Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh
----------------------
trịnh thị bÝch
khuynh híng nhËn thøc l¹i
trong tiĨu thut ViƯt Nam
thêi kú đổi mới
Chuyên ngành: lí luận văn học
MÃ số: 60.22.32
Luận văn thạc sĩ ngữ văn
Ngời hớng dẫn khoa học: pGs.ts. nguyễn đăng điệp
Vinh - 2010
2
Lời Cảm ơn
Để hoàn thành bản luận văn này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới
PGS.TS. Nguyễn Đăng Điệp - ngời đà tận tình giúp đỡ, hớng dẫn tôi kể từ khi
nhận đề tài cho đến khi luận văn đợc hoàn thành.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong khoa Ngữ văn
và khoa Đào tạo Sau đại học Trờng Đại học Vinh đà tận tình giúp đỡ tôi
trong quá trình học tập.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với các bạn bè, gia
đình và những ngời thân thiết đà luôn động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện tốt nhất
cho tôi trong quá trình học tập.
Vinh, tháng 12 năm 2010
Tác giả
Trịnh Thị Bích
MC LC
Trang
Bộ giáo dục và đào tạo..........................................................................................1
Trờng đại học vinh ...............................................................................................1
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong văn học, quy luật kế thừa và sáng tạo là quy luật phát triển tất
yếu có tính chất sống cịn. Khi hồn cảnh xã hội thay đổi, các nhà văn, nhà
thơ cần phải nhìn nhận, đánh giá lại tất cả các vấn đề, trong đó có cả những
vấn đề văn học thời kỳ trước cho rằng đã giải quyết xong. Đứng ở góc độ thời
gian hiện tại để đánh giá các vấn đề văn học của thời kỳ trước, nhà văn, nhà
thơ có “Độ lùi thời gian” để nhìn nhận và u cầu nhận thức lại đặt ra. Nhận
thức lại các vấn đề, có thể kế thừa hoặc phủ định, hoặc có thể bằng cả kế thừa
và phủ định là con đường phát triển tất yếu của văn học và sẽ mang lại những
giá trị mới cho các tác phẩm văn học.
1.2. Sau đại thắng mùa xuân 1975, đất nước bước vào thời kỳ hồ bình,
xây dựng đất nước, con người cũng trở về với những quy luật đời thường của
cuộc sống. Bắt đầu từ đây có sự xáo trộn, đổi thay với toàn dân tộc, hiện thực
cuộc sống sau chiến tranh khác với trong chiến tranh. Văn học với chức năng
“Phản ánh hiện thực” địi hỏi cần phải có sự thay đổi cả về nội dung và hình
thức. Năm 1986, đại hội toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI diễn
ra, đánh dấu thời kỳ đổi mới và đánh dấu sự chuyển mình của văn học Việt
Nam tại đại hội này, Đảng đã xác định đường lối đổi mới tồn diện trên tất cả
mọi lĩnh vực, trong đó có văn học nghệ thuật, tinh thần chung của Đại hội là
nhìn thẳng vào sự thật và đổi mới suy nghĩ, tư duy. Đây thực sự là một luồng
gió mát lành thổi vào đời sống văn học, tạo ra bầu không khí hứng khởi dân
chủ trong sáng tác. Văn chương dân tộc chuyển mình rõ rệt theo xu hướng
hiện đại, hồ nhập với văn chương khu vực và nhân loại. Văn học Việt Nam
sau 1975, đặc biệt là văn xuôi đã có nhiều sự đổi mới. Sau Đại hội VI các nhà
văn đã mạnh dạn thẳng thắn nhìn nhận lại các vấn đề của đời sống, họ đã
nhận ra có những vấn đề không tồn tại từ trước đây người ta nghĩ và văn học
5
thời kỳ trước phản ánh, các vấn đề đó giờ đây cần phải được nhìn nhận lại,
đánh giá lại, soi chiếu dưới mọi góc cạnh để thấy được thực chất của vấn đề.
Nhận thức lại mọi vấn đề đã trở thành khuynh hướng của văn học Việt Nam
thời kỳ đổi mới, nhất là trong văn xi. Với cảm hứng nhìn nhận lại vấn đề,
nhiều tác phẩm văn xuôi đã ra đời và thành công như: Mùa lá rụng trong
vườn (1985) của Ma Văn Kháng, Thời xa vắng (1986) của Lê Lựu,Nỗi buồn
chiến tranh (1990) của Bảo Ninh, Ăn mày dĩ vãng (2006) của Chu Lai,...
Nhiều vấn đề được nhìn nhận bằng cái nhìn phản tỉnh được các nhà văn nêu
ra và thể hiện trong tác phẩm đã đem lại bất ngờ cho cơng chúng và giới phê
bình. Nhìn chung, việc nhận thức lại các giá trị là hiện tượng có tính phổ quát,
đặc thù của một thời kỳ văn học. Đó cũng là xu thế phát triển tất yếu của văn
học theo quy luật của nó. Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài
“Khuynh hướng nhận thức lại trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới”
làm đề tài nghiên cứu.
2. Lịch sử vấn đề
Vấn đề nhận thức trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới là một vấn
đề cịn rất nhiều điều cần phải tìm hiểu, nghiên cứu. Tuy nhiên, theo tìm hiểu
của chúng tơi đến nay vẫn chưa có một cơng trình nghiên cứu chun sâu,
tồn diện về vấn đề này.
Nguyễn Thị Bình trong luận án Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật
Việt Nam từ 1986 đến nay đã đối sánh văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1975 đến
nay với văn xuôi giai đoạn 1945- 1975 trên ba phương diện: Đổi mới quan
niệm về nhà văn, đổi mới quan niệm về con người và đổi mới thể laọi. Với cái
nhìn tổng quát trên mỗi phương diện. Nguyễn Thị Bình đã đưa ra được những
nét chung nhất, làm nổi bật những vấn đề bản chất của văn xuôi Việt Nam
giai đoạn 1975 đến nay. Quan niệm nghệ thuật về con người là phương diện
được luận án của Nguyễn Thị Bình đặc biệt quan tâm. Đây là một yếu tố quy
6
định khả năng chiếm lĩnh đời sống của văn học, trực tiếp chi phối những yếu
tố khác như đề tài, cốt truyện, nhân vật, giọng điệu. Tuy vậy, nhận thức trong
văn xuôi sau 1975 vẫn chưa phải vấn đề tác giả tập trung nghiên cứu một cách
cụ thể riêng biệt.
Nguyễn Văn Long trong Một số vấn đề cơ bản trong nghiên cứu lịch sử
văn học Việt Nam giai đoạn sau 1975 in trong Văn học Việt Nam sau 1975
những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy đã có những phát hiện, đánh giá rất
chính xác và khái quát: “vào nửa cuối những năm 80 và đầu những năm 90 đã
phát triển mạnh khuynh hướng nhận thức lại hiện thực với cảm hứng phê
phán mạnh mẽ trên tinh thần nhân bản” (29.15). Nguyễn Văn Long cũng đề
cập đến xu hướng biến đổi của văn học là xu hướng dân chủ hoá, văn học giai
đoạn này khơng từ bỏ vũ khí tinh thần, tư tưởng của nó nhưng yếu tố được
nhấn mạnh trước hết là ở “Sức mạnh khám phá thực tại và thức tỉnh ý thức về
sự thật ở vai trò dự báo, dự cảm”. Một điều quan trọng nữa là tác giả cho rằng
sự thức tỉnh ý thức cá nhân trên cơ sở bao trùm tinh thần nhân bản là nền tảng
tư tưởng trong cảm hứng chủ đạo bao trùm của nền văn học sau 1975. Đây là
bài viết khái quát một số vấn đề của một giai đoạn văn học nên vấn đề nhận
thức lại cũng chưa được quan tâm nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc,
riêng biệt.
Gần đây, trong Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại, NXB hội nhà văn 2009, tác giả Mai Hải Oanh có bàn đến vấn đề
này khi nói về tiểu thuyết tự vấn.
Hoàng Ngọc Hiến trong Văn học gần và xa đã khẳng định, Nguyễn Minh
Châu và Nguyễn Huy thiệp có cái nhìn nghiêm khắc và lạnh lùng, đã tránh
được việc đưa cái nhìn sử thi vào hiện thực. Nhà văn không ngần ngại nêu ra
“Sự bê tha, nhếch nhác trong cuộc sống” đã nhận ra sự tốt xấu tồn tại lẫn lộn
trong một con người. Nhân vật của hai nhà văn là nhân vật khơng trùng khít,
7
trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp một tên cướp vẫn có thể có lương tri
cịn một trí thức, một cơng chức nhà nước khơng phải khơng có những đốn
mạt tồn tại bên trong.
Nguyễn Minh Châu cũng có cái nhìn mới mẻ về người nơng dân: Họ có
thể là người nông dân chất phác với nhiều phẩm chất tốt đẹp nhưng cũng có
thể trở thành những hung thần ác ơn. Nguyễn Minh Châu không chỉ là nhà
văn nhận thức lại đời sống qua các sáng tác của mình mà ơng còn thể hiện
cảm hứng này qua các tiểu luận mà nổi bật là: Hãy đọc lời ai điếu cho một
giai đoạn văn nghệ minh hoạ. Đây là tiểu luận thể hiện tinh thần đổi mới triệt
để trong văn học.
Năm 1986, khi cuốn tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu ra đời, các nhà
phê bình văn học như Trần Đình Sử, Hồng Ngọc Hiến, Vương Trí Nhàn... đã
có những ý kiến đánh giá, nhận xét và những phát hiện thú vị về tinh thần
nhận thức lại trong tác phẩm.
Tôn Phương Lan trong Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu cũng đã
có những nhận định, đánh giá tương đối tồn diện, khái quát những đóng góp
của Nguyễn Minh Châu trong việc đổi mới văn học Việt Nam. Tác giả đã phát
hiện ngay từ những năm 70. Nguyễn Minh Châu đã băn khoăn, trăn trở về một
điều gì đó bất ổn trong đời sống văn học, Nguyễn Minh Châu đã chủ trương
đưa “văn học trở về với quy luật vĩnh hằng của đời sống con người. Coi tính
chân thật là một phẩm chất quan trọng của văn học, những sáng tác của
Nguyễn Minh Châu ngày càng xa lánh lối văn chương chỉ ca ngợi một chiều”.
Trong Phong cách văn xuôi Nguyễn Khải, Tuyết Nga cũng thấy được cái
nhìn về con người trong mối quan hệ với hồn cảnh của Nguyễn Khải. Ơng đã
phản ánh đúng những vấn đề cơ bản của nông thôn miền Bắc thời kỳ bước
vào cải tạo, xây dựng kinh tế.
8
Ngồi ra, cịn rất nhiều bài viết về xu hướng nhìn nhận một số hiện
tượng văn chương thời kỳ đầu đổi mới của các tác giả được đăng trên báo, tạp
chí hoặc trên mạng, nhưng do thời gian và trình độ có hạn mà người làm luận
văn chưa thể bao qt hết tất cả các cơng trình, bài viết đó. Tuy vậy, có thể
khẳng định đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu chun biệt đầy đủ,
tồn diện về khuynh hướng nhận thức lại trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ
đổi mới. Lựa chọn đề tài này, chúng tôi sẽ có nhiều việc để làm.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới có khối lượng tác phẩm khá lớn,
với đề tài này, chúng tôi chọn khảo sát một số tác phẩm tiêu biểu đã đạt được
những thành công nhất định.
1. Mùa lá rụng trong vườn
(Ma Văn Kháng)
2. Ba người khác
(Tơ Hồi)
3. Thượng đế thì cười
(Nguyễn Khải)
4. Thời xa vắng
(Lê Lựu)
5. Nỗi buồn chiến tranh
(Bảo Ninh)
6. Bến không chồng
(Dương Hướng)
7. Ăn mày dĩ vãng
(Chu Lai)
8. Giã biệt bóng tối
(Tạ Duy Anh)
9. Giàn thiêu
(Võ Thị Hảo)
10. Hồ Quý Ly
(Nguyễn Xuân Khánh)
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu ba vấn đề lớn.
3.2.1. Quan niệm nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới.
3.2.2. Biểu hiện của tinh thần nhận thức lại trong tiểu thuyết.
3.2.3. Nhận thức lại chi phối các cách thức tổ chức trần thuật.
9
4. Phương pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu vấn đề này, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp khảo sát – thống kê
- Phương pháp cấu trúc - hệ thống
- Phương pháp so sánh - đối chiếu.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn gồm có 3 chương.
Chương 1. Quan niệm nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Chương 2. Biểu hiện của tinh thần nhận thức lại trong tiểu thuyết thời kỳ
đổi mới.
Chương 3. Nhận thức lại chi phối đến cách thức tổ chức trần thuật.
10
Chương 1
QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM
THỜI KỲ ĐỔI MỚI
1.1. Sự đổi mới về tư duy nghệ thuật
1.1.1. Tư duy tiểu thuyết trước 1986
Trong tư duy tiểu thuyết truyền thống, tiểu thuyết được xem như một bộ
bách khoa thư vì có khả năng bao qt hiện thực rộng lớn cho nên dung lượng
tiểu thuyết thường dài, số lượng nhân vật nhiều, nó hướng tới quy mơ đại tự
sự. Có nhiều quan điểm truyền thống về tiểu thuyết. Chúng tôi xin đề cập đến
một số các quan điểm như sau:
Nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Tuấn sau khi nghiên cứu Vấn đề cái mới
trong tiểu thuyết thế kỷ XX, đã khái quát một số đặc điểm chính của quan điểm
truyền thống về tiểu thuyết sau đây: “Thứ nhất: Tiểu thuyết theo quan niệm
truyền thống thường được viết bằng văn xi và mang tính cách hiện thực,
chủ yếu nhằm vào việc nghệ tả một cách đầy đủ và trung thực những kinh
nghiệm trong đời sống con người. Thứ hai: Loại văn xi hiện thực này chủ
yếu giải trí người đọc bằng cách kể chuyện, qua đó người đọc thích thú theo
dõi những phát triển và diễn biến đời sống của một hay nhiều nhân vật.
Những phát triển và diễn biến trong tiểu thuyết thường xảy ra theo trình tự
thời gian dựa trên một chủ đề mang tính đạo đức hay luân lý. Và cuối cùng,
tính cách mỹ học của tiểu thuyết thường xảy ra theo trình tự thời gian dựa trên
một chủ đề mang tính đạo đức hay luân lý. Thứ ba: Tính cách mỹ học của tiểu
thuyết nằm trong vẻ đẹp về hình thức, phản ánh ngơn ngữ gọn gàng, súc tích,
tính nhất quán giữa các tổng thể và các phân đoạn, sự phát triển hợp lý và tinh
tế từ phần này tới phần kia. Thứ tư: Vẻ đẹp về hình thức có tác dụng làm cho
cuộc kể chuyện được mạch lạc và trôi chảy, hợp lý và làm tăng khả năng lôi
cuốn người đọc vào cõi “hiện thực” hư cấu của câu chuyện”(55).
11
So với các quan điểm trước đó, đây là một quan điểm có nhiều đổi mới.
Tuy vậy vẫn cịn nhiều những hạn chế, bất cập.
Trong tư duy tiểu thuyết truyền thống, cốt truyện, nhân vật luôn được đề
cao và đời sống được phản ánh trong tác phẩm văn học có cấu trúc đồng đẳng
với hiện thực mà nó phản ánh trong đời sống.
Về quy mô, dung lượng: theo quan niệm truyền thống, tiểu thuyết phải
có khả năng bao quát rộng lớn đời sống hiện thực, do vậy tiểu thuyết thường
nhiều số trang, nhiều nhân vật. Có thể thấy điều này qua các tiểu thuyết
chương hồi như Hoàng Lê nhất thống chí của Ngơ gia văn phái. Hơn nữa, tiểu
thuyết truyền thống còn quan niệm, viết những bộ sử thi, tùng thư mới là tài
năng và giá trị, còn viết ngắn, viết ít thì đồng nghĩa với sự non yếu, thất bại.
Về phương diện cốt truyện: tiểu thuyết thế giới cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX và các tác phẩm tự sự của Việt Nam, vai trò của cốt truyện, rất quan
trọng. Nội dung cốt truyện thường được triển khai theo trình tự lớp lang với
một quy trình chặt chẽ, nhằm mục đích tập trung làm nổi rõ tính cách của
nhân vật trung tâm hoặc chứng minh một triết lý nhân sinh nào đó. Do quan
niệm tiểu thuyết phải phản ánh trung thực đời sống nên, để phản ánh hiện
thực, tiểu thuyết truyền thống chú ý đến các chi tiết “như thật“, nói sự vật và
diễn biến được nhìn thấy đúng như sự thực, khơng được bóp méo. Vì thế
ngơn ngữ trong tiểu thuyết trong truyền thống là ngôn ngữ giàu tính tả thực.
Về phương diện nhân vật, tiểu thuyết truyền thống chú trọng đến việc
xây dựng được những điển hình nghệ thuật mà theo ý kiến của Hegel và
Engels, là phải tái hiện một cách chân thực “Tính cách điển hình trong hồn
cảnh điển hình“ (Thư gửi Magarit Haconetxo năm 1888). Tiểu thuyết truyền
thống coi nhân vật điển hình là linh hồn của tiểu thuyết. Nhân vật được chia
làm nhiều tuyến, thiện – ác rõ ràng. Người hiền lành nhân hậu thì đẹp từ vóc
dáng đến cử chỉ, hành vi… Ví dụ: Th Kiều, Từ Hải, Quan Cơng… Cịn kẻ
12
ác thì hành vi khiếm nhã, mờ ám, khơng rõ ràng. Ví dụ: Sở Khanh, Hồ Tơn
Hiến…
Nhân vật trong tiểu thuyết truyền thống phải có lai lịch rõ ràng: “Một
nhân vật phải có tên riêng, và tên đúp nếu có thể: họ và tên. Nếu nó có tài sản
thì càng tốt. Sau rốt, nó phải có một tính cách, một gương mặt phản ánh tính
cách đó, một q khứ nặn đắp nên tính cách đó và gương mặt đó…”(9.33)
(A.R.Grillet)
Những nhân vật của tiểu thuyết truyền thống luôn gắn với lý tưởng đạo
đức, luân lý. Nhân vật phản diện thường xấu xa hết mức, độc ác khơn cùng,
cịn nhân vật chính diện thường tốt đẹp, có lý tưởng, ước mơ, hồi bão và đại
diện cho cái Chân - Thiện - Mỹ. Có thể nói, nhân vật thường góp phần đắc lực
cho việc thể hiện chủ đề của tác phẩm.
Kết cấu tiểu thuyết truyền thống thường theo lối chương hồi là chính,
mỗi chương là đỉnh điểm của một mâu thuẫn, thắt nút, cao trào, mở nút. Tất
cả đều được thể hiện theo tôn ti trật tự nhất định từ mở đầu đến kết thúc rõ
ràng cụ thể, và thơng thường là có hậu theo mơ típ định sẵn. Tiểu thuyết
truyền thống thường có sự đan xen rõ nét giữa văn học với lịch sử và triết
học. Đó là hiện tượng “Văn - Sử - Triết bất phân”.
Tính quy phạm và quan niệm “Văn dĩ tải đạo” đã chi phối mạnh mẽ đến
việc triển khai cốt truyện, xây dựng nhân vật và kết cấu tác phẩm trong tiểu
thuyết truyền thống. Tính khn mẫu quy định cốt cách của con người nên
tiểu thuyết truyền thống thiếu đi cá tính, sự sinh động và sáng tạo. Bước sang
thời đại mới, đặc thù của đời sống cũng thay đổi, các giá trị tưởng chừng như
bất biến đã được nhìn nhận lại, sự xói mịn khủng hoảng lòng tin… đã tạo ra
những chuyển biến trong tư tưởng của người cầm bút. Tiểu thuyết đã thực sự
thay đổi tư duy của mình và trở về với tính chất của một thể loại phức tạp để
nhận thức cuộc sống. Bielinxki cũng đã khẳng định: “Nếu như có tư tưởng
13
của thời đại. Với sự đổi mới về sáng tác, quan niệm về tiểu thuyết cũng đã có
những biến đổi sâu sắc”. Và tiểu thuyết hiện đại đã chứng minh được quan
điểm này.
1.1.2. Tư duy tiểu thuyết thời kì đổi mới
Tiểu thuyết Việt Nam những năm trước đổi mới vẫn thiên về sự kiện,
bao quát hiện thực rộng lớn, cảm hứng sử thi vẫn nổi bật trong tư duy nghệ
thuật của các nhà văn. Có thể kể đến các tác phẩm tiêu biểu cho kiểu tư duy
đó, như: Họ đã sống như thế (Nguyễn Trí Huân), Miền cháy (Nguyễn Minh
Châu), Đồng bạc trắng hoa xoè (Ma Văn Kháng)… Chỉ đến khi bước vào thời
kì đổi mới, trong khơng khí dân chủ của đời sống văn học, tiểu thuyết mới
thực sự đổi mới về tư duy nghệ thuật với nỗ lực khước từ truyền thống trên
mọi phương diện và đã đạt được những thành tựu nhất định.
1.1.2.1. Về quy mô, dung lượng
Theo quan niệm truyền thống, tiểu thuyết là thể loại có khả năng phản
ánh hiện thực rộng lớn, bao quát nhiều số phận, nhiều tính cách trong những
khơng gian và thời gian khơng hạn chế, có thể miêu tả những bức tranh xã
hội, phong tục tập quán,… tức là nằm trong mơ hình đại tự sự, nên dung
lượng phải dài, nhân vật cũng nhiều để có thể bao quát hiện thực đời sống cả
bề rộng lẫn bề sâu. Chỉ có ở trong thân xác lớn nó mới ơm chứa được nhiều
vấn đề của đời sống với một diện rộng lớn. Đến thời kì đổi mới, quan niệm
này đã bị phá bỏ. Các tiểu thuyết gia thời kì đổi mới chối từ mơ hình đại tự
sự, coi trọng tính hỗn độn, phi trật tự. Cụ thể là: ngoại trừ tiểu thuyết lịch sử
của Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Mộng Giác với dung lượng lớn, đồ sộ và bề
thế, tiểu thuyết Việt Nam đương đại có quy mơ và dung lượng nhỏ, ít nhân
vật, cốt truyện đơn giản nhưng lại có sức thu hút độc giả. Thiên sứ của Phạm
Thị Hoài chưa đầy 80 trang; Trí nhớ suy tàn của Nguyễn Bình Phương, 127
trang; Thiên thần sám hối của Tạ Duy Anh, 120 trang; Ba người khác của Tô
14
Hồi, chưa đầy 250 trang… Vậy là có thể khẳng định, không phải cứ là những
bộ sử thi, tùng thư đồ sộ mới có giá trị. “Tính tồn thể của thế giới chỉ có thể
được biểu hiện và nhận ra trong từng phân mảnh của thực tại, tham vọng miêu
tả toàn bộ hoặc phần lớn thế giới trong một tác phẩm tiểu thuyết là siêu hình
và trên thực tế là không thể đạt được”(10.22).
Đây là kết quả của sự đổi mới hình thức và cũng là của quan niệm xem
cuộc sống như những mảnh vỡ. Cho nên, đặc điểm lớn nhất để khu biệt
truyện ngắn và truyện dài là ở “tính tiểu thuyết”, tức là khả năng tìm tịi, phát
hiện những giá trị đích thực ở bề sâu của con người trong môi trường sống
đầy phức tạp, xô bồ này.
1.1.2.2. Về nhân vật
Những cách tân về phương diện nhân vật của tiểu thuyết Việt Nam
đương đại gắn với những thay đổi trong quan niệm về con người trong thời
đại mới. Tiểu thuyết đương đại có cái nhìn rất mới mẻ về con người so với
quan niệm truyền thống. “Văn học là nhân học”, văn học là câu chuyện về
con người, xung quanh con người. Nói cách khác, con người là hạt nhân của
văn học. Con người trong quan niệm truyền thống là con người trùng khít với
chính nó: hoặc tốt hoặc xấu, hoặc cao cả hoặc thấp hèn (nguyên phiến), nó
mang tính phân tuyến thiện – ác rõ rệt.
Sang thời kì đổi mới, chất thế sự trong tiểu thuyết nổi lên đậm đặc.
M.Bakhtin đã khẳng định, trong tiểu thuyết “nhân vật không tương hợp với số
phận và vị thế của nó. Con người hoặc cao lớn hơn thân phận mình, hoặc nhỏ
bé hơn tính cách của mình”(3), tức là khơng cịn những tính cách ngun
phiến. Con người hiện ra với tất cả các mặt tốt - xấu, người tốt có thể trở
thành kẻ xấu và ngược lại, thiên thần và ác quỷ đều có thể cùng tồn tại bên
trong một con người. Báo cáo của Ban chấp hành hội nhà văn Việt Nam lần
thứ IV đã khẳng định: “Có lẽ sự thật lớn nhất mà văn học ta cần tìm hiểu là sự
15
thật về tâm hồn con người”. Con người giờ đây được tìm hiểu ở nhiều tầng
vỉa mới, cả bên ngồi và thế giới nội tâm phức tạp bên trong.
K.Marx đã định nghĩa: “con người là tổng hoà của các mối quan hệ xã
hội trong tính hiện thực của nó”. Định nghĩa này đã chỉ ra, con người ngoài
mặt xã hội cịn có mặt tự nhiên (bản năng) của nó. Văn học trước 1975 nhấn
mạnh đến con người xã hội. Sau 1975, con người được nhìn nhận trong các
mối quan hệ xã hội khác nhau. Con người tự nhiên cũng được quan tâm như
một thành tố cấu thành con người, tức là được xem xét trong tính tồn vẹn của
nó từ nhiều góc độ khác nhau.
Tiểu thuyết đương đại cũng quan tâm đến con người tâm linh. Đó cũng
là cách nhà văn tìm hiểu thế giới nội tâm sâu sắc của con người, khám phá
con người trong chính bề sâu của nó, như M.Kundera khẳng định là “đi tìm
ẩn mật của bản ngã”. Nguyễn Khải đã từng nói: “Cái thế giới tinh thần của
con người là vơ cùng phức tạp vì sự vận động của nó ln ln hướng tới cái
thật cao và thật xa”. Quan tâm đến con người tâm linh, các nhà văn đương đại
muốn thám hiểm, khám phá chiều sâu vô tận trong tâm hồn con người.
Như vậy, tiểu thuyết đương đại quan tâm đến con người một cách toàn
diện: con người xã hội, con người tự nhiên và con người tâm linh. Sự đổi mới
này kéo theo sự thay đổi trong quá trình xây dựng nhân vật nhằm hướng tới
tinh thần hiện đại trong tư duy tiểu thuyết.
1.1.2.2.1. Chối bỏ nhân vật điển hình
Tiểu thuyết Việt Nam trước 1945 đã có những điển hình bất hủ, như: chị
Dậu, Chí Phèo, Xn Tóc Đỏ,… Thời kì 1945-1975, ngun tắc xây dựng
nhân vật điển hình trong hồn cảnh điển hình vẫn được các nhà văn coi trọng
nhưng theo phương pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa. Đến thời kì đổi mới,
các nhà văn quan niệm, mỗi cá nhân là một cá thể, khơng ai có thể thay thế,
làm thay vai trị của nó và nó cũng khơng thể thay thế cho một ai. Nhà văn
16
chối bỏ nhân vật điển hình bằng cách mờ hố nhân vật. Nhân vật có thể là
những kẻ vơ danh, khơng tên tuổi, nguồn gốc, lai lịch. Ví dụ: T. mất tích của
Thuận, chủ hiệu cầm đồ trong Trí nhớ suy tàn của Nguyễn Bình Phương,
chàng Cá bơn trong Giàn thiêu của Võ Thị Hảo… A.R.Grillet đã nhận xét
rằng: “thời đại hiện thời là thời đại của số danh bạ”. Như vậy, nhân vật khơng
cịn khả năng đại diện cho một lớp người, một cộng đồng người.
Các nhân vật trong tiểu thuyết đương đại cịn có sự phân rã về tính cách,
như cách nhà văn quan niệm thế giới là bất định, phi thời gian, không gian,
năng động và bất khả đoán. Sự phân rã này gắn với thái độ từ chối nhân vật
điển hình và ý thức mờ hố trong tiểu thuyết hiện đại. Chân dung nhân vật chỉ
được tìm thấy khi độc giả kết nối những dịng ý thức đứt đoạn, hỗn độn của
nhân vật. Tiêu biểu cho loại nhân vật phân rã tính cách này là Kiên trong Nỗi
buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Kiên sống trong hoang tưởng với những ám
ảnh vô thức, những suy nghĩ đứt nối, bất chợt.
Như trên đã nói, sự thay đổi quan niêm nghệ thuật về con người đã dẫn
tới sự thay đổi trong cấu trúc và chức năng của nhân vật so với tiểu thuyết
truyền thống. Nhân vật trong tiểu thuyết đương đại được, nhìn nhận, xây dựng
như một thực thể đa diện, lưỡng trị. Kiểu nhân vật nguyên phiến bị từ chối.
Trong mỗi con người có thể song song tồn tại cái tốt lẫn cái xấu, cao cả và
thấp hèn, thiên thần với ác quỷ… Ví dụ: Lý trong Mùa lá rụng trong vườn của
Ma Văn Kháng, Ỷ Lan Nguyên phi trong Giàn thiêu của Võ Thị Hảo, Giang
Minh Sài trong Thời xa vắng của Lê Lựu,… Chính cái “động” đã làm cho
nhân vật trở nên sống động, đầy sức hấp dẫn.
Những thay đổi trong quan niệm về nhân vật của tiểu thuyết hiện đại
chính là một trong nhưng nỗ lực đổi mới tư duy tiểu thuyết theo tinh thần hiện
đại như quan niệm coi tiểu thuyết như một trò chơi của Milan Kundera. Nhân
17
vật đều là giả định để qua đó nhà văn trình bày quan niệm nhân sinh của mình
về thế giới.
1.1.2.2.2. Khám phá thế giới nội tâm nhân vật bằng cách gia tăng tính phi
lí, huyền ảo
Trong tiểu thuyết đương đại, hầu hết cái nhà văn đều sử dụng những giấc
mơ, những hồi ức, những giấc chiêm bao để khám phá, giải mã thế giới nội
tâm, tâm linh của con người. Các tiểu thuyết sử dụng thủ pháp này, tiêu biểu
là Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Ăn mày dĩ vãng
(Chu Lai), Thiên sứ (Phạm Thị Hoài)…
Trong Giàn thiêu, Ỷ Lan bề ngoài là con người mạnh mẽ, quyền biến
nhưng đêm đêm phải đối diện với những giấc mơ khủng khiếp với sự trở về
đòi mạng của các oan hồn mà bà đã bức hại. Chính trong những giấc mơ của
thế giới phi lí, huyền ảo đó mà cái phần tiềm thức ẩn khuất được bộc lộ, độc
giả nhận ra mặt trái trong con người Ỷ Lan.
Các nhà văn hiện đại còn khám phá con người bằng cách xây dựng nhân
vật mang bóng dáng của những nhân vật huyền thoại: bé Hon, Quang lùn,
Hoài trong Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), giống kiểu nhân vật đặc biệt của truyện
cổ tích.. Có thể thấy sự đặc biệt ấy thể hiện ở nguồn gốc ra đời kì lạ của bé
Hon. Bé ra đời vào lúc không ai nghĩ mẹ bé có thể sinh con được nữa. Chỉ sau
một đêm “cả dây quần áo nhà phơi bị quên qua đêm ngồi trời và loang lổ vết
từa tựa như chàm” thì không lâu sau mẹ bé mang thai. Sự ra đời của bé cũng
kì lạ như các nhân vật truyền thuyết, cổ tích như Thánh Gióng, Sọ Dừa. Do
nguồn gốc kì lạ đó, bé Hon mang thiên chức là một thiên sứ xuống cứu rỗi
trần gian bằng nụ cười mê hồn của mình. Ban đầu, mọi chuyện đều tốt đẹp,
mọi thứ đều thay đổi theo chiều hướng tốt. Nhưng rồi dần dần, những điều tồi
tệ đã xảy ra, khơng ai cịn mừng vui đón chào bé. Thiên sứ đã khơng tìm được
chỗ đứng trong thế giới lạnh lùng, vơ cảm đó. Những con người trong thế giới
18
đó cịn mải mê toan tính, giành giật, tranh cướp nên khơng cịn chú ý đến tình
u thương và lịng nhân ái. Mọi quan hệ trong gia đình như vợ chồng, cha
con, anh em... đều trở nên lỏng lẻo, vô nghĩa lí. Khơng thể hồn thành được
nhiệm vụ làm cho thế giới trở nên tốt đẹp hơn, bé Hon đã bay về nơi thiên
đường, rời bỏ chốn trần gian tha hóa và băng hoại tình người.
Thủ pháp này là một phương tiện nghệ thuật có tác dụng tăng sức lơi
cuốn cho tác phẩm, đồng thời cũng là quan niệm của tác giả về con người.
Đây cũng là minh chứng cho thấy một bước tiến mới trong tư duy nghệ thuật
tiểu thuyết thời kì đổi mới.
1.1.3. Về tổ chức cấu trúc tiểu thuyết
1.1.3.1. Cấu trúc lắp ghép, phân mảnh
Các nhà tiểu thuyết đương đại chủ trương đập vỡ các mảng văn bản trần
thuật thành những mảnh vụn rời rạc, phi trật tự, phi logic, đời sống hiện thực
được biểu hiện qua những mảnh vụn ấy. Hoặc lắp ghép, tạo dựng các mảnh
cốt truyện, tâm trạng ngổn ngang, đảo chiều, không theo trình tự thời gian.
Nhờ đó, các sự kiện, biến cố được thu về thành một chuỗi. Cấu trúc này đã
phá vỡ cốt truyện truyền thống, nhận thức lại thế giới trên tinh thần phân
mảnh và sự liên kết bề sâu đó biểu đạt sự phân rã, đổ vỡ của đời sống hiện
thực và đời sống con người.
Trong Thiên sứ, Phạm Thị Hồi đã chia tác phẩm của mình thành những
phân chương và phân đoạn ngắn, các phân đoạn ngắn được ngăn cách với
nhau bằng dấu hoa thị (*). Cách phân chia này đã chia văn bản truyện thành
những phần rất ngắn và khơng đều nhau: có chương 2 trang, có chương 7
trang. Thiên thần sám hối của Tạ Duy Anh cũng có cách phân chia tương tự:
có chương 13 trang và có chương chỉ có 13 dịng.
Giã biệt bóng tối cũng được Tạ Duy Anh chia làm 3 phần, mỗi phần
được chia thành các đoạn nhỏ với vô số những kênh thông tin. Các phân đoạn
19
cũng khơng đều nhau. Có phân đoạn chỉ có một trang (Tiếp lời người tường
thuật, trang 108), có phân đoạn lại dài tới 94 trang (Nhân vật xưng tôi: thằng
bé, từ trang 109 đến trang 203).
Các nhà văn đã thực hiện “cách chơi cấu trúc” văn bản (chữ của Nguyễn
Đăng Điệp). Những văn bản kiểu này có ý nghĩa rất năng động và biến hoá.
Mỗi chương, mỗi đoạn là mỗi mảnh văn bản chứa đựng những mảnh đời sống
đa dạng và phức tạp. Các mảnh văn bản được bố trí theo cách phi tuyến tính,
phi nhân quả, có ít sự liên kết về mạch truyện. Một mặt, nhằm lạ hoá nghệ
thuật trần thuật, gây chú ý cho người đọc, mặt khác, nó tạo ra nhịp trần thuật
linh hoạt.
Thoạt kì thuỷ của Nguyễn Bình Phương là tác phẩm có sử dụng thủ pháp
lắp ghép các biểu tượng, các ẩn dụ. Trong tác phẩm, Nguyễn Bình Phương sử
dụng những biểu tượng để tạo ra một hệ thống ẩn dụ nghệ thuật. Những biểu
tượng trong Thoạt kì thuỷ là trăng - cú - chó, tượng trưng cho phần tăm tối,
phần vơ thức của con người, nó xung đột với phần hữu thức trong con người
(nhân vật Tính). Qua hệ thống ẩn dụ nghệ thuật này, Nguyễn Bình Phương
muốn nói lên sự giằng co, đấu tranh giữa phần vô thức với phần hữu thức,
giữa bóng tối với ánh sáng, giữa phần con và phần người… Muốn nắm bắt
được ý nghĩa đằng sau những biểu tượng đó, người đọc cần phải có khả năng
hiểu biết về các biểu tượng văn hoá và về những ẩn ngữ của chính tác giả
đằng sau những câu chữ trong tác phẩm.
Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh được triển khai trên cơ sở dòng ý
thức của Kiên. Tác phẩm nay không tuân theo lối kết cấu truyền thống. Nhân
vật được tái hiện qua vỏ ngoài đứt gãy, những mảnh vỡ tâm hồn, những kí ức
đứt đoạn và sự lồng ghép các sự kiện, con người hai trong một. Bảo Ninh đã
đưa đến cái nhìn đa chiều về cuộc chiến tranh, đồng thời mở rộng đường biên
và các góc độ tiếp cận nhân vật và văn bản.
20
Kết cấu lắp ghép góp phần nới rộng đường biên thể loại, cho phép nhà
văn khám phá đời sống từ nhiều góc độ khác nhau.
1.1.3.2. Cấu trúc mở
Tiểu thuyết truyền thống thường có kết cấu khép kín, tĩnh tại. Tiểu
thuyết đương đại thường mở đầu đột ngột, kết thúc dở dang, mở rộng không
hạn chế. Thông thường, tiểu thuyết đương đại sử dụng cấu trúc mở “chẳng hề
kể gì cả”, tức là để cho hệ thống ngôn ngữ trong tác phẩm được diễn ra vô
tận. Mỗi cuốn tiểu thuyết sử dụng cấu trúc này đều có thể tạo ra vơ vàn các
lớp nghĩa. Lớp nghĩa thứ nhất là do cấu trúc nội tại của tác phẩm mang đến.
Lớp nghĩa thứ hai là do người đọc tiếp xúc với tác phẩm hình thành nên, từ đó
độc giả phải trăn trở, tìm tịi suy nghĩ để tìm câu trả lời. Do tính “mở” của văn
bản mà vai trò của độc giả được tăng cường.
Trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, ở phần cuối tác phẩm, nhân
vật người kể chuyện xưng “tôi” xuất hiện và đề cập đến tình trạng “mỗi người
trong chúng tôi bị chiến tranh chà nát theo một kiểu riêng, mỗi người ngay từ
ngày đó đã mang trong lịng một cuộc chiến tranh của riêng mình”, thì mỗi
độc giả đều có thể hiểu rằng, cuộc chiến đã kết thúc nhưng dư chấn khốc liệt,
đắng chát của nó cịn ám ảnh mãi mãi tâm trí các thế hệ người Việt Nam.
Những dư chấn đó ảnh hưởng đến tất cả mọi người theo những cách khác
nhau. Mỗi người sẽ có ấn tượng về một cuộc chiến tàn khốc của riêng mình,
khơng ai giống ai, điểm chung chỉ là sự vô nhân tính và hủy diệt đến tận cùng.
Các tầng nghĩa của tác phẩm theo sự tiếp xúc của độc giả với tác phẩm mà
tăng lên.
Kết thúc tác phẩm là nhân vật Kiên đã từ bỏ căn phòng quen thuộc để ra
đi. Khơng ai biết Kiên đi đâu. Có thể anh khơng chịu nổi sự ám ảnh của
những hồi ức khủng khiếp về cuộc chiến tranh nên đã ra đi tìm sự n tĩnh
cho tâm hồn mình ở một chốn nào đó. Cũng có thể là Kiên ra đi để tìm cách
21
hồn thành cuốn tiểu thuyết của mình... Mỗi người đọc có một cái kết thúc
của riêng mình. Các lớp nghĩa lại tiếp tục được hình thành trong suy nghĩ của
người đọc.
1.1.3.3. Kết cấu lồng ghép tiểu thuyết
Do quan niệm tiểu thuyết như một trò chơi nên trong các tiểu thuyết
đương đại thường gặp kết cấu lồng ghép theo kiểu truyện trong truyện, tiểu
thuyết trong tiểu thuyết, đan xen nhiều câu chuyện trong một câu chuyện, cắt
dán nhiều loại văn bản trong một cuốn sách đã tăng cường độ mở không gian
nghệ thuật của tác phẩm, mở rộng biên độ tiếp nhận và phản ánh quan niệm
về sự đứt vỡ, xáo trộn, khó lí giải của thế giới. Tác phẩm tiêu biểu có thể kể
đến Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Chinatown của Thuận, Cơ hội của
chúa của Nguyễn Việt Hà…
Trong Chinatown nhân vật chính trong tác phẩm đang ngồi viết cuốn tiểu
thuyết I’m yellow. Từ nhân vật chính trong Chinatown, người phụ nữ lại trở
thành nhân vật phụ trong chính cuốn tiểu thuyết của mình; từ người kể
chuyện, chị ta trở thành người bị kể, bị chính nhân vật của mình tra vấn.
Cấu trúc lồng ghép cũng được sử dụng tinh tế trong Nỗi buồn chiến
tranh. Chuyện của Kiên được kể qua một người xưng tôi khác. Rồi người đó
lại tự nhận mình có sự tương đồng trong tư tưởng, thậm chí ngỡ là quen nhau
với nhân vật Kiên.
Kết cấu lồng ghép tiểu thuyết này tạo ra điểm nhìn phong phú về con người
và thế giới, đồng thời cho thấy tính dân chủ trong cách nhìn về nghệ thuật.
1.1.3.4. Về ngơn ngữ
Khảo sát tiểu thuyết đương đại, có thể nhận thấy, ngôn ngữ trong các tác
phẩm hầu hết được cá thể hố cao độ đồng thời lượng thơng tin được gia tăng.
K.Gunnar đã khái qt: “Chân lí ln nằm bên ngồi chúng ta, và thay vì lèn
chặt đời mình bằng những ngôn từ, chúng ta co thể rút lại, nói ít đi, nhưng hãy
22
làm sao gia tăng trọng lượng cho mỗi từ, hãy làm mỗi từ chứa đầy sự bí ẩn và
niềm kính sợ, ngôn ngữ xứng đáng được như vậy”(10). Trong tiểu thuyết
đương đại, các tiểu thuyêt đều có sự tinh giản ngôn ngữ cần thiết để dồn nén ý
tưởng, khơi gợi trí tưởng tượng của độc giả, gia tăng nghĩa cho ngơn ngữ, do
đó, thơng tin và tính triết luận cũng được tăng cường. Bước vào thời kì đổi
mới, chất sử thi nhường lại cho thế sự - đời tư cho nên ngôn ngữ đã bớt đi
chất du dương, mượt mà, trở nên thơ nhám, xù xì, góc cạnh với giọng điệu
thản nhiên, bất cần.
Do yêu cầu cá thể hoá cao độ ngôn ngữ nhân vật, tiểu thuyết đã dung nạp
các dạng thức khác nhau của nhiều tầng lớp trong xã hội. Ngơn ngữ thật sự
được giải phóng, tạo nên giá trị nghệ thuật cho tiểu thuyết thông qua đối
thoại. Nhờ đối thoại mà các vấn đề được xem xét bằng cái nhìn đa diện. Nhân
vật được nhìn nhận với tư cách là một chủ thể độc lập. Nhân vật có vị thế
ngang bằng, cùng đối thoại với nhà văn.
Ý thức đối thoại trong tiểu thuyết thời kì đổi mới tiếp tục được phát huy.
Ngôn ngữ trong tiểu thuyết biểu hiện sự cá tính hố mạnh mẽ, tính cách nào
thì lời lẽ đó: cách nói trần trụi, dân dã của người lính với giọng văn băm bổ,
sơi động trong Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), cách nói thơng tục nhưng cũng đầy
tính triết lí trong Giã biệt bóng tối (Tạ Duy Anh), hay cách nói khn vàng
thước ngọc ở chốn cung đình trong Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân Khánh), Giàn
thiêu (Võ Thị Hảo)…
Các nhà văn đương đại đã nỗ lực tìm tòi, đổi mới nhằm cách tân tư duy
tiểu thuyết. Những nỗ lực đó có thể chưa thành cơng, cịn nhiều hạn chế
nhưng điều đáng ghi nhận là ý thức làm mới thể loại trên nhiều phương diện
của các cây bút tiểu thuyết.
23
1.2. Nhận thức lại - Một khuynh hướng tiểu thuyết nổt bật
Tiểu thuyết Việt Nam là một bức tranh đa dạng và có nhiều khuynh
hướng khác nhau. Một số nhà nghiên cứu đã nhắc đến các khuynh hướng tiểu
thuyết như: khuynh hướng tiểu thuyết lịch sử, khuynh hướng tự thuật, khuynh
hướng dòng ý thức… (Mai Hải Oanh, Những cách tân nghệ thuật trong tiểu
thuyết Việt Nam đương đại). Trong luận văn này, chúng tôi tập trung nghiên
cứu khuynh hướng nhận thức lại, một khuynh hướng tiểu thuyết nổi bật của
thời kì đổi mới.
Vào đầu những năm 80 của thế kỷ XX, một khuynh hướng tiểu thuyết đã
được hình thành và phát triển mạnh mẽ vào giai đoạn đổi mới. Đó là khuynh
hướng nhận thức lại. Khuynh hướng này ra đời nhằm nhận thức lại các vấn đề
của đời sống theo tinh thần hiện đại, Thời xa vắng của Lê Lựu là tiểu thuyết
tiêu biểu, khơi dòng khuynh hướng này. Tiếp đó là một loạt các tác phẩm theo
khuynh hướng nhận thức lại ra đời: Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng),
Ba người khác (Tơ Hồi), Bến khơng chồng (Dương Hướng), Nỗi buồn chiến
tranh (Bảo Ninh),...
Tiểu thuyết nhận thức lại là những tác phẩm viết về những vấn đề quen
thuộc của hiện thực như vấn đề người nông dân, người lính, vấn đề gia đình
với cách nhìn trái với quan điểm vốn đã tồn tại lâu nay. Cơ sở của dòng tiểu
thuyết này là những biến đổi mạnh mẽ về chính trị, kinh tế, văn hố và xã hội,
người ta cảm thấy nhiều giá trị của quá khứ cần được nhìn nhận lại. Đáp ứng
lại yêu cầu nhìn thẳng vào sự thật, nhiều nhà văn đã nhìn lại hiện thực của
thời kỳ vừa qua, đi sâu khám phá và phơi bày những mặt tối còn bị che khuất,
lên án mạnh mẽ những tư tưởng, thói quen đã lỗi thời, trở thành vật cản trở
ngại cho sự phát triển xã hội. Cùng với lý do này, tư duy nghệ thuật của nhà
văn hiện đại đã khác biệt so với tư duy nghệ thuật truyền thống. Cuộc sống
giờ đây dược các nhà văn nhìn nhận trong tính tồn vẹn của nó. Khuynh
24
hướng tiểu thuyết này rất gần gũi với khuynh hướng tiểu thuết phản tư ở
Trung Quốc trong thời kỳ cải cách. Trong hồn cảnh xã hội mới, nhà văn có
độ lùi thời gian để nhìn vào quá khứ với cái nhìn mang tính dân chủ, trả lại
giá trị đích thực cho những cái từng bị lãng quên bị phê phán hay cố tình che
dấu. Khuynh hướng nhận thức lại biểu thị tinh thần dân chủ trong đời sống
nói riêng và sáng tạo nghệ thuật nói chung.
Khuynh hướng tiểu thuyết nhận thức lại đặt ra nhiều câu hỏi về con
người trong mối quan hệ với con người và xã hội hiện đại, về con người với
nhân cách méo mó, về gia đình truyền thống trước cơn bão kinh tế thị trường.
Khuynh hướng cũng nhìn nhận, mổ xẻ những sai lầm trong quá khứ như cải
cách ruộng đất, chiến tranh, nông thôn với hàng loạt vấn đề tồn tại từ xưa đến
nay. Năm 1991 có ba tiểu thuyết đã làm nên mùa giải ấn tượng của văn học
Việt Nam do hội nhà văn Việt Nam tổ chức.
Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng cảnh tỉnh mọi gia đình Việt
Nam trước nguy cơ lung lay, rạn vỡ nền móng khi cơn bão kinh tế thị trường
ập vào.
Thời xa vắng của Lê Lựu lại đề cập đến bi kịch đánh mất mình của các
cá nhân trước các định kiến và rào cản xã hội. Họ lâm vào bi kịch đó một
phần là do tích cách nhưng cũng là do sự ấu trĩ và trói buộc của hồn cảnh.
Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh lại viết về số phận của những người
người lính thời hậu chiến. Chiến tranh đã lấy đi của họ tất cả tuổi trẻ ,tình
u… khơng những thế, dư âm chết chóc của nó cịn khơng ngừng vị xé, ám
ảnh không cho họ yên tâm sống nốt quãng đời còn lại.
Tiểu thuyết nhận thức lại thường mang cảm hứng phê phán, nhưng bên
cạnh đó, con người và thân phận của họ cũng là cảm hứng phổ biến trong các
tác phẩm của khuynh hướng này. Đây là điều thực sự mang ý nghĩa nhân văn
sâu sắc. Theo Nguyễn Minh Châu, nhận thức lại phải làm những cuộc đối
25
chứng trong tư tưởng, để thoát khỏi những nhận thức sai lầm máy móc hoặc
giản đơn về con người và xã hội. Chính vì vậy nhận thức lại cũng dẫn đến
tinh thần tự phê nghiêm khắc dưới ánh sáng của lương tâm. Nhưng nhận thức
lại không đồng nghĩa với “xét lại”. Chúng ta nhìn về qúa khứ với tinh thần
“nhờ vào kinh nghiệm người ta gạt bỏ sai lầm khỏi cái chủ quan mà nó bao
hàm, người ta đi dần tới chân lý” (Lênin).
Trong văn học, thái độ tự vấn và tinh thần nhận thức lại lịch sử là tín
hiệu của quá trình đổi mới tư duy mạnh mẽ. Nhận thức lại vấn đề có thể bằng
kế thừa, phủ định hoặc bằng cả kế thừa và phủ định là con đường phát triển
tất yếu của văn học. Đây cũng chính là một phương diện quan trọng đánh giá
những cách tân của tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới.
1.2.1. Cơ sở hình thành khuynh hướng tiểu thuyết nhận thức lại
1.2.1.1. Cơ sở xã hội
Năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước hồn tồn thắng lợi,
hồ bình được lập lại. Đất nước chuyển từ thời chiến sang thời bình. Con
người lại trở về với những quy luật đời thường. Tuy nhiên, cơ chế thị trường
với những mặt trái của nó đã có những tác động rất lớn đến đời sống con
người, tạo nên những vấn đề xã hội mới. Cuộc sống của con người thời hậu
chiến đầy khó khăn, vất vả do hậu quả của chiến tranh để lại. Thiếu thốn vật
chất, trì trệ do cơ chế quan liêu bao cấp, những vết thương chiến tranh chưa
được hàn gắn… Xã hội bất ổn, lịng người khơng n. Nếu khơng kịp thời
thay đổi thì một cuộc khủng hoảng trầm trọng là điều khơng thể tránh khỏi.
Tháng 12/1986, Đại hội tồn quốc Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI
diễn ra đã xác định dường lối đổi mới đất nước một cách toàn diện. Tinh thần
và phương châm của đại hội là nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật và đổi
mới suy nghĩ, tư duy. Tinh thần dân chủ được khơi lên, ý thức phản tỉnh trỗi
dậy. Con người bắt đầu tự lay tỉnh mình, nhìn nhận lại vấn đề trong cuộc