Tải bản đầy đủ (.pdf) (139 trang)

Thực hiện chính sách xã hội của đảng cộng sản và nhà nước việt nam ở tỉnh bình thuận hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.82 MB, 139 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐÀO THỊ TRÀ MY

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT
NAM Ở TỈNH BÌNH THUẬN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐÀO THỊ TRÀ MY

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT
NAM Ở TỈNH BÌNH THUẬN HIỆN NAY

Chuyên ngành : CNXHKH
Mã số

: 602285

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC


Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN CHÍ MỸ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2014


Lời cam đ oan

Tôi xin cam đo n luận văn này là cơng trình nghiên cứu của cá nhân
tơi, được t hực hiệ n dướ i sự hướng dẫn khoa học của TS. Trần Chí Mỹ.
Nế u có gì k hơ ng đ úng tơ i xin hồ n tồ n c h ịu trá c h nhiệ m.

TP. Hồ C hí M inh, t há ng 7 nă m 2 014
Tác giả

Đào T hị Trà M y


MỤC LỤC
MỤC LỤC ................................................................................................ 1
PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài.......................................................................... 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài ............................................. 3
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ....................................................... 6
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ......................... 6
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ...................................... 6
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn ............................................ 7
7. Kết cấu của luận văn .............................................................................. 7
CHƯƠNG 1. CHÍNH SÁCH XÃ HỘI VÀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM ................................ 8
1.1. KHÁI NIỆM XÃ HỘI VÀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI ........................... 8

1.1.1. Khái niệm xã hội ............................................................................. 8
1.1.2. Quan niệm về chính sách xã hội và phân loại chính sách xã hội. ...... 9
1.2. CHÍNH SÁCH XÃ HỘI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VÀ NHÀ NƯỚC
VIỆT NAM HIỆN NAY .......................................................................... 19
1.2.1. Cơ sở xây dựng chính sách xã hội của Đảng cộng sản và Nhà nước
Việt Nam.................................................................................................. 19
1.2.2. Quan điểm và chính sách xã hội của Đảng cộng sản và nhà nước Việt
Nam hiện nay ........................................................................................... 32
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI CỦA
ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC Ở TỈNH BÌNH THUẬN TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY ……. ..................................................................................... 45
2.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH
BÌNH THUẬN ......................................................................................... 45


2.1.1. Về điều kiện tự nhiên của tỉnh Bình Thuận ................................... 45
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Thuận ............................... 45
2.2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI CỦA ĐẢNG VÀ
NHÀ NƯỚC Ở TỈNH BÌNH THUẬN TRONG NHỮNG NĂM QUA VÀ
NGUYÊN NHÂN. ................................................................................... 51
2.2.1. Thực trạng thực hiện chính sách xã hội ở tỉnh Bình Thuận những năm
qua ........................................................................................................... 51
2.2.2. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế trong q trình thực hiện
chính sách xã hội ở tỉnh Bình Thuận những năm qua .............................. 104
2.3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VÀ NHÀ NƯỚC
VIỆT NAM Ở TỈNH BÌNH THUẬN HIỆN NAY ................................. 107
2.3.1. Phương hướng cơ bản nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách xã hội ở
tỉnh Bình Thuận hiện nay ....................................................................... 107

2.3.2. Những giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách xã
hội ở tỉnh Bình Thuận hiện nay .............................................................. 110
KẾT LUẬN............................................................................................ 122
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 127


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người vừa là chủ thể, vừa là động lực và mục tiêu cao nhất của sự
phát triển. Với năng lực sáng tạo thơng qua hoạt động tích cực cải tạo thực
tiễn tạo nên sự phát triển vượt bậc trong mọi lĩnh vực của đời sống. Do đó,
đối với các thể chế chính trị, việc giải quyết các vấn đề xã hội liên quan tới
đời sống con người là yếu tố quan trọng thức đẩy sự phát triển của xã hội nói
chung, bởi người dân trông chờ ở đảng cầm quyền, ở nhà nước những giá trị
mà họ được thụ hưởng hàng ngày và cảm nhận được trong cuộc sống thường
nhật. Đối với chế độ xã hội chủ nghĩa, việc thực hiện tốt các vấn đề xã hội là
yêu cầu cơ bản, vì đây là chế độ xã hội của con người, do con người và vì con
người. Đối với Việt Nam, mục tiêu phát triển con người theo tinh thần Đại hội
XI và Cương lĩnh năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) là : Con người
được giải phóng khỏi áp bức, bất cơng; có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
có điều kiện phát triển tồn diện, đặt con người vào vị trí trung tâm trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, hiện nay nước ta đang trong
q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố, thì nguồn lực con người
càng trở nên đặc biệt quan trọng, là nguồn lực của mọi nguồn lực quyết định
sự thành cơng của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì vậy, chính sách
xã hội của Đảng và Nhà nước đóng vai trị quan trọng trong việc phát huy
nguồn lực con người, đảm bảo cơng bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ
công dân, giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu

dài, giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và cộng đồng.
Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới bênh cạnh thành tựu nổi bật là nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nước ta vẫn còn tồn tại một
số hạn chế như: tệ nạn xã hội, phân hóa giàu nghèo, thương mại hóa giáo
dục, việc làm cho người lao động.... thêm vào đó, các thế lực thù địch ln lợi


2

dụng vấn đề con người, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo để thực hiện “diễn biến
hồ bình”, chống phá nhà nước ta, xuyên tạc, vu cáo vấn đề nhân quyền của
Đảng và Nhà nước ta. Tình hình trên địi hỏi Đảng và Nhà nước phải có một
chính sách xã hội đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tiễn, thể hiện được
bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, trước hết phải nhận thức và giải quyết
đúng đắn những vấn đề nổi cộm trên.
Bình Thuận là một trong những tỉnh nghèo của Việt Nam với điều kiện
tự nhiên ít thuận lợi. Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, đảng bộ,
chính quyền và nhân dân tỉnh Bình Thuận đã có nhiều cố gắng trong việc thực
hiện chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước phù hợp với thực tiễn địa
phương, nhờ đó đã đạt được những thành tựu quan trong trong việc thực hiện
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng đời sống ấm no cho nhân dân.
Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ở Bình
Thuận vẫn còn những hạn chế nhất định: chênh lệch mức sống giữa các vùng
miền, giữa vùng núi và đồng bằng, nông thơn và thành thị; trình độ dân trí cịn
thấp, nhận thức của một số các đồng bào dân tộc còn hạn chế, đời sống kinh
tế cịn nhiều khó khăn nên việc tiếp thu và thực hiện các quan điểm, chính
sách của Đảng và Nhà nước trong tỉnh còn nhiều bất cập.
Những hạn chế trong việc thực hiện chính sách xã hội của Đảng và Nhà
nước ở tỉnh Bình Thuận ở những mức độ và phạm vi nhất định có ảnh hưởng
tiêu cực đối với công cuộc phát triển kinh tế - xã hội cũng như đối với việc

thực hiện mục tiêu nhân văn và văn hóa tại địa phương. Do đó, phân tích,
đánh giá đúng thực trạng thực hiện chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước
ở tỉnh Bình Thuận trong những năm qua và nguyên nhân, xác định phương
hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực hiện chính sách xã
hội của Đảng và Nhà nước tại tỉnh Bình Thuận là rất quan trọng và rất cần
thiết, có ý nghĩa vừa cơ bản, vừa cấp bách cả về lý luận và thực tiễn.


3

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài
Những năm qua, các cơng trình nghiên cứu về vấn đề xã hội và chính
sách xã hội ở Việt Nam ngày càng nhiều hơn, được triển khai theo hướng sâu
hơn, nhiều khía cạnh hơn. Trong số đó có thể dẫn ra một số cơng trình tiểu
biểu như sau:
“Ảnh hưởng của chính sách xã hội đối với việc nâng cao vai trò của nhân
dân theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta” . Luận án phó tiến sĩ Khoa
Triết học của tác giả Nguyễn Văn Nhớn bảo vệ tại Viện nghiên cứu Chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh năm 1996. Luận án đã đánh giá
vai trị của chính sách xã hội đối với việc phát huy nguồn lực con người.
Năm 2011, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà nội đã xuất bản tập sách
“Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội trong 25 năm
đổi mới (1986 – 2011)”của PGS.TS Đinh Xuân Lý. Tập sách trình bày cơ sở
hình thành chủ trương, chính sách xã hội của Đảng trong 25 năm đổi mới;
đánh giá q trình thực hiện chính sách xã hội trên một số lĩnh vực xã hội
như: lao động và việc làm; xố đói giảm nghèo; bảo hiệm xã hội; ưu đãi
người có cơng với cách mạng; bảo trợ xã hội; phòng chống tệ nạn xã hội giai
đoạn 1986 – 2011
“Đảng lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội trong thời kỳ đổi mới” của
TS. Nguyễn Thị Thanh, do nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội xuất bản

năm 2011. Cuốn sách đánh giá một cách khách quan những thành tựu, hạn
chế của việc thực hiện chính sách xã hội cũng như những kinh nghiệm được
đúc rút từ q trình lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội trong thời kỳ đổi
mới của Đảng.
“Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh với q trình thực hiện các chính sách
xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh trong cơng cuộc đổi mới (1986 – 2006)”.
Luận án Tiến sĩ Lịch Sử của tác giả Trần Xuân Thảo. Luận án đánh giá sự tác


4

động của chính sách xã hội đối với phụ nữ và vai trị của phụ nữ trong việc
thực hiện chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ở Thành phố Hồ Chí
Minh.
“Vai trị của chính sách xã hội đối với việc phát huy nguồn lực con người
trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở Việt Nam”- Luận văn thạc sĩ
khoa Triết chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học bảo vệ tại Đại học khoa
học xã hội và nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh năm 2010 của tác giả Trần
Thị Kim Huệ. Luận văn làm rõ về vai trị của chính sách xã hội đối với việc
phát huy nguồn lực con người trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
Nghiên cứu về chính sách xã hội, ở nước ta, từ năm 1978, nhất là từ sau
khi có đường lối đổi mới đã được nhiều nhà lý luận nghiên cứu với nhiều góc
độ khác nhau như: tập thể tác giả của Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh đã nghiên cứu những vấn đề lý luận về chính sách
xã hội, chính sách xã hội đối với các nhóm xã hội ở nước ta với cơng trình
Một số vấn đề về chính sách xã hội ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1993; Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội
như Lê Sỹ Thắng (chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con ng ười và về
chính sách xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996; Nguyễn Thế
Thắng (chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội từ góc nhìn

xã hội học, Nxb Lao động, Hà Nội, 2005; Lê Đăng Doanh và Nguyễn Minh
Tú cùng với Tăng trưởng kinh tế và chính sách xã hội ở Việt Nam trong quá
trình chuyển đổi từ năm 1991 đến nay - kinh nghiệm của các nước Asean,
Nxb Lao động, Hà Nội, 2001, đã đánh giá tổng quan tình hình kinh tế - xã
hội, các chính sách xã hội ở Việt Nam từ đổi mới đến nay, mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế và chính sách xã hội, đồng thời làm rõ một số kinh
nghiệm của các nước Đông Nam Á trong việc giải quyết mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế và chính sách xã hội ở nước này, từ đó nêu lên một số bài


5

học tổng quát cho Việt Nam; năm 1999, tập thể tác giả của Học viện chính trị
quốc gia đã có một cơng trình nghiên cứu khoa học cấp cơ sở về Chính sách
xã hội ở các nước tư bản phát triển trong đó các tác giả đã nghiên cứu một
cách có hệ thống về tính tất yếu và vai trị của chính sách xã hội nói chung và
ở các nước tư bản phát triển như Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Nhật, Thụy Điển, từ đó
rút ra những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam.
Ngồi ra có khá nhiều bài viết về chính sách xã hội của Đảng và Nhà
nước Việt Nam được đăng trên các tạp chí như: Tạp chí Cộng sản, Tạp chí
Dân vận, Tạp chí Lý luận Chính trị, Tạp chí Bảo hiểm…..
Riêng đối với việc thực hiện chính sách xã hội ở tỉnh Bình Thuận, có các
báo cáo về việc thực hiện phát triển kinh tế - xã hội qua các giai đoạn; báo cáo
việc thực hiện các chương trình hỗ trợ của trung ương về phát triển kinh tế
cho đồng bào các dân tộc ít người, vùng miền núi (chương trình 134, 135,
174); báo cáo về thực hiện quyết định 112/QĐ-TTg , 167/QĐ-TTg, 975/QĐTTg về hỗ trợ hoạt động văn hóa thơng tin, trợ giúp pháp lý cho người nghèo,
hỗ trợ học sinh nghèo dân tộc thiểu số miền núi, trợ vốn, trợ giá, cấp phát báo,
tạp chí miễn phí.v.v.. Tuy nhiên đây khơng đó khơng phải là các cơng trình
nghiên cứu khoa học chun biệt, có hệ thống về thực hiện chính sách xã hội
của Đảng và Nhà nước tại địa phương, mặc dù có đánh giá thực trạng và đề ra

phương hướng, giải pháp, nhưng chỉ mang hình thức của những báo cáo theo
phương diện của q trình triển khai thực thi chính sách xã hội ở địa phương.
Cho đến nay, tác giả hầu như chưa tìm thấy cơng trình nào nghiên cứu
một cách chuyên biệt, có hệ thống những điều kiện ảnh hưởng đến việc thực
hiện chính sách xã hội ở tỉnh Bình Thuận, cũng như việc phân tích, đánh giá
thực trạng, nguyên nhân và kiến nghị những giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả thực hiện chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước Việt Nam trên địa bàn
tỉnh. Do đó, tơi chọn vấn đề “Thực hiện chính sách xã hội của Đảng cộng


6

sản và Nhà nước Việt Nam ở tỉnh Bình Thuận hiện nay” làm đề tài nghiên
cứu và viết luận văn thạc sỹ của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn: nghiên cứu, xác định một số phương hướng và giải
pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách xã hội của
Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam ở tỉnh Bình Thuận hiện nay, bảo đảm
sự phát triển hài hịa và bền vững của địa phương.
Nhiệm vụ của luận văn :
Thứ nhất, phân tích một số vấn đề lý luận chính sách xã hội và chính sách
xã hội của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách xã hội của
Đảng và Nhà nước Việt Nam ở tỉnh Bình Thuận.
Thứ ba, xác định phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực
hiện chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ở tỉnh Bình Thuận trong giai
đoạn hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên thế giới quan và phương pháp luận duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh và quan điểm chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam về con người và
về chính sách xã hội.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp logic lịch sử
kết hợp với phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, quy nạp, diễn dịch, thống
kê, phương pháp thu thập số liệu từ nguồn tài liệu tham khảo, đồng thời kết hợp
chặt chẽ giữa nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề
cần nghiên cứu.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn


7

Đối tượng nghiên cứu của luận văn: chính sách xã hội của Đảng cộng
sản và Nhà nước Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn: luận văn được giới hạn trong phạm vi
nghiên cứu về việc thực hiện chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước Việt
Nam ở tỉnh Bình Thuận trong giai đoạn hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa khoa học: Luận văn góp phần hệ thống hóa những nội dung cơ
bản của chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới và
việc thực hiện những chính sách đó ở Bình Thuận, trên cơ sở đó kiến nghị
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách xã hội của
Đảng góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội tỉnh nhà phát triển.
Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn cung cấp một số cơ sở lý luận và thực tiễn để
góp phần vào việc bổ sung, hồn thiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước nhằm giải quyết tốt chính sách xã hội trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan làm công tác
hoạch định và thực hiện chính sách xã hội, cho đội ngũ cán bộ làm cơng tác
xã hội nói chung và của tỉnh Bình Thuận nói riêng. Đồng thời có thể sử dụng

làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập các
môn như: Triết học, Kinh tế chính trị học, Xã hội học, Chủ nghĩa cộng sản
khoa học, Chính sách xã hội... ở các trường đại học, cao đẳng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có
kết cấu gồm 2 chương 6 tiết.


8

CHƯƠNG 1
CHÍNH SÁCH XÃ HỘI VÀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM XÃ HỘI VÀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
1.1.1. Khái niệm xã hội
“Xã hội” là một khái niệm được sử dụng với nhiều ý nghĩa khác nhau.
Trong đó, phổ biến hơn cả là được sử dụng với những ý nghĩa như sau: thứ
nhất, xã hội là cộng đồng người, phân biệt về chất với giới động vật. Theo
C.Mác, xã hội - bất cứ dưới hình thức nào - là sự tác động lẫn nhau giữa
người và người. Xét về bản chất, xã hội là tổng hợp tất cả các mối quan hệ
giữa người và người. Thứ hai, “xã hội” là khái niệm chỉ một hệ thống xã hội
cụ thể trong lịch sử, những hình thức nhất định của những quan hệ xã hội, là
một xã hội ở vào một trình độ phát triển lịch sử nhất định, là một kiểu xã hội
nhất định đã hình thành trong lịch sử: xã hội nơ lệ, xã hội phong kiến, xã hội
tư bản, xã hội xã hội chủ nghĩa. Với nghĩa này, xã hội trùng hợp với hình thái
kinh tế - xã hội. Thứ ba, khái niệm “xã hội” được hiểu với ý nghĩa là một lĩnh
vực cơ bản của xã hội. Xã hội là một chỉnh thể, bao gồm nhiều lĩnh vực. Hình
thức chung nhất của sự khác nhau của các lĩnh vực xã hội là sự phân chia xã
hội thành bốn lĩnh vực cơ bản: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Các lĩnh vực
này tuy khác nhau, nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau, tương tác lẫn nhau

trong một chỉnh thể xã hội thống nhất. Trong đó, lĩnh vực xã hội hầu như bao
trùm mọi mặt của đời sống con người, quan hệ trực tiếp và thường xuyên đến
lợi ích của từng con người và các cộng đồng người trong xã hội từ ăn, mặc, ở,
chăm sóc y tế, học hành....Trong luận văn này, khái niệm xã hội được sử dụng
chủ yếu với ý nghĩa thứ hai và thứ ba như đã trình bày trên.


9

1.1.2. Quan niệm về chính sách xã hội và phân loại chính sách xã hội.
Khái niệm chính sách xã hội
Theo quan điểm ở các nước châu Âu, Mỹ và một số tổ chức quốc tế khái
niệm “chính sách xã hội” gần nghĩa với hai thuật ngữ “an sinh xã hội” và
“phúc lợi xã hội” (họ sử dụng hai thuật ngữ này là chủ yếu). Hiệp hội An sinh
xã hội Quốc tế (ISSA) đưa ra một định nghĩa tương đối hẹp về “an sinh xã
hội” rằng: an sinh xã hội là “những chương trình bảo hộ xã hội do nhà nước
thiết lập, hoặc những tổ chức được ủy nhiệm khác cung ứng cho các cá nhân
một mức độ an toàn về thu nhập khi họ phải đối diện với những hoàn cảnh bất
trắc do tuổi già, do quyền lợi thượng tồn, do mất khả năng, do tàn tật, thất
nghiệp hoặc do phải nuôi dạy con cái...”. Hai nhà kinh tế học Jean Dreze và
Amartya Sen (1991) đã tóm gọn cái cốt lõi của khái niệm an sinh xã hội: ý
tưởng cơ bản của an sinh xã hội là sử dụng những kế sách xã hội để ngăn
ngừa sự thiếu thốn và tình trạng dễ bị tổn thương vì thiếu thốn [14, tr.46].
Vào năm 1948, Liên hợp quốc đã ghi rõ trong bản Tuyên ngôn nhân
quyền về quyền được hưởng an sinh xã hội như sau: “ Mọi người, với tư cách
là thành viên của xã hội, đều có quyền được hưởng an sinh xã hội và quyền
được thực hiện thông qua nỗ lực của quốc gia và sự hợp tác quốc tế và phù
hợp với cách thức tổ chức và các nguồn lực của mỗi quốc gia, các quyền kinh
tế, xã hội và văn hóa cần thiết cho phẩm giá của mình và cho sự phát triển tự
do của nhân cách của mình” [84, tr.15].

Hiện nay nhiều nước sử dụng khái niệm an sinh xã hội của tổ chức Lao
động quốc tế (ILO), hai chức năng cơ bản của an sinh xã hội là: thứ nhất, bảo
đảm an toàn cho mọi thành viên trong xã hội ở mức tối thiểu về thu nhập,
dịch vụ y tế và xã hội; thứ hai, duy trì thu nhập cho các thành viên xã hội
đang hoạt động kinh tế hoặc mọi công dân khi về hưu duy trì được mức sống


10

hiện tại trong các trường hợp thất nghiệp, ốm đau, thai sản, tuổi già, tàn tật,
mà khơng có khả năng tạo thu nhập [14, tr.46].
“Phúc lợi xã hội” trong cuốn Introduction to Social Welfare and Social
Word: Structure, Function and Process, xuất bản ở Illinois năm 1980, tác giả
Beulah Compton định nghĩa: “phúc lợi xã hội là một thiết chế bao gồm các
chính sách và luật lệ, được thực thi bởi nhà nước hay bởi các tổ chức tự
nguyện, thông qua đó một mức độ tối thiểu nhất định về các dịch vụ xã hội
thiết yếu (y tế, giáo dục, nhà ở...) được phân phối cho các cá nhân, gia đình,
nhóm xã hội (những dịch vụ mà gia đình hay thị trường khơng đáp ứng được
cho họ) nhằm mục đích phịng ngừa, giảm nhẹ hoặc đóng góp vào việc giải
quyết các vấn đề xã hội và cải thiện sự an sinh của cá nhân, nhóm và cộng
đồng một cách trực tiếp” [84, tr.16,18].
Ở Việt Nam khái niệm “chính sách xã hội” lần đầu tiên được sử dụng
trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI với quan niệm chính sách xã hội bao
trùm mọi mặt cuộc sống của con người. Tuy nhiên, trong những năm gần đây
bên cạnh thuật ngữ “chính sách xã hội”, thuật ngữ “chính sách an sinh xã hội”
cũng đã được chính thức sử dụng phổ biến ở Việt Nam. An sinh xã hội, theo
GS, TS. Hồng Chí Bảo: là sự an toàn của cuộc sống con người từ cá nhân
đến cộng đồng, tạo tiền đề và động lực cho sự phát triển con người và xã hội”.
An sinh xã hội đảm bảo cho con người tồn tại như một con người và phát
triển các sức mạnh bản chất người và đảm bảo về an ninh để con người sống,

làm việc, con người nhận được từ xã hội những đảm bảo về cuộc sống trước
những rủi ro, bất trắc, những tình huống bất thường đe dọa hoặc phá hủy
trạng thái bình yên, quyền sống và thụ hưởng lợi ích từ họ. An sinh xã hội
dành cho mỗi người và cho tất cả mọi người, trong đó đặc biệt chú trọng tới
nhóm xã hội yếu thế, do thiếu hoặc khơng có điều kiện bình thường để phát
triển (người đói nghèo, người già và cô đơn không nơi nương tựa, người


11

khuyết tật, trẻ mồ côi, nạn nhân chiến tranh...). Ở nước ta nội dung an sinh xã
hội gồm : xóa đói giảm nghèo, bảo hiểm xã hội, trợ cấp xã hội và ưu đãi xã
hội, phúc lợi xã hội. Và chức năng của nó là phịng ngừa, giảm thiểu và khắc
phục rủi ro. Nó vừa ở trong chính sách xã hội xét về nội dung, lại vừa ở ngồi
chính sách xã hội xét về điều kiện thực hiện và các quan hệ chi phối [2, tr.3839].
Như vậy, khái niệm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội có điểm chung là
hướng tới sự đảm bảo cho con người, đặc biệt là nhóm yếu thế trước những
rủi ro. Đây cũng là bộ phận cơ bản để đảm bảo và tăng cường về vật chất cho
tất cả các thành viên trong xã hội.
Về khái niệm chính sách xã hội ở nước ta có nhiều quan niệm và cách lý
giải khác nhau. Có thể khái quát những quan niệm và cách lý giải như sau:
Thứ nhất, GS.Văn Tạo và PGS,TS. Đặng Cảnh Khanh cho rằng: chính
sách xã hội là một bộ phận cấu thành của chính sách chung của một chính
đảng hay một nhà nước, trong việc quản lý, điều hòa các mối quan hệ xã hội
và cá nhân. Nó bao gồm việc giải quyết các vấn đề xã hội phù hợp với bản
chất giai cấp của đảng và nhà nước đó. Trong cách quan niệm này, tác giả
nhấn mạnh đến chủ thể của chính sách và nội dung của nó, nhưng chưa nêu
bật được những khía cạnh cần thiết có trong mục đích và chức năng xã hội
của chính sách xã hội.
Thứ hai, PGS. Bùi Đình Thanh cho rằng: chính sách xã hội là cụ thể hóa

và thể chế hóa bằng pháp luật những đường lối chủ trương, những biện pháp
để giải quyết các vấn đề xã hội dựa trên những tư tưởng, quan điểm của
những chủ thể lãnh đạo phù hợp với bản chất chế độ xã hội - chính trị, phản
ánh lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng xã hội nói chung và của từng nhóm
xã hội nói riêng nhằm mục đích cao nhất là thỏa đáng những nhu cầu ngày
càng tăng đời sống vật chất và tinh thần văn hóa của nhân loại.


12

Thứ ba: Nguyễn Thiện Nhân cho rằng: chính sách xã hội là công cụ quan
trọng của đảng và nhà nước để thực hiện và điều chỉnh những vấn đề xã hội
đang được đặt ra đối với con người, để thỏa mãn hoặc phần nào đáp ứng các
nhu cầu cuộc sống chính đáng của con người, phù hợp với các đối tượng khác
nhau, trong những trình độ kinh tế, văn hóa, xã hội của các thời kỳ nhất định
nhằm đảm bảo sự ổn định và phát triển của xã hội” [40, tr.65 - 66].
Thứ tư, theo Từ Điển Bách Khoa Việt Nam: chính sách xã hội – một bộ
phận cấu thành chính sách chung của một chính đảng hay chính quyền nhà
nước trong việc giải quyết và quản lý các vấn đề xã hội, chính sách xã hội bao
trùm mọi mặt của cuộc sống con người, điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo
dục và văn hóa, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp và quan hệ xã hội. Một
trong những đặc điểm cơ bản của chính sách xã hội là sự thống nhất biện
chứng của nó với chính sách kinh tế.... Chính sách xã hội phải đạt mục đích
đem lại đời sống tốt đẹp cho mỗi con người’’ [37, tr.478].
Mặc dù có nhiều quan niệm, nhiều định nghĩa khác nhau về “chính sách
xã hội” nhưng tất cả các quan niệm trên đều có điểm chung: thứ nhất, nhấn
mạnh chính sách xã hội là công cụ quan trọng của đảng và nhà nước để giải
quyết các vấn đề xã hội, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, dựa trên cơ sở
đáp ứng lợi ích vật chất, tinh thần của con người với các đối tượng và với
trình độ kinh tế - xã hội nhằm hoàn thiện các quan hệ xã hội, đảm bảo sự ổn

định và phát triển xã hội; thứ hai, chính sách xã hội lấy con người làm đối
tượng, trung tâm của q trình thực hiện chính sách xã hội.
Xuất phát từ góc độ tiếp cận của Chủ nghĩa xã hội khoa học, từ sự nghiên
cứu đúc rút những nội dung cốt lõi, xuyên suốt qua một số khái niệm và quan
niệm về chính sách xã hội đã được phổ biến rộng rãi ở Việt Nam và trên thế
giới, tác giả luận văn này tán thành quan niệm về chính sách xã hội của tập
thể tác giả Khoa Chủ nghĩa xã hội khoa học - Học viện Chính trị quốc gia Hồ


13

Chí Minh trong cuốn “Chủ nghĩa xã hội khoa học chương trình cao cấp” tập
2, rằng: “Chính sách xã hội là chính sách của một chính đảng, một nhà nước
nhằm giải quyết những vấn đề quan hệ đến cuộc sống của con người, đến nhu
cầu và lợi ích của các giai cấp, các dân tộc, các tầng lớp và các nhóm người
trong xã hội” [8, tr.176].
Phân loại chính sách xã hội
Có nhiều cách tiếp cận và phân loại chính sách xã hội khác nhau tùy theo
từng nước, nhưng nhìn chung, trên thế giới cũng như ở Việt Nam, có những
cách tiếp cận và phân loại chính sách xã hội chủ yếu sau:
Cách tiếp cận và phân loại theo nhóm nhiệm vụ, chính sách xã hội phân
thành ba nhóm:
Nhóm nhiệm vụ thứ nhất: xuất phát từ trách nhiệm, nghĩa vụ của toàn xã
hội đối với mỗi cá nhân (cả xã hội chăm lo cho mỗi người), chính sách xã hội
phải tạo ra những điều kiện thuận lợi và những cơ hội tốt để nhân dân sống
ngày càng tốt hơn, nhân văn hơn, nâng cao phúc lợi vật chất, phát triển văn
hóa và dân chủ hóa xã hội...
Nhóm nhiệm vụ thứ hai: xuất phát từ nghĩa vụ, trách nhiệm của cá nhân
đối với xã hội (mỗi người chăm lo cho tất cả), chính sách xã hội phải làm sao
cho con người đem hết khả năng phục vụ lợi ích xã hội, hồn thành ngày càng

tốt hơn nghĩa vụ công dân đối với xã hội, thành viên đối với cộng đồng, xây
dựng và củng cố lối sống mới trong quần chúng nhân dân.
Nhóm nhiệm vụ thứ ba: nhóm nhiệm vụ độc lập điều tiết tổng hợp lợi ích,
quan hệ giữa các giai tầng xã hội cơ bản, hình thành cơ cấu giai cấp xã hội
hợp lý phù hợp với sự phát triển kinh tế và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chính sách xã hội góp phần củng cố khối liên minh cơng, nơng, trí thức, nền
tảng xã hội của nhà nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa; góp phần củng cố và


14

phát triển khối đại đoàn kết toàn dân, tạo cơ sở chính trị - xã hội vững chắc
cho chế độ mới, đảm bảo cho công cuộc đổi mới thành công.
Cách tiếp cận và phân loại theo nhu cầu của nhân dân, chính sách xã hội
được phân thành hai nhóm:
Nhóm thứ nhất, chính sách xã hội được điều tiết bằng pháp luật những
điều kiện lao động và các xung đột lao động; đảm bảo đời sống cho các đối
tượng khó khăn, những người thuộc diện chính sách: thất nghiệp, người già,
người mất khả năng lao động, người nghèo...
Nhóm thứ hai: chính sách xã hội tạo ra sự thỏa mãn những nhu cầu chung
cho tất cả mọi người như: chăm sóc sức khỏe cộng đồng, tổ chức nền giáo dục
nhân dân, đấu tranh chống tệ nạn xã hội, bảo vệ môi trường...
Cách tiếp cận và phân loại theo tính chất, phạm vi tác động, chính sách
xã hội phân thành bốn nhóm:
Nhóm thứ nhất, các chính sách xã hội nằm trong kế hoạch phát triển lĩnh
vực.
Nhóm thứ hai, các chính sách xã hội cơ bản chung cho mọi đối tượng: giáo
dục, y tế...
Nhóm thứ ba, chính sách xã hội hướng vào việc giải quyết một số vấn đề
cấp bách, ưu đãi người có cơng, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo,

phịng chống tệ nạn xã hội.
Nhóm thứ tư, chính sách xã hội đối với đối tượng đặc biệt: người già, người
tàn tật, trẻ mồ côi... [27, tr.187-188].
Trong luận văn này, tác giả tán thành và sử dụng cách tiếp cận và phân
loại chính sách xã hội theo tính chất và phạm vi tác động, bao gồm: chính


15

sách dân số, chính sách bảo đảm xã hội, chính sách việc làm, chính sách
xóa đói giảm nghèo, chính sách y tế, chính sách giáo dục và đào tạo.
Chính sách dân số
Chính sách dân số theo nghĩa chung nhất, là một hệ thống các giải pháp
mà Nhà nước (Trung ương và địa phương) thực hiện nhằm kiểm soát được sự
phát triển của dân số phù hợp với những yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội,
bảo đảm sự phồn vinh của đất nước và nâng cao chất lượng cuộc sống nhân
dân. Theo Ủy ban Dân số thuộc Hội đồng kinh tế - xã hội của Liên hợp quốc,
chính sách dân số là các giải pháp và các chương trình nhằm đạt được các
mục tiêu kinh tế - xã hội, dân số, chính trị và các mục tiêu khác thơng qua ảnh
hưởng của các biến dân số theo địa lý và các đặc trưng nhân khẩu học khác.
Về bản chất, chính sách dân số bao gồm tất cả các hoạt động có ảnh hưởng
làm thay đổi các yếu tố nhân khẩu học. Nghĩa là các chính sách dân số bao
gồm toàn bộ hệ thống phục vụ sinh đẻ, các chiến lược giáo dục, các chính
sách tác động đến mức sinh, mức chết, các biện pháp kế hoạch hóa gia đình, phân
bố dân cư…
Do đặc thù của sự phát triển dân số, ảnh hưởng của các điều kiện kinh tế xã hội và lịch sử theo từng thời kỳ nên chính sách dân số bao gồm cả việc
xem xét các xu hướng dân số trong quá khứ và hiện tại, đồng thời xem xét các
nguyên nhân của xu hướng đó. Trên cơ sở đó dự báo những thay đổi nhân
khẩu học trong tương lai. Ngồi ra, chính sách dân số phải được xem xét
trong mối quan hệ với chính sách phát triển kinh tế - xã hội, cụ thể là ảnh

hưởng của các quá trình dân số với sự phát triển và ngược lại.
Chính sách dân số được coi là một trong những mục tiêu rất quan trọng
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nói chung và phát huy nguồn lực
con người nói riêng ở Việt Nam hiện nay.


16

Chính sách bảo đảm xã hội
Chính sách đảm bảo xã hội được hiểu một cách chung nhất là một hệ
thống các giải pháp mà Nhà nước thực hiện nhằm bảo đảm hoặc góp phần bảo
đảm thu nhập và các điều kiện sinh sống cho các thành viên của xã hội khi họ
bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc bị lâm vào cảnh rủi ro, bất hạnh. Đây là sự
bảo vệ của xã hội đối với công dân thông qua các biện pháp cơng cộng nhằm
giúp họ khắc phục những khó khăn về kinh tế và xã hội; đồng thời bảo đảm
chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đơng con, gia đình có cơng với cách
mạng…
Những chính sách bảo đảm xã hội đã có từ xa xưa, trên cơ sở lòng nhân
ái giữa người với người. Về sau, được các tơn giáo cổ vũ và khuyến khích.
Tuy nhiên, phải đến thời kì cách mạng cơng nghiệp (nhất là ở các nước cơng
nghiệp phát triển), chính sách bảo đảm xã hội mới có ý nghĩa sâu rộng nhằm
bảo vệ đời sống lớp người lao động làm công ăn lương. Đạo luật bảo đảm xã
hội lần đầu tiên xuất hiện năm 1935 ở Hoa Kì. Ngày 28.6.1952, Tổ chức Lao
động Quốc tế (ILO) ra Công ước 102 quy định những tiêu chuẩn tối thiểu để
các quốc gia thực hiện.
Việt Nam và hầu hết các quốc gia trên thế giới vẫn tuân thủ Công ước 102
của ILO và phát triển tùy theo hoàn cảnh mỗi nước. Hệ thống bảo đảm xã hội
của Việt Nam cơ bản gồm bảo hiểm xã hội cho người lao động trong các
thành phần kinh tế; cứu trợ xã hội cho những người không may bị rủi ro, bất
hạnh (bao gồm cả cứu trợ do bị thiên tai, hỏa hoạn…); ưu đãi xã hội đối với

những người có cơng với đất nước như cán bộ lão thành cách mạng, gia đình
thương binh, liệt sĩ.


17

Chính sách việc làm
Chính sách việc làm là sự thể chế hóa bằng pháp luật của Nhà nước một
hệ thống các quan điểm, chủ trương, phương hướng và các giải pháp giải
quyết việc làm cho người lao động.
Chính sách việc làm là một trong những chính sách xã hội cơ bản nhất
của mọi quốc gia nhằm góp phần bảo đảm an toàn, ổn định và phát triển xã
hội. Hội nghị Thượng đỉnh Copenhagen tháng 3 năm 1995 đã coi mở rộng
việc làm là một trong những nội dung cơ bản nhất của chiến lược phát triển xã
hội của các nước trên thế giới.
Theo quan niệm của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), người có việc làm
là người làm việc trong các lĩnh vực, ngành nghề, dạng hoạt động có ích,
không bị pháp luật ngăn cấm, đem lại thu nhập để ni sống bản thân và gia
đình, đồng thời đóng góp một phần cho xã hội.
Thất nghiệp là một tình trạng có tính quy luật của các nền kinh tế thị
trường. Có nhiều khái niệm khác nhau về thất nghiệp. Theo quan niệm của
ILO: thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một số người trong lực lượng lao
động muốn làm việc, nhưng khơng thể tìm được việc làm ở mức tiền công
đang thịnh hành. Giải quyết vấn đề thất nghiệp là một trong những vấn đề bức
xúc trong chính sách việc làm của mỗi quốc gia.
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, vấn đề
đặt ra là phải hạn chế thất nghiệp, phải tạo ra chỗ làm việc mới. Ngồi ra, phải
có chính sách trợ cấp cho người lao động khi họ bị thất nghiệp.
Chính sách việc làm có quan hệ và tác động đến việc mở rộng và phát triển
việc làm cho lực lượng lao động của toàn xã hội, như các chính sách khuyến

khích phát triển những lĩnh vực, những ngành nghề có khả năng thu hút được
nhiều lao động; chính sách tạo việc làm cho các loại đối tượng đặc biệt như:
người tàn tật, đối tượng tệ nạn xã hội,...


18

Chính sách xóa đói giảm nghèo
Chính sách xóa đói giảm nghèo là một chiến lược nhằm giải quyết vấn đề
đói nghèo và phát triển kinh tế tại Việt Nam. Đây là một trong những chính
sách xã hội cơ bản được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Ngay từ khi
nước ta mới giành được độc lập năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định
nghèo đói và dốt cũng là một thứ giặc, như giặc ngoại xâm. Thực hiện tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương,
chính sách tạo điều kiện cho người nghèo tiếp cận việc làm, tiếp cận với các
dịch vụ xã hội như giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe nhất là đồng bào dân tộc
vùng sâu, vùng xa. Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng ta đã chỉ ra: tăng cường kinh tế phải gắn liền
với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước phát triển kinh tế…Khuyến
khích làm giàu hợp pháp đi đơi với xóa đói giảm nghèo. Coi việc một bộ phận
dân cư giàu trước hết là cần thiết cho sự phát triển. Đồng thời có chính sách
ưu đãi hợp lý…để tạo điều kiện cho người nghèo có thể tự mình vươn lên làm
đủ sống và phấn đấu trở thành khá giả. Các vùng giàu, vùng phát triển trước
phải cùng Nhà nước giúp đỡ, lôi cuốn các vùng nghèo, vùng phát triển sau để
cùng vươn lên, nhất là các vùng đang có rất nhiều khó khăn, nghèo hơn các
vùng khác như các vùng cao, vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng
căn cứ cách mạng trước đây.
Chính sách y tế
Chính sách y tế được hiểu một cách chung nhất là một hệ thống các giải
pháp mà Nhà nước thực hiện nhằm chăm sóc, bảo vệ, cải thiện sức khoẻ cho

toàn dân, tạo sự thoải mái cho mỗi cá nhân cũng như cho cộng đồng; điều
chỉnh, sửa chữa kịp thời sự suy giảm sức khỏe ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt
động bình thường của cá nhân và cộng đồng. Chính sách y tế của nước ta
được ban hành gắn với mục tiêu từng bước đạt tới công bằng trong chăm sóc


19

sức khỏe, thực hiện chia sẻ gánh nặng chi phí khám, chữa bệnh và chăm sóc
sức khỏe giữa người khỏe mạnh với người ốm; người giàu với người nghèo,
người có hồn cảnh khó khăn; người trong độ tuổi lao động với trẻ em, người
già. Quỹ bảo hiểm y tế phải hoạt động trên nguyên tắc lấy số đông bù số ít;
bảo đảm cân đối, ổn định và bền vững quỹ. Việc ban hành Luật Bảo hiểm y tế
nhằm tạo hành lang pháp lý cho việc phát triển bảo hiểm y tế tồn dân, góp
phần hình thành và phát triển mạnh mẽ hệ thống an sinh xã hội vững chắc ở
nước ta.
Chính sách giáo dục và đào tạo
Chính giáo dục và đào tạo là hệ thống các biện pháp, hành lang pháp lý
mà Nhà nước thực hiện nhằm bồi dưỡng và phát triển các phẩm chất và năng
lực của con người, bồi dưỡng và phát triển toàn diện con người từ bậc giáo
dục mầm non đến trung học phổ thông; bồi dưỡng và chuẩn bị nghề cho con
người trong các trường dạy nghề, cao đẳng và đại học. Ở nước ta hiện nay,
phát triển giáo dục và đào tạo, cùng với khoa học và công nghệ được coi là
quốc sách hàng đầu nhằm phát triển nhân tố con người với tư cách vừa là mục
tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước [40, tr.15 - 20].
1.2. CHÍNH SÁCH XÃ HỘI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VÀ NHÀ NƯỚC
VIỆT NAM HIỆN NAY
1.2.1. Cơ sở xây dựng chính sách xã hội của Đảng cộng sản và Nhà nước
Việt Nam
Thứ nhất, quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh
Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng: việc giải quyết tốt các vấn đề xã hội
là yêu cầu cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa, vì đây là chế độ xã hội của con
người, do con người và vì con người. Vì vậy, chủ nghĩa xã hội quan niệm
chính sách xã hội đối với con người – sự hoàn thiện của con người, sự phát


20

triển mạnh năng lực, sự hình thành và thỏa mãn các nhu cầu của con người –
là mục tiêu trực tiếp của chính sách xã hội.
Tùy thuộc vào những điều kiện, đặc điểm, tình hình cụ thể mà chính sách xã
hội mang những nội dung cụ thể. Nhìn chung, tồn bộ chính sách xã hội của
chủ nghĩa xã hội có sự nhất quán với những phương hướng cơ bản:
Một là, giải phóng cá nhân, làm cho con người thốt khỏi tình trạng bị áp
bức và nơ dịch về vật chất cũng như tinh thần; xác lập và phát triển không
ngừng vai trò chủ thể xã hội của con người.
Hai là, khắc phục dần sự khác biệt giữa thành thị và nơng thơn, giữa lao
động trí óc và lao động chân tay.... ; điều tiết một cách hợp lý mức thu nhập
giữa các thành phần kinh tế.
Ba là, dựa vào những điều kiện vật chất và tinh thần được tạo ra từ trong
xã hội để nâng cao phúc lợi, thỏa mãn một cách tốt nhất nhu cầu của các cá
nhân. Chính sách xã hội của chủ nghĩa xã hội và việc thực hiện chính sách xã
hội khơng phải là sự ban phát, bố thí có tính chất “từ thiện” của con người cho
con người. Vấn đề khơng phải chỉ tính đến những điều kiện được tạo ra cho
con người, mà vấn đề là làm cho con người sử dụng những điều kiện đó để
giải quyết một cách hiệu quả những nhiệm vụ của xã hội. Do đó, việc nâng
cao phúc lợi xã hội cho con người phải gắn liền với nâng cao tính tích cực của
cơng dân, trước hết là tính tích cực của cơng nhân, nơng dân và đội ngũ trí
thức. Việc nâng cao phúc lợi vật chất nếu khơng gắn liền và kết hợp với giáo

dục tư tưởng, đạo đức và văn hóa thì sẽ có nguy cơ xuất hiện tâm lý xa lạ, thị
dân tiểu tư sản.
Bốn là, chính sách xã hội hướng tới sự bình đẳng xã hội, tạo khả năng và
điều kiện ngang nhau cho sự phát triển của các cá nhân; đấu tranh một cách
kiên quyết, có hiệu quả chống tệ nạn xã hội, đặc biệt là các tệ nạn như: đặc
quyền đặc lợi và tham nhũng [3,tr.124 -126].


×