Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Tiểu luận triết học: Ảnh hưởng của văn hóa ấn độ đối với văn hóa Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.38 KB, 11 trang )

ĐÊ BÀI: Anh/chị hảy phân tích ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đối với
văn hóa Việt Nam ?
BÀI LÀM:
Ấn Độ là một đất nước có lịch sử từ lâu đời. Thế giới nhìn nhận Ấn Độ là
một trong những nền văn hóa phát triển rực rỡ nhất của văn minh nhân loại. Vì lẽ
đó, ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ ra bên ngoài cũng mạnh mẽ hơn. Khu vực Đông
Nam Á là nơi chịu nhiều ảnh hưởng của nền văn hóa Ấn Độ, trong đó có đất nước
Việt Nam của chúng ta, thể hiện ở các nội dung chủ yếu sau:
Ảnh hưởng của chữ viết Ấn Độ đến chữ viết Chăm.
Ấn Độ là một quốc gia sớm có chữ viết. Những khám phá khảo cổ học đã
xác định được ngay từ nền văn hóa Harappa, chữ viết đã được sử dụng phổ biến.
Đến khoảng thế kỷ 5 trước CN, ở Ấn Độ xuất hiện loại chữ kharosthi, phỏng theo
chữ viết vùng Lưỡng Hà. Sau đó lại xuất hiện chữ brami, được sử dụng rộng rãi,
các văn bia của Asoka đều viết bằng loại này. Trên cơ sở chữ Brami, người Ấn Độ
lại đặt ra chữ davanagari, có cách viết đơn giản, thuận tiện hơn để viết tiếng
sanskrit. Đến nay, ở Ấn Độ và Nepan vẫn dùng loại chữ này (1). Như vậy, nền văn
minh Ấn Độ đã sáng tạo ra ít nhất là 4 loại chữ viết khác nhau.
Champa sớm tiếp xúc với nền văn minh Ấn Độ, đã tiếp nhận văn tự Ấn Độ
ngay từ ngày lập quốc. Một đặc điểm của chữ viết Champa là ghi chép trên bia đá,
nội dung bia ký thường phản ánh việc dâng tế thần linh, tường thuật lại biến cố đã
xảy ra đối với vương triều, ca ngợi công đức của thần linh và bậc minh vương tiền
nhiệm. Văn bia được khắc chữ từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 15 bằng cả văn tự Chăm cổ và
sanskrit (2). Sau thế kỷ 15, người Chăm không viết chữ lên bia đá nữa mà viết trên
giấy, tre, vải, da… Nói đến chữ viết Chăm là nói đến chữ akhar thrah, được dùng
phổ biến cho đến ngày nay. Từ chữ akhar thrah, người Chăm đã biến hóa thêm nét
thành nhiều chữ viết khác nhau, sử dụng vào những mục đích khác nhau: akhar
yok: chữ bí ẩn, akhar atwơr: chữ treo, chữ tắt, akhar kalimưng: chữ con nhện, chữ
tháu. Ngồi ra cịn có chữ chỉ thấy trên bia ký là: akhar hayap, akhar rik. Tất cả các
kiểu chữ và biến thể akhar đó đều bắt nguồn từ một trong những chữ viết ở miền
nam Ấn Độ thuộc hệ văn tự brami. Qua những lần biến thể, chữ viết ngày càng phù
hợp với âm tiết của tiếng Chăm. Sự tiếp nhận văn tự Ấn Độ để tạo nên akhar thrah


là một bước phát triển mới của lịch sử ngôn ngữ Chăm, bởi, người Ấn Độ nếu
khơng có sự hướng dẫn sẽ khơng đọc được akhar thrah.
Trên cơ sở chữ phạn và lấy dạng nét cong của chữ phạn, người Chăm đã xây
dựng thành một hệ thống văn tự Chăm cổ để ghi chép tiếng nói, gồm 16 nguyên
âm, 31 phụ âm, khoảng 32 dấu âm sắc và chính tả (3).
Ảnh hưởng của sử thi Ấn Độ trong văn học Chăm.
Ấn Độ có hai bộ sử thi đồ sộ là Mahabharata và Ramayana, được truyền
miệng từ nửa đầu thiên niên kỷ I trước CN rồi được chép lại bằng khẩu ngữ, đến
1


các thế kỷ đầu CN thì được dịch ra tiếng sanskrit (4). Người Chăm đã đón nhận hai
bộ sử thi theo cách tư duy của họ và phù hợp với tâm lý của cộng đồng. Văn học
Chăm khá phát triển với nhiều thể loại phong phú như: thần thoại, sử thi, truyện cổ,
thơ ca, văn xuôi, văn vần… Thơ ca Chăm rất dồi dào âm điệu, nội dung trữ tình và
thường là thơ lục bát gieo vần lục tứ và bát lục. Bên cạnh văn học viết, văn học dân
gian của người Chăm cũng khá phát triển dưới nhiều thể loại và phản ánh nhiều nội
dung về tâm lý dân tộc và các khía cạnh xã hội (5).
Đặc điểm của văn học thành văn Chăm là phản ánh thời cuộc, khắc họa đời
sống xã hội, ca ngợi tình yêu lứa đơi, tình u gia đình và q hương. Nhưng các
tác phẩm có giá trị cao về nghệ thuật thường khuyết danh. Các tác phẩm đó là sáng
tác của cả cộng đồng và các thế hệ nối tiếp cùng tham gia sáng tác.
Những bản trường ca cũng khá phong phú, được sáng tác liên tục, phổ biến
rộng rãi và lưu truyền đến ngày nay. Bên cạnh việc tiếp nhận văn học Ấn Độ trực
tiếp vào những thời điểm Hindu giáo ảnh hưởng sâu sắc, sau này, dòng chảy văn
học Ấn Độ vẫn đến Champa qua trung gian Malaysia, một quốc gia cũng ảnh
hưởng văn minh Ấn Độ. Đó là những thể loại văn học dân gian, với những bài hát
lễ, hát giao duyên, những kinh văn, bài xướng ca được biểu diễn vào dịp lễ quan
trọng liên quan đến Hindu giáo.
Ảnh hưởng của tôn giáo Ấn Độ đến Champa.

Ấn Độ là nơi sản sinh ra rất nhiều tơn giáo, trong đó quan trọng nhất là
Bàlamôn giáo, về sau là Hindu giáo và Phật giáo. Ngồi ra cịn có một số tơn giáo
khác như đạo Jain, đạo Xích (6). Bàlamơn giáo sớm được truyền bá ở Đông Nam Á
và một thời kỳ dài độc tôn quốc giáo. Ở Ấn Độ, Bàlamôn chia hạng người rất chặt
chẽ: Braman (Bàlamôn) là đẳng cấp của những người làm nghề tôn giáo; Ksatơrya
là đẳng cấp của các chiến sĩ; Vaisya là đẳng cấp của những người bình dân làm các
nghề như chăn ni, làm ruộng, bn bán, một số nghề thủ công; Suđra là đẳng cấp
của những người cùng khổ, vốn là con cháu của các bộ lạc bại trận khơng có tư liệu
sản xuất. Ngun nhân dẫn đến sự ra đời của chế độ đẳng cấp là sự phân hóa giai
cấp, phân cơng nghề nghiệp và phân biệt bộ tộc. Nhưng các tăng lữ Bàlamôn thì
dùng uy lực của thần linh để giải thích hiện tượng xã hội ấy (7). Ở Champa chế độ
đẳng cấp rất mờ nhạt. Bàlamôn giáo không những là quốc giáo mà còn là hệ tư
tưởng của giai cấp thống trị, tôn giáo của đẳng cấp trên, do vậy, chỉ ảnh hưởng
trong cung đình, dịng dõi q tộc mà thơi. Champa tiếp nhận tư tưởng Bàlamôn
giáo của Ấn Độ kết hợp với tín ngưỡng địa phương làm cho tơn giáo có sự biến sắc
rõ ràng. Trong ba vị thần tối cao của Bàlamơn giáo là Braman, Siva, Visnu, thì Siva
được coi trọng hơn cả, thể hiện qua vị trí nơi đặt tượng thần, thường là gian điện
chính, nơi trung tâm, điều này thấy rõ ở các đền tháp Chăm. Tôn giáo Ấn Độ ảnh
hưởng khá mạnh mẽ ở Champa từ niềm tin, tư tưởng, tư duy về kỹ thuật, đến trang
phục đời thường, dĩ nhiên cũng bị dân gian hóa nhiều. Bên cạnh niềm tin vào các vị
thần Ấn Độ, người Chăm còn thờ phụng nhiều vị thần siêu nhiên hay những cơng
thần khai quốc. Việc nhân thần hóa được thờ cùng với các thần linh Ấn Độ là điều
hiếm hoi, chỉ thấy ở Champa. Có lẽ ngay từ Ấn Độ, Bàlamơn khơng có người sáng
2


lập, không hệ thống giáo lý chặt chẽ nên khi đến Champa nó dễ bị xâm nhập vào
tín ngưỡng dân gian bản địa.
Do vậy, Bàlamôn giáo ở Champa thiên nhiều về nghi thức cúng lễ ở đền tháp
và những lễ hội dân gian hơn là chú tâm học tập kinh kệ.

Ảnh hưởng của kiến trúc Ấn Độ đến nghệ thuật xây dựng tháp Chăm
Thời cổ trung đại, Ấn Độ đã có một nền nghệ thuật phong phú, đặc sắc, trong
đó nổi bật nhất là kiến trúc, điêu khắc. Thời Harappa, nhà cửa chỉ mới xây bằng
gạch, đến vương triều Morya nghệ thuật kiến trúc đá mới bắt đầu phát triển mà các
cơng trình tiêu biểu là cung điện, chùa tháp, trụ đá (8). Tất cả những cơng trình
cơng cộng, tơn giáo đều làm bằng vật liệu bền, thể hiện sức mạnh uy quyền của nhà
vua và vương triều. Nói chung, nghệ thuật tạo hình Ấn Độ phần lớn nhằm vào đề
tài tơn giáo, nhưng vì bắt nguồn từ cuộc sống thực tế, nên tính hiện thực vẫn thể
hiện rất rõ nét, ví dụ tượng nhiều tay nhiều đầu là phỏng theo tư thế của đội múa
trong đền chùa và cung đình (9). Champa đón nhận dịng chảy của nền văn minh
Ấn Độ từ biển Đông. Một điều dễ nhận thấy kiến trúc đi cùng với tôn giáo. Hầu
hết, các công trình kiến trúc Chăm đều phục vụ cho nhu cầu tôn giáo. Trong suốt
chiều dài lịch sử Champa, vương triều nào khi lên nắm quyền đều cho xây dựng
hoặc trùng tu cơng trình tơn giáo để chứng tỏ sức mạnh, nhưng quan trọng hơn cả
vẫn nhằm vào mục đích tạ ơn thần linh, qua việc dâng lễ vật cúng cho đền tháp vì
đã phù trợ sức mạnh và chiến thắng cho vương triều.
Vật liệu cơ bản và chủ yếu để xây dựng đền tháp là gạch và đá. Có thể nói,
người Chăm là bậc thày về kỹ thuật chế tác gạch, trải qua bao thế kỷ, những tháp
gạch Chăm vẫn cịn tươi rói, màu sắc ánh hồng, vàng, kết dính với nhau một cách
kỳ lạ mà nhiều nhà khoa học còn chưa thể giải mã hết. Trên thân tháp bằng gạch,
những thợ điêu khắc đã chạm trổ hoa văn, những con vật thiêng liêng của Hindu
giáo hay cảnh sinh hoạt trong cung đình, rất sinh động và chân thật. Đặc điểm của
gạch Chăm là mềm, xốp nên khi dựng xong hình thể, dáng tháp hồn chỉnh, sau đó
sẽ chạm, khắc, khảm lên tháp những môtip mà nhà vua và nhân dân muốn gởi gắm
vào. Tháp Chăm thường gồm 3 tầng, tầng trên cùng đặt các vị thần quốc giáo, tầng
giữa thường diễn tả hoạt động sống của cung đình, tầng đế là tầng âm chỉ gia cố
nền móng cho vững chắc khơng có trang trí. Mỗi một ngơi tháp chỉ có một lối vào
chính, cũng là vị trí đặt các nhân thần (vua được thần thánh hóa), đồng thời là thực
hành các nghi lễ chính thức vào những ngày lễ trọng đại của Bàlamơn giáo. Các
mặt cịn lại đều là cửa giả và đóng kín. Hình thể của một tháp Chăm bao giờ cũng

thu nhỏ dần khi càng lên cao. Trên chóp đỉnh thường đặt một linga. Người Chăm đã
tiếp thu kỹ thuật xây dựng tháp từ Ấn Độ, nhưng qua bàn tay kỹ sư Chăm các khối
tháp trở nên hài hịa, cứng rắn, mạnh mẽ, gần gũi, đầy bí hiểm. Quan sát tháp ở bất
cứ vị trí nào và vào lúc nào cũng thấy nét uy nghiêm tráng lệ.
Ảnh hưởng của lịch pháp Ấn Độ đến cách tính lịch của Chăm.
Từ rất sớm, người Ấn Độ đã biết chia một năm làm 12 tháng, mỗi tháng 30
ngày, mỗi ngày 30 giờ, cứ 5 năm thì thêm 1 tháng nhuận. Các nhà thiên văn học Ấn
Độ cổ đại đã biết quả đất và mặt trăng hình cầu, quỹ đạo của mặt trăng, và tính
3


được các kỳ trăng tròn trăng khuyết. Họ còn phân biệt 5 hành tinh Hỏa, Thủy, Mộc,
Kim, Thổ, biết được một số chòm sao và sự vận hành của các ngôi sao. Tác phẩm
thiên văn học cổ nhất của Ấn Độ là quyển Siddhantas ra đời vào khoảng thế kỷ 5
trước CN (10).
Người Chăm đã sớm tiếp thu và biết cách tính lịch, các học giả trong triều
đình lúc bấy giờ đã tính khá thạo vị trí di chuyển của các hành tinh để định thời
gian một cách chính xác (11). Từ ngày đầu dựng nước, người Chăm đã tiếp thu hệ
thống lịch saka của Ấn Độ một cách chủ động. Trong tiếng Chăm lịch gọi là sakawi
hay takawi. Một năm của người Chăm là 12 tháng, một tuần có 7 ngày, dựa vào sự
vận hành của mặt trăng và của các chòm sao. Lịch pháp được ứng dụng khá rộng
rãi trong nông nghiệp để biết sự biến đổi của tiết trời mà gieo trồng và chọn giống
vật nuôi cho thích hợp. Đồng thời Chăm vốn là cư dân hoạt động mạnh mẽ trên con
đường hàng hải quốc tế, nên lịch được ứng dụng để xem ngày, giờ dự đoán bão tố
trước khi ra khơi. Bên cạnh đó, mỗi một mùa tương ứng với một kiểu thời tiết, đều
diễn ra những lễ hội có tính chất cộng đồng như lễ rija nagar, lễ hội kate để cầu
mưa thuận gió hịa, quốc thái dân an.
Hiện nay, người Chăm quần cư theo cộng đồng tôn giáo, nên lịch pháp cũng
theo lịch tôn giáo với ba nhóm Chăm cơ bản tương ứng với 3 loại lịch riêng, và tất
nhiên trong sinh hoạt cũng sử dụng Tây lịch, người Chăm Braman có sakawi ahier,

người Chăm Bani có sakawi awar, người Chăm Islam có sakawi Islam.
Trong vương triều Po Rome, đã có sự kết hợp lịch ahier và awar tạo thành
một hệ thống lịch mới gọi là lịch âm dương. Như vậy, bên cạnh lịch Tây, người
Chăm cịn có 4 cách tính lịch khác trong hoạt động tơn giáo. Chính điều này, mặc
nhiên, gây khó khăn lớn trong cộng đồng vì thiếu sự thống nhất về ngày tháng hành
lễ và kiêng kỵ trong lễ cưới, ma chay. Sự phân bố dân cư theo địa bàn tơn giáo kéo
theo sự phân hóa khu vực sử dụng lịch pháp.
Kết luận
Từ thế kỷ 2-15, văn hóa Chăm ảnh hưởng đậm nét văn minh Ấn Độ. Trong
những năm đầu công nguyên, văn minh Ấn Độ cũng từng lan tỏa đến Việt Nam,
điển hình là sự xuất hiện trung tâm Phật giáo Luy Lâu ở Bắc Ninh. Tuy nhiên,
người Việt bị nền văn minh Trung Hoa ảnh hưởng sâu sắc. Sự gặp gỡ của các nền
văn minh Trung Quốc và Ấn Độ thể hiện rõ ràng ở Việt Nam và Champa trong tổ
chức đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội.
Khi Việt Nam từng bước thốt khỏi sự thống trị của Trung Quốc cũng là giai
đoạn Champa đã đạt được nhiều thành tựu văn minh. Trước nhu cầu phát triển kinh
tế đất nước và khắc phục những gánh nặng do chính sách khai thác thời Bắc thuộc
để lại, Việt Nam đã kiến thiết lại đất nước. Các vương triều Việt Nam đã thi hành
một chính sách thống nhất và liên tục. Đó là chính sách nam tiến, đã từng bước đẩy
lùi nền văn minh Ấn Độ ở Đông Nam Á mà Champa là một đại diện.
Có thể nói rằng, sự sụp đổ của nền văn minh Champa là sự sụp đổ của nền
văn minh Ấn Độ trước nền văn minh Trung Hoa. Nhưng những giá trị đặc sắc nhất
của văn minh Champa vẫn còn bảo tồn và được lưu truyền. Các Stupa tức Bimon
4


Kalan là ngôi đền thiêng liêng thờ các vị thần có nguồn gốc Ấn Độ như Brahma,
Siva, Visnu, Ganesa, Nandin cùng các nhân thần. Ảnh hưởng về kỹ thuật xây dựng
đền tháp như việc chọn các vật liệu có tính năng bền vững, các mơtip, các hình thể
tháp. Ví dụ: tháp Po Klong Garai ở Phan Rang, bên cạnh tháp chính cịn có hai tháp

phụ, là nơi để dâng lễ có mái tháp hình n ngựa hay mái thuyền biểu tượng của
ngọn núi thiêng liêng Meru ở Ấn Độ. Nét đặc sắc của đền tháp Chăm là ảnh hưởng
kiến trúc Ấn Độ nhưng vẫn có nét riêng, độc đáo. Có giống chăng là các tượng thần
được thờ trong các ngôi tháp. Cịn điêu khắc của các đền tháp Chăm, ngồi hình
tượng ngọn lửa ở các góc tháp, có nhiều hình tượng trang trí rất sinh động, phổ biến
hơn cả là những nét chạm khắc trực tiếp lên thân tháp cảnh sinh hoạt, múa hát trong
cung đình của các vũ nữ Apsara, các nhân vật trong sử thi Mahabrata hay các thần
hộ pháp.
Hindu giáo trở thành quốc giáo thống trị trong suốt lịch sử Champa, thành hệ
tư tưởng chính trị để quản lý đất nước. Quá trình tiếp biến Hindu giáo đã làm cho
nó khác với chính quốc rất nhiều, chẳng hạn Champa khơng có sự phân chia đẳng
cấp nghiêm khắc như Ấn Độ, xuất hiện nhiều bí ẩn, nghi lễ, nghi thức tơn giáo mới
khơng hề tìm thấy ở Ấn Độ. Trước khi du nhập tơn giáo ở bên ngồi, Champa là
một nước nông nghiệp. Bởi thế, họ gắn những nghi lễ nông nghiệp vào niềm tin tôn
giáo tạo ra nhiều nghi lễ mới trong quá trình thực hành nghi thức tơn giáo. Càng
đặc sắc, khi dịng tư tưởng Islam giáo mới du nhập đã kết hợp, hịa lẫn với
Bàlamơn giáo tạo nên Bani giáo. Có lẽ rằng, trên thế giới chẳng có nơi nào mà hai
ý thức hệ tư tưởng hòa lẫn vào nhau được như ở Champa. Các tôn giáo tồn tại song
song với nhau minh chứng cho tính dung hợp và khả năng tiếp biến những luồng
văn hóa từ bên ngồi.
Trước khi tiếp thu văn học Ấn Độ, văn học dân gian đã khá phát triển ở
Champa như thần thoại, cổ tích. Việc tiếp xúc với văn học Ấn Độ và sau là
Malaysia đã làm cho nền văn học bác học Champa phát triển. Thể loại văn học này,
thể hiện qua các bài minh văn, xướng ca, các câu thần chú được ghi trên bia đá.
Sự ảnh hưởng của văn học Ấn Độ rõ nét nhất là bộ sử thi Mahabrarata và
Ramayana, sự đứt đoạn, mất liên hệ qua lại cũng làm phai mờ sức truyền bá văn
học Ấn Độ. Về sau văn học Chăm tiếp xúc qua con đường Mã Lai đã đưa văn học
Chăm đạt nhiều thành tựu và để lại nhiều tác phẩm có gia trị như Deva Mano,
Ariya Nai Mai Mang Kah. Những sáng tác văn học Chăm về sau vẫn giữ được nét
đặc sắc riêng.

Quá trình cải biên chữ brami của Ấn Độ đến akhar thrah Chăm là cả một thời
gian lâu dài. Vai trò của akhar thrah rất quan trọng, là loại chữ viết được dùng phổ
biến và rộng rãi trong quần chúng, ghi chép tất cả các công việc hành chính của
vương triều, chép sử, sáng tác văn chương. Điểm mới của akhar thrah là từ mẫu
chữ brami qua sự cải biến để ghi âm tiết Chăm. Và trên thế giới chỉ còn người
Chăm sử dụng hệ thống chữ akhar thrah do họ sáng tạo ra. Ngày nay, akhar thrah
đang được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, bởi sự cải biên làm mất đi tính
trong sáng của ngơn ngữ, chỉ vì mục đích đơn giản hóa để đưa vào giảng dạy trong
5


học đường, điều này làm cho chữ viết Chăm mất đi tính thống nhất và tạo ra cách
viết khác nhau trong cùng một ngôn ngữ.
Rất quan trọng đối với nghề làm nông nghiệp và đi biển hàng ngày, nên vấn
đề ngày, giờ tốt xấu rất được chú ý trong đời sống. Sự tiếp nhận lịch saka của Ấn
Độ được ghi chép rõ ràng trên các bia ký được tìm thấy. Tuy nhiên cách chuyển
lịch saka để phù hợp với điều kiện thực tế như thế nào thì ít được biết đến. Bởi
những tri thức về thiên văn học của Champa chưa được nghiên cứu nhiều. Người
Chăm đã chuyển lịch saka sang sakawi để phục vụ cho việc tiến hành các lễ hội dân
gian, nghi lễ trong nông nghiệp, đặc biệt là ngày hành lễ tơn giáo.
Tóm lại, nền văn minh Ấn Độ một thời huy hồng khắp Đơng Nam Á đã để
lại nhiều di sản tuyệt vời về mặt nghệ thuật. Trên cơ sở văn minh Ấn Độ, người
Chăm đã tiếp thu có chọn lọc và sáng tạo thành nét văn hóa riêng, độc đáo. Nền
văn minh Champa ảnh hưởng sâu sắc văn minh Ấn Độ từ ý thức hệ quản lý thần
dân với thuyết nhân thần. Sự giao lưu, tiếp biến văn hóa dễ nhận diện, nhất là nghệ
thuật điêu khắc và kiến trúc ở các đền tháp cổ nằm khắp miền Trung. Và nét
Bàlamơn giáo cịn hiện hữu đến cách thức tổ chức xã hội. Văn minh Ấn Độ đã
được tiếp nhận một cách hịa bình và hài hịa với văn hóa bản địa tạo nên văn minh
Champa rực rỡ trong lịch sử.
Chú thích:

1, 4, 6, 7, 8, 9, 10. Vũ Dương Ninh (chủ biên), Lịch sử văn minh thế giới,
Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, 1999, tr.73, 75, 85, 86, 80, 82.
2. Lương Ninh (chủ biên), Lịch sử Đông Nam Á, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội,
2008, tr.239.
3. Hà Bích Liên, Quan hệ giữa vương quốc cổ Champa với các nước trong
khu vực, luận án tiến sĩ sử học, Hà Nội, 2000, tr.117.
5, 11. Huỳnh Công Bá, Lịch sử Việt Nam, Nxb Thuận Hóa, Huế, 2004,
tr.204, 117.
Giao lưu, tiếp biến văn hóa Ấn Độ và văn hóa Ĩc Eo
Ĩc Eo là một nền văn hóa cổ, được giới khoa học biết đến từ những năm 80
TK XIX. Tên gọi nền văn hóa cổ này do nhà khảo cổ học người Pháp Louis
Malleret đặt ra từ TK XX, sau cuộc khai quật lần đầu tiên vào tháng 4-1942 ở cánh
đồng Óc Eo (Thoại Sơn - An Giang). Khu di tích Óc Eo - Ba Thê nằm trên địa bàn
thị trấn Óc Eo, Thoại Sơn, An Giang.
Cho đến nay, hàng loạt di tích ở khắp các tỉnh Tây Nam Bộ được khai quật,
đã làm lộ diện về sự tồn tại của một nền văn hóa cổ, có chung nhiều đặc điểm, tính
chất văn hóa với khu di tích Ĩc Eo (An Giang). Nhiều cơng trình nghiên cứu khoa
học đã chứng minh văn hóa óc Eo là sản phẩm vật chất của vương quốc Phù Nam,
có niên đại từ khoảng TK I đến TK VII - VIII, ứng với thời kỳ lập quốc, phát triển
và suy tàn của vương quốc Phù Nam. Tên gọi Phù Nam (founa) là theo cách phát
âm của người Trung Hoa, còn người Khơme gọi là bnam hay phnom có nghĩa là
núi.
Điều kiện của sự giao lưu tiếp biến giữa văn hóa Ĩc Eo và văn hóa Ấn Độ
6


Điều kiện tự nhiên: Phù Nam, vương quốc rộng lớn ở phía nam bán đảo
Đơng Dương, nằm giữa hai nền văn minh lớn Ấn Độ và Trung Hoa, trên con đường
biển nối liền Ấn Độ, Trung Quốc tới Trung Cận Đơng, là xứ sở chịu ảnh hưởng gió
mùa và chế độ dịng hải lưu. Gió mùa tạo ra hai mùa: mùa mưa và mùa khô, với

khả năng lợi dụng sức gió điều khiển giao thơng đường thủy bằng thuyền buồm,
duy trì một hệ thống trao đổi từ tây nam đến đông bắc (từ tháng 4 đến tháng 10) rồi
từ đông bắc đến tây nam (vào giữa tháng 10 đến tháng 4 sang năm), trong thời hạn
một năm theo thường lệ. Cảng biển Óc Eo của vương quốc Phù Nam là chỗ nghỉ
giữa hai chặng đó. Chính nhờ vào yếu tố tự nhiên này (chế độ các dòng hải lưu và
chế độ gió định kỳ) mà vương quốc Phù Nam trở thành một quốc gia có nền hải
thương (bn bán trên biển) phát triển rực rỡ lúc bấy giờ (1).
Lịch sử chính trị: Làn sóng truyền giáo từ Ấn Độ sang các nước Đơng Nam
Á cổ đại (trong đó có Phù Nam) được tiến hành theo nhiều đợt, đã tạo nên một thể
chế chính trị của vương quốc Phù Nam đa dạng và phong phú. Ngay từ những ngày
đầu lập quốc, Phù Nam đã có mối quan hệ gắn bó mật thiết với Ấn Độ. Theo Tấn
thư, Nam Tề thư và Lương thư, ngay từ TK I, người Ấn Độ đã có mặt trên vùng đất
Nam Bộ - Việt Nam ngày nay. Hỗn Điền vị vua đầu tiên của Phù Nam là người Ấn
Độ, sau khi lên làm vua, đã sửa đổi tất cả các luật lệ theo hệ thống cai trị của người
Ấn Độ và “tự cho mình là người bênh vực thánh ngữ Vêda”(2). Đến các triều đại
sau đó, vua cũng đều là người Ấn Độ, “nước Phù Nam lạ thật, thuê chuyên gia,
thuê cả người làm vua”(3). Trong triều đình Phù Nam, có một số quan chức cũng là
người Ấn Độ, điều này có thể nhận biết được qua việc người Trung Hoa thường gọi
là họ T’chou(Chu, Châu). Có lẽ tư tưởng của cư dân Phù Nam rất phóng khống,
cởi mở, lại là một vương quốc trọng thương nghiệp, nên họ không quá xem nặng
vào nguồn gốc tộc người, miễn là điều hành được vương quốc phát triển, giúp họ
buôn bán thuận lợi là được.
Nguồn gốc tộc người: Những thế kỷ cuối trước CN, một bộ lạc nhóm người
núi (Môn - Khơme), đã di chuyển xuống vùng đồng bằng và ven biển, nơi đây gặp
được người biển - Nam Đảo và họ đã cùng nhau sinh sống trên mảnh đất này, kết
hợp giữa hai yếu tố biển và núi, cùng nhau xây dựng quốc gia mới, bổ sung cho
nhau sức mạnh và sở trường trên núi và trên biển (4). Sự tiếp xúc đã tạo nên sự
cộng sinh, làm cho bức tranh về tộc người và văn hóa nơi đây thêm đa dạng và
phong phú.
Sự tiếp biến văn hóa Ấn Độ của cư dân Ĩc Eo

Đặc trưng và xu hướng phát triển của văn hóa Ĩc Eo có những đặc điểm
giống với các nước láng giềng về tôn giáo, tín ngưỡng, nghệ thuật điêu khắc, các
hình thức mai táng, sinh hoạt hằng ngày, hoạt động kinh tế… Tuy nhiên, những tư
liệu hiện nay vẫn chưa thể cho một hình ảnh rõ nét về mối quan hệ này, nhưng điều
có thể khẳng định là giữa văn hóa cư dân Óc Eo và cư dân láng giềng như Chămpa,
phía Bắc Việt Nam, Đông Nam Á…, đặc biệt là Ấn Độ có những mối liên hệ mật
thiết với nhau. Thơng qua những lần tiếp xúc, trao đổi mua bán, những cuộc xâm
lược hay bang giao … các nhóm cư dân đã để lại nơi đây một nền văn hóa đa dạng
7


và phong phú, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển văn hóa xã hội của cư dân
Ĩc Eo.
Sự tiếp biến các yếu tố văn hóa vật chất
Vương quốc Phù Nam có một cảng thị quốc tế là Ĩc Eo, nơi diễn ra quá trình
tiếp xúc khá sớm giữa nhà nước Phù Nam với các nước khác. Trong những hiện vật
khai quật được ở Ĩc Eo có các hiện vật của các vương triều Ấn Độ, Trung Á, Đông
Hán và Bắc Ngụy, La Mã… Đặc biệt, ngay từ những thế kỷ đầu CN, “người Ấn Độ
đã mang đến đây kỹ thuật làm thuyền đi biển, phát triển ngành thương nghiệp và kỹ
thuật nông nghiệp khô với chiếc cày do bò kéo”(5). Tuy nhiên do vương quốc Phù
Nam cũng như chủ nhân của nền văn hóa này khơng cịn, cho nên khi nói đến sự
tiếp biến các yếu tố vật chất như phương thức canh tác, kỹ thuật nông nghiệp...
chưa có cứ liệu rõ ràng để chứng minh. Nhưng cũng có một số yếu tố thể hiện mối
quan hệ này như: Kỹ thuật chế tác đồ thủ công: cho đến nay có rất nhiều hiện vật
vẫn chưa xác định được là ảnh hưởng của Ấn Độ hay chỉ là sự trao đổi, mua bán.
Nhưng nhìn chung, khơng thể phủ nhận có sự ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ về kỹ
thuật chế tác đồ thủ cơng, có thể phân biệt thành 3 loại: Những vật phẩm được
mang đến từ Ấn Độ như những chiếc nhẫn, con dấu mang dòng chữ viết bằng các
kiểu văn tự Ấn Độ... Đây là những di vật có được qua q trình trao đổi mua bán.
Những vật phẩm kiểu Ấn Độ nhưng được sản xuất, chế tác tại Ĩc Eo như các

cơng trình kiến trúc tơn giáo (đền đài, mộ táng...), đồ kim hồn, chữ viết... Đây là
những sản phẩm của sự giao lưu văn hóa giữa Ấn Độ và văn hóa Ĩc Eo.
Những sản phẩm chịu ảnh hưởng Ấn Độ nhưng đã có phần pha trộn truyền
thống địa phương. Đó là những đồ gốm như bình có vịi, các loại nắp đậy... được
cải biên cho phù hợp với điều kiện tại chỗ. Chính những sản phẩm ngoại nhập được
địa phương hóa cùng với những yếu tố bản địa đã tạo nên những đặc điểm riêng,
độc đáo của văn hóa Ĩc Eo (6).
Về kiến trúc: Cư dân Óc Eo đã dựa trên kiến trúc truyền thống của họ là gỗ,
tre, lá để tiếp nhận kiến trúc gạch đá xây dựng nên những đền tháp tôn giáo. Những
kiểu kiến trúc đền tháp được phát hiện ở các di tích thuộc văn hóa Ĩc Eo như: Gị
Tháp (Đồng Tháp), Óc Eo (An Giang), Nền Chùa (Kiên Giang)... chính là sự tiếp
thu kiến trúc của Ấn Độ. Kiến trúc của cư dân Óc Eo cũng như Ấn Độ có đặc điểm
chung là những đền tháp đứng riêng lẻ hoặc hợp thành từng cụm, hầu hết đều xây
bằng gạch. Một số điện thờ vẫn giữ được một số yếu tố Ấn Độ như cách đặt các
thánh tích trong lịng các ngơi tháp. Tuy nhiên phía trên do bị tàn phá bởi thời gian
cho nên không thấy được phần kiến trúc này.
Thương nghiệp: Các nhà khảo cổ học đã phát hiện nhiều di vật mang đậm
dấu ấn văn hóa Ấn Độ như những mảnh bia ký ghi chữ Ấn Độ, tượng Hindu giáo
và Phật giáo chịu ảnh hương của nghệ thuật ấn Độ. Theo Lương Thư (502-556) có
một cộng đồng buôn bán người Tamil (Đông Ấn) là một nhánh của phường bn
Ấn Độ và “có vương quốc Touen Sium chư hầu của nước Phù Nam giáp với Ấn Độ
(phía Tây) có chợ trời biên giới bn bán Đơng - Tây có ngày lên tới 10.000 người
và khơng thiếu một thứ hàng hóa gì”(7). Chính những điều đó đã thể hiện một nền
8


thương nghiệp phát triển rực rỡ lúc bấy giờ trên vùng đất Phù Nam và tạo điều kiện
cho sự tiếp biến đa dạng về văn hóa vật chất.
Sự tiếp biến các yếu tố văn hóa tinh thần
Nhờ tính cởi mở, ít kỳ thị với các tư tưởng và tôn giáo mới, cư dân Óc Eo đã

tiếp nhận các yếu tố văn hóa đến từ Ấn Độ. Cùng với các nhân tố văn hóa kèm
theo, các tơn giáo đã có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống văn hóa tinh thần của cư
dân nơi đây. Các thể chế nhà nước cùng với chữ viết, tri thức khoa học, văn hóa,
nghệ thuật… được cư dân Óc Eo tiếp nhận đồng thời bản địa hóa tạo nên những nét
riêng của cư dân nơi đây.
Ngôn ngữ, chữ viết: Khác với sự tiếp xúc văn hóa Hán - Việt ở phía Bắc Việt
Nam, vương quốc Phù Nam tiếp xúc văn hóa Ấn Độ khơng chịu sự thống trị của
Ấn Độ. Nền văn hóa Ấn Độ được chuyển tải qua con đường truyền giáo và buôn
bán hịa bình. Vì vậy, con đường tiếp xúc ngơn ngữ và văn tự chủ yếu qua đạo
Bàlamôn, đạo Phật, “Chữ viết ở vùng châu thổ sông Mê Kông vào khoảng đầu
Công nguyên là một sản phẩm của sự giao lưu văn hóa do các thương nhân, các tu
sĩ Phật giáo và ấn giáo đem đến”(8).
Từ những ngày đầu lập quốc, vương quốc Phù Nam đã đi theo mơ hình nhà
nước của Ấn Độ, bên cạnh các tơn giáo đóng vai trò quốc giáo, nền giáo dục Ấn Độ
cũng được sao phỏng nơi đây. Con đường vay mượn ngôn ngữ được chuyển tải
trước hết là qua các kinh, sách, sau đó mới đến giáo dục. Các vương triều Phù Nam
đều thiết lập chế độ vương quyền kết hợp với thần quyền. Do đó nhà vua cùng với
tăng lữ rất giỏi ngơn ngữ và văn tự Ấn Độ. Chính quyền triều đình và tăng lữ đã du
nhập hệ thống chữ viết Brahmi và ngôn ngữ Sanskrit của Ấn Độ.
Tư tưởng tôn giáo: Sau khi Hỗn Điền “tùy theo luật Ấn Độ mà sửa đổi lại
nền nếp trong nước”, Bàlamôn giáo trở thành quốc giáo, thâu tóm cả vương quyền
lẫn thần quyền. Siva giáo với biểu tượng linga, yoni và Vishnu giáo với các biểu
tượng con ốc, bánh xe, quả cầu, cây gậy được phổ biến rộng khắp vùng đồng bằng
sông Cửu Long. Sự kết hợp giữa hình tượng Siva và Vishnu, tạo thành thần
Harihara có ý nghĩa là thần hộ mạng cho cư dân Phù Nam, được thờ rộng rãi trong
nhân dân.
Khoảng từ TK II trở đi, đạo Phật cũng được du nhập vào Phù Nam và phát
triển mạnh cho đến TK VII - VIII. Tuy khơng giữ vị trí quan trọng như Bàlamơn
giáo, nhưng đạo Phật có tác động tích cực đến đời sống của cư dân Óc Eo, tạo được
mối quan hệ giao lưu rộng rãi với các nước trong khu vực: Nam Tông với các nước

Nam Á, Bắc Tông với Trung Quốc và các nước thuộc khu vực chịu ảnh hưởng văn
hóa Hán (Đơng Á). Dù Bắc Tơng hay Nam Tơng khi đến đây đều được bản địa hóa
cho phù hợp với điều kiện sống của cư dân nơi đây.
Khi đánh giá về ảnh hưởng của Ấn Độ đối với khu vực Đông Nam Á,
G.Coedes cho rằng: “ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Độ chủ yếu là sự bành
trướng của một nền văn hóa có tổ chức, dựa trên quan điểm của Ấn Độ về vương
quyền, có đặc trưng là những lễ thức thờ cúng Hindu giáo hoặc Phật giáo”(9).
9


Về nghệ thuật: Vào những thế kỷ đầu Công nguyên, cư dân Phù Nam bắt đầu
tiếp xúc với văn hóa Ấn Độ từ các thương nhân, tu sĩ, tăng lữ Ấn Độ. Đây là những
người được sống trong một nền văn hóa lâu đời của Ấn Độ, khi đến đây đã mang
theo các phong tục tập quán, những điệu múa, những nhạc cụ và cả một hệ nguyên
lý thẩm mỹ đã được định hình. Những dấu ấn rõ nét nhất của việc tiếp xúc, giao lưu
ấy được thể hiện từ các hiện vật của Ấn Độ được tìm thấy ở các di tích thuộc nền
văn hóa Ĩc Eo như hạt chuỗi, đồ thủy tinh, đồ đất nung, đồ đồng…
Về phong cách nghệ thuật, Phù Nam có nền nghệ thuật tạo hình phát triển
rực rỡ, chịu ảnh hưởng bởi các trào lưu nghệ thuật ởẤn Độ. Nghệ thuật Phù Nam
hầu hết đều phục vụ cho một tôn giáo nhất định, do u cầu của tơn giáo đó mà thể
hiện, chủ yếu từ Phật giáo và Hindu giáo. Những hiện vật được tìm thấy ở các di
tích Ĩc Eo là các vật nhỏ, mảnh vàng và một số loại tiền bằng kim loại đều có
nhiều hình vẽ thể hiện những biểu tượng tơn giáo như lối trang trí trên các loại tiền
dập, biểu tượng Ujain, hình cá và hình đinh ba được thấy trên các mảnh tiền dập
một loại tiền được sử dụng rộng rãi ở Ấn Độ. Rõ ràng, từ cái nơi của nghệ thuật
điêu khắc Ấn Độ, đã có các mối quan hệ thơng qua những con đường, có thể
thường xuyên nhất là buôn bán giao thương và các mối quan hệ chính trị tới vùng
này.
Nghệ thuật Phật giáo có thể đã được đem đến và thể hiện ở đây từ rất sớm.
Tuy nhiên cho đến nay, do sự phát hiện rời rạc của các tư liệu, chưa thể nhận diện

hết các giá trị của nghệ thuật Phật giáo được thể hiện trên các hiện vật. Trong các di
tích ở An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp đã phát hiện với số lượng lớn các loại
tượng phật, với nét mặt thanh thoát, dáng vẻ nhẹ nhàng. Đặc biệt là những tượng
phật gỗ ở Gò Tháp đã ảnh hưởng từ các trung tâm nghệ thuật nổi tiếng như
Gandhara, Mathura và các trung tâm nghệ thuật giai đoạn sớm ở vùng Andhara
(Nam Ấn).
Nghệ thuật Gupta ở Bắc và Pallava ở Nam Ấn cũng ảnh hưởng rất lớn đến
nghệ thuật của văn hóa Ĩc Eo. Bên cạnh việc tiếp thu liên tục những ảnh hưởng
mới, các nghệ nhân bản địa tiếp tục sáng tạo và định hình những nét phong cách
riêng của mình về trang phục, đặc điểm nhân thể và các tiêu chí tiếu tượng. Có thể
nói nghệ thuật Gupta và Pallava đã cung cấp những yếu tố và hình mẫu cơ bản để
hình thành nên hệ thống tiếu tượng Hindu giáo và Phật giáo ở đồng bằng sông Cửu
Long. Đồng thời sự giao lưu thường xuyên với nhiều khu vực khác nhau trên tiểu
lục địa Ấn Độ đã khiến cho nhiều dòng ảnh hưởng cùng gặp gỡ tại đây. Điểm độc
đáo của nghệ nhân là từ những tiêu bản Ấn Độ, họ biết tiếp thu có chọn lọc để tạo
nên những phong cách khác nhau theo truyền thống văn hóa của địa phương (10).
Sự tiếp biến các yếu tố văn hóa xã hội
Phù Nam là một quốc gia ngay buổi đầu đã được xây dựng trên cơ sở một
nền nông nghiệp trồng lúa khá phát triển, bắt nguồn từ ruộng nương của cư dân
Môn - Khơme kết hợp với nghề đi biển cổ truyền của cư dân Nam đảo. Trên cơ sở
đó, các tu sĩ Bàlamôn từ Ấn Độ đến, với kinh nghiệm tổ chức nhà nước, đã góp
phần quan trọng trong việc tổ chức Phù Nam mơ phỏng theo mơ hình Ấn Độ trên
10


tất cả các mặt: tổ chức chính trị, thiết chế xã hội, đô thị, giao thông, kỹ thuật công
nghiệp cùng một hệ thống tơn giáo và văn hóa, trong đó đạo Bàlamôn là tối
thượng... Trong xã hội chia làm bốn tầng lớp: tăng lữ, quý tộc (vua chúa, quan lại);
thương nhân, nông dân, thợ thủ công; nô lệ, và một loại người sống ngồi lề, khơng
được xã hội chấp nhận. Như vậy, xã hội Phù Nam có sự phân chia giai cấp một

cách rõ rệt.
Về tư tưởng chính trị, lịch sử chính trị của Phù Nam là lịch sử mở mang đất
đai, thơn tính các vương quốc láng giềng. Điều cần lưu ý là do cơ chế của Bàlamôn
giáo và “theo mơ hình văn hóa Ấn Độ q thiên về thần quyền, thiếu một tầng lớp
thế tục lo việc cai trị nên rất khó xây dựng một quốc gia thống nhất bền vững”(11).
Khi nghiên cứu nguyên nhân ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đến đời sống cư
dân cổ các nước Đơng Nam Á nói chung, vương quốc Phù Nam nói riêng, có rất
nhiều ý kiến khác nhau: Có xu hướng cho rằng đây là kết quả của những cuộc bành
trướng của ấn Độ, thành lập các vương quốc, thiết lập các thuộc địa, phát triển nền
thương mại mẫu quốc như Mookerji, R.Bosch…; nhưng những ảnh hưởng này là
kết quả của việc tăng cường giao thương bn bán. Ĩc Eo là một cảng thị quốc tế
của vương quốc Phù Nam. Tại đây, có các thày tu và giới trí thức đã đi cùng những
nhà buôn và đã truyền bá nền văn hóa Ấn Độ cho những cư dân mà họ đã đi qua và
cho rằng, mục đích của những người Ấn Độ đến đây là vàng chứ khơng phải mục
đích bành trướng, tìm kiếm thuộc địa. Khơng đồng tình với quan điểm này, Van
Leur cho rằng thương nhân là thuộc những nhóm người hạ lưu trong xã hội và các
thủy thủ thường là những nô lệ. Cho nên những người này không thể đảm đương
nổi trọng trách phổ biến và truyền bá văn hóa Ấn Độ đến các nước khác, mà trọng
trách này phải do những Brahman...
Suy cho cùng, sự tiếp biến văn hóa Ấn Độ của cư dân Ĩc Eo được thể hiện
qua những đặc điểm giống nhau về tơn giáo tín ngưỡng, nghệ thuật điêu khắc, các
hình thức mai táng, sinh hoạt và hoạt động kinh tế… Thông qua những lần tiếp xúc
thường xuyên giữa các nhóm cư dân (trao đổi mua bán, xâm lược, bang giao giữa
các nước…) đã để lại nơi đây một nền văn hóa đa dạng và phong phú, tạo điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển văn hóa xã hội của cư dân Óc Eo.
Những ảnh hưởng của Ấn Độ đã làm cho đời sống và tâm linh của cư dân
nơi đây thêm phong phú, tạo nên sự cân bằng, sự mềm mại trong q trình phát
triển và góp phần tạo nên sự ổn định trong một thời gian dài. Dù không phải là
thuộc địa của Ấn Độ, Phù Nam vẫn tiếp nhận những thành tựu về mọi mặt chính
trị, xã hội và văn hóa của Ấn Độ để xây dựng và bản địa hóa cho phù hợp với hồn

cảnh lịch sử và văn hóa của mình./.

11



×