Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Nhân tố ý thức hệ trong quan hệ việt nam – hoa kỳ kể từ khi bình thường hoá đến nay (the ideological factor in the vietnam – US relations since normalization) TT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.26 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NGOẠI GIAO

HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
------------------

NGUYỄN THỊ THANH XUÂN

NHÂN TỐ Ý THỨC HỆ TRONG QUAN HỆ
VIỆT NAM - HOA KỲ TỪ KHI BÌNH THƯỜNG HỐ
ĐẾN NAY

Chuyên ngành: Quan hệ Quốc tế
Mã số: 9310206

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ

Hà Nội - 2021


Cơng trình được hồn thành tại: Học viện Ngoại giao

Người hướng dẫn khoa học:
1. TS. Lê Đình Tĩnh
2. GS. TS. Nguyễn Thái Yên Hương

Phản biện 1: ..........................................................................................................

Phản biện 2: ..........................................................................................................


Phản biện 3: ..........................................................................................................

Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại Học viện Ngoại giao
vào hồi ngày tháng năm 2021

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
-

Thư viện Quốc gia

-

Thư viện Học viện Ngoại giao


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn Đề tài
Việt Nam – Hoa Kỳ là một cặp quan hệ đặc biệt trong quan hệ
quốc tế. Giống như bất kỳ mối quan hệ quốc tế nào, sự vận động và
phát triển của quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ chịu sự chi phối của nhiều
yếu tố khác nhau trong đó nhân tố ý thức hệ có vai trị quan trọng,
tính chất đặc thù và tính khả biến trong quan hệ quốc tế nói chung và
quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ nói riêng. Sự khác nhau giữa hai hệ tư
tưởng và hệ thống các giá trị tương ứng giữa Hoa Kỳ và Việt Nam
đã, đang và sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến chiều hướng của mối quan hệ.
Việc xem xét nhân tố này về mặt lý luận và thực tiễn, cũng như
nghiên cứu tác động của nó đến q trình bình thường hóa và phát

triển quan hệ hai nước là cần thiết cho việc tham mưu, hoạch định
các chính sách với Hoa Kỳ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các cơng trình nghiên cứu về Hoa Kỳ cả trong nước và ngoài
nước khá phong phú và đa dạng, song chủ yếu là nghiên cứu về chính
sách đối ngoại của Hoa Kỳ, quan hệ song phương Việt Nam – Hoa
Kỳ, một số nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với
Việt Nam, hoặc các lĩnh vực hợp tác… Rất ít nghiên cứu về nhân tố ý
thức hệ trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, chưa có một cơng trình
nghiên cứu mang tính tổng quát, có hệ thống về nhân tố này trong
quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ cả trong nước và nước ngồi.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Làm rõ sự vận động và chiều hướng tác động của nhân
tố ý thức hệ đến quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ kể từ khi bình thường hóa
đến hết nhiệm kỳ của Chính quyền Donald Trump (cuối năm 2020) và
dự báo xu hướng tác động của nhân tố này trong thời gian tới.
Nhiệm vụ: (i) Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề ý
thức hệ trong quan hệ quốc tế, trong so sánh với lợi ích quốc gia và
trong chính sách đối ngoại của Việt Nam và Hoa Kỳ; (ii) Nghiên cứu
tác động của nhân tố ý thức hệ đối với sự phát triển của quan hệ Việt
Nam – Hoa Kỳ, trong tương quan với các nhân tố tác động khác
trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ kể từ khi bình thường hóa đến nay
về hình thức, mức độ và trên các kênh quan hệ cụ thể; (iii) Đánh giá


2

mối liên hệ giữa ý thức hệ với một số vấn đề trong quan hệ Việt Nam
– Hoa Kỳ như hội chứng chiến tranh, vấn đề dân chủ, nhân quyền,
diễn biến hịa bình; (iv) Liên hệ đến quan hệ Hoa Kỳ – Trung Quốc

soi chiếu dưới góc nhìn của nhân tố ý thức hệ; (v) Đánh giá những
đặc điểm, chiều hướng vận động của quan hệ, từ đó dự báo về triển
vọng và khuyến nghị nhằm thúc đẩy quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ
trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng: nhân tố ý thức hệ trong quan hệ song phương Việt
Nam – Hoa Kỳ kể từ khi bình thường hố năm 1995.
Phạm vi: Về nội dung: Luận án giới hạn phạm vi nội dung
nghiên cứu về 01 nhân tố trong các nhân tố tác động đến quá trình
vận động và phát triển của quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ là nhân tố ý
thức hệ. Luận án tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn
(sự vận động, tác động) của nhân tố này trong q trình bình thường
hóa và phát triển quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, nhìn từ góc độ Việt
Nam. Về thời gian: Luận án giới hạn nghiên cứu nhân tố ý thức hệ
trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ khi bình thường hóa (năm
1995) đến hết nhiệm kỳ của Chính quyền Tổng thống Donald Trump
(năm 2020). Về không gian: Việt Nam, Hoa Kỳ và khu vực châu ÁThái Bình Dương, trong đó lưu ý đến đối chiếu với tam giác quan hệ
Việt Nam - Hoa Kỳ - Trung Quốc bởi là quốc gia láng giềng, với thể
chế chính trị và nền văn hố tương đồng, Trung Quốc không thể
được tách rời khi nghiên cứu về quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, đặc
biệt là dưới lăng kính ý thức hệ. Việt Nam nằm giữa vùng giao thoa
cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, sự đan xen giữa
sự ràng buộc về ý thức hệ và sự song trùng các lợi ích quốc gia giữa
Việt Nam và Trung Quốc, Việt Nam và Hoa Kỳ có tác động chi phối
lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Luận án kết hợp vận dụng các phương pháp nghiên cứu khoa
học xã hội và nghiên cứu quan hệ quốc tế như phương pháp lịch sử,
hệ thống, lơ-gíc, điều tra, thống kê và phân tích tài liệu, dự báo, điển
cứu, truy nguyên, phân tích chính sách. Luận án cũng lựa chọn 03

trường hợp nghiên cứu điển hình.


3

6. Đóng góp của Luận án:
Luận án góp phần làm sáng tỏ hơn những vấn đề lý luận và
thực tiễn về vấn đề ý thức hệ trong quan hệ song phương Việt Nam –
Hoa Kỳ, phân tích tác động của nhân tố này đến sự phát triển của
quan hệ song phương từ khi bình thường hóa đến nay, dự báo chiều
hướng tác động của nhân tố, từ đó đề xuất các giải pháp thúc đẩy
quan hệ trong thời gian tới. Luận án là cơng trình nghiên cứu có ý
nghĩa đối với công tác chuyên môn, nghiên cứu của cá nhân, và là tài
liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách hoặc
các cơ quan nghiên cứu liên quan ở Việt Nam.
7. Kết cấu của Luận án:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án được cấu trúc thành
3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về ý thức hệ trong quan
hệ quốc tế và trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ và Việt Nam.
Chương 1 giải đáp các vấn đề lý luận bao gồm lý luận về ý thức hệ
trong quan hệ quốc tế, trong đó làm rõ quan điểm về ý thức hệ của
các trường phái chính trong quan hệ quốc tế; vấn đề ý thức hệ trong
mối liên hệ với nhân tố lợi ích quốc gia. Từ việc làm rõ ý thức hệ
Việt Nam và ý thức hệ Hoa Kỳ, chương này cũng sẽ phân tích Việt
Nam và Hoa Kỳ trong chính sách đối ngoại của nước kia, đánh giá
dấu ấn của ý thức hệ và lợi ích quốc gia dân tộc trong chính sách đối
ngoại của mỗi nước.
Chương 2: Tác động của nhân tố ý thức hệ trong quan hệ Việt
Nam – Hoa Kỳ. Chương 2 nghiên cứu sự vận động và tác động của

nhân tố ý thức hệ trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, đặt trong tương
quan với các nhân tố khác tác động đến quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ
như lịch sử chiến tranh, lợi ích kinh tế-thương mại, địa chiến lược,
nhân tố Trung Quốc…; đồng thời đặt ý thức hệ trong mối liên hệ với
một số chủ đề nhạy cảm có liên quan trong quan hệ Việt Nam – Hoa
Kỳ như hội chứng chiến tranh, vấn đề dân chủ, nhân quyền và diễn
biến hịa bình.
Chương 3: Dự báo về nhân tố ý thức hệ trong quan hệ Việt
Nam – Hoa Kỳ và khuyến nghị. Chương 3 của luận án tái khẳng định
cơ sở lý luận và thực tiễn của các dự báo, liên hệ tới quan hệ giữa


4

Hoa Kỳ với Trung Quốc từ góc độ ý thức hệ, từ đó đưa ra các kịch
bản của quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ góc độ ý thức hệ theo mức
độ chi phối của ý thức hệ đối với mối quan hệ, và đề xuất các khuyến
nghị nhằm gia tăng mặt song trùng về lợi ích, giảm thiểu tác động
cản trở của nhân tố ý thức hệ đến sự phát triển của quan hệ Việt Nam
– Hoa Kỳ.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ Ý THỨC HỆ TRONG
QUAN HỆ QUỐC TẾ VÀ TRONG CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
CỦA HOA KỲ VÀ VIỆT NAM
1.1. Lý luận về ý thức hệ trong quan hệ quốc tế
1.1.1. Khái niệm
Ý thức hệ cần được hiểu là hệ thống các đức tin hay nguyên tắc,
đặc biệt là đức tin hay nguyên tắc mà một hệ thống chính trị, một
đảng phái chính trị, hay một tổ chức chính trị lấy làm nền tảng. Trong
thực tiễn, việc ứng dụng khái niệm cũng rất đa dạng, khơng phải mơ

hình rập khn. Sự khác biệt về ý thức hệ liên quan đến nội dung
luận án, cụ thể là giữa hai chủ thể Việt Nam và Hoa Kỳ, cần được
hiểu là sự khác biệt giữa ý thức hệ tư bản chủ nghĩa của Hoa Kỳ,
trong sự đối lập với ý thức hệ xã hội chủ nghĩa của Việt Nam.
1.1.2. Luận giải về nhân tố ý thức hệ trong các trường phái chính
trong quan hệ quốc tế
Thuyết hiện thực quan niệm trong một hệ thống quan hệ quốc tế
vơ chính phủ, đảm bảo an ninh quốc gia là nhu cầu thường trực, nâng
cao quyền lực nhằm tự bảo đảm an ninh và sự tồn tại của mình là
mục tiêu của các quốc gia, dẫn tới tình trạng thường trực của quan hệ
quốc tế là mâu thuẫn, xung đột và đối đầu. Các nước phải bằng nỗ
lực của chính mình để bảo đảm lợi ích của mình, lợi ích quốc gia là
tiêu chí cho mọi hành động quốc gia, là yếu tố bất định duy nhất của
chính sách. Thuyết hiện thực cũng đề cao vai trò của các nước lớn,
theo đó mục tiêu, định hướng chính sách của các nước lớn ảnh hưởng
đến quan hệ giữa các nước, thay đổi cấu trúc của quan hệ quốc tế và
quyết định trật tự quốc tế.


5

Thuyết tự do cho rằng những lợi ích quốc gia quan trọng nhất là
hồ bình (chính trị) và thịnh vượng (kinh tế). Theo đó, các quốc gia có
sự gắn bó mật thiết về kinh tế thì có xu hướng gắn bó về chính trị, dù
có sự khác biệt về thể chế chính trị. Những người dựa trên chủ nghĩa tự
do kinh tế coi phát triển kinh tế thị trường là phương cách quan trọng
để thúc đẩy hợp tác. Chủ nghĩa tự do mới nhấn mạnh sự phụ thuộc lẫn
nhau giữa các quốc gia và thúc đẩy tồn cầu hố. Một nhánh của chủ
nghia tự do – thuyết hồ bình dân chủ - đề cao vai trò của dân chủ như
cách thức quan trọng duy trì hồ bình, thúc đẩy hợp tác và đảm bảo an

ninh trong quan hệ quốc tế. Thuyết tự do cũng đề cao vai trò của thể
chế quốc tế trong việc quản lý xung đột, duy tri hồ bình, thúc đẩy
hợp tác và hội nhập. Chủ nghĩa tự do là cơ sở của tư duy bá quyền, cho
rằng mơ hình và các giá trị của ý thức hệ tư bản chủ nghĩa của mình cần
được phổ biến trên phạm vi thế giới, thực hiện các cuộc "cách mạng
màu" trên thế giới của Hoa Kỳ.
Thuyết kiến tạo cho rằng ý thức hệ là một phần của bản sắc, một
phần của giá trị mà một quốc gia theo đuổi; và lợi ích quốc gia cũng
phần nào được xác định bởi bản sắc. Hịa bình, hợp tác khơng chỉ hạn
chế giữa các nước có cùng chế độ chính trị mà cịn có thể mở rộng giữa
các nước thuộc các chế độ chính trị khác nhau, nếu giữa các nước đó có
thể hình thành bản sắc chung và có lợi ích trong mối quan hệ đó. Hợp
tác có xu hướng lâu dài và bền chặt hơn nếu quan hệ giữa các nước được
xây dựng trên một bản sắc chung.
Luận điểm chính của Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh liên quan đến ý thức hệ là đấu tranh giai cấp, chủ thể chính trong
quan hệ quốc tế là giai cấp và quan hệ quốc tế là đấu tranh giai cấp; đấu
tranh giữa các quốc gia mà quốc gia là đại diện của giai cấp, do vậy đây
là đấu tranh giữa ý thức hệ. Tư tưởng Hồ Chí Minh khẳng định đường
lối đối ngoại và hoạt động ngoại giao phải đặt lợi ích quốc gia, dân tộc
lên trên hết và phải dựa trên thực lực thực sự. Phát huy bản sắc văn hố
dân tộc, tính chất thời đại và cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam,
Tư tưởng Hồ Chí Minh đề cao chính nghĩa, đạo lý và nhân nghĩa
trong quan hệ quốc tế, thúc đẩy quan hệ hợp tác, hữu nghị vì những
song trùng lợi ích, dù cùng hay khác ý thức hệ; đồng thời chú trọng
kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, không ngừng củng


6


cố sức mạnh đoàn kết dân tộc bên trong, tranh thủ sự đồng tình, ủng
hộ, hợp tác quốc tế rộng rãi nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược cách
mạng từng thời kỳ.
1.1.3. Ý thức hệ trong tương quan với lợi ích quốc gia
Ý thức hệ và lợi ích quốc gia đều là các nhân tố tác động đến
quá trình hoạch định chính sách của một quốc gia. Ý thức hệ hay chế
độ chính trị là nhân tố cơ bản chi phối chính sách đối ngoại của một
quốc gia. Lợi ích quốc gia dân tộc được coi là “hòn đá tảng” trong
hoạch định chính sách đối ngoại. Nếu các quốc gia có ý thức hệ khác
nhau, thì đó là sự khác biệt sẵn có và khơng thay đổi, cịn lợi ích quốc
gia là các biến số có thể thay đổi và ở một thời điểm nào đó, các quốc
gia có sự khác biệt về ý thức hệ song có thể có sự song trùng về lợi
ích quốc gia, và đó là cơ sở để các quốc gia thúc đẩy quan hệ.
1.2. Vấn đề ý thức hệ trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ và
Việt Nam
1.2.1. Ý thức hệ Việt Nam và Hoa Kỳ
Ý thức hệ của Việt Nam là ý thức hệ xã hội chủ nghĩa dựa trên
nền tảng của hệ thống tư tưởng triết học-kinh tế-chính trị chủ nghĩa
xã hội khoa học của chủ nghĩa Mác, theo đuổi mục tiêu nhằm hòa
hợp một trật tự xã hội và kinh tế công bằng xã hội. Ý thức hệ tư bản
chủ nghĩa của Hoa Kỳ coi trọng hệ các giá trị gồm dân chủ, bình
đẳng, tự do, chủ nghĩa cá nhân, coi trọng thực dụng-lao động-cạnh
tranh, kinh tế hỗn hợp tư bản chủ nghĩa. Về thể chế chính trị, Hoa Kỳ
theo thể chế chính trị của chủ nghĩa dân tộc tư sản Hoa Kỳ, quyền lực
tập trung trong tay các tập đồn tư bản lớn. Hệ thống chính trị Hoa
Kỳ mang tính đa nguyên với việc thay nhau cầm quyền của hai đảng
Cộng hịa và Dân chủ. Trong khi đó, Việt Nam xây dựng thể chế
chính trị xã hội chủ nghĩa. Tồn bộ hệ thống chính trị của Việt Nam
đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Từ hai hệ ý thức dẫn đến hai hệ giá trị khác nhau, từ

đó hai nước có mục tiêu chiến lược đối kháng nhau: trong khi mục
tiêu chiến lược của Việt Nam là xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã
hội, thì mục tiêu chiến lược của Hoa Kỳ là chuyển hố các nước cịn
khác biệt về thể chế chính trị với Hoa Kỳ vào quỹ đạo của Hoa Kỳ, đi
theo hệ giá trị của Hoa Kỳ nói riêng và của hệ giá trị, hệ tư tưởng tư
bản chủ nghĩa nói chung.


7

1.2.2. Ý thức hệ và lợi ích quốc gia trong chính sách đối ngoại của
Hoa Kỳ và Việt Nam
Chiến tranh Lạnh kết thúc, thời kỳ phân tuyến và đối đầu giữa hai
hệ thống tư bản chủ nghĩa và hệ thống xã hội chủ nghĩa khơng cịn tồn
tại. Các quốc gia, kể cả các quốc gia vốn đặt nặng vấn đề ý thức hệ
cũng đều xem lợi ích quốc gia là nền tảng cơ bản cho hoạch định chính
sách đối ngoại. Với Hoa Kỳ, từ thời lập quốc, Hoa Kỳ đã tuyên bố mục
tiêu quan trọng nhất là bảo vệ quyền lợi cho người dân Hoa Kỳ,
ngun tắc vì lợi ích quốc gia là xuyên suốt và bất biến trong lịch sử
đối ngoại Hoa Kỳ, với những mục tiêu xuyên suốt và khơng thay đổi
trong chính sách của Hoa Kỳ kể từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay là
(i) củng cố thực lực và duy trì vai trị lãnh đạo và vị trí siêu cường
duy nhất trên thế giới của Hoa Kỳ, (ii) duy trì trật tự quốc tế có lợi
cho Hoa Kỳ hoặc thiết lập một trật tự thế giới mới do Hoa Kỳ lãnh
đạo mà ở đó hệ tư tưởng, các giá trị của Hoa Kỳ được phổ biến; (iii)
thúc đẩy sự thịnh vượng của Hoa Kỳ. Chính quyền của mỗi Tổng
thống ở Hoa Kỳ đều có những chính sách đối ngoại riêng phù hợp
với từng mục tiêu và thời kỳ phát triển của Hoa Kỳ, song đều nhằm
duy trì và củng cố các mục tiêu xuyên suốt trên.
Với Việt Nam, kể từ khi bắt đầu công cuộc Đổi mới, Đại hội Toàn

quốc lần thứ VI (12/1986) mở ra bước ngoặt trong tư duy trên lĩnh vực
đối ngoại, trong đó có việc xác định lại “lợi ích quốc gia-dân tộc” trong
thời kỳ mới, đặt lợi ích cao nhất là củng cố và giữ vững hịa bình để tập
trung xây dựng và phát triển kinh tế. Các kỳ đại hội sau đó cũng có
những bước chuyển về tư duy, song tiếp tục khẳng định vị trí của lợi
ích quốc gia-dân tộc trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, với nội
hàm gồm (i) các lợi ích sống cịn (an ninh): mơi trường hịa bình, ổn
định; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc;
bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; an ninh
quốc gia, an ninh con người và ổn định chính trị-xã hội; và (ii) các lợi
ích phát triển: phát triển kinh tế và nâng cao đời sống nhân dân; năng
lực tự chủ, cạnh tranh và sức mạnh tổng hợp của quốc gia; mở rộng
không gian phát triển và xác lập vị trí thuận lợi trong phân cơng lao
động quốc tế; nâng cao vị thế và uy tín quốc tế; bảo tồn và phát huy
bản sắc dân tộc. Về cơ bản, chính sách đối ngoại của Việt Nam dựa


8

trên nền tảng lợi ích quốc gia-dân tộc. Trên nền tảng đó, vai trị và dấu
ấn của vấn đề ý thức hệ có mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào tính chất
của quan hệ với từng quốc gia và tuỳ tình hình cụ thể.
1.3. Việt Nam và Hoa Kỳ trong chính sách đối ngoại của mỗi
nước
1.3.1. Việt Nam trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ
Trước bình thường hố, quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ là cuộc
chiến tranh tàn khốc mà hậu quả của nó đến tận ngày nay vẫn còn rõ
rệt, là cuộc chiến trong nỗ lực của chính phủ Hoa Kỳ nhằm ngăn chặn
sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản tại Đông Nam Á. Trong những năm
1977-1978, mục tiêu đầu tiên của phía Hoa Kỳ khi thể hiện mong muốn

cải thiện quan hệ với Việt Nam là giải quyết vấn đề POW/MIA cũng
như phần nào giải quyết vấn đề "hội chứng chiến tranh" - những vấn đề
"nóng" nhất trong nội bộ Hoa Kỳ khi đó, đồng thời cải thiện quan hệ
với VIệt Nam, Hoa Kỳ cũng muốn trấn an và giữ vành đai an toàn cho
các nước đồng mình của Hoa Kỳ ở khu vực Đơng Nam Á.
Sau bình thường hố, chính sách Việt Nam của Hoa Kỳ có sự
chuyển biến vì nhu cầu nội bộ của Hoa Kỳ và tranh thủ hợp tác với
Việt Nam trong vấn đề POW/MIA. Chính quyền Bush chủ trương
tiếp tục cải thiện quan hệ với Việt Nam để hợp tác trong vấn đề
POW/MIA, tìm kiếm cơ hội hợp tác kinh tế và bước đầu tranh thủ vai
trò của Việt Nam trong ASEAN. Chính quyền Obama coi trọng vị trí
địa chiến lược của Việt Nam, chủ trương thúc đẩy quan hệ tồn diện
với Việt Nam trong tổng thể chính sách Tái cân bằng ở khu vực.
Chính quyền Trump tiếp tục duy trì sự đồng thuận lưỡng đảng trong
việc tiếp tục đưa quan hệ tồn diện đi vào chiều sâu, lơi kéo Việt
Nam vào tập hợp lực lượng để cạnh tranh với Trung Quốc.
1.3.2. Hoa Kỳ trong chính sách đối ngoại của Việt Nam
Tại Đại hội VI (1986), Việt Nam đã có một bước ngoặt thay đổi
về tư duy, chủ trương chuyển từ đối đầu sang đối thoại, từ tư duy thời
chiến, tập hợp lực lượng chủ yếu dựa trên ý thức hệ chuyển sang
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ quốc tế; không coi Hoa Kỳ là kẻ thù lâu dài và chủ trương
từng bước phá thế bao vây cấm vận của Hoa Kỳ, tiến tới bình thường
hóa quan hệ với Hoa Kỳ”. Đại hội VII (1991) xác định phải thúc đẩy


9

q trình bình thường hố quan hệ với Hoa Kỳ.
Từ khi bình thường hố đến nay, chính sách Hoa Kỳ của Việt Nam

tiếp tục có sự thay đổi. Quan hệ với các nước lớn như Hoa Kỳ, Trung
Quốc, Nga được phát triển dựa trên lợi ích quốc gia-dân tộc. Nghị quyết
TW 8 khoá IX (2003) đưa ra quan niệm mới về đối tác, đối tượng, và
Hoa Kỳ cũng được nhìn nhận vừa có mặt hợp tác cùng có lợi, vừa là thế
lực âm mưu chống phá sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa của Việt
Nam. Từ khi hai nước thiết lập quan hệ Đối tác Tồn diện, Việt Nam
ln khẳng định Hoa Kỳ là một trong những đối tác quan trọng nhất của
mình, hoan nghênh vai trị gia tăng của Hoa Kỳ ở Đơng Nam Á để đóng
góp vào hịa bình, an ninh ở khu vực.
Tiểu kết
Ý thức hệ cần được hiểu là hệ thống các đức tin hay nguyên tắc,
đặc biệt là đức tin hay nguyên tắc mà một hệ thống chính trị, một
đảng phái chính trị, hay một tổ chức chính trị lấy làm nền tảng. Trong
thực tiễn, việc ứng dụng khái niệm cũng rất đa dạng, khơng phải mơ
hình rập khn. Sự khác biệt về ý thức hệ liên quan đến nội dung
luận án, cụ thể là giữa hai chủ thể Việt Nam và Hoa Kỳ, cần được
hiểu là sự khác biệt giữa ý thức hệ TBCN của Hoa Kỳ, trong sự đối
lập với ý thức hệ XHCN của Việt Nam.
Các trường phái chính trong quan hệ quốc tế (hiện thực, tự do,
kiến tạo) và chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có những
luận điểm khác nhau ý thức hệ và lợi ích quốc gia. Với ý thức hệ xã
hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, Việt Nam và Hoa Kỳ có hệ giá trị,
mục tiêu chiến lược đối kháng nhau, song trước và sau khi bình
thường hố, hai nước đều có những thay đổi về chính sách đối ngoại
đối với nước kia, từ bình thường hố quan hệ, thúc đẩy các mặt hợp
tác và thúc đẩy quan hệ đối tác tồn diện, vì những song trùng về lợi
ích cũng như tính tốn của mỗi bên.
Trước bình thường hố, mối liên hệ đầu tiên giữa Việt Nam và
Hoa Kỳ là cuộc chiến giữa hai hệ tư tưởng, trong nỗ lực của chính
phủ Hoa Kỳ nhằm ngăn chặn sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản tại

Đơng Nam Á. Sau bình thường hố, trên cơ sở ban đầu là nhu cầu
hợp tác kinh tế và POW/MIA, hợp tác song phương dần được thúc


10

đẩy sang các lĩnh vực khác. Hai nước nhìn về nhau với lăng kính lợi
ích, bao gồm các lợi ích kinh tế và chiến lược. Sự khác biệt về ý thức
hệ khơng cịn là rào cản lớn đến q trình phát triển của quan hệ.
Chương 2
TÁC ĐỘNG CỦA NHÂN TỐ Ý THỨC HỆ ĐẾN QUAN HỆ
VIỆT NAM – HOA KỲ
2.1. Các yếu tố chính chi phối quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ
2.1.1. Hợp tác kinh tế-thương mại
Hợp tác kinh tế-thương mại là nhân tố quan trọng khiến cho lực
cản của nhân tố ý thức hệ ngày càng giảm xuống khi lợi ích về kinh
tế, thương mại ngày càng gia tăng. Hoa Kỳ có lợi ích kinh tế-thương
mại với một Việt Nam đang tăng tốc phát triển, một trong những thị
trường mới nổi năng động nhất ở Đông Nam Á, và qua Việt Nam kết
nối với các nước trong khu vực. Việt Nam cũng cần thị trường Hoa
Kỳ rộng lớn và tiềm năng, tranh thủ nguồn lực, tri thức, công nghệ để
phát triển đất nước.
2.1.2. Các vấn đề địa chiến lược
Việt Nam có vị trí địa - chiến lược quan trọng trong khu vực,
đồng thời có vai trị quan trọng trong cạnh tranh giữa các chiến lược
khu vực do Hoa Kỳ (Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương) và
Trung Quốc (Sáng kiến Vành đai-Con đường) dẫn dắt. Việt Nam
cũng có vai trò quan trọng trong ASEAN – một thể chế mà Hoa Kỳ
muốn tăng cường quan hệ và hợp tác ngoài các đồng minh chiến lược
và các đối tác quan trọng tại khu vực.

2.1.3. Yếu tố Trung Quốc
Sự phát triển của Trung Quốc thời gian qua đã đe doạ vị thế bá
quyền của Hoa Kỳ. Mặc dù có sự phụ thuộc lớn về kinh tế-thương
mại và cần đến nhau trong xử lý các vấn đề khu vực và quốc tế, cạnh
tranh giữa Hoa Kỳ-Trung Quốc ngày càng gia tăng tới mức đối đầu
chiến lược. Việt Nam nổi lên là một quốc gia nằm trong “giao thoa”
trong các chiến lược của Hoa Kỳ và Trung Quốc ở khu vực, đồng
thời nằm trong ý đồ lôi kéo, tập hợp lực lượng của hai nước, đặt ra
những yêu cầu đối với Việt Nam để cân bằng và không rơi vào thế
kẹt trong quan hệ với Hoa Kỳ và Trung Quốc.


11

2.1.4. Các vấn đề khu vực
Với vai trò quan trọng về mặt chiến lược và thương mại, cả Hoa
Kỳ, Việt Nam và Trung Quốc đều có lợi ích cốt lõi ở Biển Đông.
Tham vọng độc chiếm Biển Đông cũng như thái độ leo thang và q
trình qn sự hóa mạnh mẽ của Trung Quốc ở Biển Đông trong
những năm gần đây đã dẫn đến sự hội tụ các lợi ích an ninh giữa Việt
Nam và Hoa Kỳ và sự cải thiện trong hợp tác quân sự giữa hai nước
vượt qua sự khác biệt về ý thức hệ. Vấn đề hòa bình trên bán đảo
Triều Tiên từ lâu vẫn là một "hồ sơ khó" đối với Hoa Kỳ ở khu vực.
Với nền tảng quan hệ hữu nghị truyền thống và các mối liên hệ về ý
thức hệ với CHDCND Triều Tiên, Hoa Kỳ trơng đợi Việt Nam có thể
có đóng góp cho giải quyết vấn đề hạt nhân Tiều Tiên; CHDCND
Triều Tiên có thể áp dụng kinh nghiệm về cải cách, mở cửa của Việt
Nam. Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ có thể là một ví dụ tốt cho việc
cải thiện quan hệ giữa Triều Tiên và Hoa Kỳ.
2.2. Tác động của nhân tố ý thức hệ trong mỗi giai đoạn phát

triển của quan hệ song phương
Tìm kiếm quân nhân mất tích sau chiến tranh và thúc đẩy hợp tác
kinh tế là sự song trùng lợi ích đầu tiên mà dựa theo đó Hoa Kỳ từng
bước nới lỏng dần cấm vận và hai bên tiến tới bình thường hố quan
hệ, vượt qua những khó khăn do lịch sử chiến tranh và sự khác biệt về
ý thức hệ, trên tinh thần “vượt qua khác biệt trong quá khứ, cùng nhau
tiến về phía trước, hướng tới tương lai”, “thực thi các nỗ lực để thúc
đẩy quan hệ thương mại song phương”. Trong giai đoạn bình thường
hố (1995-1998), nhân tố ý thức hệ vẫn rõ nét, tác động lực cản vẫn rất
lớn. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, cả Hoa Kỷ và Việt Nam đã có sự
thay đổi về tư duy đối ngoại và nhìn nhận về những lợi ích trước mắt
trong việc bình thường hố quan hệ với nhau là POW/MIA, từ đó dẫn
đến những kỳ vọng về lợi ích trong những lĩnh vực khác.
Giai đoạn 1998-2013, Việt Nam có hai bước chuyển lớn về đối
ngoại, tác động mạnh tới quan hệ với Hoa Kỳ: đặt mục tiêu chiến lược
trở thànht hành viên của WTO và có bước chuyển chiến lược trong tư
duy đối ngoại, quan điểm về “đối tượng” và “đối tác”. Xuất phát từ tư
duy nhận thức về nhau, nhìn thấy ở nhau những cơ hội, lợi ích nhiều
hơn, hợp tác kinh tế song phương có những bước phát triển nhảy vọt,


12

điển hình là việc ký kết BTA, quá trình đàm phán WTO và việc Hoa
Kỳ thông qua PNTR cho Việt Nam. Quan hệ quốc phòng được đẩy
mạnh. Sự tụ hợp của nhiều lợi ích song trùng giữa Việt Nam và Hoa
Kỳ dẫn đến nhu cầu nâng cấp khuôn khổ quan hệ lên Đối tác Toàn
diện. Tác động của nhân tố ý thức hệ trong giai đoạn này biểu hiện
mờ nhạt do nhu cầu hợp tác trên hầu hết các lĩnh vực.
Giai đoanj 2013 – nay chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của

quan hệ trong khn khổ Đối tác Tồn diện chính thức được thiết lập
nhân chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ của Chủ tịch nước Trương Tấn
Sang (7/2013) với bản Tuyên bố chung chủ trương thúc đẩy mạnh mẽ
hợp tác song phương trong 9 lĩnh vực then chốt. Quan hệ hai nước
đạt được tiến triển trên nhiều lĩnh vực, cả song phương và đa phương.
Sự quan tâm và hiểu biết lẫn nhau được gia tăng trên cơ sở tôn trọng
tồn vẹn lãnh thổ, chế độ chính trị và con đường phát triển của nhau,
vì lợi ích của hai nước, đóng góp cho hịa bình, ổn định, hợp tác và
phát triển của khu vực. Hai nước cũng hợp tác hiệu quả trên các diễn
đàn đa phương và phối hợp khắc phục hậu quả chiến tranh. Mặc dù
còn khác biệt trong vấn đề dân chủ, nhân quyền và tôn giáo, hai nước
đã xây dựng nền tảng và niềm tin chính trị, đưa quan hệ đối tác tồn
diện phát triển tích cực, ngày càng đi vào chiều sâu và thực chất.
Trong giai đoạn này, điểm nhấn đặc biệt là chuyến thăm Hoa Kỳ của
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (7/2015) như là một sự kiện vừa đặc
biệt, vừa có ý nghĩa lịch sử không chỉ trong quan hệ song phương mà
trong đời sống chính trị quốc tế.
Từ 2016 đến nay, với nền tảng và những kết quả đã đạt được
trong thời gian qua, quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ đang trên đà phát
triển tích cực, đạt nhiều tiến triển mới thực chất trên nhiều lĩnh vực,
cả song phương và đa phương. Sự quan tâm và hiểu biết lẫn nhau
được gia tăng trên cơ sở tơn trọng tồn vẹn lãnh thổ, chế độ chính trị
và con đường phát triển của nhau, vì lợi ích của mỗi nước, đồng thời
đóng góp cho hịa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực.
Kể từ khi bình thường hố, đây là giai đoạn mà bóng dáng của nhân
tố ý thức hệ là mờ nhạt nhất, lực cản của nhân tố ý thức hệ là thấp
nhất. Nhân tố ý thức hệ cịn được nhìn nhận như một nhân tố có tác
động thúc đẩy quan hệ ở chỗ, khi sự trùng hợp về lợi ích gia tăng, thì



13

việc làm sâu sắc thêm mối quan hệ càng cho thấy tinh thần “vượt qua
khác biệt”, càng củng cố niềm tin chiến lược giữa hai nước. “Minh
chứng” rõ nhất cho điều này là ý tưởng, sự hình thành với những
bước đi ban đầu tích cực của quan hệ kênh đảng Việt Nam – Hoa Kỳ
và chuyến thăm Hoa Kỳ của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng - người
đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng là người đứng đầu hệ
thống chính trị của Việt Nam.
2.3. Biểu hiện của tác động của nhân tố ý thức hệ tới quan hệ
Việt Nam – Hoa Kỳ
2.3.1. Qua việc phân tích các văn bản cấp cao
Các văn bản cấp cao giữa hai nước trong 25 năm qua khẳng định
hai nước “chia sẻ nhiều lợi ích quan trọng”, “việc củng cố lòng tin
giữa hai bên có ý nghĩa then chốt trong việc xây dựng tình hữu nghị
và hợp tác bền vững, lành mạnh và lâu dài”, chủ trương thúc đẩy
quan hệ “trên cơ sở tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc và luật
pháp quốc tế; độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và hệ thống
chính trị của mỗi nước”. Điểm chung giữa các văn bản là đề cập đến
rất nhiều nội dung toàn diện trong quan hệ song phương, khái niệm
hay từ “ý thức hệ” hầu như không được đề cập trực tiếp trong các văn
bản này, nếu có đề cập thì cũng được thể hiện theo chiều hướng rất
tích cực như “tơn trọng thể chế chính trị của nhau”.
2.3.2. Qua việc khảo sát 3 trường hợp điển hình
Việc khảo sát và phân tích 3 tường hợp điển hình, từ quá trình
đàm phán về việc Việt Nam gia nhập WTO, Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng thăm Hoa Kỳ (7/2015) và quan hệ kênh đảng Việt Nam –
Hoa Kỳ cho thấy tác động cản trở của nhân tố ý thức hệ đã giảm dần
qua thời gian.
(i) Quá trình đàm phán song phương về việc Việt Nam gia nhập

WTO: Q trình gặp nhiều khó khăn do những khác biệt về ý thức hệ
gồm quy định về trao đổi thương mại với các quốc gia cộng sản theo
Tu chính án Jackson-Vanik, sức ép về dân chủ, nhân quyền và tơn
giáo từ phía Hoa Kỳ, việc Việt Nam bị xếp vào nhóm các nước có
nền kinh tế phi thị trường…. Phân tích q trình đàm phán cho thấy
tác động cản trở của nhân tố ý thức hệ ở giai đoạn này là khá lớn.


14

(ii) Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm chính thức Hoa Kỳ
(tháng 7/2015): Chuyến thăm là một minh chứng rõ rệt cho việc hai
nước đã đặt những song trùng về lợi ích lên trên sự khác biệt về ý
thức hệ để thúc đẩy quan hệ. Vượt qua những rào cản về ý thức hệ,
chuyến thăm đã thể hiện sự công nhận của Hoa Kỳ, với Việt Nam và
với quốc tế, về tính chính danh của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
trong hệ thống chính trị của Việt Nam cũng như thừa nhận vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
(iii) Quan hệ kênh đảng giữa Việt Nam và Hoa Kỳ: Việc hai nước
cam kết thúc đẩy quan hệ kênh đảng trong Tuyên bố chung 2013 và
một số cam kết cấp cao sau đó, cùng với thực tiễn triển khai quan hệ
giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hồ,
thơng qua tương tác giữa Ban Đối ngoại Trung ương với Viện Dân chủ
Quốc gia và Viện Cộng hoà Quốc tế cũng là một trường hợp nghiên
cứu điển hình minh chứng cho lập luận trên. Theo đó, quan hệ kênh
đảng đóng vai trị là nền tảng chính trị, củng cố sự đồng thuận lưỡng
đảng, góp phần thúc đẩy tổng thể quan hệ song phương.
2.3.3. Qua việc xem xét một số khía cạnh liên quan
2.3.3.1. Dân chủ, nhân quyền
Qua 25 năm kể từ khi bình thường hóa, dân chủ, nhân quyền

được coi là vấn đề “vướng mắc” chính trong quan hệ hai nước, là chủ
đề hai bên còn nhiều khác biệt. Kể cả khi hai nước đã thiết lập quan
hệ Đối tác Toàn diện, quan hệ song phương phát triển trên tất cả các
lĩnh vực, thì Hoa Kỳ vấn tiếp tục gây sức ép đối với Việt Nam. trong
nhiều trường hợp lấy dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo là “cái
cớ” để “mặc cả” với Việt Nam nhằm đạt được các thỏa thuận có lợi
cho Hoa Kỳ. Hai bên tiếp tục duy trì đối thoại thẳng thắn nhằm thu
hẹp các khác biệt trong vấn đề này thông qua cơ chế Đối thoại về
nhân quyền. Vấn đề nhân quyền đã và sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến
đường hướng trong mối quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, có thể kéo hai
quốc gia lại gần nhau, cũng có thể tạo ra xung đột. Qua phân tích
trên, có thể thấy rằng và những vướng mắc trong vấn đề dân chủ,
nhân quyền giữa Việt Nam và Hoa Kỳ xuất phát từ tổng hoà của các
yếu tố: sự khác biệt trong nhận thức về nhân quyền của mỗi nước,
mức độ phát triển của mỗi quốc gia; sự khác biệt về ý thức hệ giữa


15

hai hệ thống tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa đi cùng với các hệ
giá trị khác nhau.
2.3.3.2. Hội chứng Việt Nam (Vietnam Syndrome)
Thuật ngữ “hội chứng Việt Nam” mô tả những chấn động tâm lý
của người Mỹ cũng như những tranh cãi nội bộ của chính giới Hoa
Kỳ liên quan đến chính sách can thiệp vào cuộc chiến tranh ở Việt
Nam. Ngoài các vấn đề về tâm lý, sự bất mãn, thất vọng, mặc cảm....
ở cấp độ lớn hơn, hội chứng Việt Nam tại Hoa Kỳ còn là sự chia rẽ
trong nội bộ Hoa Kỳ, mâu thuẫn sâu sắc của giới cầm quyền, nhất là
trong hoạch định chính sách đối ngoại. Về phía Việt Nam, Hội chứng
Hoa Kỳ coi Hoa Kỳ là kẻ thù cũ ở mức độ nào đó vẫn tồn tại, thường

khiến cho các vấn đề liên quan đến quan hệ với Hoa Kỳ trở nên nhạy
cảm hơn, hoặc khiến cho việc đạt đồng thuận trong nội bộ Việt Nam
khó khăn hơn.
2.3.3.3. Diễn biến hồ bình
Từ những năm 1950 của thế kỷ trước, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã nhận định: Các nước Xã hội chủ nghĩa đã đề cập đến âm mưu
“Diễn biến hịa bình” của chủ nghĩa đế quốc và coi đấu tranh chống
“Diễn biến hịa bình” là một nội dung quan trọng của cuộc đấu tranh
tư tưởng trong các nước xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ những khác
biệt về ý thức hệ và hệ thống giá trị của hai bên, diễn biến hồ bình
sẽ là chiến lược mang tính lâu dài của Hoa Kỳ trong quan hệ với Việt
Nam, song sẽ không vượt qua giới hạn lợi ích chiến lược của Hoa Kỳ
ở khu vực bởi Việt Nam không phải là mối đe doạ an ninh trực tiếp
của Hoa Kỳ.
Tiểu kết
Trong quan hệ song phương Việt Nam - Hoa Kỳ, tồn tại nhiều
nhân tố tác động tới chiều hướng phát triển của quan hệ lịch sử chiến
tranh giữa hai nước. Sự chấm dứt của Chiến tranh Lạnh đã tạo ra
khuôn khổ mới cho quan hệ quốc tế song phương và đa phương,
trong đó có quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ.
Tìm kiếm quân nhân mất tích sau chiến tranh và thúc đẩy hợp
tác kinh tế là sự song trùng lợi ích đầu tiên mà dựa theo đó Hoa Kỳ
từng bước nới lỏng dần cấm vận và hai bên tiến tới bình thường hoá


16

quan hệ. Trong giai đoạn mới bình thường hố, nhân tố ý thức hệ vẫn
rõ nét, tác động lực cản vẫn rất lớn. Càng về sau, khi sự song trùng
về lợi ích giữa hai nước ngày càng gia tăng, quan hệ ngày càng phát

triển thì tác động cản trở của nhân tố ý thức hệ ngày càng giảm đi.
Việc phân tích các văn bản cấp cao và khảo sát 3 trường hợp điển
hình cho thấy chiều hướng tác động cản trở của nhân tố ý thức hệ
giảm dần qua thời gian, góp phần chứng minh giả thuyết về tầm mức
quan trọng của nhân tố ý thức hệ, đó là: ý thức hệ là một nhân tố
quan trọng nhưng không mang tính quyết định và chi phối các quyết
định hai nước triển khai trong quan hệ với nhau.
Mặc dù vậy, sự khác biệt về ý thức hệ vẫn là một sự khác biệt cố
hữu, dẫn tới sự thiếu hụt lòng tin và những nghi kỵ nhất định về khái
niệm “diễn biến hồ bình”. Việc hai nước sẵn sàng “vượt qua khác
biệt” về ý thức hệ, “phát huy tương đồng” về lợi ích để thúc đẩy quan
hệ “hướng tới tương lai” tuỳ thuộc vào “giá trị” của mỗi nước trong
chiến lược của nước kia, tuỳ thuộc vào quan hệ quốc tế và sự đan xen
lợi ích của mỗi nước với các nước khác.
Chương 3
NHẬN ĐỊNH, DỰ BÁO VÀ KHUYẾN NGHỊ
3.1. Cơ sở của dự báo
3.1.1. Đánh giá quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ thời gian qua và sự
song trùng lợi ích ích
25 năm sau bình thường hố, hai nước đã trở thành đối tác
toàn diện với hợp tác song phương được mở rộng một cách vững
chắc trong các lĩnh vực, kể cả những lĩnh vực được coi là nhạy cảm
như an ninh, quốc phịng, tình báo, quan hệ đảng. Q trình bình
thường hố và phát triển của quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ có nền
tảng là sự song trùng về lợi ích của cả hai phía. Hai nước cùng coi
trọng lẫn nhau trong chính sách đối ngoại của mỗi nước, chia sẻ
nhiều điểm tương đồng về lợi ích và tính đến một cách thoả đáng các
lợi ích, ưu tiên của nhau, thực hiện các nguyên tắc tôn trọng độc lập,
chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ và thể chế chính trị của nhau, tiếp tục
đối thoại một cách xây dựng, tích cực và thiện chí với những vấn đề

cịn thiện chí. Niềm tin chiến lược giữa hai nước được gia tăng, các


17

giới hạn trong quan hệ dần bị đẩy xa, dư địa và không gian để gia
tăng hợp tác giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trên các lĩnh vực còn nhiều.
Nhân tố ý thức hệ sẽ tiếp tục có tác động đến quan hệ Việt Nam –
Hoa Kỳ song không ảnh hưởng đến dịng chính của quan hệ, lực cản
trở của nó tiếp tục giảm do sự song trùng về các lợi ích giữa hai bên
gia tăng. Hoa Kỳ có thể tiếp tục sử dụng ý thức hệ như một công cụ
để tập hợp lực lượng và cạnh tranh chiến lược với Trung Quốc song
khả năng sẽ không để ảnh hưởng đến cục diện quan hệ Việt Nam –
Hoa Kỳ.
3.1.2. Xu hướng quốc tế và khu vực
Phân tích các xu hướng quốc tế và khu vực cũng cho thấy nhân
tố ý thức hệ trong quan hệ quốc tế khơng cịn là “mục tiêu” để phân
tuyến giữa hai phe chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản như dưới
thời chiến tranh lạnh. Tồn cầu hố diễn ra mạnh mẽ trong nhiều thập
kỷ qua đã dẫn dến một thực trạng là các nước đều đan xen, ràng buộc
với nhau về lợi ích. Nhân tố ý thức hệ có thể trở thành cơng cụ để tập
hợp lực lượng, song nếu lợi ích quốc gia-dân tộc lớn hơn, các quốc
gia có khả năng gia tăng mặt song trùng lợi ích mà tạm “xem nhẹ”
nhân tố ý thức hệ.
3.1.3. Đánh giá lợi ích của mỗi nước trong quan hệ với nước kia
trong thời gian tới
Xuất phát từ việc phân tích các nhân tố chi phối quan hệ Việt
Nam – Hoa Kỳ, có thể thấy rằng trong thời gian tới, Hoa Kỳ tiếp tục
có các lợi ích kinh tế, thương mại, đầu tư ngày càng lớn ở Việt Nam.
Việc mở rộng quan hệ thương mại với Việt Nam bao hàm cả yếu tố

chính trị và lợi ích chiến lược, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh
chiến lược Hoa Kỳ-Trung Quốc. Việc thúc đẩy quan hệ với Việt Nam
nằm trong chiến lược tổng thể tập hợp lực lượng ở khu vực. Hoa Kỳ
cũng cần tranh thủ hợp tác với Việt Nam để thúc đẩy quan hệ với
ASEAN và tìm kiếm khả năng giải quyết các vấn đề khu vực như hồ
sơ Bắc Triều Tiên. Việt Nam cũng tiếp tục có các lợi ích trong thúc
đẩy quan hệ với Hoa Kỳ. Trước hết bởi đây vẫn là thị trường xuất
khẩu quan trọng, nguồn công nghệ cao, quản lý tiên tiến, khoa học kỹ
thuật cần thiết cho sự nghiệp cơng nghiệp hố-hiện đại hố của Việt
Nam. Quan hệ tốt với Hoa Kỳ còn giúp Việt Nam tạo xung lực đòn


18

bẩy trong quan hệ với các đối tác khác, tạo nên sự đan xen lợi ích
giữa các nước, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế, giữ trạng thái cân bằng quan hệ với các nước lớn, góp phần
đảm bảo an ninh, chủ quyền.
3.1.4. Soi chiếu vào trường hợp quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc
Soi chiếu vào trường hợp quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc, có thể
thấy nhân tố ý thức hệ tác động khá mờ nhạt kể từ khi hai nước bình
thường hố quan hệ năm 1972 đến năm 2018. Hai nước thậm chí cịn
có quan hệ kênh Đảng với 11 phiên liên tiếp từ năm 2010 đến nay. Tuy
nhiên, kể từ giữa năm 2019, khi cạnh tranh giữa Hoa Kỳ và Trung
Quốc gia tăng và mở rộng trên nhiều lĩnh vực, từ kinh tế-thương mại,
công nghệ, đến địa chiến lược, y tế, uy tín quốc tế, các vấn đề Hồng
Công, Đài Loan…, đặc biệt trong bối cảnh đại dịch Covid-19 xuất hiện
và lan rộng trên phạm phi tồn cầu thì nhân tố ý thức hệ lại trở nên rõ
nét. Hoa Kỳ chỉ trích Đảng Cộng sản Trung Quốc và chủ nghĩa xã hội
một cách trực diện, lấy đó làm “cơng cụ” để kiềm chế Trung Quốc,

phân tuyến, tập hợp lực lượng chống Trung Quốc.
3.2. Dự báo
3.2.1. Chiều hướng chính sách của Hoa Kỳ đối với Việt Nam và
quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ thời gian tới
Với những bước tiến trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ sau 25
năm bình thường hố, với những cam kết của Lãnh đạo chính quyền
Tổng thống Joe Biden, có thể thấy chủ trương quan hệ với Việt Nam
khả năng tiếp tục được duy trì. Hai nước tiếp tục coi trọng lẫn nhau
trong chính sách đối ngoại của mỗi nước và mong muốn đưa quan hệ
đi vào chiều sâu, thực chất. Quan hệ song phương về tổng thể vẫn giữ
được đà quan hệ từ chính quyền Barack Obama, Donald Trump do hai
nước vẫn có những giá trị chung, có sự song trùng về lợi ích kinh tế,
thương mại và an ninh, chiến lược. Tuy nhiên, dù Hoa Kỳ không trực
tiếp đe dọa chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, nhưng Hoa
Kỳ sẽ không từ bỏ âm mưu xóa bỏ CNXH ở Việt Nam, tiếp tục sử
dụng các chiêu bài dân chủ, nhân quyền, tôn giáo để can thiệp vào
công việc nội bộ của Việt Nam
3.2.2. Các kịch bản của quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ góc độ ý
thức hệ


19

Từ những phân tích trên có thể dự báo chiều hướng tác động của
nhân tố ý thức hệ tới sự phát triển của quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ
theo ba kịch bản: (i) ý thức hệ chi phối hoàn toàn quan hệ Việt Nam
– Hoa Kỳ, tác động tiêu cực có chiều hướng gia tăng; (ii) ý thức hệ
khơng quan trọng, không tác động đến sự phát triển của quan hệ Việt
Nam – Hoa Kỳ; (iii) ý thức hệ có tác động nhưng tác động cản trở
tiếp tục giảm và khơng chi phối dịng chính phát triển của quan hệ

Việt Nam – Hoa Kỳ. Kịch bản thứ ba là kịch bản có khả năng xảy ra
lớn nhất. Theo đó, sự khác biệt ý thức hệ giữa hai nước vẫn tồn tại,
bởi chừng nào cịn hai hệ thống chính trị tư bản chủ nghĩa và xã hội
chủ nghĩa thì sự khác biệt ý thức hệ không thể mất đi, nhưng không
phải là nhân tố chi phối, quyết định chiều hướng hay mức độ phát
triển của quan hệ, tác động cản trở tỉ lệ nghịch với gia tăng song
trùng lợi ích.
3.3. Khuyến nghị nhằm thúc đẩy quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ
trong thời gian tới
3.3.1. Thúc đẩy sự song trùng lợi ích quốc gia giữa Việt Nam và
Hoa Kỳ
3.3.1.1. Về chủ trương chung
Với những dự báo về chiều hướng chính sách của Hoa Kỳ đối
với Việt Nam, kịch bản của quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ và chiều
hướng tác động của nhân tố ý thức hệ trong thời gian tới, Việt Nam
cần xác định mục tiêu và lợi ích cơ bản trong quan hệ với Hoa Kỳ, đó
là tiếp tục xây dựng và làm sâu sắc hơn quan hệ Đối tác Toàn diện,
nâng cao giá trị chiến lược của quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ; khai
thác hiệu quả các cơ hội hợp tác với Hoa Kỳ về kinh tế-thương mại,
đầu tư, an ninh-quốc phịng, khoa học-cơng nghệ, giáo dục-đào tạo
để phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, củng cố
quốc phòng, năng lực hải quân… hướng đến mục tiêu gia tăng sức
mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ
với các quốc gia khác và trong quan hệ quốc tế nói chung.
Về tổng thể, cần giữ vững đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hịa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan
hệ đối ngoại, cân bằng quan hệ nước lớn; chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế; vận dụng đúng đắn quan điểm về “hợp tác – đấu



20

tranh”, “đối tác – đối tượng”; kiên trì với mục tiêu, nguyên tắc
nhưng trong sách lược lại sinh hoạt, mềm dẻo và khéo léo, theo
đúng phương châm “dĩ bất biết, ứng vạn biến”.
3.4.1.2. Thúc đẩy quan hệ song phương trên các lĩnh vực cụ thể
Về chính trị- ngoại giao, cần tăng cường trao đổi đoàn các cấp; mở
rộng, tăng cường các cơ chế đối thoại hiện có; cân nhắc về khả năng và
thời điểm nâng cấp quan hệ, căn cứ vào nội hàm quan hệ và lợi ích quốc
gia trước mắt và lâu dài của Việt Nam; xác định “đòn bẩy” trong quan
hệ là hợp tác kinh tế và quốc phòng; đồng thời tiếp tục thúc đẩy quan hệ
kênh đảng với Đảng Dân chủ và Cộng hoà của Hoa Kỳ.
Về kinh tế - thương mại, cần thúc đẩy hợp tác hướng tới cán cân
thương mại; xem xét tiếp tục mở cửa hàng hố với thị trường Hoa
Kỳ; tạo mơi trường thuận lợi cho đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam,
đặc biệt trong các lĩnh vực Hoa Kỳ có thế mạnh và Việt Nam có nhu
cầu; cân nhắc đàm phán FTA với Hoa Kỳ; đảm bảo mục tiêu phát
triển bền vững khi tiếp nhận chuỗi cung ứng từ Trung Quốc trong bối
cảnh cạnh tranh Hoa Kỳ-Trung Quốc gia tăng.
Về an ninh-quốc phòng, cần xác định những lĩnh vực cụ thể để
có thể nhận và sử dụng hiệu quả các khoản trợ giúp an ninh của Hoa
Kỳ dành cho Việt Nam trong khuôn khổ IPS; tiếp tục đàm phán việc
tiếp nhận trở lại công dân Việt Nam bị Hoa Kỳ trục xuất; thúc đẩy
hợp tác giải quyết hậu quả chiến tranh; cân nhắc khả năng tham gia
hợp tác ở cấp độ đa phương trong những lĩnh vực Việt Nam có nhu
cầu; đồng thời xử lý linh hoạt vấn đề dân chủ-nhân quyền.
Trong các cơ chế đa phương, Việt Nam cần coi trọng vai trị của
ngoại giao đa phương; tích cực, chủ động trong hợp tác khuôn khổ
ASEAN, thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược ASEAN-Hoa Kỳ.
3.3.2. Gia tăng vị thế và lợi thế của Việt Nam trong tam giác quan

hệ Trung Quốc – Hoa Kỳ - Việt Nam
Trong tam giác quan hệ Trung Quốc – Hoa Kỳ - Việt Nam, cần
giữ thế cân bằng linh hoạt trong quan hệ với Hoa Kỳ và Trung Quốc,
khai thác hiệu quả thế mạnh trong quan hệ với từng nước trên cơ sở
tính tốn lợi ích của mỗi nước trong quan hệ với Việt Nam, tránh
không để bị rơi vào thế “kẹt” chiến lược hay phải “chọn bên” giữa
Hoa Kỳ và Trung Quốc. Để làm được điều đó, cân nhắc một số biện


21

pháp cụ thể bao gồm: kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hồ bình, hợp tác và phát triển, đa dạng hố, đa phương hố, chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế; tăng cường sự ổn định của hệ
thống chính trị và thống nhất quốc gia, khơng ngừng phát triển sức
mạnh tổng hợp quốc gia; làm sâu sắc thêm quan hệ với các đối tác
chiến lược và các đối tác toàn diện khác; phát huy hiệu quả và tích
cực vai trị trong các cơ chế đa phương và khu vực, thúc đẩy ngoại
giao đa phương, ngoại giao văn hoá, ngoại giao kinh tế, phát huy sức
mạnh mềm trong quan hệ quốc tế.
3.3.3. Tiếp tục giảm thiểu hướng tới xoá bỏ tác động cản trở của
nhân tố ý thức hệ trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ
Để gia tăng tác động thuận và giảm thiểu tác động nghịch của nhân
tố ý thức hệ trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, cần chú trọng gia tăng
sức mạnh tổng hợp quốc gia; phát huy tối đa mặt thuận lợi, tận dụng tối
ưu những cơ hội, giảm thiểu những khó khăn, đẩy lùi những nguy cơ có
thể đến trong quan hệ với một cường quốc như Hoa Kỳ. Nỗ lực tìm cách
để “gác lại quá khứ, vượt qua khác biệt”, không để nhân tố ý thức hệ tác
động cản trở sự phát triển của quan hệ với Hoa Kỳ, thúc đẩy quan hệ
song phương dựa trên những song trùng về lợi ích và sự chia sẻ các giá

trị chung về một trật tự thế giới dựa trên luật lệ. Để gia tăng niềm tin, hai
nước cần gia tăng hợp tác trên các lĩnh vực trụ cột trong khuôn khổ Đối
tác Tồn diện như kinh tế-thương mại, khoa học-cơng nghệ, an ninhquốc phịng; tăng cường hợp tác trên khn khổ đa phương khu vực và
quốc tế; đồng thời tích cực phối hợp xử lý hậu quả chiến tranh.
Tiểu kết
Hiện nay và trong thời gian tới, Hoa Kỳ và Việt Nam tiếp tục có
những lợi ích song trùng về kinh tế, thương mại, an ninh, chiến lược…
Khả năng Hoa Kỳ vẫn tiếp tục chính sách coi trọng và muốn thúc đẩy
quan hệ với Việt Nam. Quan hệ song phương về tổng thể vẫn giữ được
đà quan hệ từ chính quyền Barack Obama và Donald Trump. Soi chiếu
vào trường hợp quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc để thấy nhân tố ý thức hệ
đang trở lại rõ nét, đang được Hoa Kỳ sử dụng làm công cụ để kiềm chế,
phân tuyến, tập hợp lực lượng chống Trung Quốc.
Nhân tố ý thức hệ tiếp tục có tác động nhưng khơng phi phối
quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ. Sự khác biệt ý thức hệ giữa hai nước


22

vẫn tồn tại, nhưng chỉ có vai trị và mức độ tác động vừa phải, không
phải là nhân tố chi phối, quyết định chiều hướng hay mức độ phát
triển của quan hệ.
Mục tiêu và lợi ích cơ bản trong quan hệ với Hoa Kỳ là tiếp tục
xây dựng và làm sâu sắc hơn quan hệ Đối tác Toàn diện, nâng cao giá
trị chiến lược của quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ; khai thác hiệu quả
các cơ hội hợp tác với Hoa Kỳ, hướng đến mục tiêu gia tăng sức
mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ
với các quốc gia khác và trong quan hệ quốc tế nói chung. Cần kiên
trì đường lối đối ngoại hiện nay; vận dụng đúng đắn quan điểm về
“hợp tác – đấu tranh”, “đối tác – đối tượng”; kiên trì với mục tiêu,

nguyên tắc nhưng trong sách lược lại linh hoạt, mềm dẻo và khéo léo;
đồng thời thúc đẩy quan hệ trên các lĩnh vực. Trong tam giác quan hệ
Trung Quốc – Hoa Kỳ - Việt Nam, cần giữ thế cân bằng linh hoạt
trong quan hệ với Hoa Kỳ và Trung Quốc, khai thác hiệu quả thế
mạnh trong quan hệ với từng nước trên cơ sở tính tốn lợi ích của
mỗi nước trong quan hệ với Việt Nam, tránh khơng để bị rơi vào thế
khó giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Để gia tăng tác động thuận và giảm
thiểu tác động nghịch của nhân tố ý thức hệ trong quan hệ Việt Nam
– Hoa Kỳ, cần chú trọng gia tăng sức mạnh quốc gia tổng hợp; gia
tăng niềm tin chính trị trong quan hệ với Hoa Kỳ và ln ln đặt lợi
ích quốc gia lên trên hết.
KẾT LUẬN
Với mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, luận án đi đến các kết luận sau:
Nhân tố ý thức hệ là một nhân tố quan trọng trong quan hệ Việt
Nam – Hoa Kỳ, có tác động song khơng cản trở dịng chảy chính của
mối quan hệ; các yếu tố lợi ích quốc gia và sự song trùng về lợi ích
mới là yếu tố quyết định. Lực cản trở của nhân tố ý thức hệ với quan
hệ song phương có xu hướng giảm dần qua 25 năm bình thường hố.
Sự gia tăng về lợi ích và hợp tác dẫn đến tác động cản trở giảm dần
của nhân tố ý thức hệ đối với sự phát triển của quan hệ Việt Nam –
Hoa Kỳ trong suốt quá trình 25 năm qua, từ khi bình thường hố
quan hệ năm 1995 đến nay.


23

Trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, yếu tố ý thức hệ thể hiện
dấu ấn rõ nét trên một số vấn đề như dân chủ, nhân quyền, tôn giáo;
bởi sự khác biệt về ý thức hệ khiến cho việc đạt được “tiếng nói
chung” trong vấn đề này khó khăn hơn; nhân tố ý thức hệ cùng

những hệ giá trị và mục tiêu khác biệt cũng khiến cho hai bên thiếu
sự tin cậy nhất định, dẫn đến những khái niệm về “diễn biến hồ
bình” vẫn cịn tồn tại trong quan hệ song phương.
Nhìn bề ngồi, nhân tố ý thức hệ tưởng như luôn là rào cản trong
quan hệ song phương Việt Nam – Hoa Kỳ. Nhưng nếu xem xét kỹ thì
trong những giai đoạn cụ thể, trong những bối cảnh cụ thể, ý thức hệ
lại không gây cản trở, mà thậm chí cịn góp phần thúc đẩy quan hệ,
bởi khi đã vượt lên trên sự khác biệt về ý thức hệ, các vấn đề khác
trong quan hệ song phương dễ dàng được giải quyết hơn, và theo đó
niềm tin chiến lược giữa hai nước được củng cố.
Cùng tên gọi “ý thức hệ” song tính chất/giá trị ý thức hệ trong
quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ thay đổi theo thời gian. Trước và khi bắt
đầu bình thường hố, quan hệ hai nước bị chi phối bởi cuộc đấu tranh
ý thức hệ trên phạm vi toàn cầu. Nhân tố ý thức hệ bao trùm nhiều khía
cạnh khác nhau của quan hệ, khó có thể tách biệt các nhân tố. Khi đó
nhân tố ý thức hệ là yếu tố cản trở khiến hai bên khó tìm được tiếng
nói chung. Càng về sau, trong quá trình vận động và phát triển của
quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, quan hệ càng phát triển thì yếu tố ý thức
hệ càng có xu hướng được “khu trú”, độc lập với các yếu tố khác.
Song trùng lợi ích là cơ sở để quan hệ song phương Việt Nam –
Hoa Kỳ tiếp tục phát triển. Bất kỳ sự thay đổi nào cũng sẽ dựa trên
những thực tiễn vừa qua. Các nhà hoạch định chính sách của hai nước
cũng sẽ phải dựa vào nền tảng đã có của quan hệ hai nước để đưa ra các
chính sách đối với quan hệ. Do đó, để phát triển một mối quan hệ Đối
tác Toàn diện đi vào chiều sâu, thực chất, giảm thiểu tác động nghịch
của nhân tố ý thức hệ, cần chú trọng gia tăng sức mạnh quốc gia tổng
hợp; gia tăng niềm tin chính trị trong quan hệ với Hoa Kỳ và ln ln
đặt lợi ích quốc gia lên trên hết; thúc đẩy các giá trị chung và các điểm
song trùng về lợi ích.
Nhân tố ý thức hệ đặt ra “mức trần” cho quan hệ song phương

Việt Nam – Hoa Kỳ. Cho dù quan hệ có thể được nâng cấp về mặt


×