án
Tiến sĩ lịch sử tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Tp. HCM. Trong chương 2 của luận án này có phần viết về địa
bàn ra đời của đội Hoàng Sa là Cù Lao Ré (Lý Sơn) và cửa biển Sa Kỳ:
“dân cửa biển Sa Kỳ và Cù Lao Ré (Quảng Ngãi) được chính quyền thời
Chúa Nguyễn tín nhiệm giao trọng trách khai khẩn tới đâu, quản lý tới đó,
cịn được giao nhiệm vụ khác: kiêm quản”[14:72].
Gần đây, một số tác phẩm mới được xuất bản có liên quan về Lý Sơn
– Quảng Ngãi. Trong đó, nổi bật có tác phẩm của PGS. TS Trần Nam Tiến
(2014), Đội Hoàng Sa trong lịch sử xác lập và bảo vệ chủ quyền biển đảo
của Việt Nam, NXB. Văn hóa – Văn nghệ, Tp.HCM. Tác phẩm này có một
mục trong chương 1 nêu vài nét về huyện đảo Lý Sơn – nơi được xem là

quê hương của hải đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải. Phần này có nói đến
việc các dịng họ tiền hiền trong vùng cửa biển Sa Kỳ di cư ra Cù Lao Ré
cũng như việc tham gia hải đội Hoàng Sa của con em các dòng họ này.
Tuy nhiên, những tác phẩm này đều chưa lấy Lý Sơn là đối tượng


6

nghiên cứu chính mà chỉ đề cập đến Lý Sơn với tư cách là quê hương của
hải đội Hoàng Sa. Từ đó, chưa nêu bật được vai trị của vùng đất Lý Sơn –
một huyện đảo tiền tiêu đối với quá trình xác lập và bảo vệ chủ quyền biển
đảo của dân tộc Việt Nam trong lịch sử cũng như vai trị của huyện đảo này
trong q trình nhận thức và bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là đảo Lý Sơn trong quá trình xác
lập và bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam và phạm vi nghiên cứu giới
hạn trong khoảng thời gian từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX. Đây là giai
đoạn thể hiện rõ vai trò của Lý Sơn trong quá trình xác lập và bảo vệchủ
quyền biển đảo trong giai đoạn đầu cũng như trong việc khẳng định chủ
quyền biển đảovào giai đoạn tiếp sau đó trong lịch sử Việt Nam.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Trong tình hình hiện nay, việc nghiên cứu về biển đảo Việt Nam mà
đặc biệt là hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đang dần chiếm một vị trí
quan trọng, nó cung cấp những bằng chứng lịch sử về những hoạt động
thực thi chủ quyền đã có từ trong quá khứ của các chính quyền phong kiến
Việt Nam trên hai quần đảo này. Việc nghiên cứu vai trò của một vùng đất
như đảo Lý Sơn – một huyện đảo tiền tiêu - có vai trị quan trọng đối với
quá trình xác lập và bảo vệ chủ quyền biển đảo sẽ góp thêm tư liệu nhằm
phục dựng về một quá trình lịch sử đáng tự hào của dân tộc.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử và phương pháp tư
duy logic dựa trên nền tảng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở nhận thức các vấn đề nghiên cứu.
Đồng thời sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê cùng với
phương pháp điền dã để thu thập tài liệu.


7

6. Giả thiết và câu hỏi nghiên cứu
Giả thiết của đề tài được đưa ra là Lý Sơn đã có một vai trị quan
trọng trong q trình xác lập và bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam trong
lịch sử từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX.
Từ đó, dẫn đến các câu hỏi nghiên cứu sau:
- Tại sao Lý Sơn được các chúa Nguyễn lựa chọn làm nơi xây dựng
lực lượng để xác lập và bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam?
- Các chúa Nguyễn có những chính sách gì để duy trì, phát triển lực
lượng, xác lập và bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam?
- Vai trò của Lý Sơn được thể hiện như thế nào trong quá trình xác
lập và bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam trong lịch sử cũng như hiện
nay?
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần dẫn luận, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, đề tài
được chia làm 3 chương. Trong đó:
CHƢƠNG 1 – LÝ SƠN – ĐẤT VÀ NGƢỜI
1.1. Vị trí địa lý và dân cư
1.2. Quá trình thay đổi địa danh, địa giới của Lý Sơn trong lịch sử
1.3. Sự phát triển của Lý Sơn qua các thời kỳ lịch sử
CHƢƠNG 2 – VAI TRÒ CỦA ĐẢO LÝ SƠN TRONG QUÁ TRÌNH
XÁC LẬP VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO VIỆT NAM TỪ

THẾ KỶ XVII ĐẾN THẾ KỶ XIX
2.1. Vài nét về quá trình Nam tiến của dân tộc Việt Nam
2.2. Lý Sơn trong quá trình xác lập chủ quyền và hình thức khai thác
các vùng biển, đảo dưới thời các chúa Nguyễn và triều Tây Sơn thế kỷ
XVII-XVIII
2.3. Lý Sơn trong q trình hồn chỉnh việc xác lập và bảo vệ chủ
quyền dưới thời nhà Nguyễn thế kỷ XIX


8

CHƢƠNG 3 –NHẬN THỨC VÀ ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ CỦA LÝ SƠN
TRONG QUÁ TRÌNH BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO VIỆT
NAM HIỆN NAY
3.1. Những giá trị pháp lý và lịch sử liên quan đến chủ quyền biển
đảo của Việt Nam ở vùng đảo Lý Sơn
3.2. Vai trò của đảo Lý Sơn trong quá trình nhận thức và bảo vệ chủ
quyền biển đảo của Việt Nam hiện nay
3.3. Định hướng cho sự phát triển những giá trị của đảo Lý Sơn trong
quá trình khẳng định và bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam hiện nay.
8. Hƣớng tiếp cận tƣ liệu để thực hiện đề tài
- Nguồn tư liệu quan trọng nhất để nghiên cứu chính là các thư tịch
cổ.
- Nguồn tài liệu thứ hai là từ các sách, báo, tạp chí, các bài viết được
cơng bố gần đây khi vấn đề chủ quyền biển đảo của Việt Nam trở thành
một đề tài được nhiều học giả quan tâm.
- Nguồn tư liệu do công tác điền dã thu nhận được.


9


CHƢƠNG 1
LÝ SƠN – ĐẤT VÀ NGƢỜI
1.1. Vị trí địa lý và dân cƣ
Khái quát chung về Quảng Ngãi
Lý Sơn là huyện đảo duy nhất của tỉnh Quảng Ngãi. Do đó, về mặt
địa lý và dân cư, đảo Lý Sơn và tỉnh Quảng Ngãi nằm trong mối tương
quan mật thiết với nhau. Tuy nhiên, vì là đảo ven bờ nên bên cạnh những
điểm giống nhau, Lý Sơn còn mang một sắc thái riêng về địa lý và dân cư
so với các huyện trong đất liền của tỉnh Quảng Ngãi.
Quảng Ngãi là một tỉnh nằm ở vùng duyên hải ven biển Nam Trung
Bộ Việt Nam. Tọa độ địa lí 14º32’40’’ – 15º25’ vĩ Bắc, 108º06’ –
109º04’35’’ kinh Đơng.
Phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía nam giáp tỉnh Bình Định, phía
tây nam giáp tỉnh Gia Lai, phía tây giáp tỉnh Kon Tum, phía đơng giáp biển Đơng.
Về diện tích, tỉnh Quảng Ngãi rộng 5.152,67 km2; về dân số có
1.306.307 người, mật độ dân số 254 người/km2 (dựa theo niên giám thống
kê năm 2007) [59].
Theo đơn vị hành chính, hiện nay tỉnh Quảng Ngãi gồm có một
thành phố tỉnh lị, 6 huyện đồng bằng, 6 huyện miền núi và một huyện đảo.
Tất cả gồm 8 phường, 10 thị trấn và 162 xã. Thành phố mang tên Quảng
Ngãi là một thành phố tỉnh lị (đô thị loại III) được thành lập theo Nghị định
số 112/2005/NĐ của chính phủ ngày 26/8/2005; 6 huyện đồng bằng gồm:
Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Mộ Đức, Đức Phổ; 6 huyện
miền núi gồm: Ba Tơ, Minh Long, Sơn Hà, Sơn Tây, Trà Bồng, Tây Trà; 1
huyện đảo mang tên Lý Sơn bao gồm hai đảo: đảo lớn và đảo bé.Quảng
Ngãi có 4 tộc người chính: Việt (Kinh), Hrê, Co, Cà Dong.


10


Tỉnh Quảng Ngãi có đường quốc lộ 1A chạy ngang đại phận tỉnh
dài 98km, đường quốc lộ 24A nối liền quốc lộ 1A (đoạn chạy qua Thạch
Trụ, huyện Mộ Đức) với Kon Tum dài 69km, quốc lộ 24B dài 18km.
Tuyến đường sắt Bắc – Nam chạy suốt chiều dài tỉnh. Ngoài ra, tỉnh lộ bao
gồm 18 tuyến với tổng chiều dài 520,5 km.
Địa hình tỉnh Quảng Ngãi cũng giống như những tỉnh ven biển
miền Trung khác của Việt Nam, có dạng đẳng thước, có bốn vùng rõ rệt:
trung du, đồng bằng, bãi cát ven biển và hải đảo.
Quảng Ngãi có nhiều đồi núi cao thấp; nhiều gò và thung lũng;
nhiều cánh đồng lúa, mía và biển bao bọc ở phía Đông. Theo hướng Bắc –
Nam, chiều dài của tỉnh khoảng 100 km, theo hướng Đông – Tây, chiều
rộng hơn 600 km. Đồng bằng cao hơn mực nước biển 8m. Xét về mặt địa
hình, phía tây là vùng đồi núi thấp nối tiếp với dải Trường Sơn và tiếp cận
với cao nguyên Trung bộ, phía bắc là núi Chúa – ranh giới tự nhiên với tỉnh
Quảng Nam, phía nam có đèo Bình Đê – ranh giới phân chia tỉnh Quảng
Ngãi với tỉnh Bình Định.
Giữa vịng cung núi là những rẻo đất trung du và đồng bằng nhỏ
hẹp; càng về phía Nam địa hình càng hẹp dần, núi và biển gần như kề nhau,
ở giữa là dải cát vàng của vùng Sa Huỳnh. Địa hình tỉnh Quảng Ngãi nếu
theo mơ hình từ Đơng lên Tây có bờ biển bao gồm những mũi đất nhô ra
biển, cùng các dải cồn cát bao bọc, phía trong có các đầm nước ngọt hoặc
đầm nước mặn. Đồng bằng ven biển theo hướng tây đông và đông nam tây
bắc – bồn địa thung lũng – đồi nằm rải rác ở rìa bình nguyên – núi thấp
chạy theo hướng tây nam – đông bắc và tây đông, nam bắc [4:20].
Quảng Ngãi có đường bờ biển dài 144 km với nhiều cửa biển, cảng
biển nhỏ như Sa Kỳ, Sa Cần, Bình Châu, Mỹ Á, đặc biệt là cảng nước sâu
Dung Quất có tiềm năng về giao thơng đường thủy, phát triển kinh tế thương mại và du lịch.



11

Về sơng ngịi, trên bình diện địa hình, tỉnh Quảng Ngãi có bốn con
sơng lớn: Trà Bồng, Trà Khúc, Sơng Vệ và Trà Câu. Các con sơng này có
một đặc trưng chung là đều có hướng chảy vĩ tuyến hoặc á vĩ tuyến, phân
bố khá đều trên vùng đồng bằng tỉnh. Các con sông này đều bắt đầu và kết
thúc trong địa bàn tỉnh. Phần lớn, chúng đều bắt nguồn từ sườn đơng
Trường Sơn – phía tây tỉnh Quảng Ngãi, chảy ra biển Đơng. Dịng sơng
ngắn, độ dốc cao (từ 10,5 độ đến 33 độ), lịng sơng cạn và hẹp nên vào mùa
mưa (có lượng mưa rất nhiều) dịng chảy cường độ mạnh, thường gây ra lũ
lụt lớn, gây tác hại cho sản xuất và đời sống, mặt khác cũng mang về cho
đồng bằng một lượng phù sa đáng kể [59].
Phần thượng lưu và trung lưu của sông đi qua đồi núi, đá chủ yếu là
các loại đá biến chất và đá sét, xen kẽ có đá granite và vùng Bình Sơn có
thêm đá bazan. Phần hạ lưu của sơng chảy qua vùng đồng bằng và tiếp cận
biển, chịu ảnh hưởng của thủy triều và nước mặn xâm nhập. Cửa sơng có
sự bồi lắng của phù sa, dọc cen sơng lại có sự xói lở. Ở hạ lưu, các con
sơng có sự phân dịng, chẳng hạn như sơng Vệ và sơng Trà Khúc.
Sơng Trà Bồng nằm ở phía Bắc tỉnh, bắt nguồn từ dãy núi phía Tây
của huyện Trà Bồng, chảy qua huyện Bình Sơn ra biển tại của Sa Cần.
Sông dài khoảng 45km, hướng chảy cơ bản từ tây sang đông, đoạn cửa
sông hướng rẽ hướng Nam- Bắc. Phần lớn sơng chảy qua vùng địa hình
rừng núi có độ cao 200- 1.300m, phần còn lại chảy trong vùng đồng bằng
xen đồi trọc và bãi cát. Phía thượng nguồn của sơng Trà Bồng có nhiều phụ
lưu gồm nhiều sơng suối, đáng kể như suối Nun, suối Cà Đú, sông Trà Bói
ở các xã Trà Thủy, Trà Giang. Về tới hạ lưu Đơng huyện Bình Sơn có thế
đất khá cao, nên sơng Trà Bồng khơng cịn chảy xiết như đoạn trên. Nước
chảy không xiết, như vậy mà khác với sông Vệ và sông Trà Khúc, xưa kia
người ta không thể đặt xe nước trên sông Trà Bồng. Đoạn gần cửa sông có
những vùng có độ cao 10- 40m. Sơng Trà Bồng có 5 nhánh cấp I. Ở vùng



12

hạ lưu cịn có các nhánh sơng suối nhỏ chảy ngược, hợp nước vào sơng
chính trước khi đổ ra biển.
Nhánh suối sâu (xã Bình Minh, huyện Bình Sơn) bắt nguồn từ núi
Đá Miếu (xã Bình An, huyện Bình Sơn) theo hướng Bắc- Nam, gặp sơng
chính tại An Phong (xã Bình Mỹ, huyện Bình Sơn), dài 19km.
Nhánh sơng Bí chảy từ Đơng Phước (xã Bình Thanh, huyện Bình
Sơn) theo hướng Nam- Bắc, gặp sơng chính ở Thượng Hà (xã Bình Thới,
huyện Bình Sơn) tiếp giáp với hạ lưu và cửa sơng dài 12km.
Lưu vực sông Trà Bồng bao gồm hầu hết huyện Trà Bồng và huyện
Bình Sơn. Diện tích lưu vực khoảng 697km2.
Sông Trà Khúc nằm ở giữa tỉnh, sông Trà Khúc là sơng lớn có
lượng nước dồi dào nhất so với các sơng khác trong tồn tỉnh. Ở thượng
nguồn sơng có 3 nguồn chính:
Nguồn thứ nhất từ vùng Giá Vụt phía tây huyện Ba Tơ, chảy theo
hướng Nam- Bắc, đến địa hạt huyện Sơn Hà gọi là sông Rhe.
Nguồn thứ hai bắt nguồn từ vùng Đông Kon Tum và huyện Sơn
Tây, với các suối lớn, nhỏ hợp nước với nhau chảy theo hướng Tây- Đông
xuống Sơn Hà, gọi là sông Rinh (Đắk Rinh). Một nguồn nước rất quan
trọng của sông Rinh là sông Tang. Sông Tang bắt nguồn từ huyện Tây Trà,
chảy theo hướng Tây Bắc- Đông Nam, hợp nước với sông Rinh ở đoạn
làng Lô, làng Mùng xã Sơn Bao phía tây bắc huyện Sơn Hà. Trên sơng
Tang đang xây dựng một hồ chứa nước lớn là hồ Nước Trong.
Nguồn thứ ba bắt nguồn từ tây nam huyện Sơn Hà giáp với huyện
Sơn Tây, chảy theo hướng Tây Nam- Đơng Bắc, gọi là sơng Xà Lị (Đắk Sêlơ).
Ba sơng chính từ các hướng khác nhau cùng hợp nước ở các xã Sơn
Trung, Sơn Hải, phía Đơng Nam huyện lỵ Sơn Hà và đoạn sông này người

ta thường gọi là sông Hải Giá. Từ Hải Giá, sông chảy theo hướng Tây


13

Nam- Đông Bắc đến Thạch Nham (giáp với 3 huyện Sơn Hà, Sơn Tịnh, Tư
Nghĩa) thì thốt khỏi núi non, một đoạn nữa đến thôn Hưng Nhượng xã
Tịnh Đông về sau thì hướng chảy cơ bản là Tây- Đơng, tuy nhiên vẫn có
nhiều đoạn sơng quanh gấp khúc (do vậy được gọi là sông Trà Khúc). Ở
Thạch Nham, người ta đã xây dựng đập chắn ngang sông, để nước dâng
lên, theo hai kênh Chính Bắc - Chính Nam chảy tưới cho các đồng bằng
Quảng Ngãi. Cơng trình đại thủy nơng Thạch Nham là một cơng trình thủy
lợi có quy mơ lớn. Xưa kia trên sông Trà Khúc từ Đồng Nhơn (xã Tịnh
Đông, huyện Sơn Tịnh) đến cuối nguồn người ta đặt rất nhiều guồng xe
nước lớn để tưới cho đồng ruộng. Sông Trà Khúc ở các hợp lưu thượng
nguồn sông đào lòng nước dữ dội qua các thung lũng, đến hạ lưu nước vẫn
chảy rất xiết cho đến khi đổ nước ra cửa Đại Cổ Lũy. Sơng Trà Khúc có độ
dài khoảng 135km, trong đó có khoảng 1/3 chiều dài sơng chảy qua vùng
núi và rừng rậm, có độ cao 200- 1.000m, phần cịn lại chảy qua vùng đồng
bằng. Vì hợp lưu từ nhiều hướng khác nhau, nên sơng có dạng hình cành
cây, có 09 phụ lưu cấp I, 05 phụ lưu cấp II, 06 phụ lưu cấp III và 02 phụ
lưu cấp IV.
Sơng Trà Khúc có diện tích lưu vực khoảng 3.240km2, bao gồm
phần đất của các huyện Sơn Hà, Tư Nghĩa, một phần huyện Ba Tơ, Minh
Long, Sơn Tịnh, Trà Bồng và Tây Trà, có một phần nguồn nhỏ thuộc địa
phận tỉnh Kon Tum.
Trên bề mặt lưu vực sơng có khoảng nửa diện tích kể từ nguồn là
rừng già, còn lại là rừng thưa kiểu cao nguyên và cây bụi rậm; vùng hạ lưu
là đất canh tác và đồng bằng trồng lúa chiếm diện tích khá lớn.
Sơng Vệ bắt nguồn từ rừng núi phía Tây của huyện Ba Tơ. Sông

chảy theo hướng Tây Nam- Đông Bắc, giữa các huyện Nghĩa Hành, Tư
Nghĩa, Mộ Đức đổ ra biển Đông tại cửa Cổ Lũy và cửa Đức Lợi. Sông dài
khoảng 90km, trong đó 2/3 chiều dài chảy trong vùng núi có độ cao 100-


14

1.000m. Sơng có 5 phụ lưu cấp I, 02 phụ lưu cấp II. Các phụ lưu không
lớn, đáng kể trong số các phụ lưu đó gồm:
Sơng Liên bắt nguồn từ vùng núi Tây Nam huyện Ba Tơ. Sông chảy
theo hướng Tây Nam- Đông Bắc, hợp nước với sông Tô ở thị trấn Ba Tơ.
Sông Tà Nô hay sông Tô chảy từ đồng Bia xã Ba Tơ có độ cao trên
200m, theo hướng Tây - Đơng, hợp với sơng chính cách huyện lỵ Ba Tơ
18km về phía hạ lưu.
Sơng Mễ chảy từ vùng núi Mum, phần tiếp giáp giữa hai huyện Ba
Tơ và Minh Long theo hướng Tây Bắc- Đông Nam, hợp lưu tại khoảng
làng Teng xã Ba Thành, dài khoảng 09km. Dịng chính cơ bản chảy theo
hướng Tây Nam - Đông Bắc, dọc huyện Nghĩa Hành đến hết xã Hành
Thiện thì sơng thốt khỏi núi, chảy trên vùng đồng bằng. Tại điểm này có
trạm bơm nam sơng Vệ. Đến đoạn qua đường sắt, sông chảy giữa hai huyện
Tư Nghĩa- Mộ Đức. Trên sơng Vệ xưa kia cũng có rất nhiều guồng xe
nước. Cuối nguồn, sông Vệ đổ ra cửa Lở và cửa Đại - Cổ Lũy.
Sơng Vệ có một chi lưu đáng kể nhất là sông Thoa. Sông Thoa bắt
đầu từ thôn Mỹ Hưng (xã Hành Thịnh, huyện Nghĩa Hành) và thôn Phú An
(xã Đức Hiệp, huyện Mộ Đức) theo hướng Tây Bắc- Đơng Nam đến Sa
Bình (xã Phổ Minh, huyện Đức Phổ) thì nhập với sơng Trà Câu rồi đổ ra
biển qua cửa Mỹ Á.
Ngồi ra, cịn có các nhánh sông khác như sông Cây Bứa dài 15km,
sông Phú Thọ dà 16km, hợp lưu với sơng chính gần vùng cửa sơng tạo
thành hình nan quạt. Sơng Phú Thọ thực chất là đoạn sông Vệ ở cuối

nguồn. Nguồn của chúng chủ yếu là nước mưa của vùng tiếp giáp giữa
rừng núi và đồng bằng.
Sơng Vệ có diện tích lưu vực 1.260km2, bao gồm địa hạt các huyện
Ba Tơ, Minh Long, Mộ Đức, Nghĩa Hành và một phần nhỏ diện tích của


15

huyện Tư Nghĩa. Độ cao trung bình lưu vực khoảng 170m, mật độ lưới
sông 0,79km/km2.
Thực vật che phủ bề mặt lưu vực vùng thượng lưu phần lớn là rừng
già, bụi rậm, vùng hạ lưu chủ yếu là vùng đất canh tác nông nghiệp.
Sông Trà Câu bắt nguồn từ vùng núi Ba Trang (huyện Ba Tơ), với
độ cao 400m. Dịng sơng chính chủ yếu chảy theo hướng Tây- Đơng, đoạn
trên thường gọi là sông Vực Liêm. Ở cuối nguồn, sông Trà Câu nhập lưu
với sơng Thoa tại Sa Bình, xã Phổ Minh, huyện Đức Phổ, rồi đổ ra cửa Mỹ
Á cách đó khoảng 2,5km.
Sơng Trà Câu có diện tích lưu vực 442km2, chiều dài sông khoảng
32km; chiều dài lưu vực 19km và chiều rộng bình quân lưu vực 14km. Đây
là con sông nhỏ nhất trong các sông kể trên, nước thường cạn kiệt về mùa khô.
Lưu vực sông Trà Câu bao gồm một phần phía Đơng và phía Đơng
Nam huyện Ba Tơ, các xã Phổ Phong, Phổ Thuận, Phổ Nhơn huyện Đức
Phổ. Lớp phủ thực vật chủ yếu là rừng thưa và đồi trọc[59].
Các dịng sơng cổ vốn trước kia là chi lưu của các sông Trà Bồng,
Trà Khúc, sông Vệ, sơng Trà Câu nay chỉ cịn lại các tên gọi như Bàu Cạn,
Bàu Sấu, Bàu Sen, Bàu Tròn, Bàu Đen, Bàu Lác, Bàu Súng, Bàu Tre, Bàu
Xồi, Bàu Khổng...Phía đơng và phía tây của các đầm và bàu nước ngọt là
những dải cồn cát[4:20].
Ngồi bốn con sơng chính trên, Quảng Ngãi cịn có các sơng nhỏ
như Trà Ích (Trà bồng), sông Cái (Tư Nghĩa), sông Phước Giang (Nghĩa

Hành), sông La Vân (Đức Phổ),…
Cùng với hệ thống sơng ngịi tự nhiên, tỉnh Quảng Ngãi còn xây
dựng nhiều hồ chứa nước phục vụ cho thủy điện và thủy lợi bên cạnh các
hồ tự nhiên như hồ An Phong, hồ Tôn Dung, hồ Núi Ngang…
Tỉnh Quảng Ngãi cịn có những đầm tự nhiên như đầm Nước Mặn


16

thuộc địa phận xã Phổ Thạnh (huyện Đức Phổ), có tổng diện tích khoảng
150ha. Đây là khu vực đầm phá kiểu vịnh kín, thơng ra biển tại cửa Sa
Huỳnh. Là đầm nước ln có độ mặn khá cao cả về mùa khơ và mùa mưa,
vì vậy có tên là đầm Nước Mặn. Đầm này chỉ có thể ni trồng thủy sản
nước mặn và làm muối. Vì thế, từ lâu nhân dân ở đây đã khai thác một
phần diện tích của đầm để làm muối. Đầm An Khê thuộc địa phận xã Phổ
Khánh (huyện Đức Phổ). Theo báo cáo khoa học điều tra nhiễm mặn vùng
ven biển tỉnh Quảng Ngãi, do đài Khí tượng Thủy văn Trung Trung bộ thực
hiện năm 1998 cho thấy vào mùa mưa nước trong đầm có độ mặn không
đáng kể, nhưng về mùa khô là một đầm nước lợ, độ mặn từ 0,3- 10‰. Đầm
Lâm Bình thuộc địa phận xã Phổ Cường (huyện Đức Phổ), có độ mặn thấp,
thường dao động từ 0,2- 0,3‰; về mùa khơ, những tháng nắng hạn nhất
đầm bị cạn nước hồn tồn. Theo tài liệu quy hoạch tổng thể ni trồng
thủy sản năm 2002, đầm An Khê và đầm Lâm Bình có tổng diện tích
300ha, có thể sử dụng cho ni trồng thủy sản nước ngọt, nước mặn và cải
thiện môi trường trên địa bàn [59].
Với mạng lưới sông suối dày đặc, các phụ lưu của hệ thống sông
Trà Bồng, Trà Khúc, sông Vệ và Trà Câu đều bắt nguồn từ những vùng núi
cao có độ dốc lớn với lượng nước nhiều là những nguồn thuỷ năng có giá
trị. Ở các huyện miền núi nhân dân đã đắp đập để làm thuỷ điện. Tỉnh
Quảng Ngãi có cả một hệ thống đập được xây dựng chủ yếu là để phục vụ

cho việc tưới tiêu nơng nghiệp trên địa bàn tỉnh. Có thể liệt kê tên các con
đập chính như đập Đá Giăng, đập Xã Điệu, đập Xã Trạch, đập Thạch
Nham…
Về địa hình núi, diện tích lên đến 391.192 ha chiếm gần 2/3 diện
tích đất đai trong tỉnh. Quảng Ngãi có nhiều núi non hiểm trở, các núi có độ
cao trên 1.000m chủ yếu phân bố ở phía tây, tây bắc và phía bắc tỉnh
Quảng Ngãi.


17

Các núi ở Quảng Ngãi có sự đa dạng về hình thái, song chủ yếu
thường có dạng tuyến, nhiều đỉnh nhọn, sườn núi dốc. Riêng dãy núi hình
Răng cưa gồm nhiều đỉnh núi liên kết với nhau tạo thành dãy răng cưa. Một
số núi cuả Quảng Ngãi được xếp vào hàng danh lam thắng cảnh với những
tên gọi được người xưa đặt rất nên thơ và giàu hình tượng như “Thiên Ấn
niêm hà”, “Thiên Bút phê vân”, “La Hà thạch trận”, “ Thạch Bích tà
dương”, “Vân Phong túc vũ”…Các núi lớn có núi Cà Đam, núi Thạch
Bích, núi Cao Mn, Núi Lớn…
Về khí hậu, Quảng Ngãi là tỉnh có khí hậu nhiệt đới gió mùa. Nhiệt
độ trung bình hàng năm từ 25,5º đến 26,3°C, nhiệt độ cao nhất lên đến
41°C, thấp nhất là 12°C. Trong đó, thượng tuần tháng 7 và tháng 8 nóng
khơng q 34°C, thượng tuần tháng giêng lạnh nhất không dưới 8°C. Thời
tiết được chia ra làm hai mùa rõ rệt: mùa nắng và mùa mưa. Mùa nắng bắt
đầu từ hạ tuần tháng giêng âm lịch đến thượng tuần tháng 8 âm lịch. Mùa
mưa bắt đầu từ hạ tuần tháng 8 âm lịch đến thượng tuần tháng giêng âm
lịch. Từ hạ tuần tháng giêng âm lịch đến thượng tuần tháng 8 âm lịch có
gió thổi từ đơng nam qua tây bắc hết sức mát.
Vị trí địa lý và dân cư đảo Lý Sơn
Huyện đảo Lý Sơn nằm phía Đơng Bắc của tỉnh Quảng Ngãi, cách

bờ biển khoảng 18 hải lý và cách khu kinh tế Dung Quất khoảng 25 hải lý.
Lý Sơn bao gồm 1 đảo lớn hay cịn gọi là Cù Lao Ré, có tên gọi như thế
bởi xưa kia trên đảo có nhiều cây ré dùng làm dây rất dai và bền [19:40]; 1
đảo bé hay còn gọi là Cù Lao Bờ Bãi và hòn Mù Cu – một bãi đá – nằm ở
phía Đơng của đảo lớn. Đảo lớn và đảo bé nằm cách nhau hơn 1,5 hải lý.
Tọa độ địa lý của Lý Sơn ở khoảng 15032’14’’ đến 15038’14’’ và 109005’04’’
đến. Năm 2013, Hội sinh viên Việt Nam cùng với tỉnh Đoàn Quảng Ngãi
và một số đơn vị khác đã khởi công xây dựng Cột cờ Tổ quốc tại xã An
Hải, huyện đảo Lý Sơn vào tháng 5 và hoàn thành vào tháng 12. Trên Cột


18

cờ, mốc tọa độ địa lý của Lý Sơn là 15022’51’’vĩ độ Bắc và 109007’03’’ kinh
độ Đông (Theo ghi nhận cá nhân khi đi khảo sát tại Lý Sơn vào tháng 5
năm 2014).
Lý Sơn có diện tích 9,97 km2, dân số 20.195 người (theo thống kê
năm 2006) [38:19], mật độ dân số 2.026 người/km2. Dân cư chủ yếu tập
trung sinh sống ở đảo lớn, đảo bé có dân cư thưa thớt. Dưới thời vua Bảo
Đại năm thứ 16 (năm 1941) mới có 4 người Việt ra hịn đảo bé này để khai
khẩn, sinh sống [19:41]. Huyện đảo Lý Sơn hiện nay bao gồm 3 xã: xã An
Vĩnh, An Hải và An Bình. Trong đó, xã An Vĩnh và An Hải là 2 xã thuộc
đảo lớn, xã An Bình thuộc đảo bé. Xã An Vĩnh có 2 thơn: Thơn Đơng,
Thơn Tây. Xã An Hải có 3 thơn: Thơn Đơng, Thơn Tây và Thơn Đồng Hộ.
Xã An Bình của đảo bé có 1 thôn là thôn Bắc, thôn này tách ra từ xã An
Vĩnh và được lập thành xã An Bình vào năm 2007, có dân số khơng nhiều
như 2 xã An Vĩnh và An Hải của đảo lớn.
Để có được Lý Sơn như hôm nay, những thế hệ cư dân đầu tiên và
sau này là người Việt đến “khai chiếm” đã phải đối mặt với những điều
kiện tự nhiên khắc nghiệt về địa hình, địa lý nhằm cải tạo và khai thác

những yếu tố tự nhiên thuận lợi phục vụ cho quá trình sinh sống trên đảo từ
thế hệ này đến thế hệ khác.
Về quá trình thành tạo địa chất, đảo Lý Sơn thuộc vào địa khối
Indosinia, chịu sự chi phối về hoạt động địa chất của địa khối này. Phần
phía Nam của nó với khối nhỏ KonTum có các đá tuổi tiền Cambri (trên
520 triệu năm trước) phổ biến rộng rãi. Ở phần này vào cuối Neogen đầu
kỷ Đệ Tứ đã có các hoạt động núi lửa phun trào rộng khắp đã hình thành
nên các vùng đất đỏ phì nhiêu.
Về địa hình, Lý Sơn có dạng khối với các đỉnh nhơ cao tạo thành
núi, có sườn dốc và ở chân sườn đổ xuống biển có một sườn đá vụn với bề
mặt ngang hoặc rất thoải bao bọc. Cấu tạo đất đá trên đảo Lý Sơn cùng loại


19

với các đồi núi ven biển của vùng. Lý do vì Lý Sơn thực chất là một phần
rìa của lục địa bị ngập trong nước biển từ giữa Pleistocene cho đến ngày
nay.Địa hình vùng dân cư sinh sống và vùng canh tác ở phía nam của đảo
Lý Sơn có độ cao từ 20 – 30cm so với mặt nước biển, bề mặt địa hình có
độ dốc dưới 80. Bậc thềm chân núi có độ dốc từ 8 – 15cm, đây là khu vực
được người dân trên đảo khai thác để trồng hành, tỏi – đặc sản của vùng
đảo Lý Sơn.
Hệ thống núi trên đảo gồm 5 ngọn núi trải dài ở bờ biển phía Bắc
tựa như bức trường thành che chắn gió mùa Đơng Bắc lạnh lẽo vào mùa
đơng cho dân cư sống ở phía nam đảo. Đó vốn là những ngọn núi lửa đã tắt
từ lâu. Bao gồm núi: Hòn Vung, Hòn Sỏi, Hòn Tai, Hòn Tiền và lớn nhất là
núi Thới Lới cao 169m. Một số núi còn lại miệng hình lịng chảo như núi
Giếng Tiền, Thái Lới. Vết tích nham thạch phun trào từ núi lửa hiện nay
còn vương vãi ở núi Thái Lới, Hòn Tai, khu vực phía Tây và bờ biển phía
Đơng đảo.Chính sự phun trào và nguội đi của các ngọn núi lửa này đã tạo

nên những cảnh quan thiên nhiên cho Lý Sơn như Giếng Tiền, Chùa Hang,
Hang Câu, Hang Cò,…Núi lửa phun trào đã tạo nên cho phía nam của đảo
một lớp đất đỏ bazan màu mỡ tươi tốt, thích hợp để trồng trọt. Đồng thời
tạo nên những rạng đá ngầm quanh đảo, tạo điều kiện cho các loài thủy
sinh sinh sống và tạo cho đảo Lý Sơn một vẻ đẹp trong xanh khi nhìn
xuống từ những ngọn núi đã tắt từ lâu này.
Huyện đảo Lý Sơn chịu tác động chung của khí hậu nhiệt đới gió
mùa, có 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa kéo dài từ tháng 9
đến tháng 2 năm sau, tập trung khoảng 71% lượng mưa cả năm, có năm
như năm 1999 lượng mưa đạt cao nhất 4.254,9 mm, gấp đôi so với lượng
mưa của các năm trước đó, mùa khơ từ tháng 3 đến tháng 8, chịu ảnh
hưởng gió Tây Nam nóng và khô. Tuy nhiên, ở Lý Sơn số lượng giờ nắng
cao, trung bình từ 2.300 giờ đến 2.600 giờ. Nhiệt độ trung bình 26,4 0C. Sự


20

chênh lệch nhiệt độ trong các năm khá cao như năm 1999 nhiệt độ cao nhất
ở tháng 8 là 29,90C, nhưng ở tháng 12 nhiệt độ thấp xuống là 22,20C. Nhìn
chung khí hậu ở đảo Lý Sơn ấm áp vào mùa đông và mát mẻ vào mùa hè.
Tổng lượng bức xạ trên 2000 cal/năm. Độ ẩm khơng khí trung bình 85%.
Tổng diện tích đất tự nhiên của huyện đảo là 800ha, trong đó đất
nơng nghiệp chiếm diện tích 400ha, đất lâm nghiệp 182ha, đất chưa sử
dụng 218ha [51:11]. Đất nông nghiệp trên huyện đảo được sử dụng canh
tác theo hai dạng: Cây hoa màu hàng năm 383ha bao gồm trồng hành, tỏi,
rau, đậu, bắp và cây ăn quả chiếm diện tích 17ha. Diện tích đất lâm nghiệp
chủ yếu là rừng trồng chiếm 182ha. Rừng tự nhiên trên huyện đảo đến nay
khơng cịn nhưng thời phong kiến trước đây rừng tự nhiên ở Lý Sơn có
diện tích lớn, phân bố ở các núi và thềm chân núi. Thời bấy giờ, đảo Lý
Sơn có những khu rừng như rừng Cây Minh, rừng Truông, rừng Nhợ, rừng

Cây Gạo, rừng Bà Bút, rừng Phật. Để bảo vệ rừng tự nhiên, trong hương
ước của hai làng An Vĩnh và An Hải xưa đã quy định lệ làng về việc phạt
vạ bằng tiền và đóng gơng những người tự ý chặt phá rừng cây ở các núi
Hòn Sỏi, Giếng Tiền, Thái Lới, nên các rừng cây ở Lý Sơn được bảo vệ rất
tốt. Từ năm 1945 trở đi, hương ước bị bãi bỏ, rừng bị chặt phá, đến nay ở
Lý Sơn khơng cịn rừng tự nhiên nữa. Hiện nay, huyện đảo Lý Sơn đang
phát triển diện tích rừng trồng phủ xanh đồi trọc với kết quả tương đối khả quan.
Đất đai chủ yếu có 2 loại là đất cát và đất bazan, chủ yếu là loại đất
cát, tập trung nhiều ở phía tây của đảo lớn. Đây cũng là khu vực trồng
nhiều hành, tỏi trên đảo Lý Sơn.
Bãi cát bằng ven biển có diện tích khoảng 42ha, chiếm 4% diện tích
đất tự nhiên, phân bố viền quanh đảo và tiếp giáp mặt nước biển. Tuy nhiên
hiện nay, diện tích đất cát biển tự nhiên đã thu hẹp và biến mất do nhu cầu
trồng hành, tỏi người dân đã khai thác cạn kiệt. Có thể nói thời gian qua
việc sử dụng đất ở huyện đảo Lý Sơn chưa thật hợp lý. Chẳng hạn, diện


21

tích đất dành cho nghĩa địa khá lớn và phân tán, diện tích vườn tạp khá
nhiều, đặc biệt do nhu cầu trồng hành, tỏi đã khiến cho người dân phải đào
sâu dưới lòng đất để lấy cát hoặc khai thác cát ven biển gây ảnh hưởng xấu
đến môi trường sinh thái, bờ biển bị sạt lở, thu hẹp dần diện tích của đảo.
Trên đảo Lý Sơn trước đây vào thời tiền sơ sử, hẳn đã có nhiều lồi
thú rừng vì trong các cuộc khai quật tại đảo Lý Sơn các nhà khảo cổ học đã
tìm thấy khá nhiều răng nanh, xương của loài lợn rừng và một số xương
của các loài thú khác. Điều này chứng tỏ xưa kia trên đảo Lý Sơn tồn tại
các vùng rừng rậm, các suối nước ngọt, có nhiều lồi thú hoang dã sinh
sống. Trong Tồn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư của Đỗ Bá soạn vào giữa
thế kỷ XVII đã chép khá rõ là trên núi ở đảo có nhiều sản mộc. Nhưng hiện

nay tìm kiếm những cây thân mộc tự nhiên trên núi quả là điều khó khăn.
Hiếm hoi cịn sót lại một vài loại cây hiện diện từ rất sớm ở các vùng đồi
núi của đảo, đó là cây: Bàng biển, dân gian gọi là cây Phong Ba, tên La
Tinh là Terminalia catappa. Cây to cao từ 5 - 7m, nhánh mọc ngang thành
tầng, lá trở đỏ khi khô, quả nhân cứng, chín màu vàng, nướng ăn có vị béo.
Đây là loại cây có bộ rễ phát triển chống chọi được sóng gió, bão táp để tồn
tại nên có tên là Phong Ba. Có một loại cây đặc biệt khác thuộc họ dứa dại,
tên La Tinh là Pandanaceac, tên dân gian gọi là cây Xác Máu. Loại cây này
mọc hoang dã trên vùng đồi núi, thân xốp lá dài, không có gai, bộ rễ phát
triển mạnh bám đất vững chãi, chống chọi được với khơ hạn, bão táp và có
tuổi thọ cao. Dân gian gọi là cây Xác Máu bởi vì nhựa thân có màu đỏ như
máu, nhựa cây dùng để sơn quét ghe, làm chặt các chốt nêm của ghe, ngồi
ra nhựa cây cịn dùng để nhuộm lưới, dân làng còn lấy nhựa cây đem các
nơi bán. Lá cây Xác Máu rất bền chắc dùng xe cuộn làm dây cột buồm trên
các ghe bầu. Tại một số đảo của vùng đảo ở Thái Bình Dương người dân
dùng nhựa cây xác Máu nấu sôi để quét trên đồ gốm. Trên đảo Lý Sơn cịn
có các loại cây như: Mù u (Calophyllum Inophyllum), cây keo (chăm biên),
cây dừa, cây phi lao.... Thảm thực vật bên dưới có họ Bìm Bìm


×