Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế tài nguyên thiên nhiên và môi trường: Ứng dụng mô hình CGE trong quản lý tài nguyên và chính sách môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 104 trang )

Luận văn thạc sĩ

Trang 1

Ngành: Kinh tế TNTN&MT

CHƯƠNG 1
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TÀI NGUN
VÀ CHÍNH SÁCH MƠI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM

1.1. Thực trạng việc quản lý tài nguyên môi trường ở Việt Nam
Hiện nay Việt nam vẫn là một nước đang phát triển, một đất nước trải qua nhiều
cuộc chiến tranh đô hộ và tàn dư của các cuộc chiến tranh để lại vẫn còn rất nặng
nề. Hệ thống khung pháp luật chưa hồn chỉnh, các chính sách về các lĩnh vực cũng
đang được Nhà nước rất quan tâm nghiên cứu. Trong các lĩnh vực được quan tâm
trong đó có lĩnh vực quản lý tài nguyên môi trường đang được đề cập nhiều để đưa
ra những chính sách phù hợp với điều kiện thực tế phát triển đất nước.
Ở đây tác giả xin được đi sâu vào lĩnh vực tài nguyên nước và sau đây là tóm
lược hiện trạng ngành nước của Việt Nam trong điều kiện dân số, sự tăng trưởng và
thay đổi cơ cấu kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ. Mục này tập trung vào cách tiếp cận
Quản lý Tài nguyên Nước Tổng hợp (QLTNNTH) để quản lý, và có những thay đổi
tổ chức cần thiết đối với ngành nước để Việt Nam có thể nắm bắt và đi theo cách
tiếp cận mới này. Nó nêu ra mối quan hệ tổng thể và những vấn đề liên quan cần
phải được đưa vào một chương trình cải tổ ngành.
1.1.2. Bối cảnh phát triển
Việt Nam hiện đang là nước đông dân số thứ 5 trên thế giới. Năm 2009, dân số
Việt Nam là trên 86 triệu người – dự báo sẽ đạt đến con số 100 triệu người trong
vòng 20 năm tới và sẽ ổn định quanh mức 120 triệu người vào giữa thế kỷ này. Tuy
nhiên, mặc dù cứ một năm dân số lại tăng 1 triệu người, tốc độ tăng dân số đã giảm
đáng kể trong thập niên 90 của Thế kỷ 20 vừa qua. Khoảng một phần ba dân số hiện
nay đang sinh sống ở lưu vực sơng Hồng – Thái Bình, gần 21% ở Đồng bằng Sông


Cửu Long (ĐBSCL) và 15% ở lưu vực sông Đồng Nai.
Phân bố dân cư đang có sự chuyển dịch từ nông thôn ra thành thị và đến các
vùng kinh tế mới. Trong khoảng thời gian từ 1995 đến 2005, dân số thành thị tăng

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K


Luận văn thạc sĩ

Trang 2

Ngành: Kinh tế TNTN&MT

từ 15 triệu lên 22,4 triệu đã tạo nên một áp lực lớn cho đầu tư cơ sở hạ tầng và làm
gia tăng ô nhiễm môi trường. Trên phạm vi toàn quốc, luôn có một lượng người di
cư đều đặn từ Bắc vào Nam. Có bốn vùng chủ yếu thu hút làn sóng di cư: vùng đơ
thị thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, và các tỉnh Tây Nguyên.
Trong vòng 20 năm tới, lượng dân số gia tăng trên sẽ đòi hỏi một lượng nước từ
4 đến 4,5 triệu m³ ngày đêm, hay 8–9 triệu m³/ngày đêm nếu tính cả nhu cầu cho
các hoạt động sản xuất công nghiệp đi kèm – gấp đôi khả năng cấp nước hiện tại.
Các trung tâm đô thị cũng đang thải ra ra lượng nước thải rất lớn, trong khi đó, trên
tồn quốc chỉ vài phần trăm lượng nước thải này được xử lý trước khi đưa vào
nguồn nước thiên nhiên. Khối lượng đầu tư cần thiết để đáp ứng các Mục tiêu Thiên
niên kỷ (MTTNK) của Việt Nam về cấp nước và vệ sinh nơng thơn và đơ thị tới
năm 2020 ước tính là 600 triệu USD mỗi năm – gấp gần 4 lần đầu tư hàng năm
trong hơn 10 năm qua. Khoản đầu tư trong quá khứ, đặc biệt là cho khu vực đô thị,
chủ yếu là từ nguồn vốn ODA (gần 85% trong số 1 tỷ USD được đầu tư).
Rõ ràng một trong những áp lực lớn nhất đến tài nguyên nước và ngành nước là

do sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam, và thay đổi trong cơ cấu kinh
tế. Sự phát triển mạnh kinh tế dẫn đến việc tiêu thụ ngày càng nhiều nguồn tài
nguyên, đòi hỏi một nguồn nước tốt hơn, tạo ra sự tập trung dân số lớn, và quan
trọng hơn cả là tạo ra lượng nước thải bị ô nhiễm cùng các chất thải khác. Nền kinh
tế đã và đang chứng kiến tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm là 7,5% và
Dự báo trong hai năm tới đạt 6,4% – 6.7%. Với tốc độ tăng trưởng hiện tại, sản
phẩm của kinh tế của Việt Nam sẽ tăng gấp đôi sau mỗi thời gian 10 năm.
Trong vòng 10 năm qua, GDP đã tăng gần gấp 3 lần. Các ngành công nghiệp,
xây dựng và dịch vụ tăng trưởng mạnh. Sản xuất công nghiệp duy trì mức tăng
trưởng cao và ổn định. Nơng nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản cũng có mức tăng
trưởng cao nhưng với mức tăng thấp hơn.
Cơ cấu tăng trưởng kinh tế trên phạm vi tồn quốc rất khơng đồng đều. Ví dụ,
lưu vực sơng Đồng Nai có mức phát triển nhanh hơn mức trung bình của cả nước,
trong khi các lưu vực khác như sông Mã và Trà Khúc, lại là những lưu vực rất

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K


Luận văn thạc sĩ

Trang 3

Ngành: Kinh tế TNTN&MT

nghèo, với cơ cấu kinh tế tương tự với cơ cấu kinh tế của Việt Nam 15–20 năm
trước. Ba lưu vực sơng đóng góp trên 70% vào GDP của Việt nam là lưu vực sơng
Hồng-Thái Bình (25%), ĐBSCL (17%), và lưu vực sơng Đồng Nai (28%). Tỉ trọng
của Nhóm lưu vực sơng Đơng Nam bộ là 10%. Điều này cho thấy cơ cấu tăng

trưởng kinh tế rất không đồng đều. Quan trọng là Việt nam cần nhận thức được sự
khác biệt trên và cần ưu tiên phát triển tài nguyên nước để hỗ trợ cho cả người dân
và phát triển kinh tế.
Bước tiến của Việt nam vào một nền kinh tế thị trường vẫn trong giai đoạn quá
độ. Các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) vẫn chiếm phần lớn trong nền kinh tế.
Quá trình cải tổ các DNNN hay q trình ‘cổ phần hóa” diễn ra chậm chạp trong
những năm gần đây và đóng góp của các DNNN chiếm khoảng 39% cho cả GDP và
đầu ra ngành công nghiệp và 35% tỉ trọng xuất khẩu sản phẩm không phải là dầu
mỏ. Khu vực các DNNN thường hoạt động kém hiệu quả hơn so với khu vực ngồi
quốc doanh. Điển hình gần đây là việc thất thốt hàng nghìn tỷ đồng của Tập Đồn
Cơng nghiệp Tầu thuỷ Việt Nam (VINASHIN), việc Kinh doanh thua lỗ của Tập
đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), ..Việc đối xử thiên vị đối với các DNNN đã khiến
khu vực ngoài quốc doanh mất đi nhiều cơ hội tăng trưởng. Các DNNN cũng sở
hữu một số ngành công nghiệp gây ô nhiễm nhất cả nước. Việc tiếp tục cải tổ các
DNNN là rất cần thiết, vì nó sẽ tạo ra “sân chơi cơng bằng” giữa khu vực quốc
doanh và ngồi quốc doanh.
Chính phủ Việt Nam rõ ràng kỳ vọng tốc độ của cải tổ kinh tế sẽ được tiếp tục
duy trì trong tương lai, điều này sẽ tạo nên áp lực lớn hơn cho tài nguyên nước.
Trong các quy hoạch các ngành, chỉ đối với phát triển thủy điện tài chính mới
không là vấn đề. Tất cả các quy hoạch các ngành khác dường như quá tham vọng
và phần lớn không có nguồn vốn.
Thủy điện là ngành có ảnh tác động lớn đến tài nguyên nước ở nhiều lưu vực
sông. Trong những năm gần đây, phát triển thuỷ điện diễn ra nhanh và sẽ tiếp tục đà
phát triển này. Sơ đồ Tổng quan VI ngành điện là quy hoạch nhằm đáp ứng nhu cầu
điện năng trong giai đoạn 2006–2015, trong quy hoạch có đưa ra kế hoạch xây dựng

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K



Luận văn thạc sĩ

Trang 4

Ngành: Kinh tế TNTN&MT

thêm 26 hồ chứa, trong đó một số hồ chứa đang được xây dựng. So với các nước
trên thế giới, Việt Nam là nước có tiềm năng thuỷ điện tương đối nhỏ - tối đa là
85.000 GWh/năm, so với 130.000 GWh/năm của Nhật Bản, 320.000 GWh/năm của
Ấn Độ và 1.300.000 GWh/năm của Trung Quốc. Vào năm 2010, khoảng 50% tiềm
năng kỹ thuật và kinh tế trên toàn quốc đã được triển khai. Tuy nhiên, vào năm
2025, tỉ lệ này dự định sẽ tăng lên 83%, một tỉ lệ rất cao, góp phần đưa Việt nam
thành quốc gia có tỉ lệ tận dụng tiềm năng thủy điện ở mức cao nhất.
Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội đưa ra một danh mục các dự án đầu tư. Các
dự án liên quan đến nước được tài trợ từ ngân sách quốc gia với tổng kinh phí là
78.000 tỉ đồng trong đó các dự án thuỷ điện chiếm đến 64%. Các dự án phòng
chống thiên tai chiếm 14%, đô thị 10%, nước sạch và vệ sinh nơng thơn 9%, tưới
3%. Một phần kinh phí bổ sung 32.500 tỉ đồng vốn đầu tư được lấy từ nguồn trái
phiếu chính phủ, và tồn bộ kinh phí này được dành cho các cơng trình thuỷ lợi.
Các dự án ODA cam kết ước tính có tổng giá trị là 677 triệu USD. Khoảng 90%
các dự án có liên quan đến cấp nước đô thị, vệ sinh và cải thiện mơi trường, cịn lại
là cho ngành thủy lợi.
1.1.3. Đánh giá đối với ngành nước
Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào các con sông quốc tế mà Việt Nam chia sẻ với
các nước khác. Tổng lượng nước mặt trung bình năm của Việt Nam là khoảng
830 tỉ m3 và hơn 60% lượng nước này phát sinh từ bên ngoài lãnh thổ. Sáu lưu vực
phụ thuộc vào dòng chảy từ các nước khác là sơng Cửu Long, có gần 95% tổng
lượng nước đến trung bình năm là từ các nước thượng lưu sơng Mê Cơng; sơng
Hồng -Thái Bình có gần 40% lượng nước mặt đến từ phần lưu vực nằm trong lãnh

thổ Trung Quốc; lưu vực sơng Mã và Cả, có gần 30 % và 22% tương ứng, lượng
nước đến từ Lào; và lưu vực sơng Đồng Nai có gần 17% lượng nước đến từ
Campuhica. Sông Bằng Giang-Kỳ Cùng cũng chảy từ Trung Quốc vào Việt Nam và
sau đó lại chảy về lại Trung Quốc. Dịng chảy mặt trên lưu vực sơng Sê San và
Srê Pốk trên lãnh thổ Việt nam chiếm 75% và 50% tổng lượng nước toàn lưu vực.

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K


Luận văn thạc sĩ

Trang 5

Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Gần 57% tổng lượng nước của cả nước là của lưu vực sông Cửu Long, hơn 16%
trên sơng Hồng -Thái Bình, và hơn 4% trên lưu vực sơng Đồng Nai.
Mùa khơ có ảnh hưởng lớn đến dịng chảy và lượng nước. Mùa khơ thường kéo
dài từ 6 đến 9 tháng và kéo dài nhất ở các lưu vực sông Miền trung Việt Nam.
Lượng nước tự nhiên đến vào mùa khô chiếm 20–30% tổng lượng nước cả năm.
Lượng trữ nước của các hồ chứa và lượng nước chuyển ra ngồi lưu vực vào mùa
khơ có thể tạo ra sự khác biệt đáng kể đối với lượng nước hiện có vào mùa khơ.
Nếu giả thiết rằng các hồ chứa trữ đầy vào mùa mưa và sẵn sàng để sử dụng trong
mùa khơ thì lượng trên sông vào mùa khô sẽ được cải thiện lên mức từ 23% và 46%
so với tổng lượng cả năm. Trên lưu vực sơng Đồng Nai, dung tích trữ hiện tại gấp
đôi lượng nước đến thiên nhiên vào mùa khô.
Báo cáo hiện trạng sử dụng hai chỉ số chính để phản ánh thực trạng về lượng
nước hiện có và áp lực lên nguồn nước của lưu vực sông. Chỉ số thứ nhất là lượng

nước tính trên đầu người. Tổng lượng nước mặt của Việt Nam tính trên đầu người
là 9.856m3/năm, nhưng tỉ lệ này khác nhau nhiều giữa các lưu vực. Theo tiêu chuẩn
quốc tế tổng lượng nước trên đầu người khoảng 1.700m3/năm được xem là đáp ứng
đủ nhu cầu, với lượng nước bình quân đầu người từ 1.700m3/năm đến
4.000m3/năm được xem là thiếu nước không thường xuyên hoặc thiếu nước cục bộ.
Với dân số và mức độ phát triển hiện tại, theo tiêu chuẩn này, cho thấy lưu vực sông
Đồng Nai và Nhóm lưu vực sơng Đơng Nam Bộ (NLVSĐNB) đều đang đối mặt với
nguy cơ thiếu nước không thường xuyên và cục bộ, trong khi các sông Hồng, Mã và
sông Côn đang tiệm cận mức độ thiếu nước này.
Chỉ số thứ 2 là đánh giá về phần trăm lượng nước bị khai thác so tổng lượng
nước trung bình năm của một lưu vực sông. Tiêu chuẩn quốc tế về “căng thẳng do
khai thác nguồn nước” đề ra, mức độ căng thẳng trung bình bắt đầu với ngưỡng
khai thác là 20%, và mức căng thẳng cao là trên 40%. Với mức độ sử dụng hiện tại,
các lưu vực sông Mã, Hương và ở trong tình trạng căng thẳng trung bình về nguồn
nước (giữa 20% và 40%), và sông Đồng Nai cũng đang ở giới hạn này. Tất cả các
sông khác đều đang có mức căng thẳng thấp. Tuy nhiên, vào mùa khô, sáu trong số

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K


Luận văn thạc sĩ

Trang 6

Ngành: Kinh tế TNTN&MT

16 lưu vực được xếp loại là “căng thẳng trung bình” và 4 lưu vực khác được xếp
loại “căng thẳng mức độ cao” (sông Mã, , Hương và Đồng Nai). Mức độ căng thẳng

cao nhất chính là NLVSĐNB, với hơn 75% lượng mùa khô bị khai thác, và sông
Mã với gần 80%. Các tỉ lệ trên cho thấy các hoạt động khai thác nước quá mức đã
và sẽ tạo nên mức độ rất không bền vững cho các lưu vực.
Trên phạm vi cả nước, gần 82% tổng lượng khai thác nước mặt hiện tại là dùng
cho tưới, 11% cho thuỷ sản, 5% cho cơng nghiệp và 3% cho đơ thị. Trong đó có 3
lưu vực, lượng nước tưới chiếm hơn 90% lượng nước sử dụng. Lưu ý là thủy điện
khơng được tính là đối tượng sử dụng nước vì thuỷ điện nhìn chung khơng “tiêu
hao” nguồn nước, mặc dù nó có thể làm thay đổi đáng kể chế độ dịng chảy và đơi
khi cịn chuyển nước từ sơng này sang sơng khác. Hiện tại, lượng nước đang được
sử dụng hang năm cho tất cả các much đích khoảng 80,6 tỉ m3. Đến năm 2020 tổng
lượng nước sử dụng sẽ tăng lên khoảng 120 tỉ m3, tức tăng thêm 48%. Trong đó,
nước cho tưới sẽ tăng 30%, công nghiệp tăng gần 190%, đô thị 150% và nước cho
nuôi trồng thủy sản 90%. Dự báo nhu cầu nước sẽ tăng đáng kể trên các lưu vực
sông Trà Khúc, Côn, Ba, NLVSĐNB, Sê San và Srê Pốk.
Dân số gia tăng đi cùng với sự gia tăng sử dụng nước sẽ làm thay đổi lượng
nước hiện tại và làm thay đổi mức “căng thẳng” ở các lưu vực sông. Dự báo dân số
tới năm 2020 cho thấy lưu vực sông Đồng Nai sẽ tiến gần tới mức thiếu nước
nghiêm trọng nếu xét về tổng lượng nước hàng năm. Các lưu vực Sông Hồng, Mã
và Côn sẽ ở ngang hoặc dưới mức thiếu nước. Các lưu vực còn lại sẽ có đủ nước
cho nhu cầu cộng đồng trên cơ sở lượng nước trung bình năm. Tính cả dự báo sử
dụng nước trong tương lai vào mùa khô tới năm 2020 trong chỉ số khai thác nguồn
nước cho thấy lưu vực NLVSĐNB trên ngưỡng 100%, điều này có nghĩa là sử dụng
nước dự báo sẽ vượt xa tổng lượng nước sẵn có trên lưu vực trong mùa khơ. Lưu
vực sông Mã sẽ ở mức 100% và sông Côn đang tiến đến mức này. Các sông Hồng,
Ba, Đồng Nai, Hương và Trà Khúc sẽ nằm trong khu vực chịu căng thẳng cao về
nước. Các lưu vực khác sẽ nằm trong khu vực căng thẳng trung bình về nước, trong

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K



Luận văn thạc sĩ

Trang 7

Ngành: Kinh tế TNTN&MT

khi chỉ có lưu vực sông Sê San và Thạch Hãn sẽ không chịu áp lực về nước, mặc dù
các lưu vực này cũng có thể sẽ đối mặt với tình trạng thiếu nước cục bộ.
Chương này đã chỉ ra tình trạng thiếu nước nghiêm trọng ở Việt Nam khi cần
đáp ứng các nhu cầu sử dụng trong tương lai, đặc biệt là vào mùa khô, và sự căng
thẳng về nước sẽ đặt lên các sông. Các lưu vực NLVSĐNB, Đồng Nai, Mã, Côn và
sông Hương bị ảnh hưởng rất nặng nề. Áp lực về nước cũng dẫn đến việc tập trung
khai thác nguồn nước dưới đất để đáp ứng sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên
sự hiểu biết về tài nguyên nước dưới đất trên lãnh thổ Việt Nam cịn hạn chế.
Tổng dung tích hữu ích của các hồ chứa hiện tại ở Việt nam là khoảng 37 tỷ m3
(khoảng 4,5% tổng lượng nước mặt trung bình hàng năm). Trong đớ, trên 45% nằm
ở lưu vực sông Hồng – Thái Bình. Gần 22% thuộc lưu vực sơng Đồng Nai, sông
Cả, Ba, và Sê San ở mức tương ứng 5% và 7%. Việt Nam có dung tích chứa tính
trên đầu người là 440 m3/người. Đây là tỉ lệ khá cao so với nhiều nước khô hạn
như Ethiopia, Ấn Độ và Pakistan nhưng lại thấp so với Mỹ và Úc (trên 5.000
m3/người), và Trung Quốc (2.200 m3/người). Chỉ có 3 lưu vực sơng có hồ chứa có
thêm mục tiêu phịng lũ đó là lưu vực sơng Hồng – Thái Bình, Mã, và sơng Hương.
Do vị trí địa lý và địa hình, Việt nam là một trong các nước chịu đựng nhiều
thiên tai nhất. Thực tế là khoảng 50% dân cư sinh sống ở ven biển sẽ đối mặt với
thiên tai. Hơn 80% dân số của đất nước sống ở các vùng chịu rủi ro do các tác động
trực tiếp của thiên tai. Việt Nam hứng chịu nhiều loại thiên tai và các hậu quả gây
nên như thiệt hại về người, tài sản đã gây nhiều trở ngại, cản trở con người thốt
khỏi vịng luẩn quẩn của sự đói nghèo và giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế. Lũ lụt

gây nên những khó khăn lớn cho Đồng bằng sơng Cửu Long và Miền Trung trong
khi đó nhờ hệ thống đê kè, lũ lụt ở Đồng bằng sông Hồng đã phần nào được kiểm
soát. Lũ quét xảy ra trên khắp cả nước. Bão thường xuyên tấn công Việt nam nhưng
nhiều hơn là khu vực Miền trung
Việt nam có tổng “tiềm năng nước dưới đất” vào khoảng 63 tỉ m3/năm. Lượng
nước phân bổ trên đầu người hàng năm là từ 3.770 m3/người/năm ở vùng tây bắc, và
thấp ở mức 84 m3/người/năm ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Các tầng chứa

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K


Luận văn thạc sĩ

Trang 8

Ngành: Kinh tế TNTN&MT

nước có trữ lượng lớn là vùng cát và sỏi không cố kết chủ yếu tìm thấy ở vùng sơng
Hồng, và ở vùng Đông Nam bộ và châu thổ sông Mê Công, và các đồng bằng ven
biển. Các tầng chứa nước này tương đối gần với mặt đất, nên việc khai thác nước
dưới đất là tương đối rẻ và hiệu quả, nhưng đồng thời cũng khiến cho nước dưới đất
dễ bị ô nhiễm.
Nước dưới đất cung cấp tới 55% lượng nước sinh hoạt của người dân Việt nam
(trên 23% lượng nước dưới đất được bơm từ các giếng khoan sâu, và hơn 23% được
bơm bằng tay hay giếng xây). 34% dân số đô thị và xấp xỉ 65% dân số nông thôn
sống phụ thuộc vào nguồn nước dưới đất, phần lớn dân số nông thôn phụ thuộc vào
các giếng xây thủ công.
Các khu vực khai thác nước dưới đất tập trung đang gây nên mối lo ngại. Ở Hà

Nội, mực nước dưới đất đang rút xuống 1m mỗi năm ở một số khu vực, và đã giảm
tổng cộng là 30 m. Ở một số khu vực ở thành phố Hồ Chí Minh, mực nước dưới đất
suy giảm 30 m, và ở một số khu vực khác ở Đồng bằng Cửu Long, mực nước dưới
đất hạ thấp đáng kể. Vấn đề khai thác quá mức nước dưới đất đang diễn ra ở các
vùng trồng cà phê ở Tây Nguyên, tại đây mực nước dưới đất hạ giảm tới 2,5 m/năm.
Hệ sinh thái tự nhiên của Việt nam bao gồm một số lượng phong phú các cánh
rừng đẹp và đa dạng, các vùng đầm lầy, sơng và các rặng san hơ, có đến gần 10%
tổng số lồi thú có vú và chim tồn cầu. Nguồn nước ngọt và đa dạng sinh học biển
của Việt Nam đang bị đe doạ do ô nhiễm nước sinh hoạt và công nghiệp, do việc
xây dựng đập và cơ sở hạ tầng, do việc nạo vét, do các phương thức đánh bắt cá hủy
diệt, do nuôi trồng thuỷ sản và đánh bắt quá mức. Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội
cũng lưu ý chỉ số bền vững môi trường của Việt Nam năm 2005 là 42,3 - xếp hàng
thứ 8 trong số các nước ASEAN, sau cả Myanmar, Lào và Campuchia. Trong số
146 nước được đánh giá, Việt nam xếp hạng thứ 127, thấp hơn rất nhiều nước láng
giềng như Thái Lan (thứ 73), Campuchia (thứ 68) và Lào (thứ 52).
Việt nam có nguồn nước ngọt và đất ngập nước ven biển phong phú. Các nguồn
tài nguyên này phân bố chủ yếu ở đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long và dọc
theo 3.260 km ven biển. Các đánh giá hiện tại cho thấy có 1 triệu hecta đất ngập

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K


Luận văn thạc sĩ

Trang 9

Ngành: Kinh tế TNTN&MT


nước, chủ yếu tập trung ở vùng cửa sông và xung quanh một số đầm phá, với hơn
100.000 ha của 12 đầm phá trải dài từ Thừa Thiên Huế đến Bình Thuận. Danh mục
kiểm kê đất ngập nước châu Á có liệt kê trên 25 khu vực đất ngập nước ở Việt nam
đáp ứng tiêu chuẩn của “Đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế”. Mặc du như
vậy, chỉ có hai khu vực đất ngập nước được công nhận là khu vực RAMSAR –
Xuân Thủy ở Đồng bằng sông Hồng và khu vực Bàu Sấu mới hình thành thuộc
vườn quốc gia Cát Tiên.
Nhìn chung, một lưu vực sẽ có khoảng 40% đến 50% diện tích là rừng, 20% đến
30% là đất nơng nghiệp, dưới 3% là đất ở, khoảng 5% là đất chuyên dụng và 20% đến
30% đất sử dụng cho các mục đích khác. Là một phần của lưu vực, độ che phủ của
rừng có diện tích lớn nhất ở lưu vực sông Gianh (72%), sông Sê San (62%) và sông
Bằng Giang- Kỳ Cùng (55%), cho thấy có sự đóng góp đáng kể của rừng vào quá trình
bảo đảm bền vững của các lưu vực sông và điều tiết lại sự phân phối dịng chảy sơng
trong năm.
Một dịng sơng khỏe mạnh, bao gồm cả lịng dẫn, đáy sơng, bờ sơng và mơi
trường sống, hỗ trợ và duy trì một tập hợp các loài sinh vật thủy sinh. Ba chỉ số
được sử dụng trong Báo cáo Hiện trạng giúp xem xét các tác động của phát triển
đến sức khỏe của sông. Phần lượng được lấy đi từ sơng có ý nghĩa rất quan trọng và
nó cho biết mức độ “căng thẳng” của một con sông. Ở phần trên Báo cáo đã nêu ra
4 lưu có mức độ căng thẳng cao trong mùa khô và mức độ căng thẳng này sẽ tiếp
tục gia tăng trong tương lai. Phần diện tích lưu vực nằm phía trên các đập lớn cho
thấy mức độ nào thì dịng chảy mặt trên lưu vực khơng bị ảnh hưởng bởi các đập
lớn. Ở phần diện tích thượng lưu các đập lớn, dòng chảy dường như còn tương đối
“tự nhiên” về mặt thời gian và tính biến động. Ba lưu vực có các giá trị của chỉ số
vào khoảng 80% hoặc hơn là – lưu vực sông Gianh, Bằng Giang – Kỳ Cùng và Thu
Bồn – và 5 lưu vực khác trên 50%. Lưu vực có giá trị chỉ số thấp nhất (tức là sơng
có dịng chảy tự nhiên nhỏ nhất) là sông Ba (27%). Phần chiều dài của các đoạn
sông lớn trong một lưu vực nằm ở thượng lưu của một cơng trình chắn sơng (đập,
đập dâng hoặc đập tràn) chỉ ra rằng liệu việc chuyển dịch của các loài cá/thủy sinh


Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K


Luận văn thạc sĩ

Trang 10

Ngành: Kinh tế TNTN&MT

có bị hạn chế và vận tải thủy có bị gây cản trở không. Phần lớn dọc chiều dài của
các sông trên đều có cơng trình chắn vĩnh viễn. Những sơng lớn như sơng Hương.
Dịng chính của hai lưu vực sơng lớn như Hương và Ba có giá trị của chỉ số gần
100%, có nghĩa là các hệ thống sơng này bị chắn bởi các cơng trình gần cửa sơng,
và đồng nghĩa với việc sẽ có ảnh hưởng đáng kể đến thơng thủy của sơng, đến
đường đi và vịng đời của cá.
Nước mặt của tất cả các sông không đáp ứng các tiêu chuẩn ô nhiễm hữu cơ cho
nước uống. Nồng độ BOD5 trung bình của hầu hết các con sơng gấp từ 1,2 đến 2
lần so với tiêu chuẩn Việt Nam loại A. Các giá trị nồng độ cao được kiểm tra thấy ở
lưu vực các sông Trà Khúc, Gianh, Đồng Nai, Hồng - Thái Bình và Cửu Long trong
khi các giá trị thấp nhất đo được ở sông Côn, Srê Pốk và sơng Ba. Có một số điểm
nóng trên các đoạn sông chạy qua khu dân cư, ở đây nồng độ BOD5 trung bình
vượt xa tiêu chuẩn cho phép. Ơ nhiễm hữu cơ thường nằm trong giới hạn tiêu chuẩn
loại B (trừ các điểm nóng). Trong khi có ít số liệu để xác định mức độ ô nhiễm của
các kim loại nặng, nước mặt của tất cả các lưu vực sông thường đáp ứng tiêu chuẩn
về nước uống.
Biến đổi khí hậu được xem là yếu tố làm thay đổi dòng chảy mặt hiện tại và chế
độ mưa. Mơ phỏng mơ hình khí hậu Bộ Tài ngun và Mơi trường đang sử dụng
cho thấy lượng mưa trung bình hàng năm sẽ tăng khoảng 5%, trong đó lượng mưa

sẽ tăng nhiều ở miền Bắc hơn so với miền Nam. Hầu hết các mô hình cho thấy,
trung bình lượng mưa tăng cao hơn lượng bốc hơi do nhiệt độ tăng, kết quả người ta
dự đốn lượng dịng chảy trung bình sẽ tăng, khoảng 50 mm/năm (xấp xỉ lượng tăng
5%). Hầu hết lượng mưa tăng trung bình hàng năm được dự đốn sẽ diễn ra vào các
tháng vốn đã mưa nhiều trong năm, chỉ có lượng nhỏ mưa tăng thêm vào mùa khô.
Các báo cáo gần đây của UNDP và Ngân hàng Thế giới cho thấy Việt Nam là
một trong năm nước trên thế giới có khả năng bị ảnh hưởng nặng nề nhất khi nước
biển dâng do hậu quả của biến đổi khí hậu. Trong một kịch bản với mực nước biển
dâng thêm 1 m, các đánh giá cho thấy Việt Nam sẽ mất 5% đất, 11% dân số sẽ bị
ảnh hưởng nặng nề, sản xuất nông nghiệp sẽ giảm 7%, và GDP giảm 10%. Nước

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K


Luận văn thạc sĩ

Trang 11

Ngành: Kinh tế TNTN&MT

biển dâng ở một số khu vực sẽ gây nên hậu quả rất lớn. Nước biển dâng thêm 1m sẽ
làm ngập hơn 11.000 km2 ở lưu vực sông Cửu Long, tức là 38% diện tích đất của
lưu vực. Một số tỉnh cũng sẽ mất gần một nửa diện tích đất.
Tháng 12/2007, Chính phủ ra Quyết định số 60/2007/NQ-CP giao cho Bộ Tài
nguyên và Mơi trường chỉ đạo việc xây dựng Chương trình Mục Tiêu Quốc Gia
(CHTMTQG) về Thích nghi biến đổi khí hậu, nhằm tìm kiếm tài trợ quốc tế cho
Chương trình, và trình lên Thủ tướng Chính phủ trong q hai năm 2008. Bộ Tài
nguyên và Môi trường cũng cho biết sẽ soạn thảo một đề xuất về việc giảm thiểu

các tác động của hiện tượng ấm lên toàn cầu và đệ trình Chính phủ vào phiên họp
thứ tư quốc hội khóa 12. Theo đề xuất, các dự án thích nghi biến đổi khí hậu và
giảm thiệu tác động trong giai đoạn 2011 -2015 sẽ được thực hiện trên phạm vi toàn
quốc.
1.1.4. Nhìn nhận hiện trạng ngành nước
Về cấp nước và vệ sinh:
Với tốc độ gia tăng dân số hàng năm tại đô thị là 2,18% so với 0,93% ở khu vực
nông thơn. Lượng cấp nước đơ thị trung bình là 80-90 lít/người/ngày; ở các thành
phố lớn là 120-130 lít/người/ngày (mục tiêu quốc gia là 120-150). Nguồn nước cấp
chủ yếu là nước mặt, chiếm khoảng 70%. Tuy nhiên, khoảng 60% dân số sống hồn
tồn phụ thuộc vào nguồn nước dưới đất.
Nhìn chung, các công ty nước sạch đều là các công ty quốc doanh và có khoảng
13.442 cán bộ làm việc. Tỉ lệ nhân viên ngành cấp nước trên 1000 điểm cấp là gần
gấp 2,5 lần so với tỉ lệ tốt nhất ở một nước đang phát triển (5 nhân viên trên 1000
điểm cấp). Tỉ lệ hoạt động của ngành cấp nước (tỉ lệ chi phí hoạt động trên doanh
thu hoạt động) là 0,64, cao hơn mức hoạt động trung bình của 25% các cơ sở cấp
nước hàng đầu ở các nước đang phát triển. Năm 2002 toàn bộ hoạt động cấp nước
đều dựa trên doanh thu tính theo thể tích, theo đó một cơng ty sẽ thu mức phí tối
thiểu cố định, và 45% sử dụng tính giá nước lũy tiến. Hầu hết các công ty đều đảm
bảo cấp nước 14 đến 20 tiếng/ngày, và chỉ có 3 hay 4 thành phố chỉ có khả năng cấp
nước 8-10 tiếng/ngày. Tỉ lệ cấp nước không đo đếm từ 14% đến 76% với mức trung

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K


Luận văn thạc sĩ

Trang 12


Ngành: Kinh tế TNTN&MT

bình là 35%. Hiện tại chỉ có khoảng 50% mạng lưới phân phối nước đáp ứng về
chất lượng nước.
Mạng lưới các hệ thống vệ sinh và tiêu nước ở các khu vực đô thị hiện chưa
được điều tra. 11 trong số 16 lưu vực khơng có hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt.
Các khu vực đơ thị có thể áp dụng phí vệ sinh nước ở mức 10% của giá nước nước
sạch. Tuy nhiên, nếu như các công ty cấp nước đứng ra thu phí thì quỹ thu lại được
nộp vào ngân sách tỉnh hoặc thành phố. 60% các bệnh viện có nhà máy xử lý chất
hải nhưng chỉ có 18% các nhà máy này hoạt động hiệu quả và hầu hết nước thải
bệnh viện được thải trực tiếp vào hệ thống nước thải đô thị.
Diện phủ cấp nước và vệ sinh tăng lên là một ưu tiên chính của Chính phủ và là
một nội dung quan trọng trong cuộc chiến chống đói nghèo. Năm 2005, có trên 60
triệu dân sinh sống ở nông thôn. Khả năng tiếp cận nước sạch và vệ sinh là một vấn
đề lớn của dân nghèo nông thôn Việt Nam. Trong số 20% người nghèo nhất, chỉ có
22% được tiếp cận nước sạch so với 78% của số 20% những người giàu nhất. Về vệ
sinh, trong số 20% số người nghèo nhất chỉ có 2% được tiếp cận điều kiện vệ sinh
so với tỉ lệ 20% ở người giàu.
Tỷ lệ phủ trên toàn quốc của hệ thống cấp nước và vệ sinh nông thôn (theo tiêu
chuẩn truyền thống của Bộ NN&PTNT) ước tính xấp xỉ 66% và tỉ lệ nhà vệ sinh đạt
yêu cầu là 50%; khoảng 70% các trường học, nhà trẻ và mẫu giáo, 58% trạm y tế xã
và 17% chợ nông thôn được sử dụng nước sạch và có nhà vệ sinh đạt yêu cầu. Tuy
nhiên, nếu áp dụng tiêu chuẩn nước sạch của Bộ Y Tế, khoảng 25% dân số nơng
thơn có nước sạch trong nhà và một tỉ lệ thấp hơn có khả năng tiếp cận điều kiện vệ
sinh. Nói một cách khác, cuối năm 2006 có khoảng 21 triệu người sống ở nông thôn
không được tiếp cận với nước “hợp vệ sinh” và 42 triệu người không được tiếp cận
nước sạch.
Quy hoạch Cấp nước và vệ sinh nông thôn trong khuôn khổ CHTMTQG II đang
triển khai nhờ với sự hỗ trợ mạnh mẽ của quốc tế. Chương trình phản ánh nhu cầu

cần tập trung cao độ hơn nữa đến vệ sinh, cần hướng mục tiêu bao cấp hơn nữa cho
người nghèo, và chú trọng hơn đến tính bền vững, cải thiện hoạt động và bảo dưỡng

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K


Luận văn thạc sĩ

Trang 13

Ngành: Kinh tế TNTN&MT

các cơng trình cấp nước và vệ sinh và tiếp tục phân cấp thực hiện. Ngân sách dự
kiến cho CHTMTQG II là 22.600 tỉ đồng. Vốn ngân sách Nhà nước là 14%, chính
phủ địa phương 10%, huy động trong dân 36%, các khoản vay ưu đãi 25%, và từ
phía các nhà tài trợ là 15%.
Đối với các mục tiêu quản lý tiểu ngành, nước sạch được chia thành 2 nhóm: cấp
nước đơ thị (bao gồm sản xuất công nghiệp và dịch vụ) của các đô thị loại V và cao
hơn, dưới sự quản lý của Bộ Xây dựng; và cấp nước nông thôn (các thị trấn nhỏ với
dân số từ 2.000 đến 4.000 cho đến các làng nhỏ), dưới sự quản lý của Bộ
NN&PTNT. Tài nguyên nước và bảo vệ nguồn nước thuộc trách nhiệm của Bộ
TNMT. Tiêu chuẩn và chất lượng nước sạch do Bộ Y Tế quản lý. Việc quy định giá
nước sạch sẽ do Bộ Xây dựng và Bộ Tài Chính hướng dẫn nhưng người ra quyết
định là UBND các tỉnh.
Mục tiêu của chính phủ Việt Nam là phấn đấu 100% dân số đơ thị có nước sạch ở
mức 120-150 lít/người/ngày vào năm 2020. Tổng nhu cầu nước được ước tính trên 7
triệu m3/ngày đêm năm 2010 và trên 12 triệu m3/ngày đêm năm 2020, chi phí ước
tính là 30.275 tỉ đồng vào năm 2010 và 37.500 tỉ đồng năm 2020.

Cơ cấu tổ chức của ngành CNVSNT khá phức tạp. Một Ủy ban chỉ đạo quốc gia và
một văn phòng thường trực đóng tại Bộ NN&PTNT với cơ cấu tương tự ở cấp tỉnh sẽ
cùng phối hợp với CTMTQG. UBND các tỉnh chịu trách nhiệm quản lý nguồn nước và
điều phối việc phân phối đưa chương trình CHTMTQG tới các địa phương. Bộ Y Tế
chịu trách nhiệm về tiêu chuẩn nước sạch và nhà xí vệ sinh, các quy định về sử dụng
phân bắc làm phân bón, và giám sát quá trình thực hiện. Cung cấp hỗ trợ ngành trong
CTMTQG II là một thay đổi đáng kể về cách tiếp cận đối với các nhà tài trợ trong
chương trình và mục đích là nhằm điều phối tạo sự hài hịa giữa các nhà tài trợ, điều
chỉnh và giảm chi phí giao dịch, phù hợp với Tuyên bố Hà Nội về Hiệu quả Tài trợ .
Về Lũ và các thiên tai:
Việt Nam là một trong các nước thường xuyên đối mặt với rủi ro, trong đó thiên tai
hàng năm đã cướp đi rất nhiều sinh mạng, phá hủy tàu thuyền, nhà cửa và ruộng lúa.
Thiệt hại trung bình hàng năm do thiên tai ở các lưu vực chủ yếu rơi vào Miền Trung

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K


Luận văn thạc sĩ

Trang 14

Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Việt Nam, đặc biệt là trên các lưu vực sông Thạch Hãn, Thu Bồn & Vũ Gia và sông
Hương nơi thiệt hại hàng năm chiếm từ 6 đến 8,4% GDP của lưu vực.
Đối với hầu hết các lưu vực, các biện pháp công trình khơng thể được thực hiện
một cách tồn diện. Lũ quét đã làm gần 50 người chết mỗi năm. Việc giải quyết vấn đề
này là hết sức khó khăn và phụ thuộc vào quản lý sử dụng đất, cảnh báo và sự sẵn sàng

của cộng đồng hơn là dựa vào bất kỳ biện pháp cơng trình nào. Tuy nhiên, Việt Nam
khó có thể thực hiện các biện pháp phi cơng trình để quản lý rủi ro thiên tai và đây
được xem như là một thất bại lớn. Một cách tiếp cận tổng hợp trong quản lý rủi ro thiên
tai cần bao gồm cả các biện pháp cơng trình và phi cơng trình xun ngành, quy hoạch
phát triển nhằm đối phó với thiên tai có xem xét đến cách tiếp cận Quản lý rủi ro thiên
tai dựa vào Cộng đồng (CBDRM). Một dự án gần đây ở vùng hay chịu thiên tai – tỉnh
Quãng Ngãi (thuộc lưu vực sông Trà Khúc) đã trình diễn cách tiếp cận này, và các số
liệu báo cáo từ khi thực hiện và các đánh giá độc lập đã đề xuất cách tiếp cận này là
một mơ hình tốt cho các vùng hay có nguy cơ thiên tai ở Việt Nam.
Khi kinh tế tăng trưởng nhanh, người ta ít chú ý đến tính ổn định lâu dài của bờ
biển trước thiên tai. Tác động của việc thảm thực vật bị phá dỡ, đặc biệt là việc phá
rừng ngập mặn, là điều ai cũng rõ. Việc khai thác q mức cát trên sơng cho mục đích
phát triển cũng làm suy giảm các quá trình tạo cát tự nhiên cho bờ biển và làm giảm
khả năng chống chịu xói mịn. Biến đổi khí hậu cũng sẽ làm tăng ảnh hưởng của thiên
tai và khiến con người chú trọng hơn vào các giải pháp phi cơng trình. Ngược lại, việc
giải quyết các rủi ro thiên tai theo cách này sẽ đạt được nhiều mục tiêu thích nghi biến
đổi khí hậu.
Có một mạng lưới phịng chống thiên tai hoạt động hiệu quả được cơ cấu chặt chẽ
từ trung ương đến địa phương. Tuy nhiên, hầu hết các cán bộ có trách nhiệm phòng
chống lụt bão lại là cán bộ kiêm nhiệm – bên cạnh nhiệm vụ chính của họ - nên trong
thực tế khơng có cơ quan cụ thể nào hỗ trợ các hoạt động này, một cơ quan đáp ứng kịp
thời yêu cầu công tác. Ở cấp tỉnh, cũng tồn tại các vấn đề tương tự. Năm 2007, Chiến
lược quốc gia về phịng chống, ứng phó và giảm nhẹ thiên tai tới năm 2020 đã được
phê duyệt và hiện đang được thực hiện.

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K



Luận văn thạc sĩ

Trang 15

Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Về Giao thông thủy:
Đường thủy nội địa có lợi thế là chi phí thấp hơn so với các phương thức vận
chuyển khác, và có thể chuyên chở hàng hóa quá cỡ và quá trọng tải trên một quãng
đường dài. Nhược điểm của loại hình vận tải này là tốc độ chậm, phụ thuộc vào thời
tiết và điều kiện thủy văn, và không thể cung cấp dịch vụ “lấy tận nơi, giao tận chỗ”.
Sông Đồng Nai có 43% giá trị vận tải thủy, tiếp theo là sơng Hồng - Thái Bình
(32%), và sơng Cửu Long (17%). Ba lưu vực trên chiếm 92% giá trị vận tải thủy cả
nước. Phần thượng lưu của hầu hết các con sông khác không phù hợp với các hoạt
động vận tải thủy lớn. Tuy nhiên, nhiều người dân địa phương, đặc biệt là người dân
tộc, vẫn phụ thuộc nhiều vào vận tải thủy để làm sinh kế. Ở phía hạ lưu sông, tĩnh
không các cầu đường bộ thường thấp và trên nhiều con sông, hồ chứa, đập và đập ngăn
mặn thường gây cản trở cho giao thơng thủy.
Có nhiều tác động môi trường từ các hoạt động vận tải thủy, như tràn dầu. Luật
Đường thủy Nội địa điều chỉnh vấn đề giao thông thủy và Cục Đường Sông thuộc Bộ
Giao thông Vận tải chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về giao thông thủy. Hệ thống
biển báo luồng lạch vận tải thuỷ của Việt nam đã được Uỷ hội Sông Mê Công áp dụng
như một hệ thống báo luồng lạch cho giao thông thủy hạ lưu sông Mê Công.
Về Công nghiệp và làng nghề:
Tổng lượng nước sử dụng cho cơng nghiệp ước tính khoảng 3.760 triệu m3/năm,
với gần một nửa được sử dụng cho công nghiệp ở lưu vực sơng Hồng – Thái Bình.
25% cấp nước cơng nghiệp thuộc lưu vực sông Đồng Nai, 7% ở lưu vực SDNB và
10% ở lưu vực sông Cửu Long. Một lượng lớn nước dưới đất được sử dụng trong công
nghiệp. Vào năm 2015, lượng nước sử dụng trong công nghiệp sẽ tăng gấp đôi với dự
báo lượng tăng lớn nhất ở lưu vực sông Hồng, sông Đồng Nai, NLVSĐNB, Cửu Long,

và Thu Bồn & Vũ Gia. Khu vực NLVSĐNB có giá trị lãi suất kinh tế trong sử dụng
nước là 441.000 đồng/m3 và lưu vực sông Đồng Nai là 393.000 đồng/m3. Tuy nhiên,
giá trị trung bình tồn quốc là (13,3 Đơ la/m3) thấp hơn so với các nước khác.
Các ngành công nghiệp gây ô nhiễm nguồn nước nhiều nhất là ‘các cơ sở sản xuất
phân bón và nitơ, bột giấy, giấy và bìa các tơng và các hố chất cơ bản, ngồi các cơ sở

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K


Luận văn thạc sĩ

Trang 16

Ngành: Kinh tế TNTN&MT

sản xuất phân bón và nitơ. Mặc dù có 154 khu cơng nghiệp và các khu chế xuất, chỉ có
43 nhà máy xử lý nước thải tập trung. Khoảng một nửa số các doanh nghiệp ngồi
quốc doanh nằm ngồi các khu cơng nghiệp, có rất ít hoặc khơng có hệ thống xử lý
nước thải. Ước tính năm 2006 có 2.803 doanh nghiệp cơng nghiệp trên phạm vi toàn
quốc đã thải ra trên 155 triệu m3 nước thải/năm hay 850.000 m3/ngày. Lượng nước
thải này tương đương với 340 bể bơi Olympic chứa nước chưa được xử lý thải ra hàng
ngày.
Việc quản lý trực tiếp phần lớn các cơ sở trên là chính phủ. Khu vực quốc doanh
đóng góp xấp xỉ 40% GDP của Việt nam. Nhiều bộ liên quan vừa sở hữu vừa quản lý
các ngành công nghiệp gây ô nhiễm nhất nước. Trong giai đoạn 5 năm 2001-2005, giá trị
sản xuất công nghiệp tăng trung bình 15,7%/năm; tuy nhiên giá trị gia tăng chỉ là 10,3%.
Đổi mới công nghệ ở Việt nam diễn ra chậm chạp hơn nhiều các nước láng giềng.
Quyết định số 64/2003 của Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt kế hoạch xử lý

nghiêm các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Tuy nhiên, cuối giai đoạn 1
chỉ có 63% các điểm đen trên danh mục được xử lý. Nghị định 67/2003 sử dụng phí ơ
nhiễm nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường do nước thải nhằm mục đích sử dụng nước
sạch một cách tiết kiệm và tạo nguồn thu cho Quỹ bảo vệ Mơi trường. Tuy nhiên phí
này không được áp dụng đồng bộ và không phải tất cả các tỉnh thành đều tham gia.
Tương tự quá trình xây dựng mức phí khơng mang tính thực tiễn.
Sản xuất làng nghề thủ công đã chứng kiến sự phát triển ấn tượng, đặc biệt là ở lưu
vực sông Hồng – Thái Bình, nơi có 60% làng nghề trên cả nước. Các làng nghề được
xem như một biện pháp quan trọng để thúc đẩy kinh tế phát triển, nơi có 75% dân số
Việt nam sinh sống. Thu nhập trung bình đầu người ở các làng nghề cao gấp 5 lần ở
những làng làm nơng nghiệp. Số làng nghề ước tính trên 2.000 năm 2002, chiếm 2,5%
tổng số làng ở nông thôn, cung cấp trên 10 triệu việc làm và thu hút 29% lực lượng lao
động nơng thơn. Ước tính 40.500 doanh nghiệp đóng trên các làng nghề, khoảng 80%
là kinh doanh hộ gia đình với 1 đến 3 nhân cơng.
Làng nghề là nơi ẩn chứa các rủi ro sức khoẻ nghề nghiệp cao và gây ô nhiễm, đặc
biệt là ở các làng công nghiệp thủ công quy mô nhỏ nơi không có cơng nghệ kiểm sốt

Học viên: Bùi Xn Trường

Lớp 17K


Luận văn thạc sĩ

Trang 17

Ngành: Kinh tế TNTN&MT

ô nhiễm, không có bảo hộ lao động và khơng có xử lý nước thải. Hầu hết các hộ gia
đình trong làng sử dụng nhà và vườn làm nơi sản xuất và thải trực tiếp nước thải vào

môi trường xung quanh nơi ở hay vào sông và nguồn nước dưới đất xung quanh. Điều
này làm ảnh hưởng trực tiếp không chỉ nước mặt (trong kênh, hồ, ao, sông), mà cả
nước dưới đất, ảnh hưởng đến nguồn nước uống của làng. Ô nhiễm nguồn nước từ các
làng nghề là một vấn đề hết sức nghiêm trọng và ngày càng gia tăng.
Quản lý làng nghề gần đây được giao cho Bộ NN&PTNT, và hình thành một mục
tiêu trong CNVSNT thuộc CTMTQG II. Trong Bộ NN&PTNT có Cục Chế biến,
Thương mại Nơng lâm thủy sản và Nghề muối chịu trách nhiệm trực tiếp về các làng
nghề. Cục đang phối hợp với nhiều Bộ khác để xây dựng phương hướng, đặc biệt khi
nhiều làng nghề có mối liên quan với các hoạt động công nghiệp mà Bộ NN&PTNT
khơng có kinh nghiệm xử lý.
Về Thuỷ điện:
Ba lưu vực sông quan trọng nhất trong sản xuất thuỷ điện là lưu vực sơng HồngThái Bình, Đồng Nai, và sơng Sê San. Thuỷ điện ở lưu vực sơng Hồng-Thái Bình và
Đồng Nai sẽ chiếm 28% và 23% tương ứng công suất thuỷ điện của cả nước. Lưu vực
sông Sê San sẽ đóng góp khoảng 14% tổng cơn suất thuỷ điện. Các trạm thuỷ điện nhỏ
chiếm 11% tổng sản lượng. Lưu ý rằng thuỷ điện “nhỏ” không hẳn đã tác động nhỏ
đến song, nhiều hệ thống thuỷ điện nhỏ có quy mơ khá lớn.
Tổng công suất lắp của hệ thống điện trên toàn quốc dự kiến tới năm 2025 là
181.754 MW, bao gồm 18% từ thuỷ điện, 67% từ nhiệt điện (than) và 8% từ nhà máy
tuốc bin khí, 6% từ điện hạt nhân và 1% từ nhà máy chạy dầu diesel. Lượng điện tăng
chủ yếu là ở lưu vực sông Hồng-Thái Bình, nơi sản lượng điện dự kiến sẽ tăng gấp 4
lần. Khu vực NLVSĐNB sẽ đóng góp khoảng gần 16% tồn bộ cơng suất thuỷ điện
của cả nước trong tương lai, với nguồn nước được chuyển nước từ sông Đồng Nai.
Phát triển thủy điện nhỏ trên toàn quốc sẽ chiếm khoảng 15% tổng công suất. Dự kiến
đến năm 2025, tỉ lệ sử dụng tiềm năng thuỷ điện sẽ tăng lên 83%, một tỉ lệ rất cao. Việt
Nam có tiềm năng thủy điện tương đối ít, và tới năm 2025 Việt Nam sẽ là nước tận
dụng gần hết tiềm năng thủy điện của mình.
Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K



Luận văn thạc sĩ

Trang 18

Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Hợp tác quốc tế với các nước khác là rất quan trọng trong việc đáp ứng các dự báo
về nhu cầu năng lượng và việc phát triển thủy điện ở Lào, Cămpuchia và Trung Quốc
dự kiến sẽ đóng góp đáng kể vào nguồn điện ở Việt Nam. Việt Nam dự kiến nhập khẩu
khoảng 6.000 MW từ thủy điện vào năm 2025.
Bộ Công Thương chịu trách nhiệm về quản lý chung và phát triển ngành năng
lượng. Cơ quan điều phối điện của Việt Nam (ERAV) đã được thành lập trong Bộ
Công Thương với nhiệm vụ cấp phép hoạt động, điều tiết thị trường năng lượng, thiết
lập giá điện và thẩm định các Kế hoạch phát triển năng lượng tỉnh. Điện lực Việt Nam
(EVN) là một tập đồn nhà nước của Bộ Cơng thương có nhiệm vụ vận hành, chuyển
tải/phân phối và bán điện. EVN lập hầu hết các dự án năng lượng lớn, mặc dù khu vực
tư nhân vẫn có thể tham gia vào ngành này.
Sơ đồ tổng quan Ngành điện VI có mục tiêu thỏa mãn nhu cầu trong giai đoạn từ
2006 đến 2015. Chính quyền các tỉnh cũng lập quy hoạch phát triển các thủy điện quy
mô nhỏ. Những quy hoạch này được các UBND phê duyệt, sau khi ERAV đã thẩm
định, và nhà đầu tư sẽ tìm kiếm nhà thầu thiết kế, thi công và vận hành. Báo cáo về Các
vấn đề và lựa chọn của dự án đã thảo luận một số mâu thuẫn giữa các Tỉnh về các dự
án tiềm năng. Việc vận hành tất cả các nhà máy thủy điện hòa vào lưới điện quốc gia sẽ
dưới sự điều hành của một Ủy ban nằm trong EVN.
Về Tưới:
Vì tỉ trọng của ngành nơng nghiệp trong GDP tồn quốc sẽ giảm, ngành nông
nghiệp dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng ở mức khiêm tốn. Tưới là ngành sử dụng nước
lớn nhất – trên 66 tỉ m3/năm, chiếm trên 80% tổng lượng nước sử dụng dự tính. Lưu
vực sơng Cửu Long và Hồng – Thái Bình chiếm gần 70% lượng sử dụng đó. Lưu vực

sơng Cửu Long có lượng nước tưới sử dụng trên đầu người lớn nhất, trên 1.600
m3/người/năm. Hầu hết các lưu vực đều có lượng nước tưới nhỏ hơn
1.000 m3/người/năm. Lúa là cây trồng chủ yếu, chiếm 82% diện tích được tưới. Tốc
độ tăng trưởng tương đối nhanh trong vịng 14 năm qua là nhờ q trình thâm cạnh
tăng vụ - còn lại đầu tư vào các cơng trình tưới mới hay cải tạo các cơng trình cũ rất ít.

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K


Luận văn thạc sĩ

Trang 19

Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trên hầu hết các lưu vực sơng, đóng góp của nơng nghiệp vào GDP đã giảm từ 8090% xuống còn 30-50%, mặc dù đây vẫn là hoạt động kinh tế chủ đạo. Sự suy giảm
trong nơng nghiệp khơng có nghĩa là ngành nơng nghiệp đang bị thu hẹp. Lao động
trong ngành nông nghiệp vẫn chiếm 32% ở lưu vực sông Hương (cũng là lưu vực có tỉ
trọng GDP nơng nghiệp thấp nhưng tỉ lệ dùng nước cao), khá cao là lưu vực sông Bằng
Giang – Kỳ Cùng, tới 82%. Lợi nhuận ở lưu vực sông Gianh là 1.000 đồng/m3 nước
sử dụng trong khi ở lưu vực sông Sê San là 14.000 đồng/m3. Lưu vực sơng Thạch Hãn
và Đồng Nai có lợi nhuận cao hơn, trong khi các lưu vực sông Mã, Thu Bồn – Vũ Gia,
Cửu Long và sơng Ba có giá trị lợi nhuận tương đối thấp.
Hóa chất nơng nghiệp được sử dụng với tỉ lệ cao và trên diện tích đất rộng. Một
nghiên cứu về sử dụng hóa chất cho thấy hầu hết các loại thuốc trừ sâu đang sử dụng
đều có độc tính cao, mức độ phơi nhiễm đối với người rất cao, chi phí đắt nhưng hiệu
quả lại thập. Hầu hết nơng dân đều hiểu biết rất ít về việc sử dụng thuốc trừ sâu và
nhiều người đang phải gánh chịu các vấn đề về nhiễm độc thuốc trừ sâu.

Bộ NN&PTNT có trách nhiệm chính về quản lý tưới. Cục bảo vệ thực vật phê
duyệt việc sử dụng thuốc trừ sâu và thuốc trừ cỏ. Bộ NN&PTNT kiểm soát 12 tổng
cơng với 317 cơng ty. Hiện tại có 110 cơng ty quản lý và khai thác cơng trình thủy lợi,
với hơn 22.500 nhân viên. Ba trong số 110 công ty này chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ
NN&PTNT (công ty thủy nông Bắc Hưng Hải, Bắc Nam Hà, và Dầu Tiếng), các cơng
ty cịn lại trực thuộc tỉnh. Tỉ lệ cán bộ trên 100 hecta được tưới dao động trong khoảng
0,2 ở đồng bằng sông Cửu Long đến 10,5 ở đồng bằng sông Hồng. Đồng bằng sông
Hồng cũng có số cán bộ tưới tiêu cao nhất làm việc trong một công ty thủy nông,
nhưng dịch vụ tưới lại không được cung cấp đảm bảo. Số lượng nhân viên thấp nhất
trong một công ty thủy nông là 118 ở vùng Tây Nguyên. Các thực nghiệm về Quản lý
tưới có sự tham gia của cộng đồng (PIM) cho thấy PIM có thể giúp cải thiện đáng kể
hiệu quả quản lý tưới. Tuy nhiên, việc triển khai PIM vẫn còn rất chậm.
Cho mãi đến gần đây, các hộ nông dân vẫn phải trả thủy lợi phí để trang trải ít nhất
một phần chi phí vận hành và bảo dưỡng đi kèm với việc cung cấp dịch vụ tưới của
công ty thủy nông và Hội những người sử dụng nước. Mặc dù khoản phí này khơng đủ

Học viên: Bùi Xn Trường

Lớp 17K


Luận văn thạc sĩ

Trang 20

Ngành: Kinh tế TNTN&MT

để đáp ứng các yêu cầu về vận hành và bảo dưỡng, nhưng chúng vẫn là nguồn thu đáng
kể trong ngân sách của các cơng ty thủy nơng. Cho đến năm 2008, phí này bị bãi bỏ.
Về Nuôi trồng Thủy sản và nghề cá:

Ngành thủy sản ở Việt Nam đang trên đà phát triển, và được Chính phủ thúc đẩy
mạnh mẽ bởi nhằm giúp xóa đói giảm nghèo. Ngành cung cấp khoảng 1/2 lượng đạm
động vật cho bữa ăn của người dân. Dựa trên tổng doanh thu, ngành được xếp là ngành
xuất khẩu quan trọng thứ 3 của Việt Nam. Hơn 3 triệu người tham gia trực tiếp vào sản
xuất và gần 10% dân số kiếm sống từ nghề cá.
Nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng
trung bình là 12%/năm từ năm 1990, đóng góp hơn 40% cho tổng sản phẩm thủy sản.
Về sản xuất thủy sản, thủy sản nước ngọt vẫn chiếm ưu thế với 65-70%. Hộ gia đình
cũng chiếm ưu thế trong đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, năm 2001 nuôi trồng thủy sản
là nghề chính của 4,3% hộ gia đình và là nghề nghiệp chính của 5,1% lực lượng lao
động. Hầu hết ngư dân và những người tham gia sản xuất nuôi trồng thủy sản đều là
những người sản xuất nhỏ – 77% các hộ gia đình có ni trồng thủy sản trên diện tích
ao hồ dưới 0,1 ha và 7% trên diện tích ao hồ từ 0,1 ha đến 0,2 ha. Gần đây các hợp tác
xã nghề cá cũng được thành lập. Nguồn thu nhập lớn nhất từ đánh bắt và ni trồng
thủy sản có được từ đồng bằng sơng Cửu Long, nơi có từ 60% đến 70% hộ gia đình
tham gia vào một hình thức ni trồng thủy sản nào đó, thu hút hơn 600.000 lao động.
Ni tơm cũng thu hút hơn một nửa số lao động nuôi trồng thủy sản.
Giá trị sản xuất thủy sản trên các lưu vực khác nhau đáng kể - từ 15.300 VNĐ/m3
nước sử dụng ở lưu vực sơng Cơn, xuống cịn 3.800 VNĐ/m3 nước sử dụng ở đồng
bằng sông Cửu Long. Sông Trà Khúc có giá trị lợi nhuận cao nhất trên diện tích ni
trồng thủy sản, ở mức 198 triệu đồng/ha, và lưu vực sông Cửu Long 93 triệu đồng/ha.
Các yêu cầu về an toàn thực phẩm đang nổi lên như là các rào cản đối với sản phẩm thủy
sản trong nước tiếp cận thị trường quốc tế đã định hình lại đáng kể cơ cấu của ngành.
Trách nhiệm quản lý tất cả các hoạt động nghề cá thuộc về Bộ NN&PTNT. Bộ chịu
trách nhiệm quy định tổng sản lượng đánh bắt cho phép; các biện pháp bảo vệ có liên
quan đến môi trường biển; khoanh vùng, giám sát và nghiên cứu; và quản lý cấp giấy
Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K



Luận văn thạc sĩ

Trang 21

Ngành: Kinh tế TNTN&MT

phép đánh bắt. Với mục đích bảo vệ và phát triển các nguồn lợi thủy sản, chính phủ đã
khởi xướng một quỹ dành cho việc tăng cường nguồn lợi bao gồm “Quỹ Khôi phục
nguồn lợi thủy sản”. Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản quản lý môi trường tự
nhiên (thuộc các khu bảo tồn biển và đất liền). Cục Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh
và thú y thủy sản đã được thành lập nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn y tế của EU/US.
Trong khi có nhiều mối đe dọa liên quan đến nguồn nước phát sinh từ ngành thủy
sản, ngành chế biến cá và nuôi trồng thủy sản lại đang làm suy thối nguồn nước thơng
qua việc sử dụng nước và gây ô nhiễm nguồn nước.
Số lượng các doanh nghiệp kinh doanh thủy sản nhà nước (DNTSNN) giảm mạnh.
Hầu hết các tỉnh duyên hải đều có một hoặc nhiều doanh nghiệp thủy sản nhà nước hoạt
động. Các DNTSNN thường hoạt động kém hiệu quả và không mang lại lợi nhuận.
1.2. Tham khảo việc quản lý tài nguyên và môi trường ở một số nước trên thế giới
Trong những thập kỷ gần đây, các nhà kinh tế và các nhà quản lý bắt đầu tỏ ra lo
ngại về khả năng cạn kiệt của các tài nguyên không - tái tạo. Câu hỏi mà họ đặt ra là
các tài nguyên thiết yếu cho nền kinh tế, tức là các tài ngun mà nếu khơng có nó thì
sản lượng nào đó của nền kinh tế sẽ bằng khơng, có thể được thay thế bởi các nhân tố
sản xuất do con người tạo ra, cụ thể là vốn hay không?
Ý nghĩa của câu hỏi được đặt ra ở trên là, liệu có thể thay thế tài nguyên thiên nhiên
không - tái tạo bởi các tài nguyên tái tạo để duy trì phát triển kinh tế bền vững hay
khơng? Nói cách khác, giá trị của sự cạn kiệt của những tài nguyên không - tái tạo là
một cản trở lớn của phát triển kinh tế bền vững, cần được giải quyết trong nội dung của
kinh tế tài nguyên thiên nhiên.
Tại Nhật Bản:

Khác với Việt Nam, ngoài khung pháp lý rất đầy đủ về mơi trường, Nhật Bản có
hẳn một hệ thống tư pháp, thực thi luật môi trường được phân cấp rõ ràng từ quốc gia
đến địa phương. Theo đó, việc ban hành luật là do Nghị viện, Chính phủ hay Bộ Mơi
trường là cơ quan thi hành, cịn chính quyền địa phương, cảnh sát tỉnh chỉ làm nhiệm
vụ điều tra các hành vi vi phạm môi trường, mọi vi phạm liên quan đên mơi trường đều
do Tịa án xét xử.
Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K


Luận văn thạc sĩ

Trang 22

Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Từ năm 1970, 14 luật môi trường ở Nhật Bản đã được ban hành và sửa đổi, trong
đó, phải kể đến Luật Giải quyết tranh chấp môi trường (EDSL), đã bảo vệ quyền lợi
của cộng đồng, giảm thiểu gánh nặng cho nạn nhân mơi trường trong việc địi bồi
thường thiệt hại.
Từ đó, một hệ thống các tổ chức giải quyết tranh chấp môi trường ở Nhật Bản đã
được thành lập, đứng đầu là Ủy ban Điều phối tranh chấp môi trường (EDCC), rồi đến
các Ủy ban kiểm tra tình trạng ơ nhiễm cấp tỉnh (PPECs). Các Ủy ban này sẽ tiếp nhận
các vụ kiện mơi trường với các thủ tục như: hịa giải, trung gian hòa giải, phân xử, xét
xử trách nhiệm và xét xử nguyên nhân. Nhờ vậy, các tranh chấp môi trường đã được
giải quyết nhanh chóng, đơn giản hóa và chính xác, đảm bảo được quyền lợi của người
bị thiệt hại.
Tại Trung Quốc:
Từ năm 1978, nền kinh tế Trung Quốc đã trải qua những thay đổi to lớn. Từ năm

1978 đến năm 1993, tỉ lệ tăng trưởng trung bình của GNP là trên 9% năm. Bên cạnh sự
tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, nền kinh tế đã chuyển một bước quan trọng từ nền
kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế có xu hướng thị trường. Chính phủ kiểm sốt giá, hạn
ngạch hàng hoá được phân bổ theo kế hoạch, chia sẻ sản xuất của các doanh nghiệp
thuộc sở hữu nhà nước cũng như tầm quan trọng của đầu tư tài chính nhà nước đã hạ đi
một cách kịch tính. Nghiên cứu mới nhất của nền kinh tế Trung Quốc chỉ ra rằng thị
trường đang đóng một vai trị quan trọng trong việc ra quyết định trong kinh tế.
Mặc dù Trung Quốc đang nói với thế giới một câu chuyện về sự phát triển kinh tế
thành công, nhưng môi trường của Trung Quốc lại đang chỉ ra một bức tranh rất khác.
Sự suy thối mơi trường hiện nay đang lan tràn và nghiêm trọng hơn bao giờ hết. Theo
Uỷ ban mơi trường của Trung Quốc (NEPA,1994), ơ nhiễm khơng khí ở các thành phố
lớn và trung bình nghiêm trọng và tiếp tục xấu đi ở các thành phố nhỏ. Phần điều tra 94
con sông chạy dọc khu vực đô thị, 65% (69%) con sơng trong số đó, nước sơng bị ô
nhiễm. Chất lượng của nước ngầm trở nên xấu hơn và việc giảm sút đó gây ra do tình
trạng q ô nhiễm của nước ngầm xảy diễn ra ở 36 thành phố. Tỉ lệ che phủ của rừng
chỉ còn 12.98% (số liệu năm 1989), và cung cấp gỗ vẫn còn khó khăn. Diện tích đất xói
Học viên: Bùi Xn Trường

Lớp 17K


Luận văn thạc sĩ

Trang 23

Ngành: Kinh tế TNTN&MT

lở mở rộng ra lên tới 150 triệu ha, 15.6% tổng diện tích đất; một phần ba đất nông
nghiệp đối mặt với vấn đề sạt lở đất nghiêm trọng; và 6.67 triệu ha đất nông nghiệp bị
chuyển thành bãi thải nước công nghiệp và đô thị.

Để chiến đấu với các vấn đề môi trường, chính phủ Trung Quốc đã đưa ra một loạt
các chính sách mơi trường, các chương trình, các quy định trong lĩnh vực này. Phần lớn
các thiết lập và chính sách môi trường sử dụng đều bao gồm hệ thống đánh giá tác
động mơi trường, hệ thống phí thải ơ nhiễm công nghiệp, quỹ bảo vệ môi trường, các
giấy phép phát thải ô nhiễm (bây giờ đang triển khai thử ở một số khu vực đô thị) và
các đo lường quản lý môi trường khác. Năm 1994 Uỷ ban bảo vệ môi trường quốc gia
Trung Quốc đã phát động chương trình bảo vệ mơi trường 5 năm, với mục tiêu cho đến
cuối năm 1998 giảm ô nhiễm công nghiệp xuống bằng cách xử lý được 80% trong tổng
số nước thải cơng nghiệp và 88% khí thải cơng nghiệp.
Tuy nhiên vì thiếu các mơ hình định lượng nhất qn cho việc phân tích chính sách
mơi trường, tồn bộ hiệu quả của các chính sách mơi trường này và các chương trình
kiểm sốt ơ nhiễm nhiễm cũng như các hàm ý kinh tế vẫn chưa được biết. Cần thiết
cho các mơ hình để đánh giá các tác động kinh tế môi trường của những chính sách và
chương trình này. Vì vậy cho nên mơ hình CGE mơi trường được phát triển trong phần
3 được áp dụng ở Trung Quốc cho mục đích này.
Trung Quốc có 7 ngành sản xuất: nơng nghiệp, mỏ, công nghiệp nhẹ, năng lượng,
công nghiệp nặng, xây dựng và dịch vụ. Các nhân tố sản xuất bao gồm 2 nhân tố chính,
lao động và vốn và các đầu vào trung gian. Cung vốn và lao động tổng hợp được xác
định một cách ngoại sinh. Tỉ lệ lương trung bình cũng được cố định trong mơ hình
phản ánh tính cứng nhắc trong lương của Trung Quốc. Các biến ngoại sinh khác bao
gồm tỉ lệ trao đổi ngoại tệ, chi tiêu hàng hố của chính phủ, trợ cấp chính phủ và nợ.
Mơ hình xác định ba loại ơ nhiễm tổng qt: Nước thải, bụi khói lẫn sương, chất
thải rắn. Vì vậy, có ba ngành giảm thiểu ơ nhiễm tương ứng.
Mơ hình bao gồm tất cả có 289 bíên nội sinh. Các biến ngoại sinh hoặc các biến
kiểm sốt chính sách của mơ hình bao gồm rất nhiều loại khác nhau của tỉ lệ thuế, trợ

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K



Luận văn thạc sĩ

Trang 24

Ngành: Kinh tế TNTN&MT

cấp, chi tiêu chính phủ, vay mượn chính phủ, tỉ lệ lương trung bình và tỉ lệ trao đổi
ngoại tệ.
Các tham số ước lượng ở trên có các sai số khơng thể tránh khỏi hoặc chứa đựng
những điểm phi tất yếu. Hơn nữa các sai số và những điểm phi tất yếu này ảnh hưởng
đến kết quả mơ phỏng chính sách của mơ hình. Vì vậy nên phân tích độ nhạy cần được
sử dụng để kiểm tra tính thiết thực của các kết quả mô phỏng đối với sự thay đổi trong
cường độ ô nhiễm. Các kết quả phân tích độ nhạy cho biết các xu hướng của sự thay
đổi biến là ổn định cùng với sự thay đổi cường độ ô nhiễm đã kiểm tra.
Sử dụng mơ hình ở Trung Quốc, đã kiểm tra một vài lựa chọn chính sách mơi
trường. Chúng bao gồm việc tăng tỉ lệ thuế phát thải ô nhiễm dựa vào nước thải, trợ
cấp cho các hoạt động xử lý nước thải, đánh thuế rác thải và nước thải cống của các hộ
gia đình và tăng mua bán các dịch vụ xử lý nước thải của chính phủ. Để đánh giá các
tác động kinh tế của chương trình bảo vệ môi trường 5 năm của Trung Quốc, đánh giá
tác động là một trong số những mục tiêu chính của chương trình, tăng lượng nước thải
được xử lý lên đến 80% cũng được sử dụng.
Trung Quốc bắt đầu đưa vào một hệ thống đánh thuế ô nhiễm vào những năm cuối
1970. Cho đến năm 1990, Trung Quốc đã đưa ra phí thải dựa vào lượng phát thải của
khoảng 100 loại chất gây ô nhiễm ở 4 loại ô nhiễm là: Ơ nhiễm nước, ơ nhiễm khí ga,
chất thải rắn và tiếng ồn. Năm 1990 tổng thuế phát thải ô nhiễm thu được là 1.75 tỉ
Yuan và năm 1991 là 2.06 tỉ Yuan. Thuế phát thải ô nhiễm cung cấp một nguồn quan
trọng cho quỹ bảo vệ môi trường đặc biệt, tổ chức mà chủ yếu đầu tư vào các hoạt
động kiểm sốt ơ nhiễm cơng nghiệp. Mặc dù hệ thống đánh thuế ô nhiễm là đáng ca
ngợi như các phương pháp thành công của việc tăng thêm quỹ để kiểm sốt ơ nhiễm

nhưng nó cũng có điểm yếu. Một điểm yếu quan trọng là phí hiện nay quá thấp để cho
những người gây ơ nhiễm có động cơ giảm thấp lượng phát thải của họ. Cần tăng phí
xả thải đã được thảo luận nhiều năm. Một câu hỏi đặt ra bây giờ là phí này nên tăng lên
bao nhiêu và tác động của việc tăng này lên nền kinh tế và kiểm sốt ơ nhiễm sẽ là gì.
Với các tỉ lệ thuế phát thải ô nhiễm được kết hợp vào mơ hình CGE mơi trường, một ai
đó có thể sử dụng mơ hình để mơ phỏng hiểu quả của việc tăng phí phát thải ơ nhiễm.

Học viên: Bùi Xn Trường

Lớp 17K


Luận văn thạc sĩ

Trang 25

Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Phí phát thải ô nhiễm nước thải được lựa chọn cho các yêu cầu chính sách này. Tỉ lệ
thuế vào năm 1990 là 0.2 yuan một tấn. Giả định một cách tuỳ ý là chính phủ tăng tỉ lệ
thuế lên 25%, 50%,100%,150% và 200% thì sẽ có sự thay đổi trong các biến quan
trọng như tổng đầu vào, thu nhập, việc làm, tiết kiệm, mức giá, giảm thiểu ô nhiễm và
phát thải ô nhiễm.
Nói chung, khi tỉ lệ thuế tăng lên, các kết quả mô phỏng một cách định lượng chỉ ra
sự giảm ổn định trong sản xuất và sự tăng ổn định trong chỉ số giá. Hơn nữa, việc giảm
sản xuất gây ra tỉ lệ thất nghiệp tăng lên và mức độ tạo ra ô nhiễm giảm đi. Tổng sản
phẩm quốc nội thực (GDP) giảm xuống, tiếp theo là việc giảm trong mức độ sản xuất.
Các xu hướng quan sát được từ các mơ hình hố nhất qn với lý thuyết đánh thuế ô
nhiễm của kinh tế môi trường.
Các kết quả mô phỏng từ mơ hình cũng cung cấp những thay đổi thuộc ngành trong

sản xuất và tiêu dùng chi tiết hơn, cho phép có một cái nhìn gần hơn về những tác động
của việc tăng thuế ô nhiễm lên mỗi ngành riêng biệt.
Trừ ngành năng lượng, các sản phẩm ngành sản xuất giảm xuống khi tỉ lệ thuế phát
thải nước thải tăng. Chẳng hạn, khi tỉ lệ thuế tăng lên 50%,.. 0.3yuân/tấn. Sản phẩm của
ngành công nghiệp nặng giảm xuống 0.27% hoặc …Tác động tiêu cực lên sản xuất
thậm chí ảnh hưởng đến các ngành không gây ô nhiễm như nông nghiệp (giảm 1.78 tỉ
Yuan và 0.23%) và các ngành dịch vụ (giảm 1.2 tỉ Yuan và 0.16%).
Quan tâm đến tính hiệu quả của việc tăng tỉ lệ đánh thuế vào việc xử lý nước thải,
sự mô phỏng chỉ ra rằng kịch bản tăng tỉ lệ thuế lên 25% (từ 0.25 yuân/tấn năm 1990
lên 0.25) không đủ giảm phát thải ô nhiễm. Trong khi một cách tương ứng tỉ lệ thuế
tăng lên thì ngành cơng nghiệp đơn giản đứng ra và trả nhiều thuế hơn cho việc phát
thải nước ô nhiễm. Tổng thuế phát thải ô nhiễm từ 3 loại phát thải ô nhiễm tăng lên từ
1.2 tỉ yuan trong 1 năm lên 1.45 tỉ Yuan.
Khi tỉ lệ thuế tăng lên 0.3 yuan/tấn (tăng 50%), tỉ lệ làm sạch cho nước thải công
nghiệp tăng từ 37.7% (4.5 tỉ tấn nước thải đã được xử lý) trong một năm tăng lên
65.4% (7.8 tỉ tấn nước thải). Chú ý rằng một khối lượng nước thải giảm đáng kể khi
tăng 50% hoặc cao hơn nữa tỉ lệ thuế nước thải.

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K


×