Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Các yếu tố liên quan đến sự lo âu của người bệnh trước phẫu thuật tiêu hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 108 trang )

.
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-----------------

VÕ THỊ YẾN NHI

CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN SỰ LO ÂU CỦA NGƯỜI BỆNH
TRƯỚC PHẪU THUẬT TIÊU HÓA

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐIỀU DƯỠNG

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-----------------

VÕ THỊ YẾN NHI

CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN SỰ LO ÂU CỦA NGƯỜI BỆNH TRƯỚC
PHẪU THUẬT TIÊU HÓA

Chuyên ngành: ĐIỀU DƯỠNG


Mã số: 60 72 05 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐIỀU DƯỠNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. TRẦN THIỆN TRUNG
GS.TS. FAYE I. HUMMEL

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH –NĂM 2017


i

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và kết quả được trình bày trong luận văn này là trung thực và chưa từng
được cơng bố trong bất kỳ cơng trình nghiên cứu nào.

Tác giả

Võ Thị Yến Nhi


ii

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................. i
MỤC LỤC ............................................................................................................. ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ................................................................ iv
BẢNG ĐỐI CHIẾU THUẬT NGỮ TIẾNG ANH-TIẾNG VIỆT ................... v
DANH MỤC CÁC BẢNG .................................................................................. vi

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ, HÌNH ẢNH ......................................viii
ĐẶT VẤN ĐỀ ....................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU............................................................. 4
1.1. Lý thuyết điều dưỡng và sự ứng dụng trong nghiên cứu .......................... 4
1.2. Sơ lược về tâm lý người bệnh.................................................................... 8
1.3. Giải phẫu hệ tiêu hóa ...............................................................................14
1.4. Điều trị ngoại khoa trong một số bệnh lý hệ tiêu hóa .............................16
1.5. Một số nghiên cứu về tình trạng lo âu trước phẫu thuật .........................21
CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.............. 24
2.1. Đối tượng nghiên cứu ..............................................................................24
2.2. Phương pháp nghiên cứu .........................................................................24
2.3. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu ............................................................35
2.4. Lợi ích mong đợi của nghiên cứu ............................................................35
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ .................................................................................... 37
3.1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu ..........................................................37
3.2. Tình trạng lo âu của người bệnh trước phẫu thuật tiêu hóa .......................42
3.3. Các vấn đề lo âu của người bệnh trước phẫu thuật tiêu hóa ......................43
3.4. Mức độ nhận thức về bệnh và sự hỗ trợ xã hội..........................................44


iii

3.5. Các yếu tố liên quan đến sự lo âu của người bệnh trước phẫu thuật .........45
CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN ................................................................................. 57
4.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu ...............................................57
4.2. Tình trạng lo âu và các vấn đề lo âu của người bệnh trước phẫu thuật tiêu
hóa .....................................................................................................................63
4.3. Các yếu tố liên quan đến sự lo âu của người bệnh trước phẫu thuật .........67
4.4. Ưu điểm và hạn chế của nghiên cứu ..........................................................74
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 76

KIẾN NGHỊ ........................................................................................................ 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phụ lục 1
Phụ lục 2
Phụ lục 3


iv

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

APAIS: The Amsterdam Preoperative Anxiety and Information Scale
ANOVA: Analysis of Variance
BIPQ: Brief Illness Perception Questionnaire
F: giá trị kiểm định phân tích phương sai ANOVA
HADS: Hospital Anxiety Depression Scale
HADS-A: Hospital Anxiety Depression Scale-Anxiety
HAM-A: Hamilton Anxiety Rating Scale
MDSS: Multi-Dimensional Support Scale
n: số người bệnh
p: mức ý nghĩa thống kê
STAI: The State-Trait Anxiety Inventory
STAI-S: The State Anxiety Inventory
STAI-T: The Trait Anxiety Inventory
SPSS: Statistical Package for the Social Sciences
t: giá trị kiểm định t test
r: hệ số tương quan
VAS-A: Visual analog scale for Anxiety



v

BẢNG ĐỐI CHIẾU THUẬT NGỮ TIẾNG ANH-TIẾNG VIỆT
Tiếng Việt

Tiếng Anh

Biến số can thiệp

Intervening variables

Đo lường sự thoải mái

Comfort measures

Hành vi tìm kiếm sức khỏe

Health-seaking behaviors

Lý thuyết về sự thoải mái của Kolcaba Kolcaba’s theory of comfort
Nhu cầu chăm sóc sức khỏe

Health care needs

Sự thoải mái

Comfort

Tính tồn vẹn tổ chức


Institutional integrity


vi

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Câu hỏi cho từng mục của bộ câu hỏi đánh giá nhận thức về bệnh 29
Bảng 3.1. Đặc điểm chung của người bệnh phẫu thuật tiêu hóa .................... 37
Bảng 3.2. Đặc điểm chung của người bệnh phẫu thuật tiêu hóa (tiếp theo) ... 38
Bảng 3.3. Đặc điểm về bệnh của người bệnh trước phẫu thuật tiêu hóa ........ 40
Bảng 3. 4. Các vấn đề lo âu của người bệnh trước phẫu thuật tiêu hóa ......... 43
Bảng 3. 5. Mức độ nhận thức bệnh và sự hỗ trợ xã hội .................................. 44
Bảng 3.6. Mối liên quan giữa lo âu trước phẫu thuật và đặc điểm chung của
người bệnh ....................................................................................................... 45
Bảng 3.7. So sánh điểm trung bình lo âu trước phẫu thuật của nhóm chẩn
đốn bệnh ung thư và không ung thư .............................................................. 48
Bảng 3.8. So sánh điểm trung bình lo âu trước phẫu thuật của phương pháp
phẫu thuật nội soi và mổ mở ........................................................................... 49
Bảng 3.9. So sánh điểm trung bình lo âu trước phẫu thuật của nhóm người
bệnh có và khơng có bệnh kèm theo ............................................................... 50
Bảng 3.10. So sánh điểm trung bình lo âu trước phẫu thuật của các nhóm cơ
quan phẫu thuật ............................................................................................... 50
Bảng 3.11. So sánh điểm trung bình lo âu trước phẫu thuật của các nhóm cơ
quan phẫu thuật (tiếp theo) .............................................................................. 51
Bảng 3.12. So sánh điểm trung bình lo âu trước phẫu thuật của các nhóm có
phẫu thuật trước............................................................................................... 52
Bảng 3.13. So sánh điểm trung bình lo âu trước phẫu thuật của các nhóm có
phẫu thuật trước (tiếp theo) ............................................................................. 52
Bảng 3.14. Mối tương quan giữa lo âu trước phẫu thuật và thời gian chờ phẫu
thuật ................................................................................................................. 53

Bảng 3.15. Mối tương quan giữa lo âu trước phẫu thuật và sự hỗ trợ xã hội . 53


vii

Bảng 3.17. Mối tương quan giữa lo âu trước phẫu thuật và sự nhận thức về
bệnh của người bệnh ....................................................................................... 56
Bảng 4.1. Kết quả lo âu trước phẫu thuật của một số nghiên cứu .................. 63


viii

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ, HÌNH ẢNH
SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.2. Khung lý thuyết về sự thoải mái ...................................................... 6
Sơ đồ 1.3. Ứng dụng khung lý thuyết về sự thoải mái cho người bệnh trước
phẫu thuật .......................................................................................................... 7
Sơ đồ 2.1. Sơ đồ các bước tiến hành nghiên cứu ............................................ 25
Sơ đồ 2.2. Quá trình thu thập số liệu............................................................... 33
BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1. Phân loại lo âu của người bệnh trước phẫu thuật tiêu hóa ......... 42
Biểu đồ 3.2. Trung bình mức độ nhận thức của người bệnh theo từng nội dung
......................................................................................................................... 45
Biểu đồ 3.3. Lo âu trước phẫu thuật ở nhóm người bệnh khơng có và có chẩn
đốn bệnh ung thư ........................................................................................... 48
Biểu đồ 3.4. Lo âu trước phẫu thuật ở nhóm người bệnh mổ mở và phẫu thuật
nội soi .............................................................................................................. 49
Biểu đồ 3.5. Mối tương quan giữa lo âu trước phẫu thuật với sự hỗ trợ của
nhân viên y tế .................................................................................................. 54
Biểu đồ 3.6. Mối tương quan giữa lo âu trước phẫu thuật với sự hỗ trợ của gia

đình/bạn bè ...................................................................................................... 55
HÌNH ẢNH
Hình 1.1. Cấu tạo hệ tiêu hóa của người ......................................................... 14


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Lo âu là trạng thái tâm lý thường xảy ra ở những người bệnh nằm viện,
đặc biệt là những người bệnh được điều trị bằng phẫu thuật. Tình trạng lo âu
có thể xảy ra ở cả trước, trong hay sau phẫu thuật. Trong đó, lo âu trước phẫu
thuật có tác động lớn đến hiệu quả điều trị của người bệnh và cũng là một
trong những mối quan tâm của người chăm sóc. Lo âu trước phẫu thuật tác
động trực tiếp đến sự thành công của cuộc phẫu thuật đặc biệt là quá trình gây
mê hồi sức, đồng thời nó cịn ảnh hưởng đến sự phục hồi sức khỏe của người
bệnh sau phẫu thuật. Theo Osborn và cộng sự (2004) [49], người bệnh lo âu
quá mức trước phẫu thuật đòi hỏi tổng liều gây mê lớn hơn và dễ có những cử
động khơng mong muốn khi đang trong gây mê. Theo Ali và cộng sự (2014)
[15], lo âu trước phẫu thuật cũng ảnh hưởng tiêu cực đến sự phục hồi gây mê
và kiểm soát đau sau phẫu thuật. Sự lo âu quá mức và liên tục của người bệnh
có thể ảnh hưởng đến thể chất, tâm lý, chất lượng cuộc sống, cơng việc và có
thể kéo dài tình trạng bệnh [53]. Theo kết quả nghiên cứu của Tanaka và cộng
sự (2012) [55] trên người bệnh phẫu thuật vùng bụng cho thấy người bệnh có
nguy cơ hạ thân nhiệt ở giai đoạn sớm trong gây mê có thể được dự đoán
bằng cách đo lường mức độ lo âu của người bệnh trước phẫu thuật.
Xác định tình trạng lo âu trước phẫu thuật của người bệnh đã được thực
hiện trong nhiều nghiên cứu trên thế giới. Theo Jlala (2010) [31], lo âu trước
phẫu thuật được tìm thấy với tỉ lệ lên đến 80%. Tại United Kingdom, 82%
người bệnh có lo âu trước phẫu thuật [44]. Theo Rosiek và cộng sự
(2016)[50], 55% người bệnh lo âu trước phẫu thuật mức độ trung bình tại Ba

Lan. Tại Việt Nam, một báo cáo ở Thái Nguyên có đến 100% người bệnh có
lo âu trước phẫu thuật vùng bụng và 75% lo âu mức độ trung bình [57], tại
Phú Thọ tỉ lệ này là 98,9% và 50% người bệnh mức độ trung bình [23]. Phẫu


2

thuật tiêu hóa là điều trị ngoại khoa thường gặp trong bệnh viện. Tại bệnh
viện Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh, có 30% trường hợp phẫu thuật
tiêu hóa trong năm 2010 [11], 21,94% trường hợp được ghi nhận tại Đồng Nai
[4] và 27,5% tại bệnh viện đa khoa tỉnh Đồng Tháp từ 2003-2007 [6].
Bệnh viện đa khoa Kiên Giang là bệnh viện hạng một trực thuộc tỉnh Kiên
Giang, với quy mô 1600 giường, chịu trách nhiệm chăm sóc sức khỏe cho hơn
1,8 triệu dân của tỉnh Kiên Giang và các tỉnh lân cận. Khoa Ngoại Tổng quát
bệnh viện đa khoa Kiên Giang điều trị hơn 7600 người bệnh trong năm 2016,
điều trị phẫu thuật theo chương trình chiếm 36,3% các trường hợp phẫu thuật,
trong đó phẫu thuật tiêu hóa cũng là phẫu thuật phổ biến tại khoa nhưng tính
đến hiện nay chưa có nghiên cứu nào xác định tình trạng tâm lý cũng như
mức độ lo âu của người bệnh trước phẫu thuật.
Mức độ lo âu ở mỗi người bệnh điều trị phẫu thuật là không giống nhau.
Tìm hiểu tâm lý cũng như tình trạng lo âu của người bệnh là một trong những
vai trò của người điều dưỡng ngoại khoa trong việc chuẩn bị người bệnh trước
phẫu thuật. Với mong muốn xác định mức độ lo âu và các yếu tố ảnh hưởng
đến tình trạng lo âu của người bệnh trước phẫu thuật tiêu hóa để từ đó có
hướng can thiệp phù hợp giúp người bệnh giảm lo âu trước phẫu thuật cũng
như sự phục hồi sớm sau phẫu thuật. Vậy mức độ lo âu của người bệnh phẫu
thuật tiêu hóa tại bệnh viện đa khoa Kiên Giang như thế nào? Có hay khơng
mối liên quan giữa lo âu trước phẫu thuật với đặc điểm nhân khẩu học, đặc
điểm bệnh, nhận thức về bệnh của người bệnh và sự hỗ trợ xã hội? Hiện nay
vẫn chưa có câu trả lời. Đó là lí do chúng tơi thực hiện đề tài này.



3

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

Mục tiêu tổng quát
Xác định các yếu tố liên quan đến sự lo âu của người bệnh trước phẫu
thuật tiêu hóa.
Mục tiêu cụ thể
- Xác định mức độ lo âu, các vấn đề lo âu, nhận thức về bệnh, sự hỗ trợ
xã hội của người bệnh trước phẫu thuật tiêu hóa.
- Xác định mối liên quan giữa lo âu trước phẫu thuật với đặc điểm
chung, đặc điểm bệnh, nhận thức về bệnh và sự hỗ trợ xã hội của người bệnh.


4

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1.

Lý thuyết điều dưỡng và sự ứng dụng trong nghiên cứu

1.1.1. Vài nét giới thiệu lý thuyết về sự thoải mái của Kolcaba (Katharine
Kolcaba’s theory of comfort)
 Tầm quan trọng của sự thoải mái
Theo McIlveen & Morse (1995) [42], thoải mái là một trong những tiêu
chuẩn quan trọng để đánh giá vai trò cuả người điều dưỡng trong chăm sóc
người bệnh vì nếu người bệnh được thoải mái, có nghĩa là bệnh đã được hồi

phục. Vai trị của sự thoải mái trong chăm sóc điều dưỡng từ năm 1900 đến
1980 có sự thay đổi theo thời gian. Từ năm 1900 đến 1929 sự thoải mái là tiêu
chuẩn đạo đức của việc chăm sóc. Từ năm 1930 đến 1959 sự thoải mái được
coi là một chiến lược để đạt được các khía cạnh cơ bản của chăm sóc điều
dưỡng. Từ năm 1960 đến 1980 sự thoải mái trở thành một mục tiêu trong
chăm sóc điều dưỡng.
Harmer (1926) [56] cho rằng bắt đầu việc chăm sóc điều dưỡng là quan
tâm đến việc cung cấp một “khơng khí thoải mái”. Theo Goodnow (1935)
[56], trong cuốn sách về kỹ thuật của điều dưỡng, một điều dưỡng luôn được
đánh giá qua khả năng làm cho người bệnh được thoải mái. Sự thoải mái về
cả hai mặt thể chất và tinh thần, nhiệm vụ của người điều dưỡng không chỉ
kết thúc với việc chăm sóc về mặt thể chất mà cả thoải mái về tinh thần.
Thoải mái về tinh thần đạt được chủ yếu bằng việc cung cấp sự thoải mái về
thể chất và thay đổi môi trường cho người bệnh.
 Nội dung lý thuyết về sự thoải mái cuả Kolcaba
Sau khi lấy bằng thạc sĩ điều dưỡng, Kolcaba đã làm việc tại Trường đại
học Akron. Trong thời gian này, Kolcaba đã xuất bản khái niệm phân tích về
sự thoải mái cùng với chồng cơ (Kolcaba & Kolcaba, 1991), tình trạng thoải


5

mái như là kết quả của chăm sóc (Kolcaba, 1992a), khái niệm thoải mái trong
lý thuyết trung gian (Kolcaba, 1994) và thử nghiệm lý thuyết trong một
nghiên cứu can thiệp (Kolcaba & Fox, 1999). Khái niệm này tiếp tục được
Kolcaba cập nhật liên tục cho đến nay [10][56].
- Nhu cầu chăm sóc sức khỏe (health care needs)
Trong lý thuyết này, Kolcaba xác định nhu cầu chăm sóc sức khỏe là
những nhu cầu cho sự thoải mái, phát sinh từ những tình huống chăm sóc sức
khỏe mà điều này khơng có ở hệ thống chăm sóc sức khỏe truyền thống.

Những nhu cầu này bao gồm nhu cầu về thể chất, tinh thần, môi trường và xã
hội tạo nên sự theo dõi xuyên suốt và có thể báo cáo bằng lời hoặc không
bằng lời, những nhu cầu này liên quan đến những chỉ số sinh lý bệnh, nhu cầu
giáo dục, hỗ trợ; nhu cầu về tư vấn và can thiệp tài chính (Kolcaba, 1994)
[56].
- Đo lường sự thoải mái (comfort measures)
Đo lường sự thoải mái được xác định qua những can thiệp điều dưỡng
được xây dựng theo những nhu cầu thoải mái cụ thể của người nhận, bao gồm
sinh lý, xã hội, tài chính, tâm lý, tinh thần, mơi trường và can thiệp về thể chất
(Kolcaba, 1994) [56].
- Biến số can thiệp (intervening variables)
Những biến số can thiệp được xác định là những nguồn tương tác mà nó
ảnh hưởng đến tồn bộ nhận thức của người nhận về sự thoải mái. Những
biến này bao gồm những trải nghiệm, tuổi, thái độ, trạng thái cảm xúc, hệ
thống hỗ trợ, tiên lượng, tài chính và toàn bộ những yếu tố trong trải nghiệm
của người nhận (Kolcaba, 1994) [56].
- Sự thoải mái (comfort)
Thoải mái được định nghĩa là trạng thái mà nó được trải nghiệm thông qua
việc đo lường sự thoải mái của người nhận. Đó là những trải nghiệm trực tiếp


6

và tồn diện thơng qua 3 dạng nhu cầu về thoải mái là giảm nhẹ, dễ dàng và
siêu việt và trong 4 nội dung của sự trải nghiệm đó là thể chất, tinh thần, xã
hội và môi trường (Kolcaba,1994) [56].
- Hành vi tìm kiếm sức khỏe (health-seaking behaviors)
Khái niệm hành vi tìm kiếm sức khỏe đã được tổng hợp do Dr. Rozella
Schlotfedt (1975), hành vi tìm kiếm sức khỏe là hành vi trong đó người bệnh
hoặc gia đình có ý thức tham gia, hướng đến cái tốt đẹp, cũng với việc tham

khảo ý kiến với điều dưỡng, Schlotfedt cho rằng hành vi tìm kiếm sức khỏe
có thể là bên trong, bên ngồi, hoặc một cái chết n bình [10][56].
- Tính toàn vẹn tổ chức (institutional integrity)
Kolcaba (2001) đưa ra định nghĩa kỹ thuật sau đây về tính tồn vẹn tổ
chức: các tập đoàn, các cộng đồng, trường học, bệnh viện, nhà thờ, trường
giáo dưỡng mà có phẩm chất hoặc trạng thái đang được hoàn tất, hoàn thiện,
âm thanh, ngay thẳng, hấp dẫn, trung thực và chân thành. Các tổ chức có thể
có tính tồn vẹn nhưng khơng nhất thiết phải có.
Nhu cầu
chăm sóc
sức khỏe

Can thiệp
điều
+
dưỡng

Biến số
+
can
thiệp

Sự thoải
mái

Hành vi
tìm kiếm
sức khỏe

Thể chất,

tinh thần,
mơi
trường, xã
hội

Hành vi
bên trong,
bên ngồi,
cái chết
bình n

Sơ đồ 1.1. Khung lý thuyết về sự thoải mái [10]

Tính
tồn vẹn
tổ chức


7

1.1.2. Ứng dụng của lý thuyết về sự thoải mái vào nghiên cứu
Xác định tình trạng lo âu và giúp giảm lo âu trước phẫu thuật là nhiệm vụ
của điều dưỡng nhằm hướng đến sự thoải mái cho người bệnh. Bên cạnh việc
xác định tình trạng lo âu của người bệnh, người điều dưỡng cần tìm những
yếu tố nào ảnh hưởng đến sự lo âu đó và có kế hoạch chăm sóc cụ thể cho
người bệnh. Ứng dụng mơ hình lý thuyết về sự thoải mái của Kocalba trong
nghiên cứu, chúng tơi xác định nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người bệnh
trong trường hợp này là nhu cầu giảm lo âu trước phẫu thuật; can thiệp điều
dưỡng là sự hỗ trợ của điều dưỡng; biến số can thiệp là các yếu tố tuổi, giới
tính, tình trạng hơn nhân, số ngày nằm viện, số lần phẫu thuật trước, phương

pháp phẫu thuật và sự nhận thức về bệnh của người bệnh.

Nhu cầu
chăm sóc
sức khỏe

Can thiệp
+ điều
dưỡng

Biến số
+
can
thiệp

Đặc điểm
nhân khẩu
Sự hỗ trợ
Giảm sự
học, đặc
lo âu trước + của điều +
điểm về
dưỡng
phẫu thuật
bệnh, sự hỗ
trợ xã hội,
sự nhận thức
về bệnh của
người bệnh


Sự thoải
mái

Hành vi
tìm kiếm
sức khỏe

Tính
tồn vẹn
tổ chức

Sự thoải
mái của
người
bệnh trước
phẫu thuật

Sơ đồ 1.2. Ứng dụng khung lý thuyết về sự thoải mái cho người bệnh trước phẫu thuật


8

1.2.

Sơ lược về tâm lý người bệnh

Khi bị bệnh, tâm lý người bệnh thường bị thay đổi. Sự thay đổi tâm lý
người bệnh thường diễn ra trên hai mặt:
- Thứ nhất là mối quan hệ tương hỗ giữa hiện tượng tâm lý với bệnh tật
(kể cả bệnh thực thể và bệnh chức năng, tinh thần).

- Thứ hai là mối quan hệ giữa tâm lý người bệnh và môi trường xung
quanh (kể cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội) [9].
1.2.1. Tâm lý người bệnh và bệnh tật
Tâm lý của người bệnh biến đổi dưới tác động của bệnh tật và ngược lại,
bệnh tật chịu ảnh hưởng nhất định của tâm lý người bệnh là hiện tượng
thường gặp trong lâm sàng.
Bệnh tật làm thay đổi tâm lý người bệnh, có khi chỉ làm thay đổi nhẹ về
cảm xúc, song cũng có khi làm biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc toàn bộ nhân cách
người bệnh. Bệnh càng nặng, càng kéo dài thì sự biến đổi tâm lý càng trầm
trọng. Tâm lý người bệnh ảnh hưởng trở lại bệnh tật đến mức nào là tùy thuộc
vào đời sống tâm lý vốn có của người bệnh [9].
1.2.2. Trạng thái tâm lý người bệnh
Trạng thái tâm lý người bệnh và trạng thái bệnh thực thể có mối quan hệ
khăng khít với nhau. Cơ sở sinh lý của trạng thái tâm lý là các hệ thống chức
năng cơ động của phức hợp các tế bào thần kinh có hoạt động thống nhất theo
nguyên tắc ưu thế. Những trạng thái này được giới hạn trong những chức
năng nhất định và tồn tại trong một thời gian dài sau khi các tác động từ môi
trường gây ra nó khơng cịn tác động. Khi có kích thích, não đáp ứng trở lại.
Song cũng có khi não khơng đáp ứng trong một thời gian dài đối với kích
thích (như trong phản xạ cụt). Ngược lại, có những xung động thần kinh tự
nhiên xuất hiện, không do bất kỳ một kích thích nào tác động vào giác quan.


9

Những dạng hoạt động này của hệ thần kinh tạo nên cơ sở sinh lý của trạng
thái tâm lý người bệnh [9].
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến trạng thái tâm lý người bệnh, như đặc
điểm các giai đoạn phát triển và những dấu hiệu đặc trưng của bệnh, đặc điểm
nhân cách, các yếu tố nhiễm trùng, nhiễm độc, các yếu tố môi trường…

1.2.3. Đặc điểm tâm lý của những người bệnh phẫu thuật
Đối với phẫu thuật, thái độ của người bệnh hoặc là quá lo sợ (sợ biến
chứng, sợ chết), hoặc là không tin tưởng vào bác sĩ, vào chẩn đốn, vào kết
quả phẫu thuật… Cũng có người phủ nhận tình trạng bệnh tật, che giấu triệu
chứng, khơng thích mổ; cũng có người bệnh quá lạc quan, cho rằng sau mổ là
mình khỏi bệnh hồn tồn…
Theo A.N.Baculev[9], phẫu thuật không phải là sự kết thúc điều trị, mà chỉ là
tạo nền tảng cho một điều trị mới tiếp theo.
- Sự biến đổi tâm lý của người bệnh phụ thuộc rất nhiều vào các giai
đoạn phẫu thuật. Khi chuẩn bị phẫu thuật, người bệnh hay lo âu về chỗ nằm
trước và sau mổ; quan tâm đến những lời bàn tán về trình độ của bác sĩ phẫu
thuật chính, về cách mổ và những điều khác liên quan đến cuộc mổ.
o Giai đoạn tiền phẫu thuật và trong phẫu thuật, nhất là ở những người
bệnh gây tê, châm tê hoặc gây mê khơng hồn tồn (ý thức cịn tỉnh, chỉ làm
mềm cơ và giảm đau), họ lo âu vì tiếng va chạm của dụng cụ, họ chú ý theo
dõi “khơng khí tâm lý” trong cuộc mổ và những lời bàn tán của phẫu thuật
viên…
o Trong giai đoạn hậu phẫu, người bệnh lo âu vì đau đớn, lo bị tai biến
sau mổ, lo cho sự lành sẹo và sự phục hồi sức khỏe sau này. Lúc này thái độ
khách quan, lời nói động viên, sự giúp đỡ tận tình…của thầy thuốc, của người
thân và của những người xung quanh là cần thiết, có tác dụng hỗ trợ cho
người bệnh vượt qua những khó khăn của phẫu thuật và bệnh tật [9].


10

1.2.4. Quan hệ giữa người bệnh và nhân viên y tế
Mối quan hệ này được nhiều nghiên cứu theo nhiều góc độ khác nhau.
Mục đích tác động tâm lý của nhân viên y tế lên người bệnh là loại trừ
hoặc làm giảm tối đa những tác hại của bệnh tật và tạo nên những yếu tố có

lợi cho q trình điều trị. Yêu cầu đặt ra cho nhân viên y tế là điều trị nhanh,
an tồn và làm vừa lịng người bệnh. Người bệnh đòi hỏi ở nhân viên y tế chủ
nghĩa nhân đạo và lương tâm. Cần tiến hành tâm lý liệu pháp, hướng dẫn vệ
sinh tâm lý, dự phòng các bệnh tâm thần cho người bệnh và giúp họ khắc
phục các yếu tố gây stress, tránh những gánh nặng tâm lý trong khám, chữa
bệnh cũng như trong quá trình hồi phục sức khỏe [9].
Mối quan hệ giữa nhân viên y tế với người bệnh là mối quan hệ giữa con
người với con người, giữa nhân cách với nhân cách. Điều trị người bệnh một
cách toàn diện, nghĩa là người thầy thuốc đồng thời với q trình tích cực cứu
chữa bệnh tật, phải hết lòng chăm lo, nâng đỡ tâm lý, tinh thần cho người
bệnh [9].
1.2.5. Tình trạng lo âu
Lo âu được định nghĩa là cảm giác sợ sệt, khơng thoải mái, khó chịu,
khơng chắc chắn hoặc kinh hãi do mối đe dọa thật sự hoặc trong nhận thức
mà ngun nhân thực tế thì khơng biết hoặc khơng được nhận ra. Lo âu là
những trải nghiệm thông thường của con người và cơ bản nhất của cảm xúc
[46]. Lo âu cũng được định nghĩa là trải nghiệm bình thường của con người,
cảm nhận ở nhiều mức độ khác nhau, đây cũng là trạng thái mà các cá nhân
trải nghiệm cảm giác khơng dễ dàng, lo sợ và kích hoạt hệ thần kinh tự chủ
phản ứng lại mối đe dọa mơ hồ, không cụ thể [8].
Theo Halter và Varcarolis (2014) [27], lo âu có thể được phân thành 4 mức
độ: nhẹ, trung bình, nặng và lo âu hoảng sợ.


11

- Lo âu ở mức độ nhẹ xảy ra trong trải nghiệm bình thường của cuộc sống
hằng ngày và nó tích cực vì nó tác động đến cá nhân giải quyết vấn đề một
cách hiệu quả hơn. Ở mức độ này, người lo âu có thể thể hiện các triệu chứng
như sự khó chịu nhẹ, bồn chồn hay cáu gắt.

- Lo âu ở mức độ trung bình dẫn đến nhận thức bị thu hẹp, khả năng suy
nghĩ rõ ràng bị giới hạn. Nhưng việc học hỏi và giải quyết vấn đề vẫn có thể
xảy ra mặc dù nó khơng ở mức tối ưu. Thay đổi cơ thể có thể được nhận thấy
như căng thẳng, nhịp tim nhanh, nhức đầu, kích thích dạ dày. Lo âu ở mức độ
trung bình thì vẫn cịn mang tính suy diễn.
- Ở mức độ nghiêm trọng của sự lo âu, người này chỉ tập trung vào một chi
tiết đặc biệt và có thể có khó khăn trong việc nhận thấy những gì đang xảy ra
trong mơi trường. Người chịu đựng sự lo âu này có thể gặp giảm thơng khí,
chống váng, bối rối hay khơng thể giải quyết vấn đề.
- Lo âu hoảng sợ là hình thức khắc nghiệt nhất và có thể dẫn đến hành vi
quấy rầy. Những người đó khơng thể nhận ra những gì đang xảy ra trong mơi
trường. Họ có thể biểu hiện rối loạn, la hét hoặc sự co rút lại. Hành vi của họ
có thể thiếu sự phối hợp và bốc đồng. Hành vi cá nhân để giảm lo âu có thể là
khơng hiệu quả và lo âu hoảng sợ cấp tính có thể dẫn đến kiệt sức.
Lo âu trước phẫu thuật ảnh hưởng đến người bệnh ở cả hai mặt thể chất và
mức độ tâm lý. Về mặt tâm lý, nó có thể thay đổi cách suy nghĩ, cảm nhận và
hành động cá nhân. Về thể chất, lo âu làm tăng giải phóng epinephrine vào
tuần hồn gây co thắt mạch máu, tăng nhịp tim và lực co bóp, dẫn đến tăng
huyết áp và nhiệt độ, nóng bừng và đổ mồ hơi. Nó cũng gây ra khơng có khả
năng tập trung hoặc khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ. Lo âu trước
phẫu thuật đã được tìm thấy là các yếu tố nguy cơ của kết quả xấu sau phẫu
thuật cũng như tỉ lệ bệnh tật và tử vong [46]. Theo Kagan và Bar-Tal (2006)
[33] khẳng định rằng sự lo âu trước phẫu thuật tương quan nghịch với nỗi


12

đau, buồn nơn, mệt mỏi và khó chịu, nhu cầu nghỉ ngơi tại giường, rối loạn
giấc ngủ, mệt mỏi, thiếu vận động, chất lượng cuộc sống giảm, thời gian lưu
trú, tình cảm phục hồi và liều lượng thuốc trong quá trình gây mê [46].

1.2.6. Các thang đo đo lường sự lo âu
Có rất nhiều thang đo để đo lường mức độ lo âu của người bệnh, các thang
đo thường được sử dụng như: The State-Trait Anxiety Inventory (STAI),
Hospital Anxiety and Depression Scale-Anxiety (HADS-A), Visual Analog
Scale for Anxiety (VAS-A), The Amsterdam Preoperative Anxiety and
Information Scale (APAIS), Hamilton Anxiety Rating Scale (HAM-A)…
The State-Trait Anxiety Inventory (STAI) là công cụ tự báo cáo sự lo âu,
được Charles Spielberger và cộng sự xuất bản năm 1983 [54], gồm 2 phần,
mỗi phần 20 mục, mỗi mục được đánh giá theo thang điểm Likert từ 1 đến 4.
STAI-S dùng để xác định tình trạng lo lắng tạm thời trong các tình huống
nguy hiểm, và thang điểm Likert theo cường độ xuất hiện (1: khơng có, 2: có
một phần, 3: trung bình, 4: rất nhiều). STAI-T dùng để đánh giá tính ổn định
của sự lo âu lâu dài, thang điểm Likert biểu hiện tần số, mức độ thường xun
của cảm giác (1: hầu như khơng có, 2: thỉnh thoảng, 3: thường xuyên, 4: luôn
luôn). STAI thường được phân loại thành ba mức: từ 20-37 điểm là không lo
âu hoặc lo âu nhẹ; từ 38-44 điểm là lo âu trung bình; từ 45-80 điểm là lo âu
cao.
Hospital Anxiety and Depression Scale-Anxiety (HADS-A) được phát
triển như một thước đo ngắn gọn từ các triệu chứng của lo âu tổng quát. Mục
đích của HADS là sàng lọc những triệu chứng lâm sàng của lo âu và trầm cảm
trên người bệnh [32]. HADS được xây dựng do A. S. Zigmond and R. P.
Snaith và được đăng báo năm 1983 [62], bộ câu hỏi gồm 7 mục, mỗi mục
được đo lường theo thang điểm Likert từ 0 đến 3 tương ứng với mức độ xuất
hiện tăng dần của các triệu chứng lo âu. Tổng điểm cho bộ câu hỏi từ 0-21


13

điểm, với 0-7 điểm là khơng có lo âu hoặc lo âu nhẹ, 8-10 điểm là lo âu vừa,
11-21 điểm là lo âu cao (bất thường). HADS đã được chứng minh được tính

giá trị và tính ổn định trong nhiều nghiên cứu [19], [38]. HADS-A cũng đã
được dịch sang tiếng Việt và cũng được kiểm tra tính giá trị, tính ổn định phù
hợp để đo lường sự lo âu của người bệnh trước phẫu thuật trong các nghiên
cứu trước [23],[46]. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng HADS-A để
xác định sự lo âu của người bệnh trước phẫu thuật tiêu hóa.
The Amsterdam Preoperative Anxiety and Information Scale (APAIS)
được xây dựng vào năm 1996 của Nelly Moerman và cộng sự [45]. APAIS là
công cụ đáng tin cậy cho các chuyên gia gây mê, gây tê dùng để đánh giá sự
lo lắng trước mổ và các thông tin cần cung cấp của người bệnh. APAIS gồm 6
mục được đánh giá theo thang điểm Likert từ 1-5, trong đó mục một, hai, bốn
và năm dùng để đo lường mức độ lo lắng của người bệnh trước phẫu thuật;
mục ba và sáu dùng để biết thông tin cần được cung cấp cho người bệnh về
phương pháp vơ cảm hay về tiến trình phẫu thuật.
Hamilton Anxiety Rating Scale (HAM-A) được xây dựng do Max
Hamilton năm 1959 [28], là một trong những thang điểm đầu tiên để đo lường
mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng lo âu. HAM-A gồm 14 mục, mỗi
mục gồm các triệu chứng của lo âu được cho điểm từ 0 đến 4 (0 là khơng có,
4 là trầm trọng), tổng điểm của HAM-A là 0-56 điểm được chia thành 3
nhóm: <17 điểm chỉ những trường hợp lo âu nhẹ, 17-24 điểm chỉ lo âu nhẹ
đến trung bình, 25-30 điểm chỉ lo âu trung bình đến nặng. HAM-A đã được
dịch sang các tiếng Trung Quốc, Pháp, Tây Ban Nha.
Visual Analog Scale for Anxiety (VAS-A) là thang đo tự đánh giá sự lo âu
của người bệnh bằng cách chọn các con số thể hiện mức lo âu cuả họ trong
khoảng từ 0 đến 100 mm, với 0 là không lo âu và 100 là lo âu nghiêm trọng
nhất. Trong các nghiên cứu đo lường sự lo âu của người bệnh, VAS-A thường


14

được sử dụng phối hợp cùng với một thang đo lo âu khác và đã chứng minh

được mối liên quan của 2 thang đo [17], [29], [35], [52].
1.3.

Giải phẫu hệ tiêu hóa

Hình 1.1. Cấu tạo hệ tiêu hóa của người [7]


15

Hệ tiêu hóa bao gồm: một ống cơ gọi là ống tiêu hóa và các cơ quan tiêu
hóa phụ. Ống tiêu hóa đi từ trên xuống dưới là: ổ miệng, hầu, thực quản, dạ
dày, ruột non, ruột già. Các cơ quan tiêu hóa phụ gồm có: răng, lưỡi và các
tuyến bao gồm các tuyến nước bọt, gan, tụy. Thức ăn vào ống tiêu hóa và đi
dọc theo chiều dài của nó. Trên đường đi này có các tuyến tiết ra các dịch tiết
có chứa nước, các men, chất đệm và các thành phần khác giúp cho sự hấp thu
các chất dinh dưỡng qua biểu mơ của ống tiêu hóa. Các lớp chính của ống tiêu
hóa bao gồm: lớp niêm mạc, lớp dưới niêm mạc, lớp cơ và lớp thanh mạc [2].
Phúc mạc hay màng bụng là một màng thanh mạc trơn láng và óng ánh che
phủ tất cả các thành ổ bụng, bao bọc các tạng thuộc hệ tiêu hóa (kể các bó
mạch thần kinh của tạng đó) và che phủ phía trước hay phía trên các tạng
thuộc hệ niệu dục [2].
1.3.1. Miệng
Miệng là phần đầu tiên của ống tiêu hóa, tiếp nhận thức ăn và thực hiện
các giai đoạn đầu tiên của q trình tiêu hóa bằng cách cắn, nhai, trộn thức ăn
với nước bọt. Miệng gồm có mơi, má, khẩu cái, lưỡi, răng.
1.3.2. Hầu
Hầu nối ổ miệng với thực quản, chia thành 3 phần: mũi hầu, miệng hầu,
thanh hầu. Hầu khơng có vai trị tiêu hóa thức ăn mà chỉ có nhiệm vụ trong
động tác nuốt.

1.3.3. Thực quản
Thực quản liên tiếp với hầu, đi sau khí quản, xuống ngực rồi xuyên qua cơ
hoành vào ổ bụng và nối với dạ dày. Thực quản là ống cơ dẹp theo chiều
trước sau, dài khoảng 25cm. Ở thực quản khơng có sự tiêu hóa thức ăn, sóng
nhu động của thực quản giúp đẩy thức ăn từ hầu đi vào dạ dày.


×